Tóm tắt Luận án Đạo Bà Ni trong cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN BÌNH ĐẠO BÀ NI TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN, BÌNH THUẬN HIỆN NAY Chuyên ngành: Tôn giáo học Mã số: 9 22 90 09 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC Hà Nội, 2018 Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Hồng Dương 2. TS. Nguyễn Ngọc Mai Phản biện 1: PGS. TS. Nguyễn Quang Hưng Phản biện 2:

pdf28 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án Đạo Bà Ni trong cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PGS. TS. Ngô Hữu Thảo Phản biện 3: PGS. TS. Hoàng Thị Thơ Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội vào hồi......giờ......phút, ngày.......tháng.......năm Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: - Thư viện Quốc gia - Thư viện Học viện Khoa học xã hội 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khi nghiên cứu về Islam giáo ở Việt Nam, chúng tôi nhận thấy rằng tín đồ Islam giáo chiếm tỷ lệ không lớn so với dân số cả nước, trong đó, tuyệt đại bộ phận là người Chăm. Không kể những tín đồ là các ngoại kiều người Mã Lai, người Ấn Độ thì tín đồ Islam giáo ở Việt Nam có hai bộ phận với hai tên gọi khác nhau, đồng thời cũng có những khác biệt về thực hành niềm tin tôn giáo: (1) Cộng đồng Chăm Bà ni sinh sống tập trung ở tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Bình Thuận; (2) Cộng đồng Chăm Islam sinh sống tập trung ở An Giang, Tp. Hồ Chí Minh, một số tỉnh Nam Bộ và tỉnh Ninh Thuận. Nếu như thực hành tôn giáo của cộng đồng Chăm Islam đã được xác định theo trường phái giáo luật Shafi’i và Hanifi thuộc phái Islam Sunni thì thực hành tôn giáo của người Chăm Bà ni vẫn còn khá nhiều nhận định và kiến giải khác nhau, ví dụ: đạo Bà ni là biểu hiện của Islam giáo đang “thoái hóa” do cách sinh hoạt tôn giáo khép kín, không có mối liên hệ với cộng đồng tín đồ Islam giáo trong khu vực Đông Nam Á cũng như trên thế giới; đạo Bà ni là một biến thể địa phương của Islam giáo ở người Chăm; là một tôn giáo địa phương của người Chăm mà không phải là Islam giáo với tư cách là một tôn giáo thế giới, mặc dù không thể phủ nhận vai trò của các yếu tố Islam giáo trong đời sống tinh thần của họ; là một loại hình tôn giáo đặc thù của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận chứ không phải là một hình thức tín ngưỡng dân gian Chăm, bởi vì nó hội đủ những yếu tố cấu thành tôn giáo như: niềm tin, giáo lý, giáo luật, nghi lễ, có đội ngũ tu sỹ, chức sắc, cơ sở thờ tự. Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu đã nêu hệ phái Islam cụ thể cho đạo Bà ni nhưng căn cứ để nhận định còn sơ lược. Ở góc độ tự nhận thức, cho đến năm 2012, theo một nghiên cứu của Yoshimoto về người Chăm Bà ni ở Bắc Bình, 2 Bình Thuận, người Chăm Bà ni vẫn tự xác định là “tín đồ Hồi giáo” và không chấp nhận tên gọi Islam cho dù từ Hồi giáo hay đạo Hồi (thuật ngữ này, chúng tôi sẽ giải thích ở mục 1.3.) khi dịch sang tiếng Anh là Islam, nhưng đến tháng 6/2017, xung quanh sự kiện ghi danh tôn giáo trên chứng minh thư cho người Chăm Bà ni ở Ninh Thuận, một chức sắc Bà ni lại có kiến nghị không được gộp Chăm Bà ni và Chăm Islam vào chung một cái tên là “đạo Hồi” cho dù vị chức sắc này có ghi nhận đạo Bà ni có nguồn gốc từ Islam giáo. Do vậy, việc định danh hay xác định hệ phái cho đạo Bà ni vẫn là vấn đề cần thiết mang tính khoa học. Các nghiên cứu đi trước ở các mức độ khác nhau đã đề cập đến: sự du nhập của Islam giáo vào người Chăm, tầng lớp tu sỹ, thực hành tôn giáo, nghi lễ vòng đời, nhưng do mục đích nghiên cứu khác nhau nên chưa có công trình nghiên cứu riêng biệt về đạo Bà ni từ góc độ Tôn giáo học. Từ thực tiễn và nhu cầu nhận thức khoa học về tôn giáo, chúng tôi chọn đề tài “Đạo Bà ni trong cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Tôn giáo học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án nhằm: 1) Làm rõ những đặc điểm thực hành tôn giáo của người Chăm Bà ni và góp phần cho sự hiểu biết chung về đạo Bà ni; 2) Lý giải cách thực hành tôn giáo của đạo Bà ni từ góc độ so sánh với thực hành tôn giáo của các hệ phái Islam giáo. