HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Tễ VĂN CHÂU
PHáP LUậT Về THựC HIệN DÂN CHủ TRONG HOạT ĐộNG
CủA CƠ QUAN HàNH CHíNH NHà NƯớC ở VIệT NAM
TểM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyờn ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và phỏp luật
Mó số: 62 38 01 01
HÀ NỘI - 2016
Cụng trỡnh được hoàn thành tại
Học viện Chớnh trị quốc gia Hồ Chớ Minh
Người hướng dẫn khoa học: GS,TS. PHAN TRUNG Lí
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận ỏn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận ỏn c
27 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 437 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án - Pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và
Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Dân chủ gắn liền với lịch sử phát triển nhân loại. Ngày nay, đề cao dân
chủ và thượng tôn pháp luật là một trong những tiêu chí không thể thiếu
của nhà nước pháp quyền. Dân chủ trên thực tế chứ không chỉ được ghi
trên những biểu ngữ. Dân chủ sẽ không còn là những khẩu hiệu chung
chung, nếu các yêu cầu về dân chủ được thể chế hóa thành các quy định
pháp luật và được bảo đảm bởi hành động của toàn bộ hệ thống chính trị.
Nói cách khác, dân chủ sẽ không còn là những khẩu hiệu chung chung,
nếu trên toàn lãnh thổ và trong toàn bộ hoạt động của nhà nước, quyền làm
chủ của nhân dân được pháp luật hóa và được hiện thực hóa.
Thực tiễn cho thấy, thực hiện dân chủ (THDC) trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước (CQHCNN) là đòi hỏi tất yếu, xuất phát từ yêu
cầu bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân và từ tính chất phục vụ của nền
hành chính nhà nước. Để bảo đảm mọi người dân, cơ quan, tổ chức sống
và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, thì THDC trong hoạt động của
CQHCNN không thể không được thể chế hóa bằng pháp luật.
Mặc dù vậy, pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN ở Việt
Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Biểu hiện rõ nhất là các quy định pháp luật
rời rạc, chưa đầy đủ, chồng chéo, thiếu tính khả thi, thậm chí mâu thuẫn.
Hậu quả đương nhiên là hiện tượng mất dân chủ vẫn đang phổ biến, đi đôi
với nó là suy giảm niềm tin của người dân và sự kém hiệu lực, hiệu quả
trong hoạt động của các CQHCNN.
Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng một yêu cầu đã được đặt ra cho cả hệ
thống chính trị là đến năm 2020 phải “có cơ chế để nhân dân thực hiện đầy
đủ quyền làm chủ” [42, tr.100], “có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện
trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp” [42, tr.239] nhằm phát huy mạnh mẽ
mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận trong xã hội, tạo động lực
phát triển đất nước. Vừa qua, Quốc hội khóa XIII, tại kỳ họp thứ 6, đã
2
thông qua Hiến pháp mới (Hiến pháp năm 2013) bổ sung nhiều nội dung
liên quan đến quyền cơ bản của công dân và cơ chế thực hiện các quyền
đó. Điều này đặt ra đòi hỏi các văn bản QPPL phải nhanh chóng được sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện để các quyền của công dân trong Hiến pháp không
chỉ nằm trên giấy, mà đi vào thực tiễn. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ
không hề dễ, nếu không muốn nói là còn gặp nhiều khó khăn.
Để góp phần giải quyết những vấn đề lý luận, cũng như thực tiễn đang
đặt ra cho pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN, nghiên cứu
sinh đã chọn vấn đề: “Pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu
của luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Mục đích của luận án là nghiên cứu lý luận và thực tiễn của pháp luật về
THDC trong hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam, từ đó đưa ra các quan
điểm, giải pháp hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để đạt mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến
đề tài của luận án, từ đó chỉ ra các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
- Làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật trong lĩnh vực này, như: khái
niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, các tiêu chí đánh giá, chỉ ra các yếu tố
tác động đến quá trình hoàn thiện pháp luật về THDC trong hoạt động
của CQHCNN ở Việt Nam; kinh nghiệm có liên quan từ các nước có thể
áp dụng vào nước ta.
- Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và thực trạng pháp luật về
THDC trong hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về THDC trong
hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam trong thời gian tới.
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của
pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam dưới góc
độ của chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, trong đó có
nghiên cứu các quan điểm về các vấn đề liên quan, cũng như QPPL ở
trong và ngoài nước về THDC trong hoạt động của CQHCNN.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về góc độ nghiên cứu: Nghiên cứu nội dung, hình thức “Pháp luật về
THDC trong hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam” dưới góc độ của khoa
học Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, trong đó hướng chủ yếu vào
hoàn thiện pháp luật.
Về không gian: Nghiên cứu các quy định pháp luật về THDC trong hoạt
động của CQHCNN từ cấp huyện trở lên.
Về thời gian: Chủ yếu nghiên cứu pháp luật về THDC trong hoạt động
của CQHCNN từ sau đổi mới, đặc biệt là giai đoạn từ sau Chỉ thị số 30-
CT/TW ngày 18.2.1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đến nay và quá trình đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới đất nước.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được thực hiện dựa trên nền tảng lý luận của Học thuyết Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính sách của Đảng về nhà
nước và pháp luật, về dân chủ XHCN, đặc biệt là pháp luật THDC trong hoạt
động của CQHCNN và tham khảo các công trình đã công bố có liên quan.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
triết học Mác-Lênin, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể,
như: phương pháp lôgic, phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử cụ
thể, phương pháp xã hội học pháp luật, phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh để phát hiện và xử lý tất cả các vấn đề lý luận, cũng như thực tiễn
có liên quan để giải quyết đề tài một cách khoa học:
4
Chương 1 sử dụng các phương pháp cơ bản: phân tích, lôgic, hệ thống,
so sánh, tổng hợp để xác định các vấn đề đã được nghiên cứu toàn diện,
sâu sắc và những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu trong luận án.
Chương 2 sử dụng các phương pháp cơ bản: phân tích, lôgic, hệ thống,
so sánh để xác định và trình bày một cách có hệ thống quan niệm, đặc
điểm, vai trò, nội dung, tiêu chí đánh giá pháp luật về THDC trong hoạt
động của CQHCNN ở Việt Nam.
Chương 3 sử dụng các phương pháp cơ bản: phân tích, lôgic, hệ thống,
so sánh, tổng hợp, lịch sử cụ thể, xã hội học pháp luật để làm rõ và trình
bày có hệ thống những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của những ưu điểm
và hạn chế trong pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN.
Chương 4 sử dụng các phương pháp cơ bản: phân tích, lôgic, hệ thống,
lịch sử cụ thể để kiến giải, đề xuất và sắp xếp một cách lôgic các quan
điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về THDC trong hoạt động của
CQHCNN ở Việt Nam.
5. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện, có hệ
thống và sâu sắc về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật về THDC
trong hoạt động của CQHCNN và vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật
này trong những năm tới, vì vậy, có những đóng góp mới về khoa học:
- Xây dựng được khái niệm, làm rõ đặc điểm, vai trò, nội dung của
pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam.
- Làm rõ quá trình hình thành, phát triển, đánh giá đúng những thành
tựu, hạn chế trong pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN ở
Việt Nam và nguyên nhân của chúng.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp phù hợp nhằm phát huy thành tựu,
khắc phục những hạn chế của pháp luật về THDC trong hoạt động của
CQHCNN ở nước ta trong những năm tới.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận: Luận án đã cung cấp cơ sở lý luận của pháp luật về
THDC trong hoạt động của CQHCNN cho chuyên ngành Lý luận và lịch
sử nhà nước và pháp luật.
