Tóm tắt Luận án Biến đổi sinh kế của người Dao di cư tự do tại huyện Cư M’gar tỉnh Đăk Lăk

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO THANH THÁI BIẾN ĐỔI SINH KẾ CỦA NGƢỜI DAO DI CƢ TỰ DO TẠI HUYỆN CƢ M’GAR TỈNH ĐĂK LĂK Chuyên ngành: NHÂN HỌC Mã số: 62. 31. 03. 02 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC HÀ NỘI, 2015 Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI, VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN ÁN TIẾN SĨ CẤP HỌC VIỆN Họp tại Học viện Kh

pdf27 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án Biến đổi sinh kế của người Dao di cư tự do tại huyện Cư M’gar tỉnh Đăk Lăk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oa học xã hội vào hồi giờ,. Ngày... tháng..năm 2016 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thƣ viện Quốc gia - Thƣ viện Học viện Khoa học xã hội, số 477, quận Thanh Xuân- Hà Nội 1 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Dân tộc Dao hiện nay có trên 751.000 người, vốn có truyền thống cư trú tập trung ở các tỉnh: Bắc Kạn, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai thuộc vùng miền núi phía Bắc. Người Dao là một trong số ít các dân tộc thiểu số ở nước ta có tập quán du canh du cư. Từ năm 2000 đến nay, một bộ phận người Dao đã di cư vào Tây Nguyên và cư trú tập trung tại tỉnh Đắk Lắk (15.300 người) và tỉnh Đăk Nông (13.900 người). Trong khoảng 10 năm (1999- 2009), số người Dao ở Tây Nguyên đã có sự gia tăng đột biến, từ 160.000 năm 1999 ở tỉnh Đắk Lắk (bao gồm cả tỉnh Đắk Lắk và Đăk Nông hiện nay) lên tới hơn 280.000 người năm 2009. Luồng di cư chủ yếu của người Dao vào Tây Nguyên là từ các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang và Hà Giang. Tại huyện Cư M’gar, người Dao có hơn 6.700 người, chiếm 7,8% dân số toàn huyện, là dân tộc có dân số đứng thứ 2 sau dân tộc tại chỗ (Ê đê). Cư M’gar là huyện có dân số dân tộc Dao đông nhất của tỉnh Đắk Lắk. Vốn là tộc người có truyền thống du canh, du cư, sự biến động di cư của người Dao đã có những ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của đồng bào Dao nói riêng và quản lý xã hội của các cấp chính quyền cả nơi đi và nơi đến nói chung. Đời sống sinh hoạt và sản xuất của người Dao ở Đắk Lắk đang đặt ra nhiều vấn đề, gây ra những khó khăn trong quản lý của chính quyền địa phương và người Dao. Kinh tế truyền thống của đồng bào người Dao là canh tác nương rẫy đất dốc ở các tỉnh miền núi phía Bắc, khi di cư vào Tây Nguyên đã phải thay đổi trong các hoạt động sản xuất để thích ứng với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở địa bàn cư trú mới. Quá trình thích ứng đó đã diễn ra và có nhiều yếu tố tác động tới thói quen sinh hoạt, canh tác cũng như đời sống văn hóa tộc người. Từ kinh tế tự cung tự cấp, sản xuất cây lương thực là chính chuyển sang sản xuất hàng hóa và thích ứng với nền kinh tế thị trường. Do sản xuất quy mô nhỏ với diện tích canh tác hạn chế sang sản xuất quy mô lớn với các máy móc hiện đại. Điều này đã có những tác động không nhỏ tới đời sống kinh tế - xã hội và văn hóa của đồng bào Dao ở Tây Nguyên. Do vậy, Nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài “Biến đổi sinh kế của người Dao di cư tự do tại huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Nhân học. Luận án góp phần làm rõ những biến đổi và thích ứng của người dân trong quá trình định cư tại vùng đất mới, những vấn đề đặt ra trong việc hoạch định chính sách và hỗ trợ đồng bào 2 Dao phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và bảo tồn các giá trị văn hóa tộc người. 2. Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá những biến đổi trong sinh kế của người Dao di cư tại huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk Phân tích những yếu tố tác động đến sinh kế của người Dao di cư, từ đó đề xuất những giải pháp và khuyến nghị chính sách nhằm hỗ trợ đồng bào Dao phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và bảo tồn các giá trị văn hóa tộc người trên vùng đất Tây Nguyên. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là sinh kế và biến đổi sinh kế của người Dao di cư tự do tại huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. Phạm vi nội dung nghiên cứu của luận án tập trung làm rõ những biến đổi trong hoạt động sinh kế của người Dao di cư tự do tại huyện Cư M ’gar có so sánh với sinh kế tại điểm xuất cư tại huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Luận án cũng quan tâm tới các thời điểm di cư của người Dao từ 1975 đến nay và những biến đổi trong sinh kế của người Dao trong quá trình định cư tại Tây Nguyên. 4. Nguồn tài liệu của luận án Để thực hiện luận án này, tôi sử dụng các nguồn tài liệu chính sau: Nguồn tài liệu điền dã thực địa tại xã Ea Mdro’h và xã Cư Suê, huyện Cư M’gar tỉnh Đăk Lăk nơi có đông ngư ời Dao di cư sinh sống, việc nghiên cứu cũng được thực hiện tại quê cũ của người Dao tại huyện Hoành Bồ và Tiên Yên của tỉnh Quảng Ninh. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng các tài liệu, kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học liên quan đến sinh kế người Dao ở huyện Cư M’gar, tỉnh Đăk Lăk và huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. 5. Đóng góp của luận án Luận án được xem là một công trình đầu tiên nghiên cứu tổng thể, toàn diện và có hệ thống về biến đổi sinh kế người Dao di cư tự do tại huyện Cư M’gar tỉnh Đăk Lăk dưới góc độ Nhân học. Luận án phân tích và làm rõ những biến đối trong sinh kế của người Dao di cư và những đóng góp của người Dao đối với công cuộc xây dựng nông thôn mới và góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiến của Luận án Góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách đối với người Dao di cư nhằm ổn định cuộc sống của họ ở vùng quê mới và . phát triển kinh tế xã hội vùng Tây Nguyên. Mặt khác đây cũng là tài liệu tham khảo về di cư, sinh kế của người Dao di cư cho các nhà nghiên 3 cứu, giảng dạy, góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của tộc người trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập và phát triển. 7. Bố cục của Luận án Chương 1: Tổng quan nghiên cứu của đề tài, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu Chương 2: Khái quát về điều kiện tự nhiên và người Dao ở huyện Cư M’gar Chương 3: Biến đổi các loại hình sinh kế của người Dao ở huyện Cư M’gar Chương 4: Các yếu tố tác động tới sinh kế của người Dao di cư huyện Cư M’gar Chương 5: Kết quả và bàn luận CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, PHƢƠNG PHÁP VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới về sinh kế Các hoạt động sinh kế từ lâu đã được các học giả trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Cho tới nay không ít các công trình chuyên sâu về các loại hình sinh kế truyền thống cũng như hiện đại của các cộng đồng trên thế giới đã được công bố rộng rãi, qua các công trình đó chúng ta có thể nhìn thấy một bức tranh toàn cảnh từ Châu Ấu tới các nước Châu Á và Phi Châu về những hoạt động sinh kế đầy đa dạng và nhiều màu sắc mà các cư dân nơi đó đem lại. Các tác phẩm của ScottM.Forrest (1996), Edward Lahiff (2003) hay trong nghiên cứu của Priya Deshingkar và Daniel Start (2003). Các tác giả đã lý giải các ví dụ đảm bảo sinh kế theo di cư nhằm đảm bảo cuộc sống của họ. Một trong những vấn đề đặt ra là áp lực đối với sinh kế trong quá trình di cư liên quan tới đất đai. Một trong những xu hướng nghiên cứu sinh kế đó là sử dụng khung sinh kế phát triển bền vững của DFID đa ̃đư ợc ứng dụng trong nghiên cứu tại nhiều nơi trên thế giới, nó được coi như một cách tiếp cận toàn diện trong phân tích về sinh kế và đói nghèo. Đại diện là Tim Hanstad, Robin Nielsen and Jennife Brown (2004), Marcus Colchester và các cộng sự (2006). Theo nhóm tác giả này, người di cư đã bị gạt ra bên lề khi sinh kế của họ phụ thuộc nhiều vào rừng và các yếu tố văn hóa bị coi nhẹ. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước về sinh kế và người Dao 4 Ngay từ nhưng năm đầu thế kỷ XX xuất hiện hàng loạt những chuyên khảo cũng như những nghiên cứu chuyên sâu của các nhà khoa học Pháp về các dân tộc thiểu số tại Việt Nam, tuy nhiên giai đoạn này sinh kế vẫn chỉ được coi là các hoạt động kinh tế và nó chỉ được trình bày rất khiêm tốn trong những nghiên cứu đó với các tác giả như: Nguyễn Kính Chi và Nguyễn Đổng Chi đã xuất bản tác phẩm Mọi Kontum, Xứ người Mạ lãnh thổ của thần linh (J. Boulbet ,1967) (bản tiếng Việt năm 1999) . Đối với những học giả trong nước, việc nghiên cứu sinh kế đã được chú trọng trong nhiều công trình nghiên cứu về tộc người. Một số công trình nghiên cứu khá sớm về tộc người đã coi sinh kế có vai trò quan trọng trong đời sống tộc người như công trình nghiên cứu sơ lược về nhóm Tày, Nùng, Thái của Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn (1968). Cũng trong thời gian này bắt đầu có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tới các hoạt động liên quan tới sinh kế, chúng ta có thể tìm thấy trên các tạp chí chuyên ngành những bài viết liên quan. Năm 1974, Nông Trung có bài viết về sinh hoạt kinh tế và văn hoạt của các dân tộc Tạng - Miến; Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Thịnh Nhi đã bước đầu tìm hiểu về canh tác nương rẫy và phương pháp đánh bắt cá cổ truyền trên sông Dinh. Năm 1975, tác giả Đặng Nghiêm Vạn, Cầm Trọng có nghiên cứu vấn đề canh tác nương rẫy tại miền núi phía Bắc. Trong những năm gần đây, nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu về sinh kế và biến đổi sinh kế như Bùi Minh Đạo, Vũ Thị Hồng, Vũ Lợi, Trần Bình, Nguyễn Văn Sửu,. Các công trình nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam. Người Dao ở Việt Nam được nhắc tới khá sớm trong chuyên khảo Một cuộc công cán ở vùng người Mán từ tháng 10 năm 1901 đến tháng giêng năm 1902 của Auguste Bonifacy những năm đầu thế kỷ XX. Từ báo cáo này cho thấy những tư liệu về người Dao ở thượng du Bắc Bộ và ở Thanh Hóa của Robequain đã được Nguyễn Văn Huyên dẫn lại, tuy nhiên những tư liệu này chỉ có tính khái quát và giới thiệu về người Dao tại Việt Nam. Phải kể tới nhóm tác giả Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến trong tác phẩm Người Dao ở Việt Nam (1971) mới cho chúng ta một cái nhìn tổng thể và khá chi tiết về người Dao tại Việt Nam. Một trong những chuyên khảo về người Dao phải kể đến tác ph ẩm Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang của Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý (1999). Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu hai nhóm Dao tập trung và cư trú đông ở Hà Giang là Dao Đỏ và Dao Áo dài và làm rõ những nét đặc trưng nhất trên tất cả các lĩnh vực 5 lịch sử tộc người, các hoạt động kinh tế, văn hoá vật chất, tổ chức làng bản, gia đình và nghi lễ gia đình, tín ngưỡng tôn giáo, văn hoá dân gian, tri thức dân gian. Các công trình nghiên cứu có tính chuyên khảo về văn hoá vật chất của người Dao của các tác giả Nguyễn Khắc Tụng (1971), Nguyễn Minh Phúc (2013) về nhà ở, đối với Trang phục có các nghiên cứu của Nông Quốc Tuấn, (2002) Nguyễn Anh Cường (2003). Về văn hoá tinh thần, có khá nhiều công trình nghiên cứu, trong đó đáng chú ý là “Các nghi lễ chủ yếu trong chu kì đời người của nhóm Dao Tiền ở Bắc Kạn” của Lý Hành Sơn (2003), về thầy cúng người Dao Họ tại Lào Cai của Phạm Văn Dương (2010)..... Ngoài các công trình có tính chuyên khảo như trên chúng ta có thể tìm thấy khá nhiều bài viết liên quan tới mọi mặt đời sống của người Dao trong nước qua các tác giả Võ Mai Phương, Nguyễn Thế Loan, Trần Hữu Sơn và nhiều tác giả khác đã được công bố trên tạp chí Dân tộc học, Văn hóa nghệ thuật... 