BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Trần Văn Thành
LỄ HỘI GÒ THÁP
TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN
CỦA NGƯỜI DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
Chuyên ngành: Văn hóa dân gian
Mã số: 9229041
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội – 2018
Công trình được hoàn thành tại:
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Chí Bền
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện
27 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 361 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án - Lễ hội gò tháp trong đời sống tinh thần của người dân tỉnh Đồng Tháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3:
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án họp tại
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Số 32, Hào Nam, Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội
Vào lúc giờ ngày tháng năm
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lễ hội Gò Tháp là một di sản văn hoá vô cùng quý giá của tỉnh
Đồng Tháp nói riêng và vùng Đồng Tháp Mười nói chung. Việc đi
sâu nghiên cứu di sản văn hoá phi vật thể, lễ hội Gò Tháp để thấy
rõ vai trò của nó trong đời sống tinh thần người dân; qua đó phục
hồi, bảo tồn và phát huy giá trị đã trở nên cấp thiết và có ý nghĩa
quan trọng trong hội nhập và phát triển đất nước ngày nay. Nhận
thức được những vấn đề cấp thiết trên, NCS chọn Lễ hội Gò Tháp
trong đời sống tinh thần của người dân tỉnh Đồng Tháp làm luận
án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích của luận án là nghiên cứu, làm rõ quá trình hình
thành và phát triển lễ hội Gò Tháp trong tiến trình khai hoang mở
mang bờ cõi của người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long nói
chung, vùng Ðồng Tháp Mười nói riêng;
- Qua nghiên cứu lễ hội, nhằm biết được thái độ của người dân
nơi đây đối với nhân vật thờ tự trong lễ hội này;
- Nghiên cứu lễ hội Gò Tháp để biết được vai trò của nó trong
đời sống tinh thần của người dân Gò Tháp nói riêng và tỉnh Đồng
Tháp nói chung;
- Biết được vai trò của Ban Hội hương và cơ quan quản lý Nhà
nước đối với lễ hội này;
- Nhằm khai thác giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của cha
ông trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, phục vụ nhu cầu tâm linh trong
đời sống văn hóa của người dân nơi đây;
- Tìm ra những mặt tích cực và hạn chế, từ đó đưa ra một số ý
kiến nhằm phát huy và bảo tồn những giá trị của loại hình văn hóa
dân gian này trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp nói chung;
2
- Luận án nghiên cứu, giải mã, mô tả chi tiết về lễ hội Gò Tháp
đang diễn ra trong giai đoạn hiện nay thành một công trình khoa
học; cung cấp tư liệu cho các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu và
những ai quan tâm tới lễ hội này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu, thuật ngữ nghiên cứu
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu Lễ hội Gò Tháp trong đời sống tinh thần của
người dân tỉnh Đồng Tháp trên địa bàn xã Tân Kiều, huyện Tháp
Mười, tỉnh Đồng Tháp. Đề tài lấy di tích đền thờ Thiên hộ Dương, Đốc
binh Kiều, miếu bà Chúa Xứ làm cơ sở chính. Đồng thời, lấy lễ hội Gò
Tháp vào rằm tháng 3 và rằm tháng 11 âm lịch đang diễn ra trong
giai đoạn hiện nay để nghiên cứu; tuy nhiên có liên hệ đến quá
trình hình thành và phát triển lễ hội này từ xưa tới nay.
3.2. Thuật ngữ nghiên cứu
Luận án sử dụng một số thuật ngữ nghiên cứu như: lễ hội, đời
sống tinh thần; tính thiêng, tính thế tục.
Thuật ngữ lễ hội: Lễ hội Gò Tháp trong đời sống tinh thần của
người dân tỉnh Đồng Tháp, là một hoạt động tâm linh, tín ngưỡng
của người dân tỉnh Đồng Tháp, được tổ chức trên địa bàn Gò Tháp.
Người dân tổ chức lễ hội nhằm tưởng niệm các nhân vật đã có công
đánh giặc giữ nước, giúp dân trong những ngày đầu mở mang bờ
cõi, khai hoang lập nghiệp.
Thuật ngữ đời sống tinh thần: Đời sống tinh thần đối lập với
đời sống vật chất, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với vật chất. Đời
sống tinh thần là hoạt động tinh thần, là kết quả phản ánh thực tiễn
của con người, là nguồn động lực tích cực, quyết định đối với hoạt
động sống của cá nhân và cộng đồng xã hội.