- Về mặt thực tiễn: Luận án có giá trị tham khảo cho hoạt động xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN,
cũng như pháp luật về THDC nói chung. Đồng thời, có giá trị tham khảo
cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về Nhà nước và pháp luật trong các cơ
sở nghiên cứu, đào tạo.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
Chương, 9 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu được công bố ở trong nước
Nhóm thứ nhất, các công trình tiêu biểu liên quan đến dân chủ, THDC
gồm: “Dân chủ tư sản và dân chủ XHCN” của Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo
(Nxb.Sự thật, H, 1991); “Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân công dân với
Nhà nước” của Trần Ngọc Đường và Chu Văn Thành (Nxb.Chính trị quốc
gia, H, 1994); “Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ
máy Đảng và Nhà nước: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do GS.TS.
Đào Trí Úc chủ biên (Nxb.Chính trị quốc gia, 2009); “Phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992” của
GS.TS. Trần Ngọc Đường (Nxb.Chính trị quốc gia, H, 2012); “Vai trò của
Nhà nước đối với việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam
6
hiện nay” luận án Tiến sĩ Triết học của Trần Thị Băng Thanh bảo vệ năm
2002; “Dân chủ và mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với dân chủ”
của TS. Trần Hậu Thành (T/c.Dân chủ và pháp luật, số 10/2000); “Về Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” của cố GS.TS. Hoàng
Văn Hảo (T/c.Lý luận chính trị, số 10/2002 và số 11/2002); “Vấn đề dân
chủ XHCN: Nội dung, hình thức biểu hiện, điều kiện bảo đảm” của GS.TS.
Phạm Ngọc Quang (T/c.Thông tin công tác-lý luận, số 3/2004); “Quan
điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” của PGS.TS. Tô Huy Rứa
(T/c.Cộng sản, số 22/2005)...
Nhóm thứ hai, các công trình tiêu biểu liên quan đến pháp luật THDC
và pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN: “Dân chủ và pháp
luật dân chủ” của TS. Ngô Huy Cương (Nxb.Tư pháp, Hà nội - 2006);
“Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật trong điều kiện Việt Nam hiện
nay” Luận án Tiến sĩ Luật học của Đỗ Minh Khôi bảo vệ năm 2006; “Xu
hướng dịch chuyển quyền lực trong bộ máy hành chính và vấn đề dân
chủ” của PGS.TS. Phạm Hồng Thái (T/c.Nhà nước và pháp luật, số
6/2005); “Đảng lãnh đạo xây dựng nền hành chính nhà nước Việt Nam
trong sạch, dân chủ và hiện đại” của Nguyễn Khánh (T/c.Cộng sản, số
20/2006); “Đánh giá việc thực hiện các Nghị định của Chính phủ về Quy
chế THDC ở cơ sở”- Báo cáo của Bộ Nội vụ số 3401 ngày 13/9/2006;
“Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở - Thành tựu và những vấn đề đặt ra”
của GS.TS. Hoàng Chí Bảo (T/c.Thông tin công tác tư tưởng-lý luận, số
6/2007; “Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” của
PGS.TS. Trần Quang Nhiếp (T/c.Cộng sản - chuyên đề cơ sở, số 26/2009;
“Thực hiện dân chủ trong cơ quan nhà nước và một số kiến nghị” của
ThS. Tô Văn Châu (T/c.Dân chủ và pháp luật, số 1/2009; “Thẩm quyền tự
chủ, tự quyết và thẩm quyền mặc nhiên của cơ quan hành chính nhà
nước” của GS.TS.Phạm Hồng Thái (T/c.Quản lý nhà nước, số 165/2009;
7
“Trung Quốc thực hiện dân chủ ở cơ sở sau 30 năm cải cách mở cửa” của
Nguyễn Thành Lợi (T/c.Cộng sản, chuyên đề cơ sở số 26/2009)...
