VIỆN HẦN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH THỊ LAN
NGHI LỄ CỦA NGƯỜI HÀ NHÌ
Ở HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI HIỆN NAY
Chuyên : Nhân học
Mã số : 62.31.03.02
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
HÀ NỘI - 2016
Công trình được hoàn thành tại: Học Viện Khoa học Xã hội
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Minh
TS. Trần Hồng Hạnh
Phản biện 1: PGS. TS. Nguyễn Văn Chính
Phản biện 2: PGS.TS. Lê Ngọc Thắng
Ph
27 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 370 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án Nghi lễ của người Hà Nhì ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Khoa học Xã hội vào hồi...giờphút,
ngàytháng.năm
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
- Thư viện Viện Dân tộc học
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trịnh Thị Lan (2015), “Nghi lễ tang ma của người Hà Nhì”, Tạp chí Dân
tộc học, số 1&2, tr. 99 - 105, Hà Nội.
2. Trịnh Thị Lan (2015), “Nghi lễ và kiêng kỵ trong sinh đẻ truyền thống
của người Hà Nhì Đen ở Bát Xát, Lào Cai”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật,
số 376, tr. 78 - 85, Hà Nội.
3. Trịnh Thị Lan (2015), “Một số biến đổi trong hôn nhân của người Hà
Nhì ở xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”, Tạp chí Nghiên cứu Đông
Nam Á, số 10 (187), tr. 74 - 79 , Hà Nội.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người Hà Nhì là một trong 6 dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến ở
nước ta hiện còn bảo lưu được nhiều nét văn hóa truyền thống tộc người. Theo kết
quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, người Hà Nhì có 21.725 người. Địa
bàn cư trú chủ yếu là dọc biên giới Việt - Trung và Việt - Lào, thuộc 3 tỉnh Lào
Cai, Lai Châu và Điện Biên. Đã có một số nghiên cứu về người Hà Nhì, nhưng vẫn
chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về nghi lễ
của dân tộc này.
Nghi lễ là một bộ phận quan trọng trong đời sống văn hóa tộc người, là môi
trường sản sinh, tích hợp, bảo tồn và trao truyền những giá trị văn hóa dân tộc.
Thông qua các sinh hoạt nghi lễ, một phần tri thức tộc người được duy trì, sáng tạo,
trao truyền giữa các thế hệ trong gia đình, cộng đồng và lan tỏa sang những cộng
đồng khác. Tính cố kết dân tộc, cộng đồng và gia đình một phần cũng được thể
hiện qua niềm tin và cách thức thực hành nghi lễ. Như vậy, nghi lễ là một trong
những thành tố văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa tộc người, nghiên cứu về nghi
lễ không những góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tộc
người mà còn phù hợp với thực tiễn “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” theo tinh thần Nghị quyết
TW 9 khóa XI.
Những năm qua, ở nhiều thôn bản của người Hà Nhì tiếp giáp với Trung Quốc
và Lào đồng bào vẫn có sự giao lưu, tiếp xúc với những người đồng tộc ở bên kia
biên giới, qua đó thắt chặt thêm mối quan hệ tộc người, quan hệ giữa các địa
phương và từng bước nâng cao đời sống người dân. Tuy nhiên, điều này cũng đang
tiềm ẩn những vấn đề nhạy cảm, có nguy cơ gây ảnh hưởng phức tạp đối với tình
hình an ninh vùng biên giới và công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của
Nhà nước ta, nhất là ở những khu vực có người Hà Nhì sinh sống. Do vậy, việc
nghiên cứu về người Hà Nhì ở Việt Nam hiện nay nói chung và nghi lễ nói riêng có
ý nghĩa quan trọng, góp phần nhận biết rõ hơn các mối quan hệ và giao lưu văn hóa
của tộc người này, từ đó góp phần phát triển tốt hơn mối quan hệ tộc người, đảm bảo
sự ổn định an ninh chính trị vùng biên cương của Tổ quốc.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc giao lưu, tiếp biến văn hóa đã và đang
diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến đời sống của các tộc người. Cũng
như các tộc người khác, văn hóa của người Hà Nhì nói chung và nghi lễ nói riêng
đang có sự biến đổi nhất định. Để cung cấp thêm những luận cứ khoa học làm cơ sở
cho việc tham khảo, xây dựng các chính sách, giải pháp phù hợp với thực tiễn, nhằm
nâng cao đời sống văn hóa nói chung, văn hóa tâm linh nói riêng của người Hà Nhì
ở nước ta trong tình hình mới, thì việc thực hiện những nghiên cứu có tính toàn
diện và chuyên sâu về sự biến đổi trong nghi lễ của người Hà Nhì là vấn đề cấp thiết
cả về lý luận và thực tiễn
Từ những cơ sở nêu trên, chúng tôi chọn đề tài: "Nghi lễ của người Hà Nhì ở
huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai hiện nay" làm luận án tiến sĩ ngành Nhân học.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu một cách tương đối toàn diện, có hệ thống về nghi lễ của người Hà Nhì
Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Qua đó cung cấp nguồn tư liệu khoa học
mới, cập nhật để góp phần tăng cường sự hiểu biết đầy đủ hơn về tộc người này và là cơ
sở dữ liệu để so sánh với các dân tộc khác thuộc ngôn ngữ Tạng - Miến.
