Mục lục
Trang
Lời mở đầu
Vào những thập niên của thế kỷ XX, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Sự gia tăng mạnh mẽ đó đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này, không thể phát triển nếu như không mở cửa hội nhập. Tuy vậy, hội nhập một mặt sẽ đón nhận được những cơ hội cho phát triển, Song mặt khác, cũng phải đối với hàng loạt những thách thức do chính xu thế toàn cầu hoá đặt ra. V
20 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1432 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ì vậy, trong đại hội đảng IX của đảng ta đã nêu rõ: “ toàn cầu hoá là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế” và Đảng ta đã khẳng định:” chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường” ( văn kiện đại hội đải biểu toàn quốc lần thứ IX, tr 157,120 – NXB chính trị quốc gia).
Đã có rất nhiều bài tiểu luận, tài liệu nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, đây là vấn đề mang tính thời đại và còn trong quá trình diễn biến nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu sót sai lầm. Em rất mong có sự đóng góp của thầy giáo để bài tiểu luận của em hoàn thiện hơn ;
Nội dung
1 . Một số vấn đề lí luận và khái niệm về toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1. Khái niệm về toàn cầu hoá kinh tế
Thuật ngữ toàn cầu hoá ( tiếng anh viết là globalization) xuất hiện đầu tiên trong từ điển của Anh vào năm 1961 và được sử dụng phổ biến từ khoảng cuối thập niên 1980 trở lại đây để diễn đạt một nhận thức mới của loài người về một hiện tượng, một quá trình trong quan hệ quốc tế hiện đại, Tuy đến nay, hiên tượng này không còn mới mẻ gì, nhưng để hiểu đúng và đầy đủ về nó thì cần phải xem xét nó trên nhiều phương diện. Điều cần thấy là do thực tế vận động của toàn cầu hoá cùng với những hệ quả của nó đã đưa lại những cách lý giải và thái độ không giống nhau về xu thế này. Nó xuất phát từ lý do chủ yếu là sự khác biệt về lợi ích và nhận thức. Nhưng chung quy lại thì toàn cầu hoá có thể được hiểu theo hai nghĩa như sau:
Theo quan niệm rộng: Các định nghĩa loại này xác định toàn cầu hoá như là một hiện tượng hay một quá trình trong quan hệ quốc tế làm tăng sự tuỳ thuộc lẫn nhau của đời sống xã hội (từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn hoá đến môi trường ...) giữa các quốc gia. Tiến sỹ janart scholte đưa ra một định nghĩa rất tổng quát và rộng lớn về khái niệm toàn cầu hoá khi cho rằng:” toàn cầu hoá là một quan niệm có nhiều mặt vì nó bao quát cả lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị và các hậu quả của sự phân phối”. Cũng theo tinh thần đó, các học giả GS.TS Dương phú hiệp và học giả Lê Hữu Nghĩa đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn:” toàn cầu hoá xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau của tất cả các khu vực đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới”.
Vậy những quan niệm như quốc tế hoá là xu thế trước đó của toàn cầu hoá. Và nó là một quá trình nên nó khác với các vấn đề toàn cầu. Như vậy thì các quốc gia dù ở mức độ này hay mức độ khác trên thế giới đều tuỳ thuộc lẫn nhau, có quan hệ qua lại với nhau. Nếu không các quốc gia này sẽ rơi vào lạc hậu.
Theo quan niệm hẹp, Toàn cầu hoá là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... Trong các mặt đó thì toàn cầu hoá kinh tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hoá nói chung và thực tế toàn cầu hoá kinh tế đang là xu thế nổi bật nhất. Nhìn chung các định nghĩa thuộc loại này xem toàn cầu hoá là một khái niệm kinh tế chỉ hiện tượng hay quá trình hình thành thị trường toàn cầu làm tăng sự tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia.
Về cơ bản, toàn cầu hoá bao hàm sự tăng lên của thị trường chức năng thế giới không ngừng xâm nhập và lấn át các nền kinh tế quốc gia đang trong quá trình mất đi đặc tính quốc gia.