1.1.2. Các công trình nghiên cứu công bố ở nước ngoài
Các công trình tiêu biểu đã được lưu hành ở Việt Nam gồm: “Dân chủ
ở cơ sở qua kinh nghiệm của Thụy Điển và Trung Quốc” (tài liệu dịch) do
PGS.TS. Vũ Văn Hiền làm Chủ biên (Nxb.Chính trị quốc gia, H, 2004);
“Bàn về tinh thần pháp luật” của Montesquieu (1689-1755) do Hoàng
Thanh Đạm dịch (Nxb.Lý luận chính trị, H, 2004); “Các mô hình quản lý
nhà nước hiện đại” của David Held, do Phạm Nguyên Trường dịch
(Nxb.Tri thức, H, 2013); “Lý luận dân chủ hài hòa: lấy dân chủ xây dựng
hài hòa” của Lưu Nghĩa Cường (T/c.Nghiên cứu CNXH số 2/2009 của
Trung Quốc) tài liệu dịch (Thông tin những vấn đề lý luận phục vụ lãnh
đạo số 3/2010); “Phân tích, so sánh giữa dân chủ của Chủ nghĩa tự do và
dân chủ của CNXH” của Hùng Quang Thanh (T/c.Lý luận CNXH đặc sắc
Trung Quốc, số 1/2011) tài liệu dịch (Thông tin những vấn đề lý luận phục
vụ lãnh đạo số 21/2011)...
1.2. NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU TRONG
LUẬN ÁN
1.2.1. Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thứ nhất, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu
sắc đề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước ở Việt Nam.
Thứ hai, Mặc dù, quan niệm về dân chủ còn có sự khác nhau, nhưng
các nghiên cứu đều thống nhất một số điểm cơ bản: dân chủ là yêu cầu
khách quan của phát triển, nó mang tính lịch sử, có thể tiếp cận dưới nhiều
góc độ, gắn liền với pháp luật và ngày càng phải được phát huy.
Các nghiên cứu tiếp cận theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh đều cho rằng, dân chủ gắn liền với nhà nước pháp
8
quyền XHCN, đó là “chế độ thống trị của đa số đối với thiểu số, vì lợi ích
của đa số”, nhưng có xét đến lợi ích chính đáng của thiểu số, ở đó dân là chủ,
dân làm chủ. Dân chủ có thể được thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp. Việc THDC ở cơ sở là cực kỳ quan trọng. Các nghiên cứu ở nước ta đều
cho rằng CQHCNN là cơ quan thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà
nước, nghĩa là thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành.
Các vấn đề lý luận khác của đề tài vẫn chưa được thống nhất, hoặc chưa
được nghiên cứu, như: khái niệm, vai trò, đặc điểm, nội dung của pháp luật
THDC trong hoạt động của CQHCNN...
Thứ ba, rất ít công trình nghiên cứu về THDC trong hoạt động của
CQHCNN và thực trạng pháp luật về THDC trong hoạt động của các cơ
quan này. Các đánh giá chủ yếu ở dạng nêu ý kiến chứ chưa dựa trên
những căn cứ thuyết phục.
Thứ tư, mặc dù không trực tiếp, nhưng các công trình đều cho thấy, ở
nước ta, việc hoàn thiện pháp luật về THDC trong hoạt động của
CQHCNN là yêu cầu khách quan.
Việc đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực này mới chỉ gián tiếp được đề cập trong các văn kiện của Đảng dưới
dạng quan điểm và giải pháp về phát huy dân chủ và hoàn thiện cơ chế
phát huy dân chủ nói chung.
Thứ năm, các công trình liên quan đến đề tài chủ yếu là ở trong nước.
Công trình nghiên cứu ở các nước là rất ít. Các kết quả nghiên cứu, nói
chung đều có giá trị tham khảo cho đề tài luận án.