1.1.3. Tổng quan nghiên cứu về di cư Nhiều nhà nghiên cứu các chuyên ngành dân số học, xã hội học, quản lý kinh tế như: Tương Lai, Trịnh Duy Luân, Đặng Nguyên Anh, Hoàng Văn Chức, Trần Hữu Quang, Nghiêm Xuân Đạt, Đồng Bá Hướng, Lê Bạch Dương, Thân Văn Liên, Lê Đăng Giang, Nguyễn Bá Thủy v.v đã có các công trình nghiên cứu, bài luận khoa học về di dân, tác động của di dân đến các vấn đề thuộc về an sinh xã hội, kiến nghị thiết lập các chính sách để quản lý quá trình di dân. Tuy nhiên, không có nhiều nghiên đi sâu về vấn đề sinh kế nhất là đối với người Dao ở vùng Tây Nguyên. 1.2. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu 1.2.1. Cơ sở lý thuyết 1.2.1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan tới đề tài Luận án đã làm rõ một số khái niệm: Biến đổi, Sinh kế, Biến đổi sinh kế, Sinh kế bền vững, di dân, di dân có tổ chức, di dân tự phát, di cư. 1.2.1.2.Cơ sở lý thuyết Luận án áp dụng một số lý thuyết Lý thuyết sinh thái văn hóa và lý thuyết về lực hút và lực đẩy đề xây dựng khung phân tích nghiên cứu về sinh kế của người Dao di cư huyện Cư M’gar ở tỉnh Đăk Lăk. 1.2.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng chủ yếu phương pháp điền dã dân tộc học và điều tra xã hội học tộc người, ngoài ra có kết hợp với phương pháp Đánh giá nông thôn có người dân tham gia (PRA), phương pháp phân tích, so sánh để thu thập tư liệu, làm rõ những biến đổi sinh kế của người Dao di cư ở huyện Cư M’gar, tỉnh Đăk Lăk. 6 Tiểu kết chƣơng 1 Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhất là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, áp lực về di dân và bảo đảm sinh kế cho người dân di cư đang đặt ra với nhiều địa phương, đặc biệt là các tỉnh khu vực Tây Nguyên. Môi trường tự nhiên là nguồn sống cơ bản của đồng bào các dân tộc, trong đó có dân tộc Dao (vốn là cư dân sống dựa vào rừng) đang có xu hướng bị biến đổi, quá trình thay đổi nơi cư trú từ miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên cũng đã có những tác động mạnh mẽ đến sinh kế và đời sống của người Dao. Việc lựa trọn đề tài “Biến đổi sinh kế người Dao di cư tự do tại huyện Cư M’gar tỉnh Đăk Lăk” là thiết thực và có ý nghĩa, bên cạnh việc tìm hiểu các hoạt động sinh kế truyền thống, luận án còn phân tích những biến đổi và thích ứng của các hoạt động đó trong điều kiện mới. Từ đó đưa tới những giải pháp và kiến nghị trong việc giải quyết vấn đề sinh kế của người Dao di cư tự do tại Tây nguyên theo hướng bền vững. Khi tiến hành nghiên cứu về biến đổi sinh kế, luận án xem xét các vấn đề trên cơ sở lý luận của Phép biện chứng trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, từ đó nhìn nhận sự hình thành phát triển của các hình thái kinh tế luôn được đặt trong mối quan hệ biện chứng với các thành tố trong đời sống như: môi trường tự nhiên, điều kiện tự nhiên, môi truờng xã hội, điều kiện lịch sử và tâm lý tộc ngườiLý thuyết về sinh thái văn hoá và lực hút lực đẩy là hai lý thuyết chủ yếu áp dụng trong luận án. Theo đó, những hoạt động và tri thức của người Dao về sinh kế đuợc nhìn nhận một cách khách quan cũng như đặt trong bối cảnh văn hoá riêng của họ. Đối với những lý thuyết nêu trên các hoạt động và sự biến đổi sinh kế của người Dao di cư được nhìn nhận như sự thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội hoàn toàn mới. Viêc thay đổi hay thích ứng với điều kiện mới của người Dao di cư chính là sự điều chỉnh các yếu tố tự nhiên và xã hội để phục cho nhu cầu nội tại của họ. Luận án sử dụng các phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu Dân tộc học/Nhân học như điền dã dân tộc học và kết hợp các phương pháp phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, quan sát tham dự để thu thập các thông tin tại thực địa. Bên cạnh phương pháp đặc thù điền dã dân tộc học, phương pháp điều tra xã hội học cũng được chú trọng. Đây là phương pháp thế mạnh trong điều tra về sinh kế và di cư. Bảng hỏi được biên soạn bám sát nội dung đề cương của luận án. Ngoài ra, luận án có sử dụng phương pháp PRA là phương pháp khuyến khích, lôi cuốn người 7 dân nông thôn cùng tham gia chia sẻ, thảo luận và phân tích kiến thức của họ về đời sống và điều kiện thực tế của họ. CHƢƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ NGƢỜI DAO Ở HUYỆN CƢ M’GAR 2.