Thuật ngữ tính thiêng, tính thế tục: Tính thiêng:Theo Đại từ
điển Tiếng Việt: Thiêng có nghĩa: “1/ Có phép thuật kỳ lạ, khiến
3
người ta phải nể sợ, tôn kính. 2/ Rất linh nghiệm, nói đến là thấy
hiển hiện, là thấy có thật”. Thế tục: 1/ Tập tục ở đời: ăn ở phải theo
thế tục. 2/ Đời sống trần tục, phân biệt với đời sống tu hành.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Thống kê, phân loại qua các tư liệu liên quan
Trước khi tiến hành nghiên cứu đề tài Lễ hội Gò Tháp trong
đời sống tinh thần của người dân tỉnh Đồng Tháp, NCS tiến hành
thu thập các tài liệu, các công trình liên quan đến đề tài đã được
công bố; đọc, thống kê và phân tích dữ liệu, phân loại và thu thập
các kết quả liên quan đến đề tài để nghiên cứu. Các nguồn tài liệu
thu thập từ các tác giả trong và ngoài nước phục vụ cho việc nghiên
cứu có nội dung như: Các công trình, các bài báo đăng trên các tạp
chí chuyên ngành viết về lễ hội Gò Tháp; các công trình văn hóa
dân gian, các công trình và các bài báo nghiên cứu về lĩnh vực lễ
hội, đình chùa, miếu, tín ngưỡng, phong tục tập quán,... (về lĩnh
vực văn hóa vật thể và phi vật thể) trong tỉnh Đồng Tháp, trong khu
vực đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
4.2. Điền dã, quan sát tham dự
Cùng với việc thu thập, phân tích và lựa chọn những vấn đề
liên quan đến đề tài có trong tư liệu; tác giả đi tới địa bàn nơi tổ
chức lễ hội để điền dã, tham dự - quan sát; quay phim, chụp ảnh;
giúp luận án nhận diện rõ hơn về hiện trạng, quá trình thực hành nghi
lễ của người dân, của khách hành hương, của Bạn Hội hương và của
các cơ quan chức năng nhà nước trong suốt mùa lễ hội diễn ra.
4.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Trong những đợt đi tới địa bàn tổ chức lễ hội để điền dã, tham
dự lễ hội; gặp gỡ, trao đổi, phỏng vấn người dân, phỏng vấn khách
hành hương, phỏng vấn Ban Quản lý Khu di tích và lễ hội qua các
thời kỳ; phỏng vấn Ban lãnh đạo, những người làm công tác quản
4
lý văn hóa nói chung... Những cuộc phỏng vấn sâu này là nguồn tư
liệu hữu ích giúp luận án nhận diện rõ hơn về hiện trạng, quá trình
hình thành và phát triển di tích, lễ hội tới giai đoạn ngày nay, và kế
hoạch xây dựng, phát triển di tích, lễ hội trong tương lai. Đồng thời
giúp luận án nắm rõ hơn về mặt tâm linh, tín ngưỡng của người dân
đối với lễ hội trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
4.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Để phân tích, đánh giá toàn diện về lễ hội Gò Tháp, NCS sử
dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành: Xã hội học, Nhân học
văn hóa, Văn hóa dân gian trong quá trình hình thành và phát triển,
gắn liền với lịch sử khai hoang mở mang bờ cõi của người Việt
vùng Tây Nam Bộ.
4.5. Miêu thuật – khảo tả
Trong quá trình đi điền dã, tham dự lễ hội; cùng với việc ghi
chép những thông tin phỏng vấn của người dân; Luận án ghi chép,
miêu thuật – khảo tả lại hiện trạng thực tế nơi đang diễn ra lễ hội,
về không gian tổ chức lễ hội; mô tả trình tự các bước thực hành lễ
hội từ việc chuẩn bị của Ban Quản lý Khu di tích, Ban Hội hương,
các cơ quan nhà nước khác và của người dân. Tiếp theo, luận án
miêu thuật các bước hành lễ khi thực hiện các nghi thức lễ bái từ
lúc mở màn cho đến kết thúc lễ hội. Luận án miêu thuật – khảo tả
lại những hoạt động thực hành tín ngưỡng của người dân và khách
hành hương trong quá trình đến thăm viếng, tham dự lễ hội từ lúc
mở màn cho đến lúc kết thúc lễ hội...
5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Tính thiêng, tính huyền thoại trong lễ hội của người Việt ở đồng
bằng sông Cửu Long nói chung, lễ hội Gò Tháp này nói riêng, không
được như ở Bắc Bộ, nhưng tại sao mỗi mùa lễ hội đến, lại thu hút
5
một lượng khách rất đông về đây tham dự lễ hội? Cho đến nay, đã có
nhiều công trình nghiên cứu đến đề tài này hay chưa, và nếu có thì
nghiên cứu ở mức độ nào?... là những vấn đề đặt ra cần làm sáng rõ
đối với lễ hội này trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Giả thuyết khoa học
Gắn liền với quá trình khai hoang mở mang bờ cõi của người
Việt ở vùng Tây Nam Bộ, lễ hội Gò Tháp có tuổi đời tướng đối
ngắn, quá trình thiêng hóa nhân vật thờ tự chưa trọn vẹn. Người dân
tổ chức lễ hội, nhằm bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với nhân vật
thờ tự đã có công giúp dân trong những ngày đầu khai hoang lập ấp.