- Phân tích những biến đổi của nghi lễ hiện nay, từ đó cung cấp những luận cứ khoa
học để các cơ quan chức năng tham khảo hoạch định và thực hiện các chính sách, giải
pháp phù hợp nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị của nghi lễ người Hà Nhì phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội tộc người này trong tình hình mới hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống nghi lễ của người Hà Nhì hiện nay. Trong đó đi
sâu nghiên cứu một số lĩnh vực cụ thể gồm: nghi lễ trong chu kỳ đời người; nghi lễ thờ
cúng tổ tiên, nghề nghiệp và cầu an trong gia đình và nghi lễ cộng đồng.
Mặc dù luận án tập trung vào nghiên cứu nghi lễ của người Hà Nhì hiện nay,
nhưng trong quá trình hoàn thành luận án chúng tôi đã khảo cứu, so sánh một số nội
dung với nghi lễ truyền thống (trước 1986) như: quan niệm và thực hành nghi lễ; sự
chuyển đổi trong tư duy và thực hành nghi lễ;...
Địa bàn nghiên cứu chính là 3 xã Y Tý, Nậm Pung, Trịnh Tường ở huyện Bát
Xát, tỉnh Lào Cai. Đây là địa bàn sinh sống chủ yếu của nhóm Hà Nhì Đen nên luận
án chỉ tập trung vào nghi lễ của nhóm này. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng quan tâm
tìm hiểu so sánh với người Hà Nhì Đen và Hà Nhì Hoa ở các địa bàn khác trong
nước để kết quả của luận án mang tính toàn diện hơn.
4. Nguồn tư liệu của luận án
Ngoài việc kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu đã công bố trên sách, tạp
chí, báo cáo khoa học và các nguồn tư liệu khác liên quan. Nguồn tư liệu do tác giả
tiến hành thu thập qua các đợt điền dã từ năm 2010 đến 2015. Đây là nguồn tư liệu chủ
yếu và được xử lý phân tích theo hệ thống gắn với các nội dung luận án.
5. Đóng góp mới của luận án
- Một là, luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu tương đối chuyên sâu, toàn
diện và có hệ thống về nghi lễ của người Hà Nhì Đen ở địa bàn nghiên cứu.
- Hai là, phân tích làm rõ những nét tương đồng và khác biệt trong nghi lễ
truyền thống và hiện tại của tộc người này cũng như đánh giá về các giá trị của nghi
lễ trong đời sống tộc người.
- Ba là: cung cấp luận cứ khoa học và đề xuất một số kiến nghị, giải pháp làm
cơ sở cho việc tham khảo hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội và bảo
tồn văn hóa nhóm Hà Nhì Đen ở Lào Cai trong bối cảnh hiện nay.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án được bố
cục thành 05 chương, gồm:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cở sở lý thuyết, phương pháp và địa
bàn nghiên cứu
Chương 2: Nghi lễ trong chu kỳ đời người
Chương 3: Nghi lễ thờ cúng tổ tiên, nghề nghiệp và cầu an trong gia đình
3
Chương 4: Nghi lễ cộng đồng
Chương 5: Kết quả và bàn luận
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về các lĩnh vực trong đời sống của
người Hà Nhì ở Việt Nam được công bố và mỗi công trình là một điểm khai phá đối
với văn hóa tộc người này. Tuy nhiên, các công trình đó còn ít, chưa thực sự chuyên
sâu và thiếu tính hệ thống, đặc biệt số học giả nước ngoài nghiên cứu về người Hà Nhì
ở nước ta nói chung và nhóm Hà Nhì Đen ở Bát Xát, Lào Cai hầu như chưa có. Do
vậy, luận án này chỉ tập trung đánh giá về các công trình nghiên cứu về người Hà Nhì
ở trong nước đó là: Các công trình đề cập sơ lược đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội liên quan đến người Hà Nhì gồm có: Các dân tộc thuộc ngữ hệ Hán Tạng, nhóm
Tạng Miến ở Miền bắc Việt Nam(1970) và Vài nét về sinh hoạt văn hóa và văn hóa
vật chất của dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến (1973), của tác giả Nông
Trung; Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) (1978) của Viện Dân tộc
học và được tái bản có bổ sung năm 2014; Năm 2004, tác giả Đỗ Thị Hòa công bố
cuốn Trang phục các tộc người nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến; Tập quán mưu sinh của
các dân tộc thiểu số ở Đông Bắc Việt Nam (2005) của tác giả Trần Bình.