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: 1) Hệ thống hóa thực hành tôn giáo của người Chăm theo đạo Bà ni; 2) Tổng quan về các hệ phái Islam giáo; 3) Tìm các căn cứ lý giải cho 3 cách thực hành tôn giáo của đạo Bà ni có sự tương đồng với một trong những cách thực hành tôn giáo của Islam giáo. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đạo Bà ni ở Ninh Thuận và Bình Thuận. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận (nơi cư trú chính của người Chăm Bà ni). 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Luận án vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng và quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích và nhìn nhận đạo Bà ni trong sự đa dạng về hệ phái Islam giáo nói chung trên thế giới, cũng như các hệ phái Islam giáo ở Đông Nam Á nói riêng, để tìm mối liên hệ giữa đạo Bà ni với một trong những hệ phái Islam giáo. 4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp Sử học (lịch đại và đồng đại), Phương pháp loại suy, Phương pháp logic, Phương pháp Tôn giáo học so sánh, và các phương pháp miêu tả, tổng hợp, thống kê. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Một, Luận án hệ thống hóa một cách cơ bản những thực hành tôn giáo của cộng đồng người Chăm Bà ni ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Hai, Luận án bổ sung đầy đủ hơn thông tin về các hệ phái Islam giáo so với các nghiên cứu trước. Ba, Luận án đưa ra một nhận thức mới về thực hành tôn giáo của đạo Bà ni từ góc độ nhận thức khoa học. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Luận án minh chứng cho việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng, cùng với lý thuyết thực thể tôn 4 giáo và lý thuyết đa dạng về tôn giáo khi nhận thức một hiện tượng tôn giáo từ góc độ nhận thức khoa học về tôn giáo. 6.2. Luận án trình bày có hệ thống những đặc điểm cơ bản về thực hành tôn giáo của đạo Bà ni và cũng trình bày một cách toát yếu các hệ phái Islam giáo trên thế giới. 6.3. Luận án cung cấp căn cứ khoa học để nhận biết rõ hơn về đạo Bà ni nói riêng và về sự đa dạng Islam giáo ở Việt Nam nói chung. 6.4. Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ nghiên cứu và giảng dạy môn Islam giáo ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận án gồm 3 chương, 7 tiết và tiểu kết các chương. Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận và thực hành tôn giáo của người Chăm Bà ni Chương 3. Các hệ phái Islam giáo trên thế giới và nhận thức về thực hành tôn giáo của đạo Bà ni ở Ninh Thuận, Bình Thuận NỘI DUNG Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan các nguồn tài liệu Trong phạm vi của luận án, chúng tôi chọn lọc những công trình có liên quan gần nhất với nội dung đề tài, bao gồm sách, luận án, luận văn, bài tạp chí, tham luận khoa học và chú ý tới những nghiên cứu từ năm 2000 trở lại đây vì những công trình này đều có sự kế thừa từ các công trình trước đó. Tuy nhiên, một số tài liệu có niên đại xuất bản xa hơn vì tính hữu ích của nó cũng được đề cập. Các nguồn tài liệu liên quan đến lịch sử nghiên cứu vấn đề của đề tài được tổng hợp thành 3 nhóm vấn đề như trình bày dưới đây. 5 1.1.1. Liên quan đến lịch sử Islam giáo ở Việt Nam Về thời điểm có sự hiện diện của Islam giáo ở người Chăm khu vực Trung Bộ Việt Nam hoặc giả thuyết về thời điểm người Chăm cải theo Islam giáo có các nghiên cứu tiêu biểu như: Người Chăm và tôn giáo của họ (Les Tchames et leurs religions) của M. E. Aymonier (1891); Dân