1.2. Khái niệm khu vực hoá
Khái niệm về khu vực hoá đã có từ lâu cùng với xu thế toàn cầu hoá phát triển rộng rãi trên toàn thế giới, xu thế khu vực hoá nổi lên là xu thế các nước tập hợp thành những nhóm khu vực ở lĩnh vực khác nhau. Nó cũng đựơc định nghĩa theo hai quan niệm rộng và hẹp .
Theo quan niệm rộng: khái niệm khu vực hoá thường được sử dụng để chỉ một hiện tượng hay khuynh hướng hợp tác hay liên kết giữa các nước và hình thành những nhóm hoặc tổ chức khu vực hoạt động trên một hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau. Giá sư C.P.oman định nghĩa khu vực hoá là:” sự dịch chuyển hai hoặc nhiều xã hội theo hướng liên kết chặt chẽ giữa chúng với nhau”. Nhìn chung, các nhà lí luận và nghiên cứu gắn khái niệm khu vực hoá với khái niệm liên kết khu vực và các định chế, tổ chức khu vực.
Theo quan niệm hẹp: khái niệm khu vực hoá nhìn chung được đề cập như một hiện tượng trong quan hệ quốc tế bao gồm các hoạt động hợp tác kinh tế giữa một số nước tập hợp thành những nhóm khu vực có mức độ liên kết kinh tế khác nhau.
Ta có thể thấy về cơ bản nội dung của khu vực hoá và toàn cầu hoá là giống nhau. nó chỉ khác nhau về quy mô và phạm vi địa lý của quá trình. Khi quá trình này diễn ra giữa hai hoặc nhiều nước trong một khu vực địa lý nhất định, nó được gắn với khái niệm khu vực hoá. khi quá trình này có sự tham gia của rất nhiều quốc gia ở những khu vực địa lý khác nhau, nó được gắn với khái niệm toàn cầu hoá. Tuy toàn cầu hoá và khu vực hoá là hai hiện tượng có những khác biệt nhất định nhưng cơ bản thống nhất với nhau, có thể xem khu vực hoá là bộ phận của qúa trình toàn cầu hoá .
1.3. Khái niệm về hội nhập kinh tế
khái niệm hội nhập cũng được xuất hiện cùng với các khái niệm về toàn cầu hoá, khu vực hoá và việc nghiên cứu nó cũng đã được tiến hành từ lâu tuy nhiên chưa có một định nghiã nào đầy đủ về nó được thừa nhận. Về thực chất, hội nhập chính là sự chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa. Có thể định nghĩa như sau:” hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hoá và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương”.
Mỗi nước có thực sự hội nhập, có thực sự tham gia vào quá trình toàn cầu hóa là do chính sách bên trong của mỗi nước có làm cho nước đó tham gia vào các định chế, tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực. Vì vậy, nội dung chủ yếu của quá trình này là:
Thứ nhất là ký kết và tham gia các định chế và tổ chức kinh tế, cùng các thành viên đàm phán xây dựng các luật chơi chung và thực hiện các quy định, cam kết đối với thành viên của các định chế, tổ chức đó.
Thứ hai tiến hành các công việc cần thiết ở trong nước để đảm bảo đạt được mục tiêu của quá trình hội nhập cũng như thực hiện các quy định, cam kết quốc tế và hội nhập. Những công việc chủ yếu đó là: điều chỉnh chính sách theo hướng tự do hoá và mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, làm cho việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và sự luân chuyển vốn, lao động, kỹ thuật giữa các nước thành viên ngày càng thông thoáng hơn. Việc điều chỉnh này trước hết có ý nghĩa là làm cho hệ thống luật định của mỗi quốc gia về chế độ thương mại (bao gồm cả ngoại thương, sản xuất kinh doanh, thuế, vấn đề xuất nhập cảng, lưu trú các doanh nhân,...) ngày càng hoàn chỉnh và phù hợp với các quy định của các định chế, tổ chức quốc tế mà các nước tham gia.