Các công trình nghiên cứu sâu hơn về người Hà Nhì Năm bao gồm: Người Hà
Nhì (1983) của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á; Văn hóa và nếp sống các dân tộc
nhóm ngôn ngữ Hà Nhì - Lô Lô (1985) của Tác giả Nguyễn Văn Huy; Bài viết Lễ
hội K'hô.I già I.già (của dân tộc Hà Nhì Đen tỉnh Lào Cai) (1997) của tác giả Xuân
Mai; Người Hà Nhì đón mừng năm mới (1999) của Phan Xương Hải và Lý Khai
Phà; Một thoáng nét đẹp Hà Nhì (2001) của tác giả Nguyễn Đức Lân; Xa Nhà Ca:
Trường ca dân tộc Hà Nhì (2001) do Chu Thùy Liên và Lê Đình Lai sưu tầm và
biên dịch; Nhà cửa của người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát - Lào Cai (2001) và
Kinh nghiệm sử dụng đất trồng của người Hà Nhì Đen (Khảo sát tại thôn Lao
Chải, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai) (2002) của tác giả Mai Thanh Sơn; Vài nét về
thế giới quan dân gian của người Hà Nhì và Lễ cúng bản của người Hà Nhì (2003)
của Lý Hành Sơn; Tác giả Chu Thùy Liên với 2 công trình “Tìm hiểu văn hóa dân
tộc Hà Nhì ở Việt nam” (2004) và “Văn hóa dân gian dân tộc Hà Nhì” (2009); Một
số vấn đề về thủ công gia đình của người Hà Nhì (2005) của tác giả Trần Bình; Đời
sống song ngữ của người Cống và người Hà Nhì ở Tây Bắc (2005) của Trần Văn
Hà; Một số đặc điểm về thiết chế làng bản của người Hà Nhì ở miền núi phía Bắc
Việt Nam (2007) của tác giả Nguyễn Ngọc Thanh; Năm 2007, Ngô Lệ có bài Người
Hà Nhì và người Hà Nhì ở Lai Châu; Năm 2008, tác giả Hoàng Sơn công bố tác
phẩm Người Hà Nhì ở Huổi Luông (huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai châu); Tri thức ứng xử
với nguồn nước của người Hà Nhì ở xã Huổi Luông, Phong Thổ, Lai Châu (2008)
của Đặng Thị Oanh. Cũng về tri thức địa phương, tác giả Trần Hữu Sơn (2008) có
bài Tri thức bản địa của người Hà Nhì với vấn đề bảo vệ rừng. Tác giả Vũ Quốc
Khánh và cộng sự (2010) đã công bố tác phẩm Người Hà Nhì ở Việt Nam (The Hà
4
Nhì in Việt Nam); Năm 2010 Tác giả Dương Tuấn Nghĩa có bài Vài nét về cách đặt
tên theo phụ tử liên danh với vấn đề nghiên cứu lịch sử người Hà Nhì Đen và cuốn
Tri thức dân gian và nghi lễ truyền thống trong sản xuất nông nghiệp của người Hà
Nhì Đen ở thôn Lao Chải, Lào Cai (2011). Cùng năm 2011 có Đề tài cấp bộ về Một
số vấn đề cơ bản về dân tộc dưới tác động của sự phát triển vùng biên giới Việt -
Trung (Nghiên cứu người Hà Nhì ở một làng của tỉnh Lào Cai và một làng thuộc
châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc) do Vương Xuân Tình làm chủ nhiệm;
Năm 2012, Bùi Quốc Khánh giới thiệu bài viết Sử thi - Há pà P'hùy ca Na ca của
người Hà Nhì ở Mường Tè; Năm 2013, nhóm tác giả Chu Chà Mè, Chu Thùy Liên,
Lê Đình Lai giới thiệu những câu chuyện kể của người Hà Nhì qua cuốn Truyện cổ
Hà Nhì; Năm 2013, Đặng Thị Oanh cùng các cộng sự công bố cuốn Lễ hội dân
gian các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên; Năm 2015, tác giả Trịnh Thị Lan có 3 bài:
Nghi lễ tang ma của người Hà Nhì; Nghi lễ và kiêng kỵ trong sinh đẻ truyền thống
của người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai và Một số biến đổi trong hôn
nhân của người Hà Nhì ở xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Có thể nói, những công trình nghiên cứu đã công bố trên đã phác họa được
những nét cơ bản về bức tranh đa sắc thái của văn hóa của người Hà Nhì từ trước
đến nay. Song những công trình đó mới chỉ giới thiệu sơ lược về một số nghi lễ
truyền thống mà chưa đề cập đến những biến đổi của nghi lễ trong điều kiện mới và
chưa có sự so sánh với các nhóm Hà Nhì khác cũng như các tộc người cư trú trong
cùng địa bàn. Chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện
về nghi lễ của người Hà Nhì, nhất là nhóm Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào
Cai. Do vậy, đây chính là một trong những nội dung trọng tâm luận án cần tập
trung làm sáng rõ.