1.2.2. Những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu
Một là, luận án phải khái quát các nội dung về dân chủ có liên quan đến
đề tài để làm cơ sở nghiên cứu những vấn đề tiếp theo. CQHCNN, THDC
trong hoạt động CQHCNN và pháp luật về THDC trong các cơ quan này
là những khái niệm công cụ phải được tập trung làm rõ. Đặc điểm, vai trò,
nội dung, tiêu chí đánh giá pháp luật về THDC trong hoạt động của
9
CQHCNN là những vấn đề lý luận quan trọng phải được làm rõ. Các yếu
tố tác động vào quá trình hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này cần được
nghiên cứu, trình bày để giải quyết đề tài một cách có hệ thống.
Hai là, quá trình hình thành, phát triển và thực trạng pháp luật về
THDC trong hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam là một nội dung phải
được làm rõ, đặc biệt là đánh giá thực trạng pháp luật trong lĩnh vực này
một cách khách quan, toàn diện.
Ba là, các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về THDC trong
hoạt động của các CQHCNN ở Việt Nam là một mục tiêu không thể thiếu
phải được luận án kiến giải, đề xuất.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HIỆN DÂN CHỦ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.1.1. Khái niệm pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
2.1.1.1 Khái quát về dân chủ và thực hiện dân chủ trong hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
- Khái quát về dân chủ: Thuật ngữ “dân chủ” ra đời từ thời cổ đại, theo
tiếng Hy Lạp là Demokratia. Có nhiều cách tiếp cận dân chủ, trong đó, tiếp
cận theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là khoa học và thuyết phục nhất. Dân chủ là phạm trù mang tính lịch
sử, có thể được tiếp cận dưới góc độ là một thể chế chính trị, một hình
thức tổ chức nhà nước, một giá trị xã hội... tùy theo yêu cầu nghiên cứu, có
thể được xem xét trong quan hệ giữa nhà nước và công dân, giữa cá nhân
10
công dân với cộng đồng, tổ chức và cá nhân khác, trên các phương diện:
kinh tế, dân sự, chính trị, văn hóa, xã hội; có thể đạt được ở các trình độ và
thể hiện dưới các hình thức khác nhau. Dân chủ XHCN ra đời là yêu cầu
khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Dân chủ còn là điều kiện, là phương thức, là con
đường để đạt mục tiêu của CNXH. Đó là “chế độ thống trị của đa số đối
với thiểu số, vì lợi ích của đa số” [81, tr.164], tuy nhiên có xét đến lợi ích
chính đáng của thiểu số. Trong nền dân chủ đó, nhân dân là chủ, nhân dân
làm chủ thông qua nhà nước, các tổ chức của họ hoặc tự thực hiện. Dân
chủ XHCN còn được hiểu là hình thức tổ chức, là phương thức quản lý và
điều hành xã hội, là chế độ của nhà nước, trong đó quyền gắn với nghĩa vụ,
lợi ích gắn với trách nhiệm. Nó gắn với tập trung, kỷ luật, kỷ cương và
pháp luật. “Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển đất nước” [42, tr.84-85]. Đó là nền dân chủ
được thể hiện bằng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Cơ quan hành chính nhà nước và thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
Trên cơ sở cơ quan đại biểu và pháp luật, CQHCNN được thành lập “để
thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, nghĩa là thực hiện hoạt
động chấp hành và điều hành” [66, tr.87].
THDC trong hoạt động của CQHCNN thể hiện ở các phương diện cơ
bản: Thứ nhất, đó là quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của CQHCNN trên cơ sở pháp luật. Thứ hai, nhân dân thực hiện quyền
làm chủ đối với hoạt động của các CQHCNN một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua các tổ chức của họ (gọi tắt là tổ chức). Thứ ba, nhân dân tự
quyết định và thực hiện những vấn đề thuộc về riêng tư có liên quan đến
quản lý nhà nước, nhưng không ủy quyền cho Nhà nước, hoặc khi được
nhà nước yêu cầu... Thứ tư, THDC trong hoạt động của CQHCNN cũng
được thể hiện trong quan hệ nội bộ cơ quan, đồng thời, thể hiện trong quan
hệ giữa cơ quan đó với cơ quan nhà nước cấp dưới và cơ quan nhà nước
11
cấp trên. Thứ năm, THDC trong hoạt động của CQHCNN thể hiện ở việc
công dân, cán bộ, công chức, tổ chức thực hiện các quyền của người chủ.