Nhưng mỗi nước muốn quá trình hội nhập của nước đó trở thành chủ động, tức là có sự chuẩn bị khi hội nhập thì về cơ bản phải làm những công việc sau:
Thứ nhất điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế phù hợp với quá trình tự do hoá mở cửa nhằm làm cho nền kinh tế thích ứng và vận hành có hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh quốc tế. Mục tiêu cao nhất của sự điều chỉnh này là tạo ra được nền kinh tế tối ưu, có khả năng cạnh tranh cao, phát huy tốt nhất những ưu thế của đất nước trong quá trình hội nhập.
Thứ hai tiến hành các cải cách cần thiết về kinh tế, xã hội đặc biệt là cải cách hệ thống các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thứ ba Đào tạo và chuẩn bị tốt nguồn nhân lực nhất là những người có trình độ cao để có thể đáp ứng tốt các đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2 . tính hai mặt của toàn cầu hoá kinh tế
Mặc dù toàn cầu hoá là một xu thế khách quan trong tình hình phát triển của thế giới ngày nay nhưng gắn liền với tiến trình ấy là đầy rẫy những mâu thuẫn, đan xen một cách phức tạp cả những mặt tích cực và tiêu cực, những nhân tố thúc đẩy sự phát triển đi kèm theo những nghịch lý phản phát triển.
2.1. Những tác động tích cực.
Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất nhanh, rất mạnh sự phát triển và xã hội hoá lực lượng sản xuất, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới trên mức cao (vào nữa đầu thế kỷ XX, GDP của thế giới tăng 2,7 lần, đến nửa cuối tăng 5,2 lần). Toàn cầu hoá kinh tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt làm tăng mạnh tỷ trọng hàng chế tác (chiếm 21,4%) và các dịch vụ (62,4%) trong cơ cấu kinh tế thế giới. Các thị trường thế giới từng bước được thống nhất, mở rộng và ngày càng phát triển, sự giao lưu hàng hoá thông thoáng hơn. Các rào cản thương mại từng bước bị loại bỏ, nhờ đó sự trao đổi hàng hoá tăng mạnh, có lợi cho sự phát triển của các nước. Từ đầu thế kỷ tới năm 1947 (khi GATT ra đời) kim ngạch buôn bán của thế giới tăng 2 lần, nhưng từ sau đó tới đầu những năm 90 của thế kỷ trước đã tăng 50 lần. Sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và tiếp theo là việc giảm thuế quan giữa các thành viên của WTO xuống mức bình quân là 3% đối với các nước phát triển và dưới 15% đối với các nước đang phát triển. Giá thành vận tải thương mại quốc tế liên lục hạ, hiện nay chỉ cón 2% giá trị hàng hoá, trong khi tỷ lệ xuất khẩu không ngưng tăng, năm 1998 là 24,3%, dự tính đến 2005 sẽ đạt 28%. Thương mại phát triển khiến thị trường thế giới thống nhất. Đến cuối năm 1993, tổng đầu tư trực tiếp vào các ngành đạt hơn 2 tỷ USD, gấp 210 lần năm 1953, đầu tư nước ngoài vào thị trường tiền tệ là 1776 tỷ USD, gấp 150 lần năm 1953. Tỷ trọng dịch vụ ở nước ngoài trên dịch vụ các chủ thể kinh tế hữu quan cũng đang tăng nhanh chóng, hệ thống công sản xuất cùng ngành nghề mang tính toàn cầu đang hình thành.
Phản ánh xu thế toàn cầu hoá, dòng vốn cũng vượt qua biên giới quốc gia, nhiều hình thức đầu tư, hợp tác sản xuất. Những thành tựu của khoa học và công nghệ được chuyển giao nhanh chóng, ứng dụng rộng rãi, qua đó các nước đi sau trong sự phát triển kinh tế có điều kiện tiếp cận với chúng để phát triển. Mạng lưới thông tin và giao thông vận tải bao phủ toàn cầu góp phần làm cho giá thành sản xuất thuyên giảm, năng suất, hiệu quả tăng cao, giao lưu thuận tiện.Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy quá trình nhất thể hoá kinh tế khu vực phát triển nhanh chóng, trao đổi kinh tế giữa các khu vực ngày càng quan trọng, tăng thêm sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa các nền kinh tế và các khu vực kinh tế.