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản: Luận án tập trung làm rõ một số khái niệm
liên quan như: nghi lễ, phong tục, tập quán, kiêng kỵ, nghi lễ trong chu kỳ đời
người, nghi lễ gia đình, nghi lễ cộng đồng làm công cụ cho quá trình nghiên cứu.
1.2.2. Cơ sở lý thuyết
Quan điểm tiếp cận của luận án dựa trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc và văn hóa.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu vận dụng Lý thuyết chức năng
(functionalism) và Lý thuyết về giao lưu tiếp biến văn hóa (acculturation) làm cơ sở
để phân tích, đánh giá những vấn đề quan tâm.
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu đó là: điền dã dân tộc học (quan sát,
quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm,) Ngoài ra còn sử dụng các
phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp.
1.3. Khái quát về địa bàn và đối tượng nghiên cứu
1.3.1. Địa bàn nghiên cứu
Bát Xát là một huyện biên giới nằm phía Tây Bắc tỉnh Lào Cai. Phía Tây Bắc
và Đông Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), phía Tây giáp huyện Phong
Thổ (Lai Châu), phía Nam là huyện Sa Pa và thành phố Lào Cai, phía Đông Nam là
5
thành phố Lào Cai. Đây là địa bàn có vị trí quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội
và quốc phòng - an ninh của tỉnh. Diện tích tự nhiên 1.061,89 km², trên 70% là đồi
núi, gồm 14 dân tộc cùng chung sống.Toàn huyện có tổng số 14051 hộ với 71.947
khẩu, trong đó dân số của các dân tộc thiểu số chiếm 82%. Huyện có 22 xã và 01
thị trấn, trong đó 10 xã và 31 bản giáp biên với 2 huyện Hà Khẩu và Kim Bình, tỉnh
Vân Nam, Trung Quốc
1.3.2. Người Hà Nhì ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
1.3.2.1. Khái quát về người Hà Nhì ở Việt Nam
Trước năm 1945, người Hà Nhì được gọi là U Ní, Xá U Ní. Từ sau năm 1945,
tên Hà Nhì được thống nhất dùng làm tên gọi chính thức của dân tộc. Người Hà
Nhì có 2 nhóm là Hà Nhì Đen và Hà Nhì Hoa (gồm có nhóm Hà Nhì Cồ Chồ và Hà
Nhì La Mí). Từ nhiều nguồn tư liệu cho thấy, người Hà Nhì ở nước ta hiện nay có
nguồn gốc từ Trung Quốc và có mặt ở Việt Nam khá sớm, khoảng 300 năm cách
ngày nay. Tổng Điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hà Nhì ở Việt Nam có
21.725 người, có mặt tại 31 tỉnh, thành phố, trong đó tập trung tại các tỉnh: Lai
Châu 13.752 người, Lào Cai 4.026 người, Điện Biên 3.786 người.
1.3.2.2. Người Hà Nhì ở Huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Lào Cai là địa bàn cư trú chủ yếu của người Hà Nhì Đen, tập trung tại các xã
của huyện Bát Xát như: Y Tý, Nậm Pung, Trịnh Tường, A Lù, A Mú Sung, Ngải
Thầu. Dân số người Hà Nhì ở huyện Bát Xát là 3.996 người, chiếm 99,2% trong
tổng số 4.026 người Hà Nhì trong tỉnh. Bộ phận người Hà Nhì ở Lào Cai đến Việt
Nam muộn hơn so với bộ phận ở Lai Châu, cách đây khoảng 150 năm, xuất phát từ
Vân Nam (Trung Quốc).
1.3.2.3. Đặc điểm kinh tế
Về trồng trọt, người Hà Nhì có hai hình thức là: Phát nương làm rẫy và trồng
cấy trên ruộng bậc thang. Về Chăn nuôi, chủ yếu là trâu và ngựa, lợn, chó, gà,
vịt,Các nghề thủ công truyền thống như nghề rèn, chạm khắc bạc, đan lát, trồng
bông dệt vải tuy có nhưng không phát triển. Việc trao đổi thương mại chủ yếu diễn
ra tại các chợ phiên ở trung tâm các xã, huyện, chưa xuất hiện hình thức mua đi bán
lại sinh lời như những dân tộc khác.
1.3.2.4. Đặc điểm xã hội
Người Hà Nhì gọi bản của mình là “phu” hay“pu”. Mỗi “phu” thường có từ
40 đến 50 hộ cùng sinh sống, mỗi bản có một Tạo bản, vài ba bản lại chịu sự quản
lý của Thống quán. Về sau này xuất hiện thêm vai trò của những trưởng thôn là
người đại diện cho bản, do người dân bầu lên hoặc do chính quyền xã chỉ định.