Cho đến hiện nay, luận án là một công trình khoa học đầu tiên
nghiên cứu đầy đủ và chi tiết về Lễ hội Gò Tháp trong đời sống tinh
thần của người dân tỉnh Đồng Tháp; cung cấp tư liệu cho các nhà
quản lý, các nhà nghiên cứu và những ai quan tâm tới lính vực này
dưới góc nhìn văn hóa dân gian.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận án là công trình nghiên cứu nhằm sáng tỏ thêm một số
đặc trưng và giá trị văn hóa độc đáo của lễ hội Gò Tháp ở tỉnh
Đồng Tháp dưới góc nhìn Văn hóa dân gian;
Góp phần lý giải sự tác động qua lại giữa các yếu tố địa lý, sinh
thái với lịch sử tộc người trong quá trình định hình các tín ngưỡng
dân gian ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là tín ngưỡng
người Việt qua góc nhìn văn hóa dân gian tại tỉnh Đồng Tháp;
Thông qua đề tài nghiên cứu, giúp các nhà nghiên cứu, các nhà
quản lý thấy được những ưu điểm, khuyết điểm của di tích, lễ hội
Gò Tháp ở tỉnh Đồng Tháp. Từ đó, xây dựng kế hoạch, chương
trình tổ chức các hoạt động nhằm phát huy tính tích cực của loại
hình văn hóa dân gian này;
Làm sáng tỏ vấn đề hỗn dung giữa văn hóa gốc và văn hóa của
6
những người đi khai hoang mở mang bờ cõi, chịu sự tác động và có
mối quan hệ chặt chẽ với văn hóa người Việt ở Nam Bộ nói chung,
tỉnh Đồng Tháp nói riêng;
Thông qua đề tài, người đọc có khả năng nhận thức đầy đủ,
khoa học về hệ thống lễ hội Gò Tháp, làm tư liệu tham khảo cho
quá trình quy hoạch bảo tồn và khai thác văn hóa tỉnh Đồng Tháp
nói chung.
7. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm hai phần, chính văn và phụ lục.
Phần chính văn: Ngoài mở đầu (10 trang), kết luận (3 trang),
danh mục các công trình đã công bố (1 trang), tài liệu tham khảo (14
trang), nội dung luận án được trình bày trong 3 chương: Chương 1.
Tổng quan tình hình nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và cơ sở lý
luận của đề tài (36 trang); Chương 2. Tính thiêng và tính thế tục của
lễ hội Gò Tháp (37 trang); Chương 3. Chủ/khách thể của lễ hội Gò
Tháp trong mối quan hệ với tính thiêng và tính thế tục (32 trang).
Phần phụ lục: Phụ lục 1. Bản đồ hành chính huyện Tháp Mười (1
trang); Phụ lục 2. Bản đồ khu di tích Gò Tháp (3 trang); Phụ lục 3.
Bảng thống kê tiền công đức lễ hội từ năm 1992 đến nay (2 trang);
Phụ lục 4. Một số bài văn tế (6 trang); Phụ lục 5. Ảnh di tích và lễ hội
Gò Tháp (22 trang); Phụ lục 6. Danh sách những người cung cấp
thông tin cho luận án (2 trang); Phụ lục 7. Quy chế tổ chức hoạt động
của BHH và BQL Khu di tích (30 trang); Phụ lục 8. Gỡ băng phỏng
vấn sâu (29 trang).
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ngày nay, trên khắp mọi miền của Tổ quốc, đi tới đâu chúng
7
ta cũng dễ dàng được trải nghiệm với cuộc sống của người dân
thông qua lễ hội, được tổ chức với nhiều dạng thức, tên gọi, ý nghĩa
khác nhau. Nhiều nhất là vào dịp đầu năm và thứ đến là dịp cuối
năm. Mục đích của lễ hội chủ yếu nhằm tưởng niệm, tôn vinh nhân
vật có thật trong lịch sử, hoặc một sự kiện nào đó, hoặc qua các
truyền thuyết được nhân dân thêu dệt, hư cấu, nhằm gửi gắm niềm
tin tín ngưỡng của mình vào nhân vật ấy. Có những lễ hội lên đến
hàng ngàn năm tuổi như ở Bắc Bộ và ít nhất cũng trên cả trăm năm
tuổi như ở Nam Bộ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là dạng lễ
hội dân gian, hay lễ hội truyền thống..., được hình thành dựa trên
cơ sở tín ngưỡng của người dân.
Lễ hội Gò Tháp trong đời sống tinh thần của người dân tỉnh
Đồng Tháp thuộc dạng lễ hội dân gian. Để nắm rõ về lễ hội này,
trước hết, luận án tiến hành nghiên cứu tổng quan tình hình như sau:
1.1.1. Tình hình nghiên cứu lễ hội của người Việt đồng bằng
sông Cửu Long
Các công trình: Gia Định thành thông chí; Văn hóa dân gian
người Việt ở Nam Bộ; Góp phần nghiên cứu văn hoá dân gian Việt
Nam; Lễ hội cổ truyền của người Việt – Cấu trúc & thành tố; Tục
thờ thần qua am miếu Nam Bộ.... viết về lễ hội Gò Tháp mới chỉ
xuất hiện một số bài viết ngắn hoặc một bài tạp chí khoa học.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu lễ hội Gò Tháp
Qua nghiên cứu phần tổng quan trên đây cho thấy, việc sưu
tầm, nghiên cứu lễ hội truyền thống vùng đồng bằng sông Cửu
Long nói chung, mà đặc biệt là lễ hội Gò Tháp đã trải qua một quá
trình nhất định. Tuy đã có một số công trình sưu tầm nghiên cứu về
lĩnh vực văn hoá tại tỉnh Đồng Tháp nhìn chung còn ít, mới chỉ
xuất hiện ở dạng một số bài báo đăng trên tạp chí... Do đó, nghiên
cứu sinh chọn đề tài Lễ hội Gò Tháp trong đời sống tinh thần của
8
người dân tỉnh Đồng Tháp làm luận án tiến sĩ của mình là hoàn
toàn mới và phù hợp với mục tiêu đề ra.