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên tỉnh Đăk Lăk Đăk Lăk có diện tích 13.125,37 km2, dân số toàn tỉnh tính đến năm 2012 đạt 1.796.666 người, mật độ dân số đạt hơn 137 người/km². Cộng đồng dân cư Đăk Lăk gồm 47 dân tộc..Huyện Cư M’gar cách trung tâm thành phố Buôn Ma thuột 18km về hướng Đông Bắc. Toàn huyện có 179 thôn, buôn và tổ dân phố, trong đó có 71 buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Huyện Cư M’gar có đặc điểm tự nhiên đa dạng, địa hình khá bằng phẳng, có lợi thế về đất sản xuất, đó là đất trồng các loại cây công nghiệp. Xã Ea Mdro’h Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 5.754 ha, trong đó đất nông nghiệp là 523,38 ha (chiếm 91,02% tổng diện tích tự nhiên), đất phi nông nghiệp 492,82 ha (chiếm 8,56%) và nhóm đất chưa sử dụng 23,80 ha (chiếm 0,41%). Xã Ea Mdro’h có 11 thôn/buôn. Dân số của xã đến đầu năm 2013 là l.682 hộ với 78.944 người, mật độ dân số 138 người/km2 với 12 dân tộc cùng sinh sống gồm: Kinh, Ê đê, Gia rai, Mnông, Hrê, Dao, Tày, Nùng, Thái, Mường, Sán Dìu, Sán Chay. Trong đó, dân tộc thiểu số là 6.429 người (chiếm 76,4% dân số toàn xã) gồm dân tộc thiểu số tại chỗ và dân tộc thiểu số di cư từ các tỉnh phía Bắc. Xã có 3 tôn giáo chính: Công giáo, Phật giáo và Tin lành; với 515 tín đồ (chiếm 5,6% dân số của xã). Xã Cư Suê Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 3.513ha, trong đó đất nông nghiệp là 3.143ha (chiếm 90% tổng diện tích tự nhiên), và nhóm đất chưa sử dụng 35ha. Đất nông nghiệp chủ yếu là loại đất nâu đỏ, nâu vàng trên đá Bazan nên thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển các cây công nghiệp lâu năm có giá trị kinh tế cao như cà phê, cao su, tiêu, cây ăn quả...Toàn xã được chia thành 11 thôn, buôn với 2.031 hộ và 11.503 khẩu, với ba dân tộc cùng sinh sống gồm Kinh, Dao, Ê đê, trong đó người Ê đê có 780 hộ với 4.964 khẩu, người Dao 371 hộ và 1861 nhân khẩu. 2.2.Đặc điểm kinh tế– xã hội - văn hóa của ngƣời Dao tại huyện Cƣ M’gar 2.2.1. Đặc điểm kinh tế Hoạt động kinh tế của người Dao ở Cư M’gar chủ yếu là trồng trọt các loại cây công nghiệp kết hợp cây lương thực. Do cư trú gần với các dân 8 tộc tại chỗ Tây Nguyên, người Dao đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm sản xuất của người Ê đê trong trồng trọt và chăm sóc các loại cây công nghiệp dài ngày có hiệu quả kinh tế cao. Nguồn thu nhập của hộ gia đình người Dao ở Cư M’gar đã tăng lên đáng kể nhờ cây công nghiệp dài ngày. Ngoài ra, người Dao cũng đã có thêm những hoạt động kinh tế mới như buôn bán, trao đổi hàng hóa.. 2.2.2. Đặc điểm xã hội Người Dao có tập quán cư trú thành các làng bản, trong tiếng Dao gọi làng bản là “lăng”. Mỗi bản có một tên nhất định đặt theo đặc điểm cảnh quan tự nhiên nơi đồng bào cư trú (tên sông suối, núi), cũng có khi họ mượn tiếng của các tộc người khác để đặt tên cho nơi mình cư trú, hoặc có thời điểm thành lập hợp tác xã nông nghiệp tại địa phương. Người Dao ở Cư M’gar hiện nay cũng sống tập trung thành các cụm dân cư, tuy nhiên tên gọi các thôn được đăṭ theo thứ tự số đếm theo cách gọi hiện đại như: thôn 1, thôn 2, thôn 3, hoặc Hợp Thành nghĩa là có nhiều tộc người cùng sinh sống. Người Dao Cư M’gar chủ yếu mang các họ Triệu, Lý, Đặng và Bàn, các họ khác như Chề và Tắng không nhiều, mối quan hệ của những người cùng họ vẫn còn khá bền chặt. Khi làm lễ cấp sắc, người Dao thường làm tại nhà thờ họ của người thụ lễ. Trong trường hợp không có nhà thờ họ, gia chủ phải