BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
-----------*---------
Đặng Hoài Giang
BIẾN ĐỔI KHÔNG GIAN VĂN HÓA BUÔN LÀNG Ê ĐÊ
Ở BUÔN MA THUỘT TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62.31.06.40
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội - 2016
Công trình được hoàn thành tại:
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Duy
27 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 565 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án - Biến đổi không gian văn hóa buôn làng Ê đê ở Buôn ma thuột từ sau 1975 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thiệu
TS. Phan Phương Anh
Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Châm
Viện Nghiên cứu văn hóa
Phản biện 2: TS. Lương Thanh Sơn
Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk
Phản biện 3: TS. Trần Hữu Sơn
Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện
họp tại: Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Số 32, Hào Nam, Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội
Vào hồi: .....giờ.....ngày.......tháng......năm.......
Có thể tìm luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Trong các loại hình không gian văn hóa mà con người đã sáng
tạo nên, có lẽ, làng là loại hình không gian lâu đời và phổ biến hơn cả.
Dường như ở đâu có nông thôn, nông nghiệp, nông dân thì ở đó có làng
và không gian làng. Với một đất nước có truyền thống “trọng nông”
như Việt Nam, dấu ấn của làng trong đời sống xã hội càng đậm nét.
Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, các học giả trong và ngoài nước, dù
đứng từ góc độ tiếp cận nào, đều có chung một nhận định: làng là
không gian văn hóa cơ bản và đặc trưng nhất của quốc gia đa dân tộc
Việt Nam. Vì thế, theo cách diễn đạt của nhà dân tộc học Từ Chi,
nghiên cứu không gian văn hóa làng cho phép chúng ta tìm hiểu người
Việt nói riêng và các tộc người ở Việt Nam nói chung “trong sức năng
động lịch sử của nó, trong ứng xử cộng đồng và tâm lý tập thể của nó,
trong các biểu hiện văn hóa của nó, cả trong những phản ứng của nó
trước tình huống mà lịch sử đương đại đặt nó vào”.
Tây Nguyên là một vùng đất độc đáo trong hệ thống lãnh thổ
sinh thái - nhân văn của Việt Nam. Sau 1975, dưới tác động của hàng
loạt nhân tố mới, Tây Nguyên đã trở thành một vùng đất hoàn toàn
khác về điều kiện tự nhiên, kinh tế, dân số, cơ cấu dân tộc, cơ cấu tôn
giáo so với trước Giải phóng... Sự chuyển động của vùng đã tác động
sâu sắc lên không gian buôn làng truyền thống, dẫn đến nhiều hệ quả
ngoài mong đợi: tình trạng thiếu đất và xáo trộn không gian sinh tồn
của nhóm dân tộc tại chỗ; nạn “chảy máu cồng chiêng” và suy thoái
vốn văn hóa tộc người; đặc biệt, cải đạo đã trở thành một hiện tượng
mang tính khu vực, thu hút đông đảo người Thượng tham gia (Thiên
Chúa giáo, Tin Lành)... Do đó, để nhận thức thấu đáo hơn về thực tiễn
Tây Nguyên nói chung và thực tiễn phát triển của nhóm dân tộc tại chỗ
nói riêng, không thể tách các vấn đề văn hóa - xã hội của nhóm dân tộc
tại chỗ ra khỏi bối cảnh biến đổi không gian buôn làng. Tuy nhiên, cho
đến nay, các nghiên cứu được thực hiện theo hướng này vẫn còn hạn
chế cả về số lượng lẫn chất lượng.
2
Từ 1975 đến nay, sau bốn thập niên phát triển, Buôn Ma Thuột đã
vươn lên vị trí đô thị trung tâm của vùng Tây Nguyên. Buôn Ma Thuột
nói riêng và Đắk Lắk nói chung là quê hương lâu đời của người Ê Đê.
Trong các nhóm Ê Đê ở Đắk Lắk, nhóm Kpă ở Buôn Ma Thuột không
chỉ là nhóm “thuần chủng” nhất mà còn là nhóm tiếp xúc sớm và liên
tục nhất với các chủ thể văn hóa bên ngoài. Bởi vậy, trong xu thế
chuyển động chung của vùng Tây Nguyên từ sau 1975, sự biến đổi
không gian buôn làng của cộng đồng Ê Đê ở Buôn Ma Thuột mang ý
nghĩa điển hình, là đối tượng lí tưởng cho các nghiên cứu theo hướng
Văn hóa học.
Trong bối cảnh như vậy, nghiên cứu sinh (NCS) quyết định chọn
Biến đổi không gian văn hóa buôn làng Ê Đê ở Buôn Ma Thuột từ sau
1975 đến nay làm đề tài nghiên cứu của luận án tiến sỹ.