1.2. Lễ hội Gò Tháp trong diện mạo lễ hội của người Việt
vùng Tây Nam Bộ
Nằm trong dòng chảy lễ hội người Việt ở vùng Tây Nam Bộ,
lễ hội Gò Tháp có tuổi đời tương đối ngắn, gắn liền với quá trình
khai hoang, mở mang bờ cõi của người Việt. Lễ hội Gò Tháp là tên
gọi chung cho nhiều lễ hội được tổ chức trong năm trên địa bàn Gò
Tháp, thuộc ấp 1 xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
1.3. Cơ sở lý luận
1.3.1. Cấu trúc lễ hội
Nhằm nghiên cứu, làm rõ nội dung đề tài, luận án sử dụng
khung lý thuyết từ công trình Lễ hội cổ truyền của người Việt - Cấu
trúc và thành tố của GS.TS. Nguyễn Chí Bền, áp dụng vào nghiên
cứu thực tế lễ hội đang diễn ra tại Gò Tháp hiện nay.
1.3.2. Sự hình thành và quá trình thiêng hóa nhân vật thờ tự
1.3.2.1. Lễ hội Gò Tháp vào rằm tháng 3 âm lịch
Lễ hội Gò Tháp vào rằm tháng 3 hay còn gọi là lễ hội bà Chúa
Xứ Gò Tháp diễn ra vào các ngày 13, 14, 15 và rạng sáng ngày 16
tháng 03 âl hàng năm (trước năm 2006 chỉ tổ chức từ ngày 15 đến
rạng sáng 16). Đây không phải là ngày sinh, cũng không phải là
ngày mất của bà, mà là dịp để người dân bày tỏ lòng biết ơn đối với
bà - Người đã có công khai phá, tạo dựng và cai quản vùng đất này.
Đồng thời, đây cũng là ngày lễ hạ điền – xuống giống; qua lễ hội,
người dân cầu cho mưa thuận gió hòa, không có thiên tai, dịch
bệnh, cầu cho vụ mùa bội thu hơn trước. Lễ hội bà Chúa Xứ thuộc
tâm linh, tín ngưỡng dân gian, và có trước lễ hội Thiên hộ Dương,
Đốc binh Kiều; vào khoảng thế kỷ VI sau Công nguyên, nơi đây là
một ngôi đền thờ Hindu giáo. Tương truyền, đến thế kỷ 18, người
9
Việt từ Đàng Ngoài vào Gò Tháp khai hoang lập ấp, thấy nơi đây
linh thiêng, ứng nghiệm nên họ thường tới thắp hương cầu khấn ơn
trên phù hộ độ trì; đồng thời, tạ ơn những người đi trước đã có công
khai phá tạo dựng nên vùng đất này. Với sự linh thiêng đó, năm
1914, người dân nơi đây cùng nhau cất lên một cái miếu bằng vật
liệu nhẹ để thờ cúng (đã bị sụp đổ trong chiến tranh). Từ đó đến
nay, qua nhiều đợt di dời và bị chiến tranh tàn phá; việc thờ cúng
miếu bà còn đơn lẻ, trong phạm vi một số hộ sống xung quanh Gò
Tháp thực hiện. Từ năm 1975 trở lại đây, việc thờ cúng tại miếu bà
được người dân quan tâm và biết đến nhiều hơn. Cùng với lễ hội
Thiên hộ Dương, Đốc binh Kiều, lễ hội bà Chúa Xứ ngày một lớn
mạnh, tầm ảnh hưởng không chỉ còn là làng, xã hay huyện, mà sức
lan tỏa mạnh mẽ ra cả tỉnh Đồng Tháp, cả vùng Đồng Tháp Mười
rộng lớn, và cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long như hiện nay.
1.3.2.2. Lễ hội Gò Tháp vào rằm tháng 11 âm lịch
Lễ hội Gò Tháp vào rằm tháng 11 hay còn gọi là lễ hội tưởng
niệm hai vị anh hùng dân tộc Thiên hộ Dương, Đốc binh Kiều diễn
ra vào các ngày 13, 14, 15 và rạng sáng ngày 16 tháng 11 âm lịch
hàng năm. Trước năm 1954, Khu di tích Gò Tháp dưới quyền
thống trị của thực dân Pháp; để thủ tiêu tinh thần chiến đấu của
nhân dân ta, chúng cấm không cho bất cứ ai được thờ phụng các
anh hùng đã lãnh đạo nhân dân đứng lên chống lại chúng. Do đó
mà ngay cả trong ca dao Đồng Tháp mới có câu:
Ai về Đồng Tháp mà coi,
Mồ ông Thiên hộ trăng soi lạnh lùng.