về nhà tổ ở ngoài Bắc để làm nghi lễ. Người Dao ở đây vẫn ăn tết như ngoài Bắc: cúng tết Thanh minh (3/3 âm lịch), Rằm tháng 7 (14/7 âm lịch), khi ốm đau bệnh tật vẫn mời thầy cúng, ngoài ra, họ còn thực hiện các lễ cúng giải hạn, cúng cầu mùa. Tuy vậy, các nghi lễ liên quan tới nông nghiệp thì hầu như đã giản lược nhiều, từ khi chuyển vào Tây Nguyên sinh sống không còn cúng rừng, cúng cơm mới như ngoài Bắc trước Đổi mới 1986. Gia đình người Dao thuộc loại gia đình phụ quyền, trong đó người đàn ông làm chủ và quyết định mọi việc, quy mô gia đình không lớn, từ 4 – 5 người, gồm bố mẹ và con cái. Quyền thừa kế chính thuộc về con trai, tuy nhiên hiện nay con gái khi lấy chồng cũng được cha mẹ chia một phần tài sản. Trong truyền thống cũng như hiện tại gia đình người Dao là một đơn vị kinh tế độc lập , mối quan hệ trong gia đình thể hiện trên các khía cạnh khác nhau trong đó tính chất yêu thương , giúp đỡ lẫn nhau luôn được đề cao. 2.2.3. Đặc điểm văn hóa Văn hóa vật chất:.Tại Cư M’gar người Dao sinh sống theo loại hình nhà đất, đây chính là loại hình nhà ở đã có từ rất lâu đời và phổ biến trong cuộc sống của người Dao, nhà đất thường có ba hoặc năm gian 9 đứng. Bộ sườn của nhà nền đất được cấu tạo khá đơn giản, thông thường, mỗi vì kèo chỉ có hai hoặc ba cột, một quá giang và một bộ kèo đơn. Với người Dao, nhà nền đất luôn mang tính chất bền vững, thích hợp với điều kiện sản xuất tương đối ổn định ở miền núi rừng. Về trang phục, tại Cư M’gar có các nhóm Dao di cư từ Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng, bộ phận người Dao từ hai tỉnh Quảng Ninh và Lạng Sơn có phong tục và ngôn ngữ với nhiều nét tương đồng. Ngày nay không còn mặc trang phục truyền thống phổ biến như trước nữa, thường ngày chỉ mặc âu phục chỉ có nữ giới thuộc thế hệ người già thỉnh thoảng còn mặc. Tuy nhiên, trong các nghi lễ tôn giáo hay các sự kiện trọng đại của cuộc đời thì bộ trang phục truyền thống vẫn giữ vai trò rất quan trọng như trong nghi lễ cấp sắc, lễ cưới khi đứng trước bàn thờ trình báo với tổ tiên. Vì vậy, trong gia đình mỗi người Dao vẫn có một vài bộ trang phục truyền thống để mặc khi cần thiết. Văn hóa tinh thần: Ngôn ngữ người Dao thôn Hợp Thành hiện nay sử dụng thành thạo hai thứ tiếng là tiếng Dao và tiếng phổ thông, trong phạm vi gia đình tiếng Dao vẫn được sử dụng thường xuyên, đặc biệt trong các nghi lễ có tính chất tín ngưỡng. Hiện nay trong cộng đồng người Dao tại Cư M’gar có khá nhiều thầy cúng biết và sử dụng thành thạo chữ nôm Dao để thực hiện các nghi lễ có tính chất truyền thống của cộng đồng. Về tín ngưỡng: Tín ngưỡng chính là thờ cúng tổ tiên và Bàn Vương, đối với thờ cúng tổ tiên, người Dao cho rằng tổ tiên chỉ tới thăm họ vào những dịp lễ tết. Trong khi đó Bàn Vương đuợc coi là tổ tiên chung của tất cả người Dao và được thờ cúng, khấn vái cùng với tổ tiên của các gia đình, dòng họ . Hình thái tín ngưỡng vạn vật hữu linh với niềm tin mọi vật đều có linh hồn vì vậy người Dao cho rằng các hiện tượng tự nhiên đề do các vị thần tạo ra như thần gió, thần mưa, thần hoa màu, thần chăn nuôi 2.3. Quá trình di cƣ tự do của ngƣời Dao đến Đăk Lăk 2.3.1. Các đợt di cư Một trong những đặc điểm của cư dân di cư tự do vào Đăk Lăk nói chung và người Dao nói riêng là di cư theo nhiều đợt khác nhau, tập trung vào giai thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước . 2.3.2. Lý do và hình thức di cư của người Dao Một trong những lý do người Dao di cư tới định cư tại đây là do đươc̣ những người họ hàng , người thân có mối liên hệ với địa phương quê cũ cung cấp thông tin và nghe nói khu vực này có nhiều đất để canh tác. Hình thức di cư tự do của người Dao và thời điểm di cư đầu tiên lcủa họ 10 vào những năm 1990 – 1991 đến năm 2001 thì di cư ồ ạt từ Quảng Ninh, Cao Bằng vào Cư M’gar. 2.4. Một số đặc điểm của ngƣời Dao di cƣ 2.4.1. Quy mô, cơ cấu hộ gia đình Theo mẫu điều tra bình quân nhân khẩu của số hộ của người Dao tại hai xã là 4,5 người/hộ, điều này phù hợp với các cuộc điều tra di dân trước đây. Số hộ có từ 3 người đến 6 người chiếm đa số tại cả hai xã, trong số này có tỷ lệ cao nhất là nhóm 4 người/hộ. 2.4.2. Một số đặc điểm về độ tuổi, học vấn, nghề nghiệp của hộ gia đình Từ số liệu điều tra cho thấy đa phần chủ hộ trong độ tuổi lao động, số lượng tập trung chủ yếu ở độ tuổi từ 31 - 60 tuổi. Mặc dù đa phần chủ hộ của người Dao trong độ tuổi lao động, tuy nhiên số người có học vấn cao không nhiều. Số lượng chủ hộ là người mù chữ khá lớn, người tốt nghiệp các cấp học phổ thông không đồng đều, điều đáng lưu ý chủ hộ tốt nghiệp cao đẳng, đại học ở cả hai xã rất thấp. Do đặc điểm về trình độ học vấn thấp, người Dao di cư ở Cư M’Gar làm nông nghiệp là chính, mặc dù với cơ cấu chủ hộ người Dao thuộc dân số trẻ, số lượng người trong độ tuổi lao động cao, tuy nhiên do tỷ lệ người được đào tạo thấp vì vậy số lượng lớn chủ hộ làm nông nghiệp. Tiểu kết chương 2 Là một tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao ở Việt Nam, địa bàn cư trú truyền thống là các tỉnh miền núi phía Bắc. Hiện nay do quá trình di cư tự do ngưới Dao đã có mặt khá đông đảo ở các tỉnh Tây nguyên trong đó có Đăk Lăk là nơi tập trung số lượng người Dao sinh sống đông nhất. Điều kiện tự nhiên của xã Ea Mdro’h và Cư Suê khá đặc trưng địa hình của xã tương đối bằng phẳng, khí hậu ở đây mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo. Nằm trong tiểu vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên nên nơi đây có 2 mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 11 năm trước tới tháng 4 năm sau, khí hậu khô và lạnh, độ ẩm thấp, thường có gió mạnh từ cấp 4 đến cấp 6. Tuy nhiên, do sự lạm dụng khoan giếng không theo quy hoạch cụ thể nên mực nước ngầm những năm gần đây đã tụt sâu hơn. Nguy cơ thiếu nước trong mùa khô vẫn có thể xảy ra cộng với diện tích cà phê, hồ tiêu, điều trên địa bàn có nhu cầu nước tưới nhiều trong mùa khô cũng gây tình trạng thiếu nước. Người Dao di cư vào huyện Cư M’gar tỉnh Đăk Lăk chủ yếu từ các tỉnh Quảng Ninh, Cao Bằng, họ di cư thành nhiều đợt khác nhau, đến năm 2009 toàn huyện có tới hơn 9000 người. Lý do di cư của người Dao 11 chủ yếu là do thiếu đất sản xuất và do có nghe theo họ hàng vào trước và định cư tại đây vì có nhiều đất, chủ động được nguồn nước và quan trọng nhất là đã có người cùng họ sinh sống từ trước. Chủ hộ người Dao đi cư đa phần là nam, hầu hết trong độ tuổi lao động, tuy nhiên học vấn không cao, quy mô hộ không lớn chủ yếu từ 4 đến 5 người/hộ do đó hầu hết họ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu. Với điều kiện khí hậu, đất đai thuận lợi hơn rất nhiều quê cũ vì vậy đã giúp người Dao di cư sớm ổn định đời sống, hoà nhập với cộng đồng, từng bước khẳng định và làm giàu trên quê hương mới. CHƢƠNG 3: BIẾN ĐỔI CÁC LOẠI HÌNH SINH KẾ CỦA NGƢỜI DAO TẠI HUYỆN CƢ M’GAR 3.1. Một số phƣơng thức sinh kế truyền thống 3.1.1. Phương thức canh tác truyền thống 3.1.1.1. Nương rẫy Người Dao vốn cư trú chủ yếu ở vùng miền núi phía Bắc. Nương rẫy là hình thức canh tác chủ yếu của đồng bào trong điều kiện cư trú ở vùng cao, đất dốc. Trong tiếng Dao nương/rẫy gọi là yăng được coi là một hình thức canh tác đặc trưng có tính chất phù hợp với điều kiện sống cũng như tại môi trường sinh thái vùng núi phía Bắc. Đối với người Dao Ở Quảng Ninh thì họ phân biệt nương thành ba loại: nương thấp (yăng ha), nương dốc (yăng chui) và nương bằng (yăng peng). Diện tích khai phá thường phụ thuộc vào nhu cầu gieo trồng và khả năng lao động trong gia đình. Người Dao thường trồng xen canh các loại cây lương thực và cây hoa màu trên nương. Bên cạnh các loại lúa nếp nương(mây plát) lúa tẻ (plau xi) ngoài ra ngô nếp (piều pe), ngô tẻ (piều lắt) cũng được người dân trồng ở những đám đất tương đối