2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Các nghiên cứu về sự chuyển đổi của các cộng đồng vùng
cao ở Đông Nam Á
Đáng chú ý là các nghiên cứu của Gerard Clarke về “các tộc
người thiểu số và các tộc người bản xứ ở Đông Nam Á”, của Rob
Cramb và Gregory M.Thailer về sự thay đổi mô hình sinh kế và tác
động của nó đối với các cộng đồng vùng cao trong khu vực... Các
nghiên cứu thuộc nhóm này giúp nghiên cứu sinh có được cái nhìn so
sánh (comparative vision) trong nghiên cứu không gian văn hóa buôn
làng giữa các khu vực trên thế giới, tiếp nhận các lý thuyết và các
phương pháp nghiên cứu hiện đại để phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
2.2. Các nghiên cứu về sự chuyển đổi của làng đồng bằng và
làng vùng cao ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu sự chuyển đổi của làng Việt đồng
bằng (Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ do Philippe
Papin và Olivier Tessier đồng chủ biên, Góp phần nghiên cứu văn hóa
dân gian Việt Nam của Nguyễn Chí Bền, Biến đổi văn hóa ở các làng
quê hiện nay của Nguyễn Phương Châm ...) và các cộng đồng vùng cao
(Vùng núi phía Bắc Việt Nam: một số vấn đề về môi trường và kinh tế -
3
xã hội của Trung Tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường (CRES),
Những xu hướng biến đổi văn hóa các dân tộc miền núi phía Bắc Việt
Nam của Nguyễn Thị Huế, Phát triển bền vững văn hóa tộc người
trong quá trình hội nhập ở vùng Đông Bắc do Vương Xuân Tình chủ
biên ...) gợi mở cho nghiên cứu sinh các cách tiếp cận khác nhau trong
nghiên cứu không gian làng và có được cái nhìn tổng thể về bức tranh
chuyển đổi của các cộng đồng vùng cao ở Việt Nam mà người Ê Đê ở
Buôn Ma Thuột là một bộ phận trong số đó.
2.3. Các nghiên cứu về không gian buôn làng Tây Nguyên
Tiếp theo các nghiên cứu “cổ điển” của người Pháp (Rừng người
Thượng của Henri Maitre, Chúng tôi ăn rừng của Condominas, Người
Ê Đê – một xã hội mẫu quyền của Anne De Hautecloque-howe ...), sau
1975, có thể kể đến các công trình nổi bật: Tây Nguyên trên đường phát
triển của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Buôn làng cổ truyền xứ
Thượng của Lưu Hùng, Sở hữu và sử dụng đất đai ở các tỉnh Tây
Nguyên của nhóm tác giả Vũ Đình Lợi - Bùi Minh Đạo - Vũ Thị Hồng,
Một số vấn đề phát triển kinh tế - xã hội buôn làng các dân tộc Tây
Nguyên của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Văn hóa
các dân tộc Tây Nguyên: thực trạng và những vấn đề đặt ra do Trần
Văn Bính chủ biên, Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển bền
vững vùng Tây Nguyên của Bùi Minh Đạo, Văn hóa cổ truyền ở Tây
Nguyên trong phát triển bền vững của Đỗ Hồng Kỳ, Vai trò của văn hóa
và lối sống trong phát triển bền vững Tây nguyên của Lê Hồng Lý và
cộng sự, Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên của Viện Tư vấn
phát triển, ... Các nghiên cứu thuộc nhóm này đã cung cấp cho nghiên
cứu sinh một vốn tri thức phong phú về Tây Nguyên nói chung và
những gợi ý mang tính phương pháp luận trong nghiên cứu văn hóa
Tây Nguyên đương đại.
2.4. Các nghiên cứu về văn hóa của dân tộc Ê Đê
Trong nhóm này, các công trình tiêu biểu gồm có: Đại cương các
dân tộc Ê Đê, M’Nông ở Đắk Lắk do Viện Dân tộc học Việt Nam chủ
trì, Văn hóa dân gian Ê Đê (1996) do Ngô Đức Thịnh chủ biên, Nhà ở
4
và sinh hoạt trong nhà của người Ê Đê ở Việt Nam của Nguyễn Thị
Hòa, Người phụ nữ Ê Đê trong đời sống xã hội tộc người của Thu
Nhung Mlô, Văn hóa Ê Đê - truyền thống và biến đổi của Nguyễn Ngọc
Hòa, Văn hóa người Bih ở Tây Nguyên và vấn đề giữ gìn phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc của Lương Thanh Sơn, Văn hóa ẩm thực của người
Ê Đê do Tuyết Nhung Buôn Krông chủ biên, Nghi lễ - lễ hội Ê Đê của
Trương Bi, Chính sách đất đai và văn hóa tộc người của Mai Thanh
Sơn, Đời sống của đồng bào dân tộc Ê Đê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk -
những phân tích và so sánh xã hội học của Nguyễn Minh Tuấn...
Tóm lại, đa phần các nghiên cứu về văn hóa Tây Nguyên nói
chung và văn hóa Ê Đê nói riêng đều có khuynh hướng đi vào các
thành tố văn hóa cụ thể, ít quan tâm đến khía cạnh không gian buôn
làng, đặc biệt là diễn tiến thay đổi của không gian buôn làng từ sau
1975 đến nay cùng những hệ quả của nó. Thực tế này đã mở ra một dư
địa nghiên cứu cho những người đi sau. Luận án của nghiên cứu sinh là
một nỗ lực nhằm khai thác khoảng trống mà dư địa đó để lại.
3. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá tác động của sự biến đổi không gian văn hóa buôn làng
đối với quá trình biến đổi văn hóa của người Ê Đê nói riêng và các
nhóm dân tộc Tây Nguyên nói chung. Từ đó, cung cấp những luận cứ
khoa học và những đề xuất khả thi nhằm góp phần qui hoạch, bảo tồn
không gian văn hóa buôn làng Tây Nguyên theo hướng bền vững.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là không gian văn hóa buôn
làng của cộng đồng Ê Đê ở Buôn Ma Thuột.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian, luận án nghiên cứu các buôn Ê Đê ở thành phố
Buôn Ma Thuột, mà trọng tâm là 3 buôn: buôn Alê A (phường Ea Tam),
buôn Ea Bông (xã Cư Êbur) và buôn Ako Dhông (phường Tân Lợi).
Về mặt thời gian, luận án nghiên cứu quá trình biến đổi không
gian văn hóa buôn làng Ê Đê trong giai đoạn từ 1975 đến nay.
5
5. Các phương pháp tiếp cận và nghiên cứu
5.1. Các phương pháp tiếp cận
Nghiên cứu sinh kết hợp sử dụng 3 phương pháp tiếp cận cơ bản:
phương pháp tiếp cận của Sử học, phương pháp tiếp cận của Xã hội học
và phương pháp tiếp cận của Nhân học văn hóa.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Ba phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án là:
phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp nghiên cứu định tính và
phương pháp nghiên cứu định lượng.
6. Đóng góp khoa học và thực tiễn của luận án
- Thứ nhất, luận án không lặp lại lối tiếp cận quen thuộc là
nghiên cứu từng thành tố cụ thể trong kho tàng văn hóa tộc người mà
lấy không gian văn hóa buôn làng làm đối tượng nghiên cứu, từ đó
phân tích mối quan hệ mang tính hữu cơ, đa chiều giữa biến đổi không
gian buôn làng với quá trình biến đổi văn hóa tộc người.
- Thứ hai, làm sáng rõ khái niệm không gian văn hóa buôn làng
và biến khái niệm này thành một công cụ hữu dụng để phân tích mối
quan hệ đa chiều giữa biến đổi cấu trúc không gian buôn làng và biến
đổi văn hóa tộc người;
- Thứ ba, cung cấp cho giới hoạch định chính sách và giới quản
lý tại địa phương những gợi ý thiết thực nhằm qui hoạch, bảo tồn không
gian văn hóa buôn làng Tây Nguyên theo hướng bền vững.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu (18 trang), kết luận (2 trang), tài liệu tham
khảo (9 trang), phụ lục (26 trang), nội dung của luận án được trình bày
trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về không gian văn hóa
buôn làng (30 trang);
- Chương 2: Sự vận động của các thành tố cấu thành không gian
văn hóa buôn làng Ê Đê (53trang);
- Chương 3: Các xu hướng biến đổi không gian văn hóa buôn
làng Ê Đê (33 trang).
6
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KHÔNG
GIAN VĂN HÓA BUÔN LÀNG
1.1. Không gian văn hóa
Sau khi điểm qua các định nghĩa của giới học giả quốc tế và trong
nước, NCS chỉ ra các nội hàm cơ bản của khái niệm không gian văn hóa.
NCS cũng xác định sự tương đồng và khác biệt giữa khái niệm
Không gian văn hóa với các khái niệm gần gũi như Vùng văn hóa hay
Không gian xã hội.
1.2. Không gian văn hóa buôn làng
1.2.1. Không gian văn hóa buôn làng Tây Nguyên
1.2.1.1. Các đặc trưng của buôn làng Tây Nguyên
Thứ nhất, buôn làng Tây Nguyên là một cộng đồng cư trú; Thứ
hai, buôn làng là một cộng đồng về sở hữu lãnh thổ và lợi ích kinh tế;
Thứ ba, buôn làng là một đơn vị tổ chức xã hội tự quản; Thứ tư, buôn
làng là một cộng đồng tín ngưỡng; Thứ năm, như một hệ quả của bốn
đặc trưng trước đó, buôn làng Tây Nguyên là một cộng đồng văn hóa
mà bản chất là “văn hóa rừng” hay văn hóa làng - rừng.
Như vậy, xét trên tất cả các tiêu chí nhận diện (cộng đồng sở hữu
lãnh thổ, cộng đồng dân cư, cộng đồng văn hóa), buôn làng Tây
Nguyên đã thực sự hiện hữu như một loại hình không gian văn hóa.
Khái niệm không gian văn hóa buôn làng hàm chỉ một thực thể không
gian đóng vai trò như là không gian sáng tạo, thực hành và nuôi dưỡng
các giá trị văn hóa của cộng đồng buôn làng.