Thứ sáu, cùng với việc thực hiện quyền, thì công dân, cán bộ, công chức,
tổ chức phải thực hiện những nghĩa vụ công dân do pháp luật quy định.
2.1.1.2. Khái niệm Pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta
Dưới góc độ lý luận chung, có thể khái quát ngắn gọn: pháp luật về
THDC trong hoạt động của CQHCNN là tổng thể các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội về thực hiện dân chủ trong hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước.
Pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN có phạm vi điều chỉnh
rất rộng, gồm: việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của CQHCNN;
việc THDC trong quan hệ và giải quyết công việc của cơ quan đó với nhân dân;
việc THDC trong quan hệ nội bộ CQHCNN và THDC của CQHCNN trong
quan hệ với cơ quan nhà nước cấp trên và cơ quan nhà nước cấp dưới...
Dưới góc độ cụ thể hơn: Pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về việc bảo đảm cơ quan hành chính
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; về việc công dân, cán bộ,
công chức, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền làm chủ trong hoạt động của
cơ quan hành chính; về việc thực hiện dân chủ giữa cơ quan hành chính
với cơ quan nhà nước cấp trên và cơ quan nhà nước cấp dưới và các quy
định về những điều kiện cơ bản thuộc về trách nhiệm của cơ quan hành
chính để bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của các chủ thể đó.
2.1.2. Đặc điểm của pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
Ngoài những đặc điểm chung của pháp luật so với các quy phạm xã hội
khác, pháp luật về THDC trong hoạt động của các CQHCNN có một số
đặc điểm riêng. Một là căn cứ pháp lý cơ bản cho hoạt động của
12
CQHCNN. Hai là điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính nhạy cảm cao. Ba
là có phạm vi điều chỉnh rất rộng, thể hiện trong nhiều văn bản QPPL.
2.1.3. Vai trò của pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
Các QPPL về THDC trong hoạt động của CQHCNN giữ một số vai trò quan
trọng: Một là phương tiện thể chế hóa và kiểm nghiệm các chủ trương, chính
sách của Đảng về THDC trong hoạt động của CQHCNN; Hai là cơ sở pháp lý
để THDC trong hoạt động của các cơ quan này; Ba là phương tiện pháp lý để
bảo vệ việc THDC trong hoạt động của các cơ quan này; Bốn là phương tiện
quan trọng góp phần nâng cao chất lượng quản lý hành chính, bảo đảm Nhà
nước của dân, do dân, vì dân, phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. Nội dung của pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
Nhóm 1: Quy định chung, thể hiện bản chất, mục tiêu cơ bản làm nền
tảng thống nhất cho quy định pháp luật trong lĩnh vực này. Nhóm 2: Các
quy định bảo đảm CQHCNN thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
trong khuôn khổ pháp luật. Nhóm 3: Các quy định về việc nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình trong hoạt động của CQHCNN. Nhóm 4: Các quy
định về việc cán bộ, công chức thực hiện quyền làm chủ của mình trong hoạt
động của CQHCNN. Nhóm 5: Các quy định về THDC trong quan hệ của
CQHCNN với cơ quan cấp trên và cơ quan cấp dưới. Nhóm 6: Các quy định
xử lý vi phạm pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN.