2.2. Những tác động tiêu cực.
Những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá bắt nguồn từ nguyên nhân cơ bản là các thế lực thù địch TBCN và ĐQCN tiếp tục diễn ra trong thế kỷ XXI là một toàn cầu hoá vận động trong quỹ đạo và chi phối của CNTB, mà sự nổi trội là ưu thế cũng như lợi ích thuộc về các nước TBCN có trình độ phát triển.
Tình trạng thiếu ổn định và thiếu an toàn trong phát triển kinh tế – xã hội cũng như trong đời sống của con người. Nền kinh tế toàn cầu là một nền kinh tế rất dễ bị trấn thương, sự trục trặc ở một khâu có thể lan nhanh ra phạm vi toàn cầu. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á vào những năm cuối thế kỷ trước đã minh chứng rõ ràng cho điều đó.
Ngay trong mặt tích cực cũng ẩn chứa không ít những mặt tiêu cực. Về trao đổi hàng hoá, việc tự do hoá thương mại thường đem lại lợi ích lớn hơn cho các nước công nghiệp phát triển. Tuy nói là tự do hoá thương mại song các nước công nghiệp phát triển vẫn áp dụng những hình thức bảo hộ công khai (như áp dụng hạn ngạch) hoặc trá hình (như tiêu chuẩn lao động, môi trường… ) Tuy có chuyển giao công nghệ song các nước công nghiệp phát triển thương không chuyển giao những thành tựu mới nhất.
Toàn cầu hoá kinh tế, khoa học và công nghệ cúng kéo theo cả những tội phạm xuyên quốc gia, truyền bá nền “văn hoá” phi nhân bản, không lành mạnh, băng hoại đạo đức, xâm hại bản sắc văn hoá của các dân tộc. Gia tăng các xung đột dân tộc, sắc tộc và tôn giáo đang gây nên những căng thẳng ở rất nhiều nơi, sự xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia, sự can thiệp thô bạo của CNĐQ, đứng đầu là Mỹ dưới chiêu bài bảo vệ dân chủ, tự do, nhân quyền, với luận điệu quen thuộc “nhân quyền cao hơn chủ quyền” hòng gây sức ép phá hoại, lật đổ, đe doạ phát động chiến tranh… đang có nguy co dẫn tới những thảm hoạ khôn lường đối với các dân tộc. Đó là chưa kể tới những mưu toan dùng thủ đoạn diễn biến hoà bình, xâm lăng văn hoá, làm sói mòn quyền lực nhà nước dân tộc mà các thế lực ĐQCN đang ra sức thực hiện trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
2.3. Tác động kinh tế của toàn cầu hóa vào hội nhập
Trước khi nhà nước Việt Nam ra đời việc tham gia vào tiến trình kinh tế thế giới của chúng ta chịu sự chi phối của chủ nghĩa thực dân, do đó thực chất là quá trình bị động. Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời do điều kiện chiến tranh nên việc phát triển kinh tế và tham gia vào quá trình kinh tế quốc tế rất hạn chế. Chúng ta chỉ tiến hành quan hệ với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Từ cuối thập kỷ 70, đất nước lâm vào tình trạng khó khăn, cơ chế kinh tế cũ tỏ ra không không hợp lý, cơ chế mới chưa hình thành. Viện trợ ở bên ngoài bắt đầu khó khăn, giảm sút, trong khi đó các thế lực thù địch trong và ngoài nước chống phá và dồn ép chúng ta trên các phương diện. Gần suốt thập kỷ 80 chúng ta loay hoay tìm phương thức khắc phục song không những không hiệu quả mà còn làm cho tình hình phức tạp thêm. Trong thời gian này chúng ta vẫn tiếp tục chỉ quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, đoạn tuyệt với chủ nghĩa tư bản, chỉ coi trọng kinh tế tập thể, không phát triển kinh tế cá thể. Vì vậy, thị trường trao đổi không phát triển, hàng hóa khan hiếm.Trước tình trạng nền kinh tế ngày càng suy sụp, tinh thần của nhân dân bắt đầu lung lay. Đại hội VII đã có bước tiến trong xác định cụ thể nội dung của hội nhập quốc tế, trong đó khẳng định phải khai thông quan hệ với các tổ chức kinh tế quốc tế. Tư tưởng này được khẳng định lại tại hội nghị trung ương 7 khóa VII là “từng bước tham gia các hội, các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới và khu vực”. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục phát triển và khẳng định về sự cần thiết cũng như làm rõ thêm về nội dung và tiến trình hội nhập. Nghị quyết đại hội nhấn mạnh phải “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. “Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác. Chủ động tham gia thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách chọn lọc, với bước đi thích hợp”