Tuy ngôi mộ trong câu ca dao là của Đốc binh Kiều nhưng có
một thời gian người dân cứ nhầm tưởng đây là mộ của Thiện hộ
Dương; song rất thực tế, vì trước 1954, mộ Đốc binh Kiều được
đắp đất, chất đá vun thành nấm mồ và không ai dám quan tâm thắp
10
hương trông nom. Tương truyền, trước năm 1954, người dân về
đây khai hoang lập ấp, với sự linh thiêng được họ nghe qua các
truyền thuyết dân gian kể lại, họ cùng nhau tập trung làm cái lều
mái lá, lập bàn thờ để lễ bái.
Sau năm 1954, để trấn an lòng dân, chính quyền của ông Ngô
Đình Diệm cho xây ngôi mộ bằng xi măng trước khi xây dựng
Tháp Mười tầng. Cũng trong giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975,
nhân dân quanh vùng Gò Tháp (khoảng trên - dưới 20 hộ) quyên
góp tiền bạc, công sức cùng nhau đứng ra làm đám giỗ tưởng niệm
ông Đốc binh Kiều.
Từ năm 1993 về trước, kỳ lễ hội vào tháng 11 được tổ chức
nhằm tưởng niệm vị anh hùng Đốc binh Kiều; từ năm 1993 đến
năm 2005 lễ hội tổ chức tưởng niệm ông Đốc binh Kiều và đồng
thời cúng ông Thiên hộ Dương. Từ năm 2006 cho tới nay, được sự
cho phép của BQL Khu di tích Gò Tháp, Ban Hội hương làm lễ
thỉnh hai cái cốt (hai linh tượng) của hai ông về thờ và làm lễ hội
chung cho hai ông. Trong xã hội nông nghiệp, tính chu kỳ của lễ
hội phụ thuộc vào vòng sản xuất cây trồng, và đây cũng là vòng
thời tiết luân phiên mùa trong thời gian một năm. Vì thế, cũng rất
dễ hiểu khi trong dân gian vẫn lưu truyền những câu chuyện về tính
thiêng của thời gian mở hội. Đó là ngày Ngài báo mộng cho dân
biết để làm đám giỗ... Từ sự tích này, trải qua nhiều lần lễ hội, dần
dần trong tiềm thức của nhân dân đã hình thành một hình ảnh
thiêng của thời gian mở hội.
Như vậy, từ năm 1975 đến năm 2006, việc tổ chức lễ hội được
thay đổi qua từng mốc thời gian nhất định. Từ năm 2006 đến nay
(11/2017), lễ hội Gò Tháp vào rằm tháng 11 chính thức được tổ
chức tưởng niệm hai ông Thiên hộ Dương và Đốc binh Kiều, có sự
kết hợp chặt chẽ giữa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đồng Tháp,
11
Bảo tàng Đồng Tháp, Ban Quản lý Khu di tích Gò Tháp, Ban Hội
hương Gò Tháp, UBND huyện Tháp Mười, UBND xã Tân Kiều
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của UBND tỉnh Đồng Tháp. Cuối tháng 5
năm 2016, UBND tỉnh Đồng Tháp trao quyền quản lý trực tiếp Khu
di tích Gò Tháp cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Tháng 11
năm 2016, đền thờ ông Thiên hộ Dương được khánh thành; Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, kết hợp các cơ quan ban ngành
trong tỉnh, cùng Ban Quản lý Khu di tích Gò Tháp, Ban Hội hương
Gò Tháp, huyện Tháp Mười, xã Tân Kiều... tổ chức lễ khánh thành,
rước ông Thiên hộ Dương từ đền thờ Thiên hộ Dương, Đốc binh
Kiều sang làm lễ an vị tại đền thờ mới và làm lễ hội tưởng niệm
chung hai ông trong dịp này.
Lễ hội Gò Tháp được tổ chức nhiền đợt/năm, nhằm tưởng
niệm nhiều nhân vật khác nhau, nhưng chung quy, có hai dạng
chính là nhân vật lịch sử và nhân vật được nhân dân hư cấu dựa
trên truyền thuyết. Quá trình hình thành trên đây cho thấy, tuổi đời
của lễ hội tương đối ngắn, quá trình thiêng hóa nhân vật chưa trọn
vẹn như ở Bắc Bộ. Nhân vật Thiên hộ Dương, Đốc binh Kiều đã
được người dân nơi đây thiêng hóa đồng thời cả ba quá trình như:
lịch sử hóa, huyền thoại hóa qua các truyền thuyết, địa phương hóa
qua các câu chuyện linh thiêng về hai ông. Còn nhận vật bà Chúa
Xứ được người dân thiêng hóa qua truyền thuyết về những câu
chuyện linh thiêng của Bà. Điều đó cho thấy, tính thiêng của nhân
vật thờ tự đã lan tỏa và dần ăn sâu vào tiềm thức của người dân.
Bởi vậy, hàng nằm, cứ vào mùa lễ hội, có hàng trăm ngàn lượt
khách thập phương tới đây cầu nguyện, chiêm bái.