tốt. Cây sắn cũng được người Dao khá coi trọng nhất là những năm ngô, lúa không được mùa thì đây được coi là nguồn lương thực chủ yếu của bà con. Sắn được trồng vào khoảng cuối tháng 2 đến giữa tháng 3 âm lịch hàng năm, cách trồng cũng giống như người kinh đào từng hố nhỏ cách nhau khoảng 1m rồi đặt các cành giống dài khoảng 20 – 30cm vào hố rồi lấp đất lên. Chăm sóc cây trồng luôn là công đoạn được người Dao coi trọng, quá trình chăm sóc cây trồng ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, do vậy, người Dao thường chú ý làm cỏ, chăm bón cho các loại cây lương thực nhằm đảm bảo năng suất và sản lượng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của gia đình 3.1.1.2. Ruộng nước Trước Cách mạng tháng Tám, một bộ phận người Dao đã biết canh tác 12 ruộng nước Việc cấy lúa được người Dao tiến hành thành hai vụ, lúa chiêm họ thường cấy vào tháng Chạp hoặc tháng Giêng âm lịch, đối với lúa mùa thường được cấy vào đầu tháng sáu. Trải qua quá trình chăm sóc, vào tháng cuối tháng 9 đầu tháng 10 âm lịch hàng năm, thì tiến hành thu hoạch lúa. 3.1.1.3. Vườn Vườn đóng vai trò rất nhỏ bé trong đời sống của người Dao. Đồng bào chọn mảnh đất gần nhà, thường là gần các nguồn nước rồi dùng phên quây lại, trong cùng một mảnh vườn trồng nhiều loại rau khác nhau để làm nguồn cung cấp thực phẩm cho bữa ăn hàng ngày . 3.1.1.4. Tri thức liên quan tới nông nghiệp Tri thức về mùa vụ Do sinh sống dựa vào nông nghiệp là chủ yếu vì vậy mùa vụ đặc biệt quan trọng trong kỹ thuật canh tác của người dân, có thể nói nó đóng góp rất lớn trong việc quyết định tới cuộc sống. Tri thức trong chọn đất Việc chọn đất canh tác là công việc đặc biệt quan trọng do đó thông thường người làm việc này là chủ nhà hoặc người lớn trong gia đình. Theo kinh nghiệm, người Dao sẽ chọn sườn núi phía Đông theo hướng mặt trời mọc vì đó là hướng có nhiều ánh sáng, tạo điều kiện cho ngô lúa và hoa màu phát triển. Tri thức liên quan tới giống Việc chọn giống cũng khá quan trọng đối với giống ngô người Dao thường giữ những bắp to, hạt đều nhau, khi thu hoạch họ thường bẻ bắp và để nguyên lớp vỏ bên ngoài rồi buộc túm từng bó khoảng 3 – 5 bắp treo lên gác bếp. 3.1.2.Chăn nuôi Đối với người Dao, chăn nuôi gia súc được coi là một trong những hoạt động mưu sinh đóng vai trò quan trọng. Trong gia đình ngưới Dao đồng bào thường nuôi gà, lợn và trâu, tuy nhiên vẫn theo hình thức tự nhiên là chính. Chăn nuôi không chỉ góp phần cung cấp nguồn thực phẩm cho bữa ăn hàng ngày, là nguồn hàng hoá có thể trao đổi khi cần thiết và cũng là tài sản có giá trị trong gia đình. 3.1.3. Các hoạt động sinh kế truyền thống khác Săn bắt và hái lượm Các hoạt động sinh kế truyền thống của người Dao ở Quảng Ninh (quê cũ của người Dao trước khi di cư vào Đăk Lăk) phong phú đa dạng với nhiều loại hình khác nhau, săn bắt và hái lượm là một phần rất quan trọng trong hoạt động sản xuất của đồng bào. Nghề thủ công Nghề thủ công truyền thống của người Dao được hình thành từ lâu đời như đan lát, làm giấy, nấu rượutuy nhiên hoạt động của những 13 nghề thủ công này mang tính thời vụ, làm vào lúc nông nhàn, tranh thủ khi rảnh rỗi trong ngày. Hoạt động mua bán, trao đổi Trước đây, việc tiến hành trao đổi mua, mua bán định kỳ dựa vào hệ thống chợ phiên ở vùng cao. Người Dao không có chợ riêng của mình, cũng như đồng bào dân tộc khác họ họp chợ tại trung tâm huyện, xã. 3.2. Biến đổi phƣơng thức sinh kế truyền thống của ngƣời Dao ở huyện Cƣ M’gar, tỉnh Đăk Lăk 3.2.1. Biến đổi trong phương thức canh tác trồng trọt - Nương rẫy + Biến đổi trong lựa chọn các loại cây trồng Việc duy trì các loại cây lương thực truyền thống vẫn được người Dao thực hiện tại vùng đất mới. Tuy nhiên, các loại giống lúa, ngô, đỗ tương, đỗ đen cũng đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_bien_doi_sinh_ke_cua_nguoi_dao_di_cu_tu_do_t.pdf
Tài liệu liên quan