Toàn cầu hoá với vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Đề bài: Toàn cầu hóa với vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Mục lục Mở đầu 3 Nội dung A, Một số vấn đề lý luận về toàn cầu hóa 7 1. Khái niệm về toàn cầu hoá 7 2. Ý nghĩa của toàn cầu hóa 8 3. Tác động của toàn cầu hoá 9 B, Một số lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của toàn cầu hóa đến hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam I, Một số lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam 1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế 11 2. Nội dung c

doc40 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1443 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Toàn cầu hoá với vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa hội nhập kinh tế quốc tế 11 2.1. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế 11 2.2. Nội dung của hội nhập 11 3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam 12 3.1 sự cần thiết phải hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hóa 12 3.2 Những cơ hội đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập dưới tác động của toàn cầu hóa 13 4. Những thách thức của toàn cầu hóa đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 19 4.1. Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay 21 4.2. Những nguy cơ của Việt Nam khi tham gia kinh tế quốc tế và khu vực trước ngưỡng cửa của toàn cầu hóa (những khó khăn) 22 5. Điều kiện để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế 25 5.1 Lợi thế cơ bản của nước ta khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế 25 5.2. Nhiệm vụ cần phải thực hiện khi tham gia hội nhập 26 II. Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam 27 1. Quan điểm, mục tiêu của đảng về hội nhập kinh tế quốc tế 27 2. Những chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 28 3. Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 28 3.1. Con đường hội nhập 28 3.1.1. Việt Nam gia nhập ASEAN – Hiệp hội các nước Đông Nam Á 29 3.1.2. Việt Nam hội nhập vào APEC – Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á – Thái Bình Dương 31 3.1.3. Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU) 31 3.1.4. Hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) 33 3.2 Một số kết quả đã đạt được 34 III. Quan điểm có tính chỉ đạo và giải pháp thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: 1. Tầm vĩ mô 35 2. Tầm vi mô 40 C. Kết luận 41 Bảng chữ viết tắt 42 Danh mục tài liệu tham khảo 43 Mở đầu Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu hoá đem lại. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nứoc mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của Đảng: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước “, chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Em xin chọn đề tài: "toàn cầu hóa với vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam". Đây là đề tài rất sâu rộng, mang tính thời sự. Đã có rất nhiều nhà kinh tế đề cập đến vấn đề này. Bản thân em, một sinh viên năm thứ ba, khi được giao viết đề tài này cũng cảm thấy rất hứng thú và say mê. Tuy nhiên do sự hiểu biết còn hạn chế nên em chỉ xin đóng góp một phần nhỏ suy nghĩ của mình. Bài viết còn có rất nhiều sai sót, em kính mong thầy giúp đỡ em hoàn thành bài viết tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn Nội Dung A, Một số vấn đề lý luận về toàn cầu hóa 1. Khái niệm về toàn cầu hoá. Có nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hoá nhưng điểm quan trọng mà ta nhận thấy là toàn cầu hoá không chỉ là quá trình phản ánh sự gia tăng của các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau mà nét quan trọng hơn là phản ánh qui mô của các hoạt động liên quốc gia.Từ đó ta có thể đưa ra môt khái niệm mang tính chất khái quát về toàn cầu hoá: “Toàn cầu hoá là sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ gắn kết,tác động phụ thuộc lẫn nhau,là quá trình mở rộng qui mô và cường độ hoạt động giữa các khu vực,các quốc gia các dân tộc trên phạm vi toàn cầu trong sự vận động phát triển” Với quan niệm như vậy thế giới hoá cũng có nghĩa là toàn cầu hoá và quốc tế hoá được xem như giai đoạn trước đó của toàn cầu hoá. Quốc tế hoá,toàn cầu hoá là một quá trình,và vì vậy nó khác với các vấn đề toàn cầu. Tham gia vào quá trình quốc tế hoá,toàn cầu hoá chính là thực hiện hội nhập quốc tế. Toàn cầu hoá là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện: kinh tế, chính trị,văn hoá,xã hội v.v...Trong các mặt đó thì toàn cầu hoá kinh tế đang là xu thế nổi trội