1.2.2.2. Cấu trúc không gian buôn làng Tây Nguyên
Không gian văn hóa buôn làng là một chỉnh thể không gian được
cấu thành bởi 4 yếu tố:
- Không gian sản xuất: nơi cung cấp các nguồn lợi từ tự nhiên
(đất, nước, hệ thực vật và động vật, khoáng sản ...) mà con người có
quyền tiếp cận, khai thác nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn. Theo Julian
Steward (1902-1972), qua thời gian, các mô hình, chiến lược sinh kế
của các cộng đồng đã thay đổi để thích ứng với một môi trường sống;
7
- Không gian cư trú: nơi ở của các hộ gia đình trong cộng đồng,
nơi diễn ra toàn bộ đời sống dân sự thường nhật;
- Không gian sinh hoạt cộng đồng: nơi diễn ra các sinh hoạt chung
của cộng đồng, trong đó đáng chú ý là nhà cộng đồng (communal house)
và khu vui chơi, giải trí;
- Không gian sinh hoạt tín ngưỡng: nơi con người tổ chức các sinh
hoạt tín ngưỡng để tạo nên sự giao tiếp giữa thế giới thực với thế giới
tâm linh.
Theo quan điểm của Radcliffe-Brown (1881-1955), sự liên kết
chức năng giữa các thành tố trong cấu trúc không gian văn hóa buôn làng
là cơ sở duy trì toàn bộ đời sống văn hóa của cộng đồng buôn làng. Khi
sự liên kết này không còn diễn ra thì cấu trúc không gian bị phá vỡ, đời
sống của cộng đồng bị đảo lộn. Để tái cân bằng đời sống, cộng đồng tất
yếu phải đi tìm các thành tố mới và chấp nhận tồn tại trong một không
gian mới đã trở nên xáo trộn so với không gian cũ. Lúc này, sự tương tác
thường xuyên giữa các chủ thể cũ và mới đã mở đường cho quá trình tiếp
biến văn hóa trong một không gian sinh tồn vốn đã trở nên đa chủ thể, đa
văn hóa.
1.3. Cấu trúc không gian buôn làng Ê Đê truyền thống
1.3.1. Không gian cư trú
Người Ê Đê thường cư trú trên những địa thế tương đối bằng
phẳng, cao ráo, đất đai màu mỡ, gần nguồn nước để phục vụ cho sản
xuất và sinh hoạt. Nhà truyền thống của người Ê Đê là một ngôi nhà dài
(sang), được định hướng theo trục Bắc - Nam, có hai bộ phận chính:
phòng chung (gah) và các phòng riêng (ôk). Nhà sàn dài là nơi ở của
một gia đình mẫu hệ mở rộng, gồm nhiều gia đình nhỏ và mỗi hộ gia
đình sinh hoạt trong một ngăn buồng của ngôi nhà. Những người có vai
trò điều phối đời sống gia đình là vợ chồng bà chủ nhà (pô sang) - thường
là người chị cả và dăm dei (tạm dịch là ông cậu) - những người anh/em
trai ruột hoặc anh/em trai họ của mẹ.
1.3.2. Không gian sản xuất
8
Không gian sản xuất của một buôn Ê Đê thường rộng hơn khu cư
trú nhiều lần, gồm rừng tự nhiên, rẫy (rừng tự nhiên đã được khai hoang để
trồng trọt) và các sông suối, đầm lầy. Đại diện cho quyền sở hữu của cộng
đồng buôn làng là pô lăn. Pô lăn, về danh nghĩa, là người đàn bà quản lí đất
đai của dòng họ, buôn làng. Nhưng trên thực tế, chồng của bà mới là người
hành sự công việc, cũng là chủ bến nước, chủ làng. Trên không gian sản
xuất, người Ê Đê làm rẫy theo hình thức hưu canh luân khoảnh.
1.3.3. Không gian sinh hoạt cộng đồng
Bến nước là trung tâm sinh hoạt cộng đồng của mỗi buôn Ê Đê.
Ngoài chức năng hàng đầu là cung cấp nguồn nước sinh hoạt, bến nước
là một nơi gặp gỡ quan trọng nhất của các thành viên trong làng. Theo
quan niệm của người Ê Đê, mỗi bến nước đều có một vị thần trông coi,
cai quản nên vào tháng 3 dương lịch hàng năm, các buôn Ê Đê thường
tổ chức lễ cúng bến nước (tuk pin ea) để cầu mưa thuận, gió hòa.
Cùng với bến nước, bản thân ngôi nhà sàn dài của các hộ gia đình
cũng “kiêm nhiệm” thêm chức năng của một không gian sinh hoạt cộng
đồng. Các cuộc lễ hiến sinh trong nhà sàn là dịp gặp gỡ giữa thành viên
trong gia đình với dòng họ, buôn làng.
1.3.4. Không gian sinh hoạt tín ngưỡng
Từ lăng kính “vạn vật hữu linh”, người Ê Đê nhìn thấy các yang
(thần linh) hiện diện khắp nơi trong không gian sinh tồn của con người:
trong rừng thiêng, trên rẫy, ngoài bến nước, ngoài nghĩa địa, trong nhà sàn.