Một số thành tựu đã đạt đượctrong hội nhập kinh tế toàn cầu :
Về ngoại thương: chúng ta đã mở quan hệ kinh tế với hơn 150 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Từ năm 1990 đến 1999 tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam tăng 4,5 lần, trong khi tổng giá trị nhập khẩu tăng hơn 4 lần. Trên thực tế kết thúc năm 1999 kim ngạch xuất nhập khẩu gần như ngang bằng. Trong cơ cấu hàng hóa cũng có những chuyển biến tích cực theo hướng đa dạng hóa mặt hàng, tăng dần những hàng hóa qua chế biến. Trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài: chúng ta đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Tính đến tháng 9/1999 chúng ta đã thu hút 35,9 tỷ USD FDI của hơn 70 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, trong đó đầu tư vào công nghiệp và xây dựng là gần 51%. Cùng với FDI chúng ta còn tiếp nhận một lượng không nhỏ nguồn vốn ODA. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP tăng qua các năm, năm 1993 đạt 3,6%, năm 1998 đạt 9%, năm 1999 đạt khoảng 10,5%.
Việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực không chỉ cho phép ta thu hút vốn, mà dựa vào đó chúng ta nắm bắt được công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, từng bước tạo cho ta đội ngũ công nhân có trình độ phù hợp với phát triển công nghiệp hiện đại. Chúng ta cũng đã ký hợp đồng đưa hàng vạn lao động ra làm việc tại nước ngoài.
Kết quả của hội nhập còn được thể hiện rõ ở việc gia nhập và tham gia vào những hoạt động của các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Chúng ta đã trở thành thành viên của AFTA, APEC, có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức chuyên môn của UN, IMF và WB, ADB, đặc biệt chúng ta đã ký hiệp định thương mại Việt- Mỹ .
2.4. Tác động đối với chính trị xã hội
Bên cạnh những thành tựu của việc giao lưu giữa các nền văn hóa, toàn cầu hóa cũng là nguyên nhân của sự phổ biến các loại hình văn hóa ngoại lai, làm băng hại đạo đức con người, nó dẫn đến tình trạng chia rẽ tình đoàn kết dân tộc, chia rẽ tôn giáo. Mạng internet ngày nay là một phương tiện thông tin tuyệt vời, nó giúp cho việc tìm hiểu sâu sắc hơn các nền văn hóa khác, nhưng nó lại là một phương tiện nguy hiểm cho các thế lực chống đối tuyên truyền những thông tin bịa đặt, hoặc có những trang web, những địa chỉ truy cập trụy lạc làm hư hỏng lớp trẻ. Đặc biệt, lối sống đua đòi, tây hóa ngày nay của lớp trẻ đã làm đẩy lùi các giá trị văn hóa truyền thống
Thực trạng của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, khi mở cửa để nhập khoa học công nghệ vào đã trở thành bãi thải công nghiệp cho các quốc gia phát triển, những máy móc cũ kĩ lạc hậu, gây tiếng ồn, ô nhiễm môi trường…họ đẩy sang cho chúng ta. Hơn nữa, khi tham gia toàn cầu hóa các nước phát triển thường tận dụng tối đa các nguyên liệu thô, mỏ quặng… dẫn đến tình trạng khai thác bừa bãi, làm kiệt quệ nguồn tài nguyên ở các nước đang phát triển. Do đó một mặt làm mất cân bằng, một mặt xâm phạm đến quyền lợi của các thế hệ mai sau và môi trường ở các nước đang phát triển bị ô nhiễm