Người Hà Nhì có nhiều dòng họ khác nhau, phổ biến là họ: Sần, Lý, Chang,
Sờ, Chu, Có (Cáo), Phu, Phà, Phàn, Sào,mỗi họ lại được chia thành nhiều chi.
Người Hà Nhì không có nhà thờ chung cho dòng họ và cũng không có trưởng họ.
Mối quan hệ giữa các thành viên trong dòng họ được tính theo huyết thống dựa vào
cách đặt tên theo quy tắc “phụ tử liên danh”. Mối quan hệ của những gia đình có
chung dòng họ trong cùng một bản rất khăng khít, gần gũi.
Gia đình của người Hà Nhì có tính chất phụ quyền khá đậm nét, người đàn ông
làm chủ gia đình và có quyền quyết định mọi công việc trong nhà. Kiểu gia đình
6
truyền thống của người Hà Nhì là gia đình lớn có 3 - 4 thế hệ cùng cư trú trong một
nhà. Bên cạnh đó còn có kiểu gia đình hạt nhân gồm 2 thế hệ là bố mẹ và các con
chưa lập gia đình. Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay, khi con cái lớn khôn
dựng vợ, gả chồng cho ra ở riêng hoặc đợi một vài năm có con thì cho tách hộ.
1.3.2.5. Đặc điểm văn hóa
- Văn hóa vật chất:Bữa ăn chính của người Hà Nhì rất đơn giản, chỉ có cơm
cùng vài món canh rau và những thức ăn do săn bắn, hái lượm và chăn nuôi trong
gia đình. Lương thực chính trước kia là gạo nếp, nay là gạo tẻ. Đồ uống của người
Hà Nhì gồm nước chè, rượu. Trước đây cả đàn ông và đàn bà Hà Nhì đều hút thuốc
lào, thuốc phiện. Trang phục của người Hà Nhì rất đơn giản, áo cánh của nam giới
được làm bằng vải tự dệt và nhuộm màu chàm hoặc đen, quần chân què, cạp to, gấu
có viền. Phụ nữ Hà Nhì Đen chủ yếu mặc áo và đội khăn màu chàm, không trang
trí, thêu thùa, áo ngắn đến đầu gối, gấu to và hơi nhô ra ở phần giữa, chỉ những phụ
nữ có chồng mới đội khăn. Người Hà Nhì ở trong các ngôi nhà đất được trình tường
chắc chắn dày từ 30 - 40cm phù hợp với khí hậu lạnh vùng núi cao, hai gian đầu
hồi được ngăn thành hai buồng giành cho vợ chồng chủ gia đình và con cái hoặc vợ
chồng con trai. Bếp lửa được đặt phía trên sàn.
- Văn hóa tinh thần: Với tín ngưỡng “vạn vật hữu linh”, người Hà Nhì tin mọi
vật đều có linh hồn (xu la) và luôn có thần linh đại diện ngự trị. Vào những ngày
nhất định trong năm đồng bào thường tổ chức các nghi lễ cúng truyền thống để cầu
mong thần linh che chở, phù hộ cho con người được bình yên, mạnh khỏe, mùa màng
bội thu. Người Hà Nhì không có chữ viết riêng nhưng có một nền văn học dân gian
phong phú với nhiều thể loại như: Truyện cổ, dân ca, sử ca, Người Hà Nhì có các
điệu múa đặc trưng như múa chùm chăn, múa gậy, Nhạc cụ cũng đơn giản gồm:
Đàn môi, gậy, sáo trúc, trống, chiêng, thanh la. Tri thức trong việc sử dụng nguồn
tài nguyên rừng và nước rất phong phú, đa dạng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Luận án Nghi lễ của người Hà Nhì ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai hiện nay
được thực hiện trong điều kiện các nghiên cứu về tộc người này chưa nhiều, hầu hết
chỉ là những nghiên cứu nhỏ lẻ, thiếu hệ thống, đặc biệt chưa có các công trình
chuyên sâu về nghi lễ. Những nghiên cứu đã công bố thường khái quát về lịch sử
tộc người, điều kiện kinh tế - xã hội và miêu tả về các hiện tương văn hóa của
người Hà Nhì một cách tổng quát mà chưa xem nghi lễ như là một đối tượng
nghiên cứu chính. Quá trình thực hiện luận án này chúng tôi đã tham khảo các
nguồn tư liệu quý trên và cố gắng bổ sung bằng nguồn tư liệu điền dã để có thể đem
đến một cái nhìn toàn diện và có hệ thống hơn về nghi lễ của người Hà Nhì Đen ở
huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Trước khi đi sâu phân tích, đánh giá nội dung chính, chúng tôi đã đưa ra
những khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài như: nghi lễ, nghi lễ trong chu kỳ
đời người, nghi lễ gia đình, nghi lễ cộng đồng, Cơ sở phương pháp luận của luận
án dựa trên quan điểm Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, nghi
7
lễ; xem xét vấn đề nghi lễ trong trạng thái vận động và có mối quan hệ biện chứng
với các yếu tố khác trong đời sống tộc người Hà Nhì. Luận án đã áp dụng các lý
thuyết như: chức năng luận, nhất là các chức năng của nghi lễ và lý thuyết giao lưu,
tiếp biến văn hóa để soi sáng cho việc phân tích tư liệu. Phương pháp nghiên cứu
chủ đạo để thu thập tư liệu là điền dã dân tộc học gồm: quan sát tham dự, phóng
vấn sâu, phỏng vấn nhóm, kết hợp với ghi âm, chụp ảnh, Để xử lý tư liệu
chúng tôi đã sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê và so sánh các
nguồn tư liệu theo các nội dung của luận án.