Trên các không gian này, đã diễn ra các nghi lễ - lễ hội nông nghiệp và
nghi lễ - lễ hội vòng đời.
1.4. Khái quát về các buôn được lựa chọn nghiên cứu
1.4.1. Buôn Alê A
Buôn Alê A thuộc phường Ea Tam (thành phố Buôn Ma Thuột).
Về vị trí địa lý, buôn Alê A nằm ở vùng trung tâm thành phố Buôn Ma
Thuột. Về cơ cấu nghề nghiệp, do thiếu đất nông nghiệp, người dân Alê
A lựa chọn 2 nguồn sinh kế chính là làm công chức nhà nước và làm
thuê công nhật. Về mức sống, theo xếp loại của chính quyền địa
phương, buôn Alê A nằm ở mức trung bình. Về cơ cấu tín ngưỡng - tôn
9
giáo, nhóm Thiên Chúa giáo và Tin Lành ở buôn Alê A (60,66%)
chiếm tỷ lệ áp đảo so với nhóm tín ngưỡng truyền thống (39,34%).
1.4.2. Buôn Ea Bông
Buôn Ea Bông thuộc xã Cư Êbur. Về vị trí địa lý, buôn Ea Bông
thuộc vùng phụ cận/ngoại ô của thành phố Buôn Ma Thuột. Về cơ cấu
nghề nghiệp, người Ea Bông thuần túy sống bằng nghề nông (thâm
canh cây cà phê, trồng lúa nước và chăn nuôi). Về mức sống, buôn Ea
Bông được xếp hạng trung bình khá. Về cơ cấu tín ngưỡng - tôn giáo, ở
Ea Bông, nhóm tín ngưỡng truyền thống là nhóm vượt trội (63,47%) so
với các nhóm tôn giáo (36,53%).
1.4.3. Buôn Akô Dhông
Akô Dhông thuộc phường Tân Lợi. Về vị trí địa lý, buôn Ako
Dhông ở vùng cận trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột. Về cơ cấu
nghề nghiệp, người dân Ako Dhông kết hợp giữa thâm canh cây cà phê
và cung cấp dịch vụ (cho thuê đất, phòng trọ, du lịch cộng đồng). Về
mức sống, buôn Ako Dhông được xếp hạng khá. Về cơ cấu tín ngưỡng
- tôn giáo, Ako Dhông là một buôn thuần túy Thiên Chúa giáo (100%).
Tiểu kết chương 1
Khái niệm không gian văn hóa buôn làng hàm chỉ một thực thể
không gian đóng vai trò như là không gian sáng tạo, thực hành và nuôi
dưỡng các giá trị văn hóa của cộng đồng buôn làng. Về mặt cấu trúc,
không gian văn hóa buôn làng là một chỉnh thể gồm 4 thành tố có mối
quan hệ tương hỗ: không gian sản xuất, không gian cư trú, không gian
sinh hoạt cộng đồng và không gian sinh hoạt tín ngưỡng.
Để phân tích quá trình biến đổi không gian văn hóa buôn làng của
cộng đồng Ê Đê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay, luận án vận dụng
quan điểm “lõi văn hóa” của lý thuyết sinh thái học văn hóa, quan điểm
“tiếp biến văn hóa” của lý thuyết biến đổi văn hóa và quan điểm “liên kết
chức năng”, “cân bằng hệ thống” của lý thuyết chức năng.
Chương 2: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CÁC THÀNH TỐ CẤU THÀNH
KHÔNG GIAN VĂN HÓA BUÔN LÀNG Ê ĐÊ
10
2.1. Bối cảnh tác động đến không gian văn hóa buôn làng Ê
Đê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay
2.1.1. Chính sách phát triển của nhà nước
2.1.1.1. Quốc hữu hóa tài nguyên đất rừng
Sau 1975, ở Buôn Ma Thuột nói riêng, và Tây Nguyên nói
chung, nhà nước tiến hành quốc hữu hóa toàn bộ tài nguyên đất, rừng
và giao cho các nông lâm trường quản lý.
2.1.1.2. Tập thể hóa và giải thể hợp tác xã nông nghiệp
Giai đoạn 1978 - 1980, nhà nước đã vận động các dân tộc tại chỗ
ở Buôn Ma Thuột và Tây Nguyên chuyển sang kinh tế tập thể - thông
qua hình thức tập đoàn và hợp tác xã nông nghiệp. Đến cuối thập niên
1980, mô hình hợp tác xã được giải thể, đất sản xuất được chia đều cho
các nhóm di cư và các nhóm dân tộc thiểu số tại chỗ.
2.1.1.3. Phát triển cây công nghiệp
Sau 1975, trong bối cảnh nhà nước khuyến khích người dân
đẩy mạnh thâm canh cây công nghiệp, Buôn Ma Thuột đã nổi lên như
là thủ phủ cà phê của Đắk Lắk và Tây Nguyên nhờ chất lượng và
hương vị cà phê đặc biệt của nó.