2.3. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ
TRÌNH HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ TRONG
HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.3.1. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về thực
hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt
Nam
Mặc dù còn những ý kiến khác nhau, nhưng tựu chung lại việc đánh giá
13
mức độ hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này cần dựa vào các tiêu chí cơ
bản: Một là, tính toàn diện của pháp luật về THDC trong hoạt động của
CQHCNN; Hai là, tính đồng bộ của pháp luật về THDC trong hoạt động
của CQHCNN; Ba là, tính phù hợp của pháp luật về THDC trong hoạt
động của CQHCNN; Bốn là, kỹ thuật lập pháp thể hiện trong pháp luật về
THDC trong hoạt động của CQHCNN; Năm là, tính khả thi của pháp luật
về THDC trong hoạt động của CQHCNN.
2.3.2. Các yếu tố tác động đến quá trình hoàn thiện pháp luật về
thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước
ở Việt Nam
Hoàn thiện pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN chịu tác
động của các yếu tố cơ bản: Một là, trình độ phát triển kinh tế - xã hội; Hai
là, sự lãnh đạo của Đảng về hoàn thiện pháp luật về THDC trong hoạt
động của CQHCNN; Ba là, nhân dân; Bốn là, năng lực của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong ban hành văn bản QPPL; Năm là, điều kiện
vật chất, kỹ thuật trong hoàn thiện pháp luật.
Chương 3
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG
PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM
3.1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌ̀NH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
3.1.1 Giai đoạn 1945-1958: Chính quyền cách mạng đã ban hành nhiều
văn bản xóa bỏ ngạch quan lại của chính quyền thực dân và ban hành Hiến
pháp năm 1946, trong đó quy định hết sức tiến bộ về quyền, nghĩa vụ cơ
bản của công dân, đồng thời có các chương riêng về tổ chức và hoạt động
14
của bộ máy nhà nước (Chính phủ-Chương IV, Hội đồng nhân dân và Ủy
ban hành chính tại Chương V)... Tiếp theo, Nghị viện ban hành các đạo
luật cụ thể hóa các quyền của công dân và bảo đảm thực hiện các quyền
đó, như: Luật Bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm
đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân (năm 1957); Luật Quy định về
quyền lập hội (năm 1957); Luật quy định về quyền tự do hội họp (1957)...
Chưa tránh khỏi những hạn chế nhất định, nhưng các quy định đó đã tạo
nền tảng pháp lý cho việc THDC trong hoạt động của CQHCNN.
3.1.2 Giai đoạn 1959-1979: Quốc hội khóa I, tại kỳ họp thứ 11 đã
thông qua Hiến pháp năm 1959, kế thừa các quyền làm chủ của nhân dân
trong Hiến pháp năm 1946 và các đạo luật trước đó, mở rộng các quyền
trực tiếp liên quan đến lợi ích thiết thực của nhân dân, như quyền khiếu
nại, tố cáo, biểu tình... bổ sung nghĩa vụ của công dân, trách nhiệm của
nhà nước nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Hiến pháp, các đạo
luật và các văn bản QPPL khác giai đoạn này nói chung đã phát triển cơ sở
pháp lý bảo đảm THDC trong hoạt động của các CQHCNN so với giai
đoạn trước.
3.1.3 Giai đoạn 1980-1991: Quốc hội khóa VI, tại kỳ họp thứ 7, đã
thông qua Hiến pháp năm 1980 về cơ bản là kế thừa các quy định về dân
chủ trong Hiến pháp năm 1959, nhấn mạnh trách nhiệm của nhà nước
trong THDC, đề cao quyền làm chủ của nhân dân thể hiện mong muốn
nhanh chóng thực hiện bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN. Để thể chế hóa
Hiến pháp năm 1980, nhiều văn bản QPPL quan trọng trực tiếp liên quan
đến THDC trong hoạt động của CQHCNN đã được ban hành thay thế các
văn bản trong giai đoạn trước, như: Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân (năm
1989); Pháp lệnh tổ chức Luật sư (năm 1987); Luật Hôn nhân và gia đình
(năm 1987)... Về cơ bản, các nội dung của pháp luật về THDC trong hoạt
động của CQHCNN đều có những quy định tiến bộ hơn giai đoạn trước...