Luận án nghiên cứu về nghi lễ của người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh
Lào Cai. Để có cái nhìn toàn diện về địa bàn và đối tượng nghiên cứu, chúng tôi đã
giới thiệu khái quát về lịch sử tộc người và sự phân bố dân cư, đặc điểm tự nhiên,
kinh tế, xã hội và văn hóa truyền thống cũng như những thay đổi hiện nay của tộc
người Hà Nhì ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Trong đó, các đặc điểm chủ yếu là tộc
người này cư trú ở những địa bàn khó khăn về cơ sở hạ tầng, nền kinh tế cơ bản là
nông nghiệp, hoạt động thương mại chưa phát triển; tính cố kết dòng họ và cộng
đồng trong bản rất chặt chẽ, thiết chế xã hội truyền thống và những người có uy tín
vẫn giữ một vai trò quan trọng, có sự ảnh hưởng đến đời sống người dân; tộc người
này cũng có một nền văn hóa dân gian khá phong phú và đa dạng, gồm có truyện
kể, dân ca, sử thi, múa hát, phản ánh đời sống văn hóa của người Hà Nhì trong
truyền thống và hiện nay.
Chương 2
NGHI LỄ TRONG CHU KỲ ĐỜI NGƯỜI
2.1. Nghi lễ trong sinh đẻ và chăm sóc trẻ nhỏ
2.1.1. Quan niệm về sinh đẻ và con cái
Sinh đẻ (à nhi trùy) là một trong những thiên chức của người phụ nữ, mỗi cặp
vợ chồng sau khi kết hôn đều mong muốn có con cái. Người Hà Nhì luôn quan
niệm, nhiều con thì nhiều phúc, nếu một cặp vợ chồng không có con thì bị cho là
kiếp trước ăn ở không tốt nên kiếp này phải chịu sự trừng phạt của thần linh, tổ
tiên. Vì vậy, nếu kết hôn một thời gian tương đối dài mà không có con thì các cặp
vợ chồng này thường sắm lễ đến xin phúc của mọi người trong thôn bản, hoặc làm
lễ dựng cầu để thần linh, tổ tiên mang đứa trẻ về cho gia đình. Nếu sau khi đã làm
cả hai lễ thức trên mà vẫn không có con thì đôi vợ chồng sẽ xin nhận con nuôi.
2.1.2. Những nghi lễ, kiêng kỵ trước và trong thời kỳ mang thai
2.1.2.1. Nghi lễ xin thụ thai
Người Hà Nhì thường tiến hành nghi lễ xin thụ thai cho những cặp vợ chồng
kết hôn đã 2 - 3 năm mà vẫn chưa có con. Với nhóm Hà Nhì Đen ở Bát Xát có hai
cách để xin thụ thai: Thứ nhất, là xin phúc của những người trong thôn bản. Thứ
hai, là phải gặp thầy để làm lễ dựng cầu, vì họ quan niệm con cái đến với mình là đi
từ trên trời xuống trần gian, nếu gặp vực thẳm sẽ không qua được. Do đó, muốn có
con phải làm cầu để cho chúng đi xuống với mình. Người Hà Nhì chỉ nhận con
nuôi (Ạ nhi sa) trong trường hợp gia đình đã làm đủ mọi cách nhưng vẫn không có
con hoặc đã sinh nhiều lần nhưng không nuôi được.
8
2.1.2.2. Những kiêng kỵ và nghi lễ khi mang thai
Trước kia, khi mang thai phụ nữ Hà Nhì phải kiêng kỵ nhiều thứ, mỗi nhóm
người lại có các kiêng riêng. Với người Hà Nhì Đen ở Bát Xát, phụ nữ khi mang
thai thường không được uống bất cứ loại thuốc gì; không bước qua hố, rãnh; không
được trèo lên cây có quả, không được bước qua dây thừng trâu; không được mang
gừng bên mình; không được bắt, đánh rắn; không được bắt và ăn cua. Đối với
người chồng, khi vợ mang thai không được có những hành động mang tính chèn ép
hay đè nén, như: chôn cột, làm cối giã gạo, khiêng quan tài trên vai,
Ngày nay, những nghi lễ và kiêng kỵ trong sinh đẻ và chăm sóc trẻ nhỏ đã ít
nhiều thay đổi, như: thai phụ không phải kiêng ăn nhiều thứ như trước kia mà được
ăn nhiều loại thực phẩm khác nhau, nhưng về cơ bản họ vẫn còn phải kiêng kỵ
những thức ăn và hoạt động mà theo quan niệm của tộc người này có ảnh hưởng
đến sức khỏe của đứa trẻ.