2.1.1.4. Mở rộng đô thị
Sau 1975, Buôn Ma Thuột đã trải qua một quá trình chuyển đổi
mạnh mẽ. Năm 1995, thị xã Buôn Ma Thuột được nâng cấp lên qui mô
thành phố, trở thành đô thị loại II vào năm 2005 và đô thị loại I vào
năm 2010. Theo dự kiến, đến năm 2020, Buôn Ma Thuột sẽ trở thành
đô thị trực thuộc Trung ương, cũng là đô thị trung tâm của vùng Tây
Nguyên.
2.1.2. Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
Trong hai thập niên gần đây, Buôn Ma Thuột đã thu được
những tiến bộ đáng kể về tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Theo số liệu của UBND Thành phố Buôn Ma Thuột, giai đoạn
2001 - 2008, mức tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của thành
phố đạt trên 12%. Các thành tựu kinh tế của thành phố đã thúc đẩy
những tiến bộ trong lĩnh vực văn hóa, xã hội. Về cơ sở hạ tầng, Buôn
11
Ma Thuột đã nhựa hoá 100% các trục đường giao thông liên thôn và
các trục giao thông nội thôn - buôn, 100% đường phố chính và 80%
đường hẻm đã được chiếu sáng, 90% hộ gia đình khu vực nội thành và
22,8% hộ gia đình khu vực ngoại thành được sử dụng nước sạch, tỷ lệ
sử dụng điện thoại đạt mức 124 máy/100 dân. Bên cạnh đó, công tác
giảm nghèo đạt kết quả tốt: tỷ lệ hộ giảm nghèo trung bình/năm trong
giai đoạn 2010 - 2015 là 1,2% và tỷ lệ hộ nghèo năm 2015 giảm xuống
còn 0,9%.
2.1.3. Chuyển dịch cơ cấu dân cư và dân tộc
Trong các thập niên qua, Buôn Ma Thuột trở thành điểm đến của
nhiều luồng di cư trong cả nước. Hiện nay, ở Buôn Ma Thuột có 40 tộc
người cùng sinh sống, trong đó, người Kinh và các nhóm thiểu số phía
Bắc chiếm tỷ lệ gần 90%. Nhóm dân tộc tại chỗ - với thành phần chủ yếu
là người Ê Đê chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu dân cư của thành phố:
11,21% (38.660/344.637).
2.1.4. Chuyển dịch cơ cấu tôn giáo
Bằng nhiều con đường, từ trước 1975, các tôn giáo lớn như
Phật giáo, Tin Lành, Thiên Chúa giáo đã du nhập vào Buôn Ma Thuột.
Hiện nay, bức tranh tôn giáo của Buôn Ma Thuột khá phong phú về loại
hình, thu hút đông đảo các nhóm dân tộc tham gia. Cộng đồng người
Kinh chiếm tỷ lệ lớn trong nhóm tín đồ Phật giáo và Thiên chúa giáo.
Ngược lại, cộng đồng dân tộc tại chỗ lại áp đảo trong cơ cấu tín đồ Tin
Lành.
2.2. Biến đổi không gian sản xuất
2.2.1. Sự thay đổi chế độ sở hữu, quản lý và sử dụng đất
Sau 1975, bước chuyển đầu tiên trong không gian sản xuất của các
làng Ê Đê ở Buôn Ma Thuột là sự thay đổi chế độ sở hữu, quản lý và sử
dụng đất: từ sở hữu cộng đồng buôn làng chuyển sang sở hữu tập thể và
từ sở hữu tập thể chuyển sang sở hữu tư nhân, mở đường cho những thay
đổi trong chiến lược sinh kế của mỗi cộng đồng.
2.2.2. Những thay đổi trong văn hóa sản xuất
2.2.2.1. Từ trồng lúa khô chuyển sang canh tác lúa nước
12
Từ cuối thập niên 1980, trước triển vọng lương thực của cây lúa
nước, các buôn Ê Đê ở Buôn Ma Thuột đã bỏ hẳn tập tục canh tác lúa
khô trên đất rẫy để chuyển sang trồng lúa nước dưới ruộng thấp.
2.2.2.2. Từ sản xuất tự túc chuyển sang thâm canh cây công nghiệp
Bước ngoặt sinh kế quan trọng nhất ở các buôn Ê Đê sau 1975 là
việc chuyển sang thâm canh cây công nghiệp (chủ yếu là cây cà phê)
theo hướng hàng hóa. Hiện nay, đối với các buôn còn nhiều đất sản
xuất như Ea Bông và Ako Dhông, cà phê không chỉ chiếm tỷ lệ tuyệt
đối trong cơ cấu diện tích nông nghiệp của buôn mà cũng là nguồn thu
cơ bản của các hộ gia đình. Đối với các buôn thiếu đất như buôn Alê A,
người dân phải tìm đến các chiến lược sinh kế phi nông nghiệp.