3.1.4 Giai đoạn 1992 đến nay: Trước những thay đổi trong đời sống xã
15
hội, Quốc hội khóa VIII tại kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến pháp năm
1992. Cùng với việc kế thừa các quy định về THDC trong các Hiến pháp
trước đó, Hiến pháp này khẳng định không ngừng phát huy dân chủ, bổ
sung thêm nhiều quyền cho người dân, đặc biệt quyền được thông tin
(Đ.69) là hết sức quan trọng, đồng thời, khẳng định rõ: Quyền công dân
không tách rời nghĩa vụ công dân, Nhà nước bảo đảm các quyền của công
dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình (Đ.51) và có một số quy
định phù hợp hơn với KTTT, như: Nhà nước có chính sách học phí và học
bổng (Đ.59); quy định chế độ viện phí, miễn và giảm viện phí (Đ.61)...
Các cơ quan có thẩm quyền khác đã ban hành các văn bản quan trọng,
như: Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả năm 1994; Bộ luật dân sự năm 1995;
Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1996; Luật ban hành
văn bản QPPL năm 1996; Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998...
Sau những năm đầu đổi mới, bên cạnh những tiến bộ về THDC, thì vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân xảy ra ở nhiều nơi và có nguy cơ trở
thành nhiều điểm nóng, tạo nên “những cuộc bùng nổ nguy hiểm” [76,
tr.16]. Để chấn chỉnh tình hình, các cơ quan của Đảng đã ban hành các văn
kiện quan trọng, như: Chỉ thị 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị
(khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (trong đó
có THDC trong hoạt động của CQHCNN); Chỉ thị 10-CT/TW ngày
28/3/2002 Ban Bí thư (khóa IX) về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Kết luận số 65-KL/TW, ngày 4/3/2010
của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị
(khóa VIII)... Trên cơ sở đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban
hành nhiều văn bản QPPL thể chế hóa các quan điểm của Đảng về dân
chủ, trong đó có Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan ban
hành kèm theo Nghị định 71/1998/NĐ-CP ngày 8/9/1998 của Chính phủ
(đã được thay thế bằng Nghị định số 4/2015/NĐ-CP ngày 9/1/2015 về
Thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính và đơn vị sự
16
nghiệp công lập), đánh dấu sự ra đời văn bản QPPL chuyên biệt đầu tiên
về THDC trong hoạt động của CQHCNN, tạo tiền đề cho các văn bản
QPPL sau kế thừa và phát triển.
Đặc biệt, ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (gọi tắt là Hiến pháp năm
2013). Kế thừa những giá trị tiến bộ trong các quy định pháp luật về dân
chủ trước đó, Hiến pháp đã bổ sung những nội dung mới thể hiện nhận
thức đầy đủ, sâu sắc hơn về vấn đề này, đã cụ thể hóa các quyền con
người, bổ sung thêm các nội dung liên quan đến quyền cơ bản của công
dân và cơ chế thực hiện các quyền đó, chẳng hạn, đã bổ sung: quyền được
bảo đảm an sinh xã hội (Đ.34); quyền được hưởng thụ và tiếp cận các giá
trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa
(Đ.41); có quyền xác định dân tộc của mình, dùng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa
chọn ngôn ngữ giao tiếp (Đ.42); được sống trong môi trường lành mạnh
(Đ.43); tiếp cận thông tin (Đ.25); khẳng định quyền con người, quyền
công dân chỉ bị hạn chế trong những trường hợp đặc biệt vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe cộng đồng (Đ.14)... Hiến pháp đã đề cao trách nhiệm của nhà nước
đối với quyền công dân: Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân (Đ.3); có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp (Đ.2)... Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền
đang gấp rút xây dựng và ban hành các văn bản QPPL thể chế hóa các
quy định của Hiến pháp, trong đó có việc thể chế hóa các quy định pháp
luật về thực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_phap_luat_ve_thuc_hien_dan_chu_trong_hoat_do.pdf