tộc Chàm lược sử của Dorohiem và Dohamide (1965); Văn hóa Chăm của nhóm tác giả Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp (1991); Tôn giáo của người Chăm ở Việt Nam và “Thử phác họa cấu trúc văn hóa Chăm” của Phan Văn Dốp (1993, 2002); Tôn giáo tín ngưỡng của người Chăm ở Ninh Thuận - Thực trạng và giải pháp của Trương Nghiệp Vũ (2000); “The Coming of Islam to Champa” của Rie Nakamura (2000); “Đạo Hồi với người Chăm ở Việt Nam” và “Tôn giáo tín ngưỡng của người Chăm” của Lương Ninh (1999, 2003); Tín ngưỡng, tôn giáo trong cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận của Hoàng Minh Đô (2006); Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào Chăm ở hai tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận hiện nay của Nguyễn Hồng Dương (2007); Góp phần tìm hiểu: Từ Islam đến Hồi giáo Bà ni ở Việt Nam của Trần Tiến Thành (2010); “Bàn thêm về thời điểm người Chăm theo Islam giáo” của Nguyễn Bình (2014); “Bàn thêm về sự du nhập của Islam giáo ở Champa” của Đổng Thành Danh (2016). Sự hình thành và phân bố cộng đồng người Chăm Islam ở Việt Nam được đề cập trong các nghiên cứu: Người Chàm Hồi giáo miền Tây Nam phần Việt Nam của Nguyễn Văn Luận (1974), “Lịch sử hình thành và phát triển cộng đồng Islam tại Tp. Hồ Chí Minh” của Châu Trần (2003), và “Tương đồng và biệt lập giữa các cộng đồng tôn giáo ở người Chăm thuộc hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận” của Tạ Long (2008). 1.1.2. Liên quan đến thực hành tôn giáo của đạo Bà ni Thực hành tôn giáo của người Chăm Bà ni liên quan đến các khía cạnh như: kinh sách, giáo lý, giáo luật, nghi lễ hành đạo hệ thống tu sỹ,... được 6 đề cập trong các nghiên cứu tiêu biểu như của Châu Văn Kên (2000) với Mối quan hệ giữa đạo Islam và đạo Bàni; Tín ngưỡng, tôn giáo trong cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận của Hoàng Minh Đô (2006); Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào Chăm ở hai tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận hiện nay của Nguyễn Hồng Dương (2007); Góp phần tìm hiểu: Từ Islam đến Hồi giáo Bà ni ở Việt Nam của Trần Tiến Thành (2010); Yasuko Yoshimoto (2012) “A Study of the Hồi giáo Religion in Vietnam: With a Reference to Islamic Religious Practices of Cham Bani”. Trương Văn Món (Sakaya, 2015) với “Dấu ấn tôn giáo Islam trong văn hóa Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận” và Nguyễn Bình (2017) với “Hệ thống hóa đặc điểm Islam giáo trong cộng đồng Chăm Bàni ở Ninh Thuận và Bình Thuận”. Khảo sát riêng về một khía cạnh thực hành tôn giáo của đạo Bà ni có các nghiên cứu của Thành Văn Sưỡng (1994) với Chức sắc Chăm Bàni; Thập Liên Trưởng (1994), Trần Tiến Thành (2010) về Lễ hội Ramưwan Bani; Sakaya (2004) với Lễ hội của người Chăm. Liên quan đến nghi lễ vòng đời có các nghiên cứu của Bá Trung Phụ (2001): Hôn nhân và gia đình của người Chăm ở Việt Nam; Đoàn Việt (2001, 2009): “Nghi lễ Katat và vai trò của nó trong đời sống nam thanh niên người Chăm Hồi giáo Bàni tỉnh Ninh Thuận”, “Nghi lễ hôn nhân của người Chăm theo đạo Hồi ở Việt Nam”; Nguyễn Bình (2013): “Nghi lễ vòng đời của người Muslim”. Các nghiên cứu trên cũng cho biết một số nghi lễ thuần túy Islam giáo và một số nghi lễ có cả yếu tố Bàlamôn giáo và Islam giáo của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận. 1.1.3. Nhận định về loại hình tôn giáo của đạo Bà ni 1) Là một biến thể địa phương của Islam giáo, bao gồm các tác giả và nhóm tác giả: P. B. Lafont (1964), Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn 7 Dốp (1991), Phan Văn Dốp (1993), Hoàng Minh Đô (2006), Nguyễn Hồng Dương (2007)...; 2) Tôn giáo riêng của người Chăm hoặc bị bản địa hóa, bao gồm các tác giả và nhóm tác giả: Lê Thị Tuyết Vân (2001), Nguyễn Đức Toàn (2002), Vương Hoàng Trù (2003), Bá