2.2.3. Hệ quả của sự thay đổi không gian sản xuất
2.2.3.1. Cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người dân
Mô hình thâm canh cây công nghiệp là một bước chuyển lớn
trong không gian sản xuất, đã góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh
thần cho người Ê Đê ở Buôn Ma Thuột. Cây cà phê được chính người
dân nhìn nhận như một loại cây trồng giúp họ thoát nghèo và làm giàu.
Ở các cộng đồng được nghiên cứu, tỷ lệ giảm nghèo liên tục giảm qua
các năm. Ngoài ra, quá trình thâm canh cà phê - với các công đoạn
phức tạp của nó, đã góp phần hình thành tính năng động xã hội cho
những người nông dân Ê Đê ở Buôn Ma Thuột.
2.2.3.2. Sự mai một của tri thức dân gian và các nghi lễ nông
nghiệp
Việc áp dụng mô hình thâm canh cây công nghiệp theo hướng hàng
hóa trên một không gian sản xuất ngày càng bị thu hẹp đã khiến cho các tri
thức nông nghiệp truyền thống của người Ê Đê không còn điều kiện áp
dụng và dần bị rơi rụng. Bên cạnh đó, hệ thực vật truyền thống cũng ngày
một vắng bóng. Tri thức dân gian về chăm sóc sức khỏe cũng được thay
thế bằng mạng lưới y tế của nhà nước và tư nhân. Các chiến lược sinh kế
mới còn tác động trực tiếp đến số phận của các nghi lễ nông nghiệp
truyền thống. Ngày nay, người Ê Đê ở Buôn Ma Thuột không còn thực
hiện các lễ cúng thần lúa theo chu kì sinh trưởng của loài cây này.
13
Những thay đổi trong thực hành các nghi lễ nông nghiệp tất yếu
kéo theo sự thất thoát của vốn di sản cồng chiêng vì sinh hoạt cồng
chiêng luôn gắn liền với hoạt động nghi lễ, lễ hội. Nhìn chung, từ sau
1975 đến nay, di sản cồng chiêng Ê Đê ở Buôn Ma Thuột và Đắk Lắk
đã suy giảm nhanh chóng về số lượng bộ cồng chiêng, nghệ nhân đánh
cồng chiêng, nghệ nhân chỉnh chiêng, số lượng bài bản. Đồng thời,
không gian, thời gian, bối cảnh, mục đích của sinh hoạt cồng chiêng
cũng bị đảo lộn.
Ngoài ra, sự thay đổi chế độ sở hữu tài nguyên cũng gián tiếp giải
thể thiết chế tự quản buôn làng truyền thống. Ở từng buôn, thiết chế tự
quản truyền thống được thay thế bằng một bộ máy quản trị mới gồm
trưởng buôn, phó buôn, bí thư chi bộ và hội trưởng các đoàn thể quần
chúng. Dấu vết truyền thống chỉ còn sót lại qua nhân vật già làng - một
chức danh phi quan phương và tổ hòa giải mà chức năng chủ yếu là giải
quyết các mâu thuẫn trong buôn.
2.2.3.3. Sự thay đổi của các tiêu chí, nguyên tắc cơ bản trong
hôn nhân
Trong tiêu chí kết hôn của người Ê Đê hiện nay, đất là nhân tố quan
trọng bậc nhất. Đất góp phần làm tăng hay giảm giá trị và mức độ chủ động
của một người khi đến tuổi kết hôn, đặc biệt là người con gái. Tình trạng đất
đai khan hiếm còn gián tiếp phá vỡ nguyên tắc cư trú bên nhà vợ sau
hôn nhân - vốn là nguyên tắc đặc trưng của chế độ mẫu hệ.
2.3. Biến đổi không gian cư trú
2.3.1. Biến đổi loại hình gia đình và phong cách kiến trúc
2.3.1.1. Gia đình mở rộng phân rã thành các gia đình hạt nhân
Đầu thập niên 1980, nhà nước tổ chức định canh định cư cho các
làng Tây Nguyên. Với người Ê Đê, định cư có nghĩa là chuyển từ hình
thức gia đình mẫu hệ mở rộng sang hình thức gia đình hạt nhân. Nói khác
đi, các hộ gia đình nhỏ sẽ tách khỏi hộ lớn để trở thành các hộ độc lập.
2.3.1.2. Từ nhà sàn dài truyền thống chuyển sang nhà sàn “hạt nhân”
Cùng với quá trình tách hộ, người Ê Đê đã chuyển từ nhà sàn dài
truyền thống sang cư trú trong các nhà sàn nhỏ, tương ứng với qui mô
14
của hộ gia đình hạt nhân. So với nhà sàn dài truyền thống, nhà sàn “hạt
nhân” không chỉ thu nhỏ về qui mô, mà còn “phá cách” về kết cấu,
hướng nhà, nguyên vật liệu và nguyên tắc sử dụng...
2.3.1.3. Từ nhà sàn “hạt nhân” chuyển sang nhà bê tông
Từ sau năm 2000, bê tông hóa nhà ở thực sự trở thành một phong
trào ở các buôn Ê Đê. Trong giai đoạn này, sự xuống cấp của nhà sàn
càng khiến nhiều hộ gia đình quyết định lựa chọn nhà xây. Tương quan
giữa nhà sàn và nhà xây thay đổi nhanh chóng. Đến nay, theo thống kê
của Phòng dân tộc thành phố, nhà sàn chỉ còn chiếm tỷ lệ 1-2% trong
cơ cấu nhà ở của các buôn.