Tiểu kết
Trong tất cả các công trình nghiên cứu về văn hóa Nam Bộ nói
chung được đề cập qua phần tổng quan cho thấy, nghiên cứu về lễ
12
hội Gò Tháp hiện chưa có một công trình nào thực hiện một cách
đầy đủ và chi tiết theo dạng công trình độc lập, mà mới chỉ dừng lại
ở dạng bài viết ngắn hoặc bài báo đăng trên tạp chí chuyên ngành.
Do đó, luận án chọn đề tài “Lễ hội Gò Tháp trong đời sống tinh
thần của người dân tỉnh Đồng Tháp” để nghiên cứu là hoàn toàn
mới, phù hợp với mục tiêu đề ra.
Để làm rõ nội dung tên đề tài nghiên cứu, luận án dựa trên một
số thuật ngữ như: khái niệm lễ hội, khái niệm đời sống tinh thần,
khái niệm tính thiêng, khái niệm tính thế tục. Đồng thời, vận dụng
khung lý thuyết từ công trình Lễ hội cổ truyền của người Việt –
Cấu trúc & thành tố vào nghiên cứu để thấy được sự phong phú, đa
dạng, những thành tố cấu thành lễ hội Gò Tháp.
Nằm trong vùng Tây Nam Bộ, lễ hội Gò Tháp được tổ chức
trên địa bàn ấp 1 xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Chính giữa gò là một quần thể di tích có lịch sử từ lâu đời như: gò
Tháp Mười, chùa Tháp Linh, đền thờ Đốc binh Kiều, gò Minh Sư, đền
thờ Thiên hộ Dương (được khánh thành và rước ông qua thờ tự từ
tháng 11 năm năm 2016), miếu bà Chúa Xứ. Trung tâm Gò có độ
cao cao hơn xung quanh, gắn liền với địa hình trong Khu di tích tồn
tại các loại hình di chỉ: khu cư trú, kiến trúc, mộ táng Khí hậu hai
mùa trong năm trùng với hai mùa lễ hội nên phương tiện đi lại của
du khách trong hai mùa lễ hội cũng tương đối khác nhau.
Chương 2
TÍNH THIÊNG VÀ TÍNH THẾ TỤC CỦA LỄ HỘI GÒ THÁP
Hàng năm, tại Khu di tích Gò Tháp tổ chức nhiều kỳ lễ hội
lớn. Kỳ lễ hội diễn ra từ ngày 13 đến rạng sáng ngày 16 tháng 03
âm lịch là lễ hội tưởng niệm bà Chúa Xứ. Kỳ lễ hội diễn ra từ ngày
13 đến rạng sáng ngày 16 tháng 11 âm lịch là lễ tưởng niệm hai vị
anh hùng dân tộc Thiên hộ Dương và Đốc binh Kiều.
13
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, lễ hội gồm có hai phần chính,
là phần lễ và phần hội. Nhưng theo công trình Lễ hội cổ truyền của
người Việt – Cấu trúc và thành tố thì: “cấu trúc của lễ hội truyền
thống của người Việt không chỉ có hai bộ phận là lễ và hội mà gồm
nhiều thành tố hợp thành các bộ phận. Cấu trúc lễ hội cổ truyền của
người Việt gồm ba bộ phận tạo thành: Nhân vật phụng thờ; Các
thành tố hiện hữu; Các thành tố tàng ẩn nhưng hiện hữu trong thời
gian thiêng”. Lễ hội Gò Tháp diễn ra trong năm cũng không nằm
ngoài cấu trúc đó bao gồm:
Nhân vật phụng thờ, mỗi lễ hội Gò Tháp nhằm tưởng niệm
một nhân vật: Bà Chúa Xứ Gò Tháp (vào rằm tháng ba); nhân vật
Thiên hộ Dương, Đốc binh Kiều (rằm tháng mười một, tính đến
thời điểm năm 2017). Những nhân vật này đều có công lớn trong
việc giúp dân, được nhân dân tôn sùng, thần thánh hóa, gửi gắm
niềm tin tín ngưỡng của mình vào họ.
Các thành tố hiện hữu, gồm các di tích đền thờ, miếu, là không
gian thiêng thờ tự các nhân vật được phụng thờ. Trong mỗi lễ hội
Gò Tháp diễn ra, các nghi thức chính của mỗi lễ hội được thực hiện
tại các không gian thiêng như: Lễ vía bà được thực hiện tại miếu bà
Chúa Xứ, lễ tưởng niệm ông Thiên hộ Dương, ông Đốc binh Kiều
được thực hiện tại đền thờ Thiên hộ Dương, đền thờ Đốc binh Kiều
(trước năm năm 2016, hai ông được tổ chức chung tại một đền thờ).
Ba di tích này nằm trong Quần thể di tích Gò Tháp, nơi có nhiều di
tích, đền thờ, chùa, miếu và nhiều di tích khảo cổ khác, có bề dày
lịch sử văn hóa lên đến hàng ngàn năm tuổi của nhiều thời xếp
chồng lên nhau như: Văn hóa Óc Eo – Vương quốc Phù Nam; Văn
hóa người Việt của thời kỳ Nam tiến, khai hoang, lập ấp, mở mang
bờ cõi.