Trung Phụ (2007), Đổng Thành Danh (2017),...; 3) Thuộc về một giáo phái Islam giáo cụ thể (phái Islam Shiah), gồm: Nguyễn Xuân Nghĩa, Phan Văn Dốp (1987), Phú Văn Hẳn (2001), Trần Tiến Thành (2010), Nguyễn Duy Hinh (2010),.... Tiểu kết Chương 1 Các nghiên cứu nêu trên đã khái quát được lịch sử hình thành cộng đồng Islam giáo ở Việt Nam và ở các mức độ khác nhau đều có trình bày về đạo Bà ni, nhưng có thể thấy ít có nghiên cứu riêng biệt nào về đạo Bà ni. Các nghiên cứu đi trước đều cho rằng đạo Bà ni là một phần hoặc có nguồn gốc từ Islam giáo, đồng thời đã chỉ ra các yếu tố Islam giáo, cũng như các yếu tố ngoài Islam giáo trong thực hành tôn giáo của người Chăm Bà ni, nhưng còn tản mạn, chưa hệ thống hóa hoặc xâu chuỗi thành một tập hợp đại diện cho đặc điểm thực hành tôn giáo của cộng đồng này. Thứ hai, nhận định về loại hình tôn giáo của đạo Bà ni có thể khái quát thành 3 nhóm nhận định sau: 1) Một biến thể địa phương của Islam giáo; 2) Tôn giáo riêng của người Chăm hoặc bị bản địa hóa; 3) Thuộc về một giáo phái Islam giáo cụ thể. Trừ một số nghiên cứu có so sánh, liên hệ thực hành tôn giáo của đạo Bà ni với phái Shiah thì phần lớn các nhận định về loại hình/hệ phái tôn giáo Bà ni đều dựa trên so sánh với thực hành tôn giáo của phái Sunni và xem xét vấn đề từ góc độ chủ thể tiếp nhận Islam giáo, đồng thời nhấn mạnh tính bản địa hóa các yếu tố ngoại nhập của nền văn hóa bản địa,.... Như vậy, lý giải cách thực hành tôn giáo của đạo Bà ni vẫn còn là một vấn đề cần giải đáp. 8 Thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi đặt ra giả thuyết: đạo Bà ni chắc chắn không thuộc phạm vi thực hành tôn giáo của phái Islam Sunni nhưng các yếu tố Islam giáo trong đạo Bà ni vẫn cho phép nhận diện cộng đồng này quy thuộc Islam giáo và cách thực hành tôn giáo của đạo Bà ni có sự tương đồng với cách thực hành tôn giáo của phái Sufi. Minh định cho giả thuyết trên, chúng tôi đặt ra 2 câu hỏi cần trả lời: 1) Thực hành tôn giáo của cộng đồng Chăm Bà ni là như thế nào? 2) Cơ sở nào để suy luận cách thực hành tôn giáo của đạo Bà ni có sự tương đồng với cách thực hành tôn giáo của phái Sufi? 1.2. Cơ sở lý thuyết Luận án vận dụng 2 lý thuyết là lý thuyết thực thể tôn giáo và lý thuyết đa dạng tôn giáo. Với lý thuyết thực thể tôn giáo, Luận án coi đó là cơ sở để hệ thống hóa các nhân tố, thuộc tính của cộng đồng Bà ni trong sự tương liên với Islam giáo nói chung. Với lý thuyết đa dạng tôn giáo, Luận án cung cấp một cách đầy đủ hơn về sự đa dạng các hệ phái cũng như các thực hành tôn giáo trong Islam giáo để từ đó có nhận thức mới về đạo Bà ni. 1.3. Một số thuật ngữ sử dụng trong luận án Để làm rõ những nội dung liên quan của đề tài, luận án lựa chọn và giải thích một số thuật ngữ cơ bản về Islam giáo và đạo Bà ni, như: Acar, Allah, Chăm Bàlamôn, Chăm Bà ni, Chăm Islam, đạo Bà ni, Hanafi, Hanbali, Hồi giáo, Ismailis, Islam, Islam chính thống, Katat, Karơh, Maliki, Mihrab, Minbar, Muhammad, Qibla, Shafi’i, Shiah, Sufism, Sunni, Ramadan, Ramưwan, Twelver,... Chương 2 NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN, BÌNH THUẬN VÀ THỰC HÀNH TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI CHĂM BÀ NI 2.1. Địa bàn cư trú của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận 2.1.1. Lịch sử hình thành tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Bình Thuận Tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay là sự chuyển tiếp theo tiến trình lịch sử từ tiểu quốc Panduranga trong liên hiệp vương quốc Champa 9 xưa. Sau sự kiện Bà Tranh tấn công phủ Diên Ninh thuộc dinh Thái Khang bị đại bại năm 1692, Panduranga bị chúa Nguyễn đổi thành trấn Thuận Thành, chia thành 3 khu vực: Phố Hài (Pajai), Phan Rí (Parik) và Phan Rang (Parang). Năm 1693, chúa Nguyễn đổi trấn Thuận Thành trở thành