nhất,nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hoá nói chung.Giống như khái niệm toàn cầu hoá thì cũng có nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hoá kinh tế. Sau đây là khái niệm phổ biến nhất: “Toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vựt qua mọi biên giới quốc gia,khu vực,tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.sự gia tăng của xu thế nàyđược thể hiện ở sự mở rộng mức độ và qui mô mậu dịch thế giới,sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu.” 2. Ý nghĩa của toàn cầu hóa Thuật ngữ toàn cầu hoá xuất hiện vào những năm 1950, với sự phổ biến các phương tiện vận tải có động cơ và sự gia tăng các trao đổi thương mại; và được chính thức sử dụng rộng rãi từ những năm 1990 của thế kỷ thứ 20. "Toàn cầu hóa" có thể có nghĩa là: Sự hình thành nên một ngôi làng toàn cầu — dưới tác động của những tiến bộ trong lĩnh vực tin học và viễn thông, quan hệ giữa các khu vực trên thế giới ngày càng gần gũi hơn, cộng với sự gia tăng không ngừng về các trao đổi ở mức độ cá nhân và sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tình hữu nghị giữa các "công dân thế giới", dẫn tới một nền văn minh toàn cầu, Toàn cầu hoá kinh tế — "thương mại tự do" và sự gia tăng về quan hệ giữa các thành viên của một ngành công nghiệp ở các khu vực khác nhau trên thế giới (toàn cầu hoá một nền kinh tế) ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia trong phạm vi kinh tế. Tác động tiêu cực của các tập toàn đa quốc gia tìm kiếm lợi nhuận — việc sử dụng các phương tiện luật lệ và tài chính mạnh mẽ và tinh vi để vượt qua giới hạn của các tiêu chuẩn và luật pháp địa phương hòng lợi dụng nhân công và dịch vụ của các vùng phát triển chưa đồng đều lẫn nhau. Sự lan rộng của chủ nghĩa tư bản từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia đang phát triển.. 3. Tác động của toàn cầu hoá Khía cạnh kinh tế Các tổ chức quốc gia sẽ mất dần quyền lực (xem ảnh hưởng về khía cạnh chính trị phía dưới), quyền lực này sẽ chuyển về tay các tổ chức đa phương như WTO. Các tổ chức này sẽ mở rộng việc tự do đối với các giao dịch thương mại, và thông qua các hiệp ước đa phương hạ thấp hoặc nâng cao hàng rào thuế quan để điều chỉnh thương mại quốc tế. Toàn cầu hóa cũng làm cho hiện tượng "chảy máu chất xám" diễn ra nhiều và dễ dàng hơn, kéo theo biến tướng là nạn "săn đầu người". Hai hiện tượng này đã góp phần gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển, giữa từng khu vực riêng biệt trong một đất nước. Khía cạnh văn hoá, xã hội và ngôn ngữ Toàn cầu hoá sẽ tạo ra những hiệu quả trái ngược ở mức độ cá nhân hay dân tộc, mà kết cục thế nào đến nay cũng vẫn chưa ngã ngũ. Toàn cầu hoá sẽ tạo ra: Một sự đa dạng cho các cá nhân do họ được tiếp xúc với các nền văn hoá và văn minh khác nhau. Toàn cầu hoá giúp con người hiểu hơn về thế giới và những thách thức ở quy mô toàn cầu qua sự bùng nổ các nguồn thông tin, việc phổ thông hoá hoạt động du lịch, việc tiếp cận dễ dàng hơn với giáo dục và văn hoá; Một sự đồng nhất đối với các dân tộc qua ảnh hưởng của các dòng chảy thương mại và văn hoá mạnh. Trên thực tế, thông tin tạo ra chính kiến và vì thế một vài tập đoàn truyền thông lớn, chủ yếu là phương Tây có thể tạo ra (và làm giả) thông tin đưa đến dân chúng. Sự độc quyền trong lĩnh vực văn hoá và thông tin này được xem như một sự " Mỹ hoá " thế giới. Khía cạnh chính trị Toàn cầu hoá sẽ làm tăng lên nhiều lần các mối quan hệ giữa các công dân trên thế giới và cũng như các cơ hội cho từng người. Tuy nhiên nó đặt ra vấn đề là phải tìm ra một giải pháp thay thế cho hệ thống chính trị và hiến pháp hiện tại dựa trên khái niệm nhà nước-quốc gia. Các thực thể này đã từng gây ra những tác động tiêu cực trong suốt lịch sử do tính chất can thiệp mạnh bạo của nó. Ảnh hưởng của chúng giảm dần do sự toàn cầu hoá, và không còn đủ tầm xử lý nhiều thách thức mang tính toàn cầu ngày nay. Từ đó nảy sinh thách thức cần thiết lập một toàn cầu hoá dân chủ thể chế nào đó. Kiểu toàn cầu hoá này dựa trên khái niệm "công dân thế giới", bằng cách kêu gọi mọi người sống trên hành tinh này tham gia vào quá trình quyết định những việc liên quan đến họ, mà không thông qua một bức màn "quốc tế". Các tổ chức phi chính phủ muốn thay vào khoảng trống này, tuy nhiên họ thiếu tính hợp pháp và thường thể hiện các tư tưởng đảng phái quá nhiều để có thể đại diện tất cả công dân trên thế giới. B. Một số lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của toàn cầu hóa đến hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam I. Một số lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả. 2. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế: 2.1. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế: Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc của các tổ chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập: Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia; tiếp cận thị trường các nước, cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển. Đối với từng tổ chức có nguyên tắc cụ thể riêng biệt. 2.2. Nội dung của hội nhập: Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau,thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư: - Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như QUOTA, giấy phép xuất khẩu..., biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm dần theo lịch trình thoả thuận... - Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua liên doanh, hiện diện - Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỉ lệ nội địa hoá, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ, khuyến khích tự do hoá đầu tư... 3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam: 3.1. sự cần thiết phải hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hóa Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là 1 trong những vẫn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc hậu. Trái lại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định song đó là yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi với những tiến bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ truyền thông và tin học, thì giữa các quốc gia ngày càng có mối liên kết chặt chẽ, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Xu hướng toàn cầu hoá được thể hiện rõ ở sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới. Về thương mại: trao đổi buôn bán trên thị trường thế giới ngày càng gia tăng. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, giá trị trao đổi buôn bán trên thị trường toàn cầu đã tăng 12 lần. Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Công nghiệp nhường chỗ cho dịch vụ. Về tài chính, số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới đã tăng gấp 3 lần trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của các tổ chức kinh tế quốc tế là một phần của quốc tế hoá. Nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế của các nước phát triển mạnh hơn nữa. Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hoá các nước giàu luôn có những lợi thế về lực lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các nước nghèo có nền kinh tế yếu kém dễ bị thua thiệt, thường phải trả giá đắt trong quá trình hội nhập. Là một nước nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm bị chiến tranh tàn phá, Việt Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế tự túc nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếpxúc với nền kinh tế thị trường rộng lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn. Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ cuộc. Trái lại, đứng trước xu thế phát triển tất yếu, nhận thức được những cơ hội và thách thức mà hội nhập đem lại, Việt Nam, một bộ phận của cộng đồng quốc tế không thể khước từ hội nhập. Chỉ có hội nhập Việt Nam mới khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để tạo ra những thuận lợi phát triển kinh tế. Chính vì vậy mà văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". 3.2 Thời cơ đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập dưới tác động của toàn cầu hóa: Dưới tác động của toàn cầu hóa thì tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện choViệt Nam phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập đem lại mà Việt Nam tận dụng được một cách triệt để sẽ làm bàn đạp để nền kinh tế sớm sánh vai với các cường quốc năm châu. 3.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam: Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau, vì vậy, khi Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng ưu đãi về thuế quan, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Chỉ tính trong phạm vi khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) kim ngạch xuất khẩu của ta sang các nước thành viên cũng đã tăng đáng kể. Kim ngạch thương mại xuất nhập khẩu Việt Nam- ASEAN tăng trung bình  15,8% hàng năm Do vậy, hàng của ta sẽ xuất khẩu vào các nước đó dễ dàng hơn. Đối với các nước EU cũng vậy, tiềm năng mở rộng thị trường hàng hoá Việt Nam tại các nước đó là rất lớn. Dĩ nhiên nước ta có bán được hàng ra bên ngoài hay không còn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, mẫu mã...hay nói cách khác là sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ra sao? Nếu hàng hoá Việt Nam có mẫu mã đẹp,chất lượng tốt, giá thành rẻ...thì việc chiếm lĩnh thị trường thế giới là tất yếu. Nhưng do hiện nay nước ta còn thiếu vốn, khoa học kĩ thuật chưa được cải tiếnđồng bộ, do đó chất lượng hàng hoá chưa cao, giá thành chưa rẻ, mặc dù có được hưởng những ưu đãi về thuế. Kết quả xuất khẩu năm 2008 (thời kỳ khủng hoảng kinh tế) vẫn đáng rất khích lệ, cho dù nền kinh tế toàn cầu có ảm đạm. Các số liệu 11 tháng đầu năm cho thấy kim ngạch xuất khẩu đã tăng ấn tượng ở mức 34%. 