2.1.3. Nghi lễ và kiêng kỵ khi sinh đẻ
Phụ nữ Hà Nhì đẻ đứng hoặc đẻ ngồi ngay trong buồng ngủ của hai vợ
chồng, không có bà đỡ riêng, khi đẻ sản phụ được những người có tuổi nhiều kinh
nghiệm giúp đỡ. Khi vợ bắt đầu trở dạ, người chồng thường phải tránh mặt đi ra
ngoài hoặc sang nhà khác. Nếu người vợ trở dạ ngay trên nương hoặc những nơi
không có ai giúp đỡ thì người chồng sẽ là “bà đỡ” tại chỗ và cắt rốn cho đứa trẻ
bằng que vầu, sau đó đưa về nhà.
Trường hợp chửa hoang bị dân bản phạt rất nặng, đến ngày sinh, không được
đẻ trong bản mà phải đẻ ngoài rừng. Đứa trẻ lớn lên sẽ không được tham gia các
sinh hoạt thờ cúng chung của cộng đồng.
Trong trường hợp khó sinh thì người Hà Nhì có nhiều cách để “chữa”. Tuy
nhiên ở mỗi vùng lại có những cách khác nhau. Với mỗi hình thức, gia đình đều có
một đoạn cúng đơn giản là xin thần linh, xin bà mụ đã cho gia đình đứa trẻ thì cũng
xin cho sản phụ sinh nó ra được mạnh khỏe, lành lặn.
2.1.4. Nghi lễ và kiêng kỵ sau khi sinh
Sau khi trong nhà có người đẻ, người Hà Nhì Đen ở Bát Xát có tục làm dấu
trước nhà để báo cho mọi người biết gia đình có tin mừng, đó cũng là dấu hiệu
không cho người lạ vào nhà trong vòng 12 ngày. Nhau thai được xem như một
phần của cơ thể đứa trẻ, có liên quan đến sức khỏe của bé nên được chôn rất cẩn
thận. Sản phụ sau khi sinh sẽ được ăn một quả trứng gà sau đó mới ăn những thứ
khác. Trong thời gian ở cữ, người Hà Nhì tuyệt đối cấm chuyện sinh hoạt vợ chồng
vì tin rằng nếu vi phạm thì người mẹ sẽ chết sớm.
Trong trường hợp sinh đôi cùng con trai hoặc cùng con gái thì gia đình sẽ
nuôi bình thường, nhưng nếu sinh đôi một trai, một gái thì phải cho họ hàng nuôi
một đứa. Khi trong bản có người sinh con thì ngày hôm đó cả bản kiêng làm những
công việc lớn. Nếu sinh đôi thì gia đình phải kiêng 9 năm sau mới được tham gia
các hoạt động chung của cộng đồng.
2.1.4.1. Nghi lễ đặt tên (Gu hè đu)
Tùy từng vùng mà người Hà Nhì có thể đặt tên cho đứa bé sớm hay muộn.
Tên của đứa bé không được trùng với tên của những đứa trẻ đã chết trong gia
9
đình. Người Hà Nhì Đen đặt tên con theo nguyên tắc phụ tử liên danh, nghĩa là tên
đầy đủ của đứa bé sẽ là: họ + tên bố + tên riêng của con.
2.1.4.2. Lễ cúng gọi hồn cho trẻ nhỏ (xu la khu)
Người Hà Nhì quan niệm, hồn của trẻ mới sinh còn rất yếu, ham chơi nên rất
dễ bị lạc, không biết đường về nhà, nếu cho rằng hồn đứa trẻ bị lạc thì gia đình phải
làm lễ gọi hồn về. Ngoài ra còn làm lễ cúng ma để đừng làm cho trẻ con ốm đau,
quấy, khóc.
2.1.4.3. Lễ đầy năm
Khi đứa trẻ được một năm tuổi, gia đình mổ gà, lợn mời dân bản đến dự. Mọi
người tặng bé rất nhiều quà. Lễ đầy năm của đứa trẻ là dịp để mọi người trong bản
tập trung tại nhà em bé ôn chuyện làm ăn, thăm hỏi lẫn nhau.
2.2. Nghi lễ trong hôn nhân
2.2.1. Một số quan niệm và nguyên tắc trong hôn nhân
Hình thức hôn nhân chủ yếu của người Hà Nhì là hôn nhân một vợ một chồng,
trai gái được tự do yêu đương, tìm hiểu nhau trước khi kết hôn. Tuy nhiên, không
được lấy những người cùng họ và những dòng họ khác đã kết nghĩa anh em, cấm lấy
đổi cũng như hai anh em trai lấy hai chị em gái.