phủ Bình Thuận, nhưng trong phủ Bình Thuận vẫn tồn tại trấn Thuận Thành; Năm 1827, phủ Bình Thuận đổi thành tỉnh Bình Thuận; Năm 1832, trấn Thuận Thành trở thành phủ Ninh Thuận. Sau nhiều lần bổ sung, thay đổi địa giới qua các giai đoạn, tháng 2 năm 1976, tỉnh Bình Thuận được sáp nhập với Bình Tuy và Ninh Thuận thành tỉnh Thuận Hải. Đến năm 1992, tỉnh Thuận Hải được chia thành hai tỉnh: Ninh Thuận và Bình Thuận như hiện nay. 2.1.2. Các cộng đồng tôn giáo của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận 2.1.2.1. Sự phân bố cộng đồng tôn giáo của người Chăm ở Ninh Thuận Người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận có 3 cộng đồng là Chăm Bàlamôn, Chăm Bà ni và Chăm Islam, cư trú tại 22 làng ở 12 xã thuộc 6 huyện thị: Ninh Phước, Thuận Nam, Thuận Bắc, Ninh Hải, Ninh Sơn, và Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Cộng đồng Chăm Bàlamôn có khoảng 48.000 người, với 24 cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, 180 chức sắc, trong đó có 03 Cả sư, 09 Phó Cả sư, sinh tụ tại 15 thôn, tập trung đông nhất ở huyện Ninh Phước với 10 địa điểm. Cộng đồng Chăm Bà ni ở Ninh Thuận sinh sống ở 7 làng, với hơn 28.000 người, 110 tu sỹ, sinh hoạt tôn giáo ở 7 thánh đường. Cộng đồng Chăm Islam có khoảng 2.800 người, 60 chức sắc, sinh hoạt tôn giáo tại 4 thánh đường ở huyện Thuận Nam và huyện Ninh Hải. 2.1.2.2. Sự phân bố cộng đồng tôn giáo của người Chăm ở Bình Thuận Người Chăm ở tỉnh Bình Thuận có 2 cộng đồng tôn giáo là Chăm Bàlamôn và Chăm Bà ni, với hơn 34.690 người, định cư và sinh sống chủ yếu ở 24 làng thuộc 6/10 đơn vị hành chính, gồm: Bắc Bình, Tuy Phong, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân và Tánh Linh, trong đó tập 10 trung ở huyện Bắc Bình. Cộng đồng Chăm Bàlamôn sinh sống ở 14 làng, với hơn 25.000 người. Cộng đồng Chăm Bàni ở Bình Thuận sinh sống ở 10 làng, với 3.767 hộ, 19.261 khẩu. Chức sắc, tu sỹ có 330 người, trong đó: 09 Sư cả, 169 Imam, 10 Katip và 142 Acar, sinh hoạt tôn giáo ở 10 thánh đường. Ở Bình Thuận, không có tín đồ Chăm Islam giáo. 2.2. Niềm tin và hệ thống thực hành tôn giáo của người Chăm Bà ni 2.2.1. Về niềm tin Người Chăm Bà ni tùng phục đức tin đối với Allah và tông đồ của Ngài là Muhammad; thực hiện nghiêm những quy định liên quan đến biểu đạt niềm tin, như: kiêng ăn thịt lợn/heo, sử dụng Kinh Qur’an trong nghi lễ thờ phượng và hướng dẫn trong đời sống hằng ngày, thực hiện nghi thức tẩy thể trước khi làm lễ, thực hành tháng lễ Ramadan, cơ sở thờ tự không trang trí, trưng bày ảnh tượng. 2.2.2. Các yếu tố biểu đạt niềm tin 2.2.2.1. Kinh Qur’an Kinh Qur’an của người Chăm Bà ni được cho là bản chép tay trung thành từ Kinh Qur’an của người Arab. Kinh Qur’an của người Chăm Bà ni có 40 chương (sourat). Ngoài Kinh Qur’an, trong văn bản chép tay của người Chăm còn ghi chép nhiều về các nhân vật trong Islam giáo, như: Po Kuk (Allahuh), Auluah (Allah), Mohamat/Mohamet (Muhammad), Po Ali (Ali) và Phua Timah (Fatimah). 2.2.2.2. Cơ sở thờ tự Cơ sở thờ tự của tín đồ Islam giáo được gọi là Masjid (người Việt Nam thường gọi là Thánh đường). Mỗi làng Chăm Bà ni đều có một thánh đường (người Chăm Bà ni đọc là “Thang/Sang mưgik”, phiên âm từ Masjid hoặc Mosque) và hướng của thánh đường được tính toán chính xác với hướng Thánh địa Mecca - một yêu cầu đối với các thánh đường Islam giáo trên toàn thế giới. Trong trường hợp của Việt Nam là hướng Đông - 11 Tây. Mỗi thánh đường đều có một giếng nước hoặc bể nước và nơi để các tu sỹ làm nghi thức tẩy thể trước khi hành lễ trong thánh đường. 