3.2.2. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế: - Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta làm ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Mấy năm qua, Việt Nam thu được kết quả khả quan trong thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là năm 2008 với con số kỷ lục FDI đạt 64 tỉ đô la vốn đăng ký và 11,5 tỉ đô la vốn giải ngân. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp ngày càng tích cực vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, giá trị đầu tư thực tế và giá trị giải ngân thấp hơn nhiều so với giá trị đăng ký. Tính theo giá trị lũy kế từ năm 1988 đến hết năm 2007, công nghiệp và xây dựng là lĩnh vực thu hút được nhiều FDI nhất – 67% số dự án và 60% tổng giá trị FDI đăng ký. Sau đó đến khu vực dịch vụ - 22,3% về số dự án và 34,3% về giá trị. Trong 82 quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, các nước đầu tư nhiều nhất tính theo giá trị FDI đăng ký lần lượt là Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Nhật Bản. Còn theo giá trị FDI thực hiện thì Nhật Bản giữ vị trí số một. Các tỉnh, thành thu hút được nhiều FDI (đăng ký) nhất lần lượt là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu. Riêng năm 2008, số FDI mới đăng ký (nghĩa là không tính số xin phép tăng vốn phát sinh trong năm) đạt 32,62 tỷ dollar.[41] Việt Nam cũng đầu tư ra nước ngoài tới 37 quốc gia và lãnh thổ, nhiều nhất là đầu tư vào Lào. Tính đến hết năm 2007, có 265 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký khoảng 2 tỷ dollar và vốn thực hiện khoảng 800 triệu dollar. Đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chiếm phần lớn, tiếp theo là nông, lâm nghiệp Đầu tư trực tiếp nước ngoài Năm FDI đăng ký FDI giải ngân 2006 12 4 2007 21,3 8 2008 71,7 11,5 2009 21,48 10 2010(dự kiến) 22-25 11 Đơn vị là tỉ USD. - Viện trợ phát triển ODA: Tiến hành bình thường hoá quan hệ tài chính củaViệt Nam, các nước tài trợ và các thể chế tài chính tiền tệ quốc tế đã tháo gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng. Trong năm 2009, Tổng mức ODA dành cho Việt Nam cam kết đạt 8,063.85 tỷ USD. Trong đó, Ngân hàng Thế giới (WB) trở thành nhà tài trợ lớn nhất với mức 2,498 tỷ USD. Nhật Bản công bố mức viện trợ 1,64 tỷ USD trong khi Liên minh châu Âu (EU) công bố mức hơn 1 tỷ USD, trong đó Pháp tiếp tục là nhà tài trợ lớn nhất trong khối này với 378,26 triệu USD. Trong khi đó, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dành 1,479 tỷ USD cho Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA còn bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là tình trạng giải ngân chậm và việc nâng cao hiêu quả của việc sử dụng nguồn vốn ODA. - Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ Việt Nam: Trong những năm qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và đa phương, các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ bản đã được giải quyết thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phán song phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong nước 3.2.3. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh: - Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kĩ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả . Qua đó mà các kĩ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồngthời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kĩ thuật, công nghệ nước ngoài nhằm phát triển năng lực kĩ thuật, công nghệ quốc gia. Trong cạnh tranh quốc tế có thể công nghệ này là cũ đối với một số nước phát triển, nhưng lại là mới, có hiệu quả tại một nước đang phát triển như Việt Nam. Do yêu cầu sử dụng lao động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo nên nhiều việc làm mới. Trong những năm qua, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, nhất là công nghệ thông tin và viễn thông phát triển mạnh làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận và phát triển mới này. Sự xuất hiện và đi vào hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng...và những xí nghiệp liên doanh trong ngành công nghệ dầu khí đã chứng minh điều đó. Dĩ nhiên ngoài việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo cơ hội tiếp nhận tiến bộ kĩ thuật và công nghệ, nước ta vẫn có thể sử dụng ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu để nhập công nghệ mới về phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song vì nước ta còn nghèo, dự trữ ngoại tệ rất hạn hẹp, kinh nghiệm tiếp cận thị trường bên ngoài chưa nhiều, trình độ thẩm định công nghệ lại kém và khả năng quản lý sản xuất kinh doanh với công nghện cao còn yếu cho nên còn đường thích hợp hơn với nước ta hiện nay là tiếp tục đổi mới cơ chế và chính sách, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để lấy lại nhịp độ gia tăng thu hút đầu tư trực tiếp như những năm trước, qua đó tiếp nhân và chuyển giao công nghệ có hiệu quả hơn. - Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và ngoài nước. Bởi mỗi khi liên doanh hay liên kết hay được đầu tư từ nước ngoài thì từ người lao động đến các nhà quản ký đều được đào tạo tay nghề, trình độ chuyên môn được nâng cao. Chỉ tính riêng trong các công trình đầu tư nước ngoài đã có khoảng 30 vạn lao động trực tiếp, 600 cán bộ quản lý và 25000 cán bộ khoa học kĩ thuật đã được đào tạo. 3.2.4. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên trường quốc tế. Đây là thành tựu lớn nhất sau hơn một thập niên triển khai các hoạt động hội nhập. Trước đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu với Liên Xô và các nước Đông Âu, Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 171 quốc gia thuộc tất cả các châu lục (Châu Á - Thái Bình Dương: 33, Châu Âu: 46, Châu Mĩ: 28, Châu Phi: 47, Trung Đông: 16), bao gồm tất cả các nước và trung tâm chính trị lớn của thế giới. Việt Nam cũng là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ. Đồng thời, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 165 nước và vùng lãnh thổ. Trong tổ chức Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đóng vai trò là ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA và UPU. Vai trò đối ngoại của Việt Nam trong đời sống chính trị quốc tế đã được thể hiện thông qua việc tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie) năm 1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, Hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển Việt Nam và châu Phi năm 2003. Năm 2004, Việt Nam tổ chức Hội nghị cấp cao ASEM vào tháng 10. Năm 2006, Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC vào tháng 11. Từ ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đây là một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Ngày 16 tháng 10 năm 2007, tại cuộc bỏ phiếu diễn ra ở phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, Việt Nam chính thức được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009. 3.2.5. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta với các nước: Với dân số khoảng 80 triệu người, nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào. Nhưng nếu chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng nhân lực trong nước sẽ bị lãng phí và kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông, giao lưu với các nước. Ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động hoặc có thể sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kĩ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có. 4. Những thách thức của toàn cầu hóa đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà còn đặt nước ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt thì sự thua thiệt về kinh tế và xã hội có thể rất lớn. Ngược lại, nếu chúng ta có chiến lược thông minh, chính sách không khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt, dành được lợi ích nhiều hơn cho đất nước. 4.1. Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay: Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù đã có những bước tiến quan trọng về tăng trưởng kinh tế. Song chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất, sức cạnh tranh của các sản phẩm, các doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp. 4.1.1. Tình trạng phổ biến hiện nay là nhiều sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao nên giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, thậm chí có nhiều sản phẩm cung vượt quá cầu, hàng tồn kho lớn. Năng lực cạnh tranh hàng hoá, dịch vụ của nước ta nói chung còn thấp do trang thiết bị công nghệ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém, lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 30 năm, cộng thêm những yếu kém về quản lý, môi trường đầu tư kinh doanh (thủ tục hành chính chưa thông thoáng, chính phủ đầu tư quá cao so với các nước trong khu vực), hạn chế về cung cấp thông tin xúc tiến thương mại. 4.1.2. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, tỉ lệ số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ liên tục còn nhiều thực trạng tài chính của nhiều doanh nghiệp thực sự đáng lo ngại: Dù được đánh giá là vẫn "ăn nên làm ra" trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, song theo kết quả kiểm toán năm 2008 tổng số nợ của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn lên tới 181.000 tỷ đồng. Tính đến hết tháng 12/2007, tổng số nợ phải thu của các doanh nghiệp nhà nước được kiểm toán là 32.409 tỷ đồng. Tỷ lệ bình quân phải thu trên tổng tài sản là 10,8% và trên vốn chủ sở hữu là 29,03%. Và tính đến hết năm, tổng số nợ mà các doanh nghiệp Nhà nước phải trả là trên 181.000 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ nợ phải trả trên tổng nguồn vốn bình quân hơn 60%. Nhiều doanh nghiệp không xác định tự lực phấn đấu vươn lên mà còn dựa vào sự hỗ trợ, bảo hộ của nhà nước, chưa tích cực chuẩn bị theo yêu cầu tiến trình hội nhập khu vực và thế giới. Tuy nhiên không thể đổ lỗi hoàn toàn cho các doanh nghiệp mà nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp còn lớn đang làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ có thể giảm chi phí đầu vào bằng cách đầu tư công nghệ mới, thay đổi phương thức quản lý triệt để tiết kiệm. Song họ không thể ngăn chặn được sự gia tăng của chi phí đầu vào do sự leo thang giá cả của không ít loại vật tư, nguyên liệu, điện nước, cước phí giao thông, viễn thông. Nhất là cước phí của các ngành có tính độc quyền. Thêm vào đó hầu hết các sản phẩm của ta dù để xuất khẩu hay tiêu dùng đều phải nhập ngoại nguyên, phụ liệu nên chi phí đầu vào cao. Đã vậy hàng nhập khẩu ngoài việc phải chịu thuế nhập khẩu còn phải chịu thuế VAT dù chưa có giá trị tăng thêm. Trong khi đó thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng lại chậm, do vậy làm khó khăn cho doanh nghiệp về vòng quay vốn, chịu lãi suất ngân hàng. Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải chịu chi phí do sự sách nhiễu của một số cán bộ nhà nước thoái hoá biến chất. Hơn nữa sự rườm rà về thủ tục hành chính, thanh kiểm tra chồng chéo cũng làm tăng chi phí đầu vào của các doanh nghiệp. Do chi phí đầu vào cao nên giá thành sản phẩm quá cao so với khu vực và thế giới, dẫn đến ứ đọng, khó tiêu thụ, năng lực sản xuất không khai thác hết làm cho nhiều doanh nghiệp thua lỗ.Điều đáng lo ngại nữa hiện nay là mặc dù thời điểm hội nhập với khu vực và thế giới đang đến gần, song tư tưởng đòi bảo hộ, chưa tích cực chuẩn bị còn phổ biến ở nhiều doanh nghiệp. 4.1.3. Môi trường kinh doanh đầu tư ở Việt Nam mặc dù đang được cải tiến song nhìn chung còn chưa thuận lợi, còn nhiều khó khăn: khuôn khổ pháp lý chưa đảm bảo cho cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự độc quyền trong một số lĩnh vực của một số tổng công ti nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng còn yếu kém, sự thiếu minh bạch về cơ chế chính sách, chế độ thương mại còn nặng về bảo hộ, thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa thông thoáng. Các thể chế thị trường như thị trường vốn, sức lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản...còn sơ khai, chưa hình thành đồng bộ. 4.1.4. Nguồn nhân lực Việt Nam dồi dào nhưng tay nghề kém, lợi thế về lao động rẻ có xu hướng đang mất dần: Trước mắt, do giá nhân công còn rẻ và đang có thị trường rộng lớn nên ngành may mặc và giầy da là hai ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất trong nhóm năm sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên lợi thế về nhân công rẻ đang mất dần và giá nhân công các ngành này hiện đang cao hơn một số nước trong khu vực. Hơn thế nữa, để đào tạo nghề, nâng cao kĩ năng, trình độ tay nghề cần phải chi phí đầu tư lớn, điều này sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá. Như vậy nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều yếu kém, sức cạnh tranh thấp. 4.2. Những nguy cơ của Việt Nam khi tham gia kinh tế quốc tế và khu vực trước ngưỡng cửa của toàn cầu hóa 4.2.1. Nếu như những ưu đãi về hàng rào thuế quan và xoá bỏ phí thuế quan tạo điều kiện để nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu ra các nước thì nó cũng gây ra những th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25810.doc
Tài liệu liên quan