2.5. Tác động của toàn cầu hoá kinh tế đối với các vấn đề kinh tế.
Thứ nhất, cán cân sức mạnh của các nước lớn, các tập đoàn kinh tế mạnh sẽ quyết định cục diện chính trị toàn cầu hoá. Bằng sức mạnh kinh tế của mình, các nước lớn cùng với các tập đoàn kinh tế mạnh của họ, sẽ chi phối phần lớn thị trường thế giới, nắm vị trí chủ yếu trong việc tổ chức sản xuất, phân luồng và giao lưu hàng hoá, dịch vụ trên phạm vi toàn cầu. Do đó, với danh nghĩa phát triển quá trình toàn cầu hoá và dưới chiêu bài bình đẳng, tự do các nước có tiền lực kinh tế mạnh mẽ áp đặt chủ nghĩa bá quyền về chính trị trên phạm vi toàn cầu.
Thứ hai, độc lập chủ quyền quốc gia chỉ là tương đối, nhượng bộ chủ quyền là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, mức độ và phạm vi nhượng bộ sẽ khác nhau, tuỳ heo tứng nước. Hiện nay, các điều ước, hiệp định trên thế giới tuy không xâm phạm hoặc vượt trên chủ quyền quốc gia, nhưng rốt cuộc đã có một sự ràng buộc nhất định đối với chủ quyền quốc gia.
Thứ ba, trong quá trình toàn cầu hoá, quyền phát ngôn của các nước yếu ngày càng bị thu hẹp. Đối với các nước nhỏ, do phụ thuộc kinh tế vào các công ty vốn nên cũng không có khả năng lay chuyển được cục diện chính trị thế giới, cho dù có liên kết cũng dễ bị giải thể. Do đó, có thể nói rằng, vị trí kinh tế của các nước đang phát triển suy yếu thì quyền phát ngôn của họ cũng sẽ bị thu hẹp. Độc quyền kinh tế rốt cục sẽ tạo ra bá quyền chính trị. Bình đẳng trên hình thức sẽ bị phá vỡ bởi sự chênh lệch về thực lực.
Thứ tư, những nhân tố không ổn định trên phạm vi thế giới có thể gia tăng lợi ích của nước nhỏ, nước yếu sẽ bị tổn hại. Các nhân tố không ổn định trong các nước nghèo như nội chiến, đảo chính, biến động chính trị, bạo lực, tội phạm,… khó có thể được giải quyết triệt để. Hơn nữa, sức mạnh kinh tế bên ngoài chi phối, và sự tranh giành kiếm lời của các thế lực càng tạo nên những khó khăn ngày một nhiều hơn, nên rất khó ổn định.
Thứ năm, các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ có vai trò quan trọng hơn, cơ chế phối hợp của các tổ chức này sẽ trở nên thuần thục và hoàn thiện hơn. Trong tiến trình toàn cầu hoá kinh tế để giành lợi kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, các nước có chủ quyền sẽ nâng cao vai trò của các tổ chức thế giới và khu vực, tăng thêm khả năng và hoàn thiện cơ chế phối hợp. Hiện các tổ chức kinh tế quốc tế như WTO, IMF và liên hợp quốc.. cũng đều công khai nên rõ sẽ đẩy mạnh công tác trên các phương diện này.
3. Cơ hội và thách thức cần vượt qua