2.3.2. Biến đổi cơ cấu dân tộc
Sau 1975, các dòng nhập cư liên tục đổ về Buôn Ma Thuột đã
làm thay đổi cơ cấu dân dân tộc ở các làng Ê Đê. Đặc biệt, từ sau thập
niên 1990, cơ cấu dân tộc trong các buôn Ê Đê thay đổi rõ rệt. Số lượng
người Kinh dần dần ngang bằng rồi vượt trội so với người Ê Đê.
2.3.3. Hệ quả của sự biến đổi không gian cư trú
2.3.3.1. Những thay đổi trong đời sống gia đình và hôn nhân
a) Tính độc lập của các hộ gia đình hạt nhân
Sau khi tách hộ, gia đình nhỏ (boh gõ) không còn là một phần tử
khăng khít của gia đình lớn như xưa kia mà độc lập về nơi ở cũng như
về kinh tế. Trong một chừng mực nhất định, quá trình tách hộ vô hình
trung đã hình thành ý thức cá nhân và ý thức tư hữu của người Ê Đê
hiện đại.
b) Sự thay đổi về quyền thừa kế và phân chia tài sản
Ngày nay, trong các gia đình Ê Đê, quyền thừa kế này đang có
xu hướng dịch chuyển từ người con gái cả sang người con gái út. Khi
bố mẹ phân chia tài sản và đất đai, cô út bao giờ cũng được nhận phần
hơn so với các anh, chị lớn. Bên cạnh đó, sự phân chia tài sản cũng
đang có xu hướng thay đổi trên bình diện giới tính: con trai cũng được
hưởng một phần tài sản của bố mẹ, kể cả đất sản xuất.
2.3.3.2. Tiếp biến văn hóa giữa người Ê Đê và người Kinh
15
Thực chất của tiếp biến văn hóa là nhóm Ê Đê tiếp nhận các giá
trị, khuôn mẫu của nhóm Kinh và biến thành các giá trị, khuôn mẫu của
chính họ. Tiếp biến văn hóa biểu hiện trên nhiều phương diện căn bản
của cuộc sống: kiến trúc, ẩm thực, trang phục, sinh hoạt tín ngưỡng, lựa
chọn nghề nghiệp, sản xuất, ...
2.4. Biến đổi không gian sinh hoạt cộng đồng
2.4.1. Các không gian truyền thống
Nhìn chung, sau 1975, các không gian sinh hoạt cộng đồng
truyền thống ở các buôn Ê Đê đều lần lượt biến mất. Ea Bông và Ako
Dhông là những trường hợp đặc biệt khi còn giữ được một góc rừng
đầu nguồn và bến nước cộng đồng.
2.4.2. Sự xuất hiện của nhà văn hóa mới
Về lý thuyết, nhà văn hóa mới ra đời nhằm lấp “khoảng trống”
chức năng mà các không gian cũ để lại. Nhưng trên thực tế, nhà văn
hóa chủ yếu thực hiện chức năng của một không gian hành chính, chưa
góp phần đáp ứng các nhu cầu văn hóa đa dạng của cộng đồng.
2.4.3. Hệ quả của sự biến đổi không gian sinh hoạt cộng đồng
2.4.3.1. Lễ cúng bến nước đối diện nguy cơ suy tàn
Hiện nay, trong số 33 buôn Ê Đê ở Buôn Ma Thuột, buôn Ea
Bông và buôn Ko Tam (xã Ea Tul) là 2 trường hợp hiếm hoi còn tổ
chức lễ cúng bến nước. Tuy nhiên, trong khi lễ cũng bến nước ở buôn
Ko Tam mang sắc thái du lịch thì việc duy trì lễ cũng bến nước ở buôn
Ea Bông trong thời gian tới đang là một khả năng để ngỏ.
2.4.3.2. Cộng đồng thiếu không gian thực hành văn hóa
Với các làng Ê Đê ở Buôn Ma Thuột hiện nay, trong khi các
không gian truyền thống đã biến mất (rừng thiêng, bến nước) thì không
gian mới (nhà văn hóa) chỉ đáp ứng được phần nào nhu cầu sinh hoạt
của cộng đồng. Hệ quả, cộng đồng thiếu một không gian thực hành văn
hóa tộc, kéo theo nguy cơ mai một các giá trị văn hóa đặc sắc và cơ bản
của tộc người.
2.4.3.3. Lớp trẻ thiếu tri thức về truyền thống tộc người
16
Việc thiếu vắng không gian thực hành văn hóa đã làm hạn chế sự
hiểu biết truyền thống của lớp trẻ, dẫn đến nguy cơ đứt đoạn giá trị, đứt
đoạn văn hó
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_bien_doi_khong_gian_van_hoa_buon_lang_e_de_o.pdf