Các thành tố tàng ẩn nhưng hiện hữu trong thời gian thiêng, là
14
các nghi thức cúng tế diễn ra trong lễ hội. Ở lễ hội Gò Tháp, ngoài
phần lễ chánh tế được thực hiện trong mỗi kỳ lễ hội; Ban tế lễ còn
tổ chức các lễ phụ như: lễ rước xách (chỉ thực hiện trong lễ hội
tưởng niệm ông Thiên hộ Dương, Đốc binh Kiều), lễ mộc dục (thực
hiện trong lễ vía bà), lễ cầu an, lễ thỉnh sinh, lễ cúng thần nông.
Mỗi lễ cúng có nội dung và nghi thức hành lễ khác nhau, nhưng
nhìn chung đều có văn tế do ông chánh bái đọc, diễn, kèm theo lễ
nghi phụ họa như: nhạc lễ, học trò lễ dâng hương, dâng rượu, dâng
trà,
Để phục vụ nhân dân và khách hành hương viếng lễ và tham
quan du lịch trong kỳ lễ hội, các trò chơi, trò diễn dân gian trong lễ
hội Gò Tháp được tổ chức khá chu đáo. Tại đây, họ sinh hoạt hội
hè, múa hát, chơi các trò chơi dân gian, thưởng thức các hoạt động
văn hóa, nghệ thuật, giao lưu tình cảm để mỗi con người gần gũi
nhau hơn. Đây cũng là dịp để phục hồi, phát huy các giá trị văn hóa
dân gian đã được hình thành và tồn tại bao đời nay của người dân
Đồng Tháp Mười nói chung và của nhân dân tỉnh Đồng Tháp nói
riêng.
Lễ hội Gò Tháp là một trong những lễ hội có quy mô tổ chức
lớn nhất so với các lễ hội khác trong tỉnh Đồng Tháp. Đến nay, mỗi
kỳ lễ hội đã thu hút hàng trăm ngàn lượt khách từ mọi miền đất
nước hành hương về đây. Vào những ngày lễ hội chính, trên bộ,
dưới sông, xuồng, ghe, xe cộ, từng đoàn nối tiếp nhau về trung tâm
lễ hội, làm cho cả không gian Khu di tích Gò Tháp trở nên muôn
màu, muôn sắc.
Mùa lễ hội về, có hàng trăm giạ gạo, hàng chục tấn rau, quả,
hàng trăm người tự nguyện làm công quả, nấu nướng vui vẻ và đầy
trách nhiệm, phục vụ cho du khách ăn uống miễn phí suốt ngày
đêm mà không cần sự điều hành chỉ đạo nào cả. Đó là nét đẹp, là
15
tấm lòng bác ái của người dân địa phương đối với du khác hành
hương về đây. Ban Quản lý Khu di tích cho biết, trong những năm
gần đây, kỳ lễ hội vào tháng 11 âl thường đông người về dự hơn, tổ
chức lớn hơn so với kỳ lễ hội khác trong năm. Song, “tháng 3 là đi
xin lộc đầu xuân, còn tháng 11 tuy lễ chính là hai vị anh hùng,
nhưng cũng là dịp người ta đi lễ tạ ơn và xin lộc cuối năm ở miếu
bà” nên cả hai kỳ lễ hội đều đông.
2.1. Tính thiêng của lễ hội Gò Tháp
2.1.1. Yếu tố tính thiêng thể hiện qua nhân vật thờ tự
Lễ hội Gò Tháp tổ chức nhiều kỳ trong một năm, nhằm tưởng
niệm nhiều nhân vật khác nhau. Do đó, nhân vật thờ tự trong lễ hội
Gò Tháp cho đến thời gian hiện tại gồm 3 nhân vật sau:
- Bà Chúa Xứ là nhân vật không có thật trong lịch sử mà được
nhân dân hư cấu thờ tự qua các truyền thuyết linh thiêng về bà. Bà
Chúa Xứ Gò Tháp được dân gian thể hiện qua một sự kiện của
Thiên hộ Dương và Đốc binh Kiều trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp.
- Thiên hộ Dương tên thật là Võ Duy Dương, là con trai thứ ba
trong một gia đình nông dân ở thôn Cù Lâm Nam, thuộc phủ Tuy
Viễn, trấn Bình Định, sinh năm 1827, em ruột của anh hùng chống
Pháp Võ Duy Tân, người đã cùng Mai Xuân Thưởng, Võ Trứ
kháng chiến chống thực dân Pháp ở Bình Định, bị giặc bắt chém tại
Gò Chàm (Bình Định) năm 1898. Tương truyền ông rất khỏe mạnh
và giỏi võ nghệ, được bà con tôn là Ngũ Linh Dương.
- Đốc binh Kiều (? - 1866), rất tiếc, đến nay chưa có nguồn tài
liệu nào xác định năm sinh và quê quán của ông. Dân gian thường
gọi ông là Lê Công Kiều, Trần Phú Kiều, hoặc Nguyễn Tấn Kiều,
nhưng phổ biến nhất là Quan lớn Thượng.