Trước kia, người Hà Nhì thường kết hôn sớm, nữ từ 13 - 15 tuổi, nam từ 15 -
17 tuổi. Ngày nay tuổi kết hôn đã cao hơn. Gia đình của người Hà Nhì được xây
dựng trên cơ sở tự nguyện nên hiện tượng ly hôn không xảy ra. Người Hà Nhì Đen
Bát Xát, Lào Cai không có tục ở rể, trong khi ở Mường Tè tục ở rể trước khi cưới
tương đối phổ biến. Ngày nay, các gia đình không muốn con mình phải ở rể nên
thường đưa cho nhà gái một khoản tiền để xin được tổ chức đám cưới luôn.
2.2.2. Nghi lễ trong hôn nhân
2.2.2.1. Hôn nhân theo nghi lễ truyền thống
Theo truyền thống, hôn nhân phải do bố mẹ hai bên đồng ý và tổ chức qua
các nghi lễ dạm hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt. Mỗi nghi lễ có rất nhiều thủ tục khác nhau.
Lễ cưới của người Hà Nhì thường được tổ chức làm hai lần: Lễ cưới lần thứ nhất
(Su mi y) được diễn ra khi hai bên gia đình đồng ý chọn ngày lành tháng tốt để tiến
hành hôn lễ cho đôi trẻ. Lễ cưới lần thứ hai (jù đo y) là để thông báo đôi vợ chồng
vẫn sống hạnh phúc và báo hiếu bố mẹ nhà gái đã có công sinh thành, nuôi nấng cô
dâu. Do chi phí lớn nên người Hà Nhì chỉ tổ chức đám cưới lần hai khi kinh tế gia
đình đã ổn định.
2.2.2.2. Hôn nhân không qua dạm hỏi
Người Hà Nhì Đen ở Bát Xát còn có hình thức cưới không qua lễ dạm hỏi, do
không đủ khả năng tổ chức đám cưới theo nghi lễ truyền thống, hoặc hai người đã
góa vợ, góa chồng,... Trường hợp đó, người con trai xin ý kiến bố mẹ mình và định
ngày đưa cô gái về nhà, còn người con gái có thể không cần phải thông báo cho bố
mẹ của mình biết. Chàng trai cùng một vài người bạn hẹn cô gái đến một địa điểm
nào đó rồi đón cô gái về nhà mình, ngày hôm sau nhà trai đem lễ vật sang thông
báo cho nhà gái biết là con gái họ đã về làm dâu và được nhập ma nhà trai rồi.
Những đám cưới như thế này không cần tổ chức cưới lần thứ hai, hình thức rất đơn
giản và ít tốn kém hơn.
10
2.3. Nghi lễ trong tang ma
2.3.1.Quan niệm về linh hồn, sự sống và cái chết.
Đến nay người Hà Nhì vẫn chịu ảnh hưởng sâu đậm của tín ngưỡng vạn vật
hữu linh, cho rằng con người và mọi vật xung quanh đều có linh hồn (xu la). Sức
khỏe của con người luôn phụ thuộc vào trạng thái của linh hồn, khi linh hồn khỏe
thì con người mạnh khỏe, khi con người ốm đau có nghĩa là linh hồn bị yếu. Vì thế,
ngày nay người Hà Nhì vẫn duy trì tập quán làm lễ gọi hồn cho những người ốm
yếu và cúng những ma để chuộc linh hồn của người ốm về và cầu xin sức khỏe bình
phục trở lại.
Người Hà Nhì quan niệm, khi người chết đi thì linh hồn bị phân tán: một linh
hồn ở lại bàn thờ tổ tiên, một linh hồn trú ngụ ngoài huyệt mộ, một số khác lại trở
về trời để sau này được đầu thai làm người khác
2.3.2. Nghi lễ trong đám tang (chu sư bò già)
Nghi lễ trong đám tang của người Hà Nhì bao gồm nhiều thủ tục khác nhau.
Khi trong nhà có người chết, gia đình phải thông báo cho cộng đồng biết, nhờ mọi
người giúp đỡ và làm công tác chuận bị về mọi mặt. Sau đó phải chọn nơi chôn cất
(pì đù mơ ti ga) hợp với ý nguyện của người chết, chọn ngày phù hợp để đưa tang.
Ngày đưa tang phải tiến hành nhiều nghi lễ quan trọng như: cúng bữa cơm vĩnh biệt
người chết, đổi chiều quan tài khi đưa ra huyệt mộ,Trong 3 năm đầu gia đình đi
tảo mộ một lần, còn những năm sau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi nhà.
2.3.3. Nghi lễ tang ma t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_nghi_le_cua_nguoi_ha_nhi_o_huyen_bat_xat_tin.pdf