2.2.2.3. Nghi lễ vòng đời (1) Nghi lễ trưởng thành Nghi lễ trưởng thành của người Chăm Bà ni dành cho nam giới gọi là Katat, dành cho nữ giới gọi là Karoeh. Người Chăm Bà ni coi trọng lễ Karoeh cho thiếu nữ. Nghi lễ này là nghi lễ nhập đạo cho nam, nữ vị thành niên người Chăm Bà ni. Độ tuổi thực hiện nghi lễ này là 15 tuổi. (2) Nghi lễ hôn nhân Hôn nhân của người Chăm Bà ni được tổ chức theo hai nghi thức: một theo nghi lễ truyền thống và một theo nghi lễ tôn giáo. Theo nghi lễ tôn giáo, cặp vợ chồng phải tuyên thệ trước Allah. Các nhân vật chính trong đám cưới như người chủ lễ, người làm chứng, cô dâu, chú rể phải đóng vai Muhammad, Abu Bakr, Ali, Fatimah và có sự chứng kiến của “hai thiên thần” Hô Thanh và Hô Thai (có thể là phiên âm của Hasan và Husayn - con của Fatimah và Ali - con gái và con rể của Nhà tiên tri Muhammad - NB). (3) Nghi lễ tang ma Cộng đồng Chăm Bà ni tuy có sự phân cấp số lượng tu sỹ thực hiện đám tang tùy theo vị thế của người qua đời, nhưng cũng thực hiện những tập tục phổ biến về tang ma của Islam giáo: địa táng và chôn cất trong vòng 24 giờ đồng hồ; không dùng quan tài; huyệt mộ được đào sâu từ 1,5 đến 2 mét, đáy vách huyệt phía Tây được khoét lõm để thi thể đặt nằm nghiêng, mặt trước của thi thể hướng về Thánh địa Mecca, đầu hướng Bắc, chân hướng Nam. 2.2.3. Thực hành tôn giáo quy thuộc Islam giáo 2.2.3.1. Lễ cầu nguyện Các thời điểm hành lễ cầu nguyện của tu sỹ Bà ni cũng được thực hiện như các cộng đồng Islam khác, chỉ khác nhau là được thực hiện trong 12 tháng Ramadan. Các thời điểm hành lễ cầu nguyện gồm: 1) Ngay trước lúc rạng đông (Sub hik); 2) Giữa trưa (Wah rik); 3) Giữa buổi chiều (Essak rik); 4) Sau khi hoàng hôn (Grip băk) và 5) Khi màn đêm buông xuống (Esha - vào bất cứ thời điểm nào trong buổi tối, nhưng tốt nhất là trước nửa đêm). Trình tự mỗi lễ cầu nguyện bao gồm các bước (đều giống nhau ở Ninh Thuận và Bình Thuận): 1) Tẩy thể; 2) Đánh trống báo hiệu; 3) Gọi dự lễ; 4) Đọc kinh; 5) Kết thúc lễ. 2.2.3.2. Lễ tháng Ramadan Với người Chăm Bà ni, lễ tháng Ramadan cũng là mùa lễ quan trọng nhất. Quan niệm về lễ tháng Ramadan của người Chăm Bà ni cũng như tín đồ Islam giáo nói chung, nhưng việc kiêng cữ chỉ áp dụng cho giới tu sỹ và được thực hiện một cách khắt khe trong 3 ngày đầu tháng. Việc tính lịch tôn giáo của tu sỹ Bà ni vẫn đúng với lịch Islam giáo thế giới và loại lịch này được gọi là Sakawi Awal. Hầu hết tên các tháng trong lịch Sakawi Awal đều giống với lịch Islam giáo nói chung. Bên cạnh việc cầu nguyện hằng ngày của giới tu sỹ thì trong tháng Ramadan, người ta còn thực hiện thêm một lễ cầu nguyện trưa (Wah rik) hướng về Muhammad và giảng Kinh vào ngày thứ Sáu mỗi tuần. Vào ngày thứ Năm mỗi tuần, vào giờ cầu nguyện tối (Esha), ngoài việc thực hiện lễ cầu nguyện như bình thường, còn tụng thêm 5 bài kinh để cầu nguyện cho tổ tiên. Đến ngày thứ 15, vào giờ lễ Esha, trong thánh đường tổ chức lễ Muk Trun với ý nghĩa đón tổ tiên và các vị nữ thần. Ngoài các bài kinh thông thường, tụng đọc thêm 13 bài kinh khác. Vào ngày này, nếu vị tu sỹ nào muốn được trọng vọng sẽ thực hiện nghi lễ Akhar Muk, tức là nghi lễ tụng đọc thuộc bài kinh dài bằng tiếng Arab. Đến ngày thứ 20, cũng vào giờ lễ Esha, trong thánh đường tổ chức lễ On Trun với ý nghĩa đón tổ tiên và các vị nam thần, ngoài những bài kinh thông thường, tụng đọc thêm 12 bài kinh khác. Sau lễ On trun, tổ chức lễ 13 dâng gạo; tổ chức nghi lễ Palek Kalăm dành cho các thiếu niên đã chịu lễ Katat, lễ Allahâmduk cho những người đã thuộc lòng một số bài kinh bắt buộc để họ có thể dự lễ tảo mộ, cúng gia tiên. Đêm ngày thứ 27, bầu chọn một vị tu sỹ ở cấp Char vào Ban Lãnh đạo thánh đường, gọi là Mưdin và làm lễ thụ chức cho tu sỹ này. Tới khuya ngày 29 hoặc 30, rạng sáng mùng Một tháng kế tiếp, các tu sỹ thực hiện lễ kinh sáng (Sub hik) và dùng bữa cơm cuối cùng trong thánh đường để mãn tháng Ramadan. 2.2.3.3. Các nghi lễ khác Sau lễ mãn tháng Ramadan (Eid ul-Fitr), tín đồ Islam giáo còn một lễ quan trọng khác, gọi là lễ Eid ul-Adha (Lễ hiến sinh). Lễ này được tổ chức vào ngày thứ 10 của tháng cuối cùng theo lịch Islam giáo nhằm kỷ niệm sự tự nguyện hiến sinh người con trai của Abraham vì lợi ích của Thượng đế. Người Chăm Bà ni cũng thực hiện nghi lễ hiến sinh vào đúng ngày này với tên gọi lễ Waha. Trong thực hành tôn giáo của người Chăm Bà ni còn phải kể đến Kinh hội xoay vòng - Suk Yung. Theo quan niệm của người Chăm Bà ni, không có Suk Yung thì không có Ramadan. Ở Ninh Thuận, Suk Yung được tổ chức 3 năm một lần, tiến hành vào các ngày thứ Sáu, lần lượt qua 7 thánh đường. Ở Bình Thuận, một năm tổ chức một lần, cũng vào thứ Sáu hằng tuần, lần lượt qua 6 thánh đường. 2.2.4. Thực hành tôn giáo mang dấu ấn văn hóa Chăm 2.2.4.1. Lễ tảo mộ Trước khi bước vào tháng Ramưwan, trong khoảng thời gian từ ngày 25 - 29 tháng thứ 8 theo giáo lịch, các làng Chăm Bà ni đều tổ chức lễ tảo mộ và cúng tổ tiên. Đây là nghi lễ cộng đồng quan trọng nhất trước mùa Ramưwan. Chủ lễ tảo mộ là vị tu sỹ thuộc hàng chức sắc cao nhất trong dòng họ. Nếu dòng họ không có tu sỹ, phải nhờ tu sỹ ở dòng họ khác. Những người chưa làm lễ Katat, không được tham dự vào cầu nguyện tại 14 mộ phần của tổ tiên trong dòng họ. Sau ngày lễ cúng gia tiên, tất cả nam nữ tín đồ Bà ni làm lễ tẩy thể, không được sát sinh, không thực hiện các hoạt động vui chơi, giải trí, luôn giữ cho tinh thần được thanh thản, mặc lễ phục để vào thánh đường dự lễ Ramưwan. 2.2.4.2. Các nghi lễ Shaman giáo mang yếu tố Islam giáo Nghi lễ Rija Nưgar (nghi lễ tống ôn) được tổ chức vào đầu tháng Giêng theo lịch Chăm (thường rơi vào khoảng tháng Tư, Dương lịch). Người Chăm Bà ni tổ chức vào ngày thứ Năm, thứ Sáu; ngày thứ Năm phải là ngày lẻ (1,3,5,7) trong tháng Giêng. Nhà lễ được trang trí như thánh đường Bà ni. Ngày đầu cúng lễ cho các vị thần mới, ngày hôm sau cúng lễ cho các vị thần cũ. Thần mới của người Chăm là các vị có gốc gác từ Islam giáo; Thần cũ là các vị thần có góc từ Bàlamôn giáo. Chủ lễ là ông bóng (Ôn Kaing). Nghi lễ tống ôn do người Chăm Bà ni thực hiện được cho là tái hiện sự tích của nhân vật Nuk (Noah/Noê trong Kinh Thánh Kitô giáo) trong thần thoại Islam giáo ở Chương 71 trong Kinh Qur’an. Nghi lễ Palao Rija Sah (nghi lễ cầu an) được tổ chức sau lễ tống ôn Rija Nưgar, vào thượng tuần tháng Hai theo lịch Chăm. Đây là một nghi lễ cộng đồng nên chức sắc tham gia hành lễ có cả chức sắc tôn giáo Bàlamôn, Bà ni và thày lễ dân gian. Trong số các lễ của nghi lễ Palao Rija Sah, có một lễ hoàn toàn do các tu sỹ Bà ni điều khiển là lễ đọc kinh cầu đảo. Thực hiện lễ này, các tu sỹ Bà ni làm lễ rước cây gậy thần từ thánh đường ra cửa sông, cửa biển để cầu mưa. Các tu sỹ sau khi làm nghi thức tẩy thể, tiến hành lễ cắt tiết dê làm vật dâng cúng thì đọc Kinh Qur’an cầu Allah ban cho mưa thuận, gió hòa và mùa màng tươi tốt. Thờ cúng Thần Sóng (Po Riyak) vào khoảng tháng 4, tháng 5 Dương lịch. Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận đều làm lễ cúng Po Riyak. Từ các truyền thuyết, các bài ca tụng, qua phân tích biểu tượng và các chức năng, Po Riyak được cho là có nguồn gốc từ thần thoại Islam giáo và 15 khá gần với tên một vị thần rất quan trọng và phổ biến trong thần thoại của các dân tộc theo Islam giáo là al-Hadir - một vị thần bảo hộ cho những người đi biển. Nghi lễ tôn chức vũ sư (Rija Praung) là một nghi lễ của riêng cộng đồng Chăm Bà ni, mang tính chất họ tộc, được thực hiện khi có người bị bệnh mà chữa trị không khỏi, hoặc khi tộc họ cần tôn chức vũ sư - người trông coi “chiết atâu” của tộc họ. Căn cứ vào nhiều nguồn tư liệu, các nhà nghiên cứu cho rằng, nghi lễ Rija Praung có nguồn gốc từ Mã Lai và ảnh hưởng văn hóa Islam giáo. Ngoài ra, cả hai cộng đồng Chăm Bà ni và Chăm Bàlamôn vẫn còn thực hiện nhiều nghi thức tôn giáo dân gian Chăm, trong đó có sự tham gia, phối hợp của tu sỹ cũng như tín đồ của hai tôn giáo, như các nghi lễ liên quan đến thủy lợi, liên quan đến chu kỳ sinh trưởng của cây lúa,.... Tiểu kết Chương 2 Thực hành tôn giáo của người Chăm Bà ni có thể khái quát thành một hệ thống bao gồm ít nhất 3 phân loại: loại thứ nhất bao gồm các nghi lễ và tập quán pháp thể hiện sự gắn kết với Islam giáo; loại thứ hai là các nghi lễ tiếp biến các nghi lễ Shaman giáo bản địa với thần thoại Islam giáo thể hiện nhân sinh quan gắn với thế giới thiêng của Islam giáo; loại thứ ba là các nghi lễ liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Dù được phân loại như vậy nhưng đáng lưu ý là những nghi lễ này đều có điểm chung là ít nhiều phải có yếu tố Islam giáo, ít nhất là thể hiện qua việc các tu sĩ cấp Acar tụng đọc Kinh Qur’an. Với một hệ thống thực hành tôn giáo như vậy nên khi so sánh với thực hành tôn giáo của phái Islam Sunni, nhiều nghiên cứu đã cho rằng đạo Bà ni không còn bản chất của Islam giáo nữa. Nhận xét này không sai nhưng lại là một hạn chế của những nghiên cứu đi trước vì mới chỉ so sánh với một dòng phái trong Islam giáo. Vì vậy, ở nội dung tiếp theo, chúng tôi sẽ thoát ra khỏi cách so sánh gần như cố định này, đặt trong bối cảnh một 16 Islam giáo đa dạng về hệ phái để luận giải một nhận thức mới về đạo Bà ni, hay nói cách khác là lý giải dòng phái cho cách thực hành tôn giáo của cộng đồng Bà ni. Chương 3 CÁC HỆ PHÁI ISLAM GIÁO TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHẬN THỨC VỀ THỰC HÀNH TÔN GIÁO CỦA ĐẠO BÀ NI Ở NINH THUẬN, BÌNH THUẬN 3.1. Sự ra đời của Islam giáo và các hệ phái Islam giáo trên thế giới 3.1.1. Sự ra đời của Islam giáo Sự ra đời của Islam giáo gắn liền với một người có tên là Muhammad. Ông sinh khoảng năm 570 trong một gia đình thuộc về thị tộc Hashim, bộ tộc Qurayish giữ vị thế quản sóc ngôi đền Ka’bah ở Mecca - về sau trở thành trung tâm hành hương của tín đồ Islam giáo. Năm 40 tuổi, ông nhận được mặc khải từ Allah để thuyết giảng cho một niềm tin mới nhấn mạnh vào việc thờ phượng một Thượng đế - mà Thượng đế này không thể được biểu thị bằng gỗ và đá, và tên của Ngài là Allah và Ngài đòi hỏi mọi người có lòng trắc ẩn, sống với nhau như anh em chứ không vì bản thân. Đến năm 630 thì người dân Mecca chấp thuận Muhammad là Nhà tiên tri như ông đã tuyên bố và quy thuận theo niềm tin mà ông được mặc khải. Trải thời gian, niềm tin tôn giáo do Muhammad thuyết giảng đã được truyền bá rộng khắp thế giới, với số lượng hơn 1,5 tỷ tín đồ. 3.1.2. Các hệ phái Islam giáo trên thế giới và ở Đông Nam Á 3.1.2.1. Các hệ phái Islam giáo trên thế giới Sau khi Nhà tiên tri Muhammad qua đời, cộng đồng Islam giáo tiếp tục phát triển dưới sự dẫn dắt của 3 vị Caliph (đại diện cho Nhà tiên tri): Abu Bakr, Umar và Uthman. Đến vị Caliph thứ 4 - Ali (con rể của Nhà tiên tri) thì nảy sinh sự tranh chấp ngôi vị dẫn dắt cộng đồng giữa Ali và một người họ hàng của Caliph Uthman. Ali bị ám sát và cộng đồng Islam giáo bị chia rẽ thành các phái. 17 Phái Sunni Nhóm tín đồ phủ nhận Ali là Caliph kế sau Uthman hình thành nên phái Sunni. Sunni xuất phát từ chữ Sunnah, có nghĩa là biểu thị sự tôn trọng triệt để đối với cách thực hành tôn giáo thông thường của Nhà tiên tri Muhammad. Về sau, khi các thế hệ tiếp nối dòng phái này truyền bá Islam giáo tới nhiều nền văn hóa khác nhau đã dẫn tới sự hình thành 4 trường phái giáo luật: Hanafi, Maliki, Hanbali và Shafi’i. Phái Shiah Nhóm tín đồ ủng hộ Ali là người lãnh đạo cộng đồng Islam được gọi là Shiah Ali, nghĩa là phái Ali (gọi tắt là Shi’i, hoặc Shiah, Shiite). Phái Shiah có 3 phái chính: Zaydis, Ismailis, Twelver. Sự chia rẽ Shiah thành 3 chi phái cũng x

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_dao_ba_ni_trong_cong_dong_nguoi_cham_o_ninh.pdf
  • pdfTT Eng NguyenBinh.pdf
Tài liệu liên quan