2.1.2. Yếu tố tính thiêng thể hiện qua nghi thức thờ cúng
16
Các nghi thức thờ cúng trong lễ hội Gò Tháp như: lễ cầu an, lễ
thỉnh sinh, lễ cúng thần nông, lễ chánh tế. Các bước tiến hành nghi
lễ đều có nhạc lễ và đội học trò lễ đăng điện dâng tuần hương, ba
tuần rượu, tuần sớ (trong lễ chánh tế), tuần trà. Bài văn tế của giỗ
ông và vía bà là một; nhưng nếu giỗ ông thì chủ nhân là chữ “Đại
Dương Thần Đồng Tháp Mười”, nếu vía bà thì thay bằng chữ “bà
Chúa Xứ Nguyên Nhung”. Song, vẫn có một vài nghi thức – nghi lễ
khác nhau như: lễ tắm tượng chỉ thực hiện trong lễ vía bà, lễ rước
xách chỉ thực hiện trong lễ giỗ ông.
2.2. Tính thế tục của lễ hội Gò Tháp
2.2.1. Yếu tố tính thế tục thể hiện qua các trò diễn
Trong tất cả các kỳ lễ hội diễn ra trong năm, có nhiều trò diễn
dân gian giải trí rất hấp dẫn như múa lân, ca nhạc. Nổi bật nhất
trong các trò diễn phục vụ cho lễ hội là trò múa bóng rỗi, diễn võ
thuật...; với những đoàn người múa bóng từ nhiều nơi đến để múa
hát chung vui cho lễ hội.
2.2.2. Yếu tố tính thế tục thể hiện qua đám rước
Đám rước trong lễ hội hội Gò Tháp, cho đến nay, mới được
thực hiện trong kỳ lễ hội tưởng niệm Thiên hộ Dương, Đốc binh
Kiều. Lễ hội vía bà Chúa Xứ không tổ chức lễ rước. Từ năm 2010,
được ban tổ chức cho phép, Ban Hội hương từ đền thờ hai ông đến
nhà trưởng/phó Ban Hội hương để thỉnh sắc của hai ông rước về tại đền
thờ (mỗi ông có một sắc riêng).
2.3. Quan hệ giữa tính thiêng và tính thế tục của lễ hội Gò Tháp
2.3.1. Quan hệ giữa tính thiêng và tính thế tục trong lễ hội
hiện nay
Trong lễ hội Gò Tháp, các thành tố này có mối quan hệ mật
thiết, chi phối lẫn nhau, diễn ra theo trình tự, và cũng có một số
thành tố diễn ra cùng một lúc. Các yếu tố mang tính thiêng như lễ
17
cầu an, lễ thỉnh sinh, lễ chánh tế là những nghi thức - nghi lễ quan
trọng nhất trong lễ hội Gò Tháp. Bên cạnh đó, đan xen với các nghi
thức nghi lễ này là các hoạt động hội mang tính thế tục... Tất tả các
yếu tố này tạo nên một lễ hội Gò Tháp linh thiêng và đời thường,
mang đậm nét dân gian đang diễn ra tại Gò Tháp.
2.3.2. Quan hệ giữa tính thiêng và tính thế tục trong quá trình
người dân về đây khai hoang, lập ấp
Tương truyền, những người dân Cần Giuộc về đây khai khẩn
và phát hiện có ngôi mộ đất. Ông hiển linh về nhập hồn vào người
dân nói rằng: chỗ này là ngôi mộ của ông. Từ đó, họ mới phát hiện
ra ngôi mộ của Tổng đốc quan Cửu thần Đồng Tháp Mười, sau này
sử học mới chứng minh đây là ngôi mộ của Đốc binh Nguyễn Tấn
Kiều. Vào khoảng năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm về xây
lại ngôi mộ và phụ thờ. Đến năm 1975, bà con quanh vùng cất lại
võ ca bằng tre lá. Tới năm 1992, bà con lại quyên góp, xây dựng
bằng bê tông cốt thép khang trang như ngày hôm nay.
2.3.3. Quan hệ giữa tính thiêng và tính thế tục được thể hiện
qua khảo cổ và lịch sử
Khu di tích Gò Tháp được biết đến từ những năm cuối thế kỷ
XIX do một số nhà khảo cổ học người Pháp thuộc Trường Viễn
Đông Bác Cổ đã đến đây khảo sát, khai quật và công bố phát hiện
quan trọng về một số dấu tích kiến trúc cổ. Sau năm 1975, Khu di
tích này được các nhà khảo cổ học Việt Nam thuộc Viện Khoa học
Xã hội TP Hồ Chí Minh khai quật được nhiều di vật của nền văn
hóa Phù Nam. Qua đó, có thể nhận biết quy mô và tính chất của
Khu di tích Gò Tháp gồm ba loại hình là di chỉ cư trú, di tích kiến
trúc và di tích mộ táng.
Tiểu kết
Lễ hội Gò Tháp là một hoạt động sinh hoạt văn hóa dân gian
18
tổng hợp của người dân tỉnh Đồng Tháp. So với các lễ hội dân gian
ở vùng Bắc Bộ, lễ hội Gò Tháp có tuổi đời muộn hơn, đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_le_hoi_go_thap_trong_doi_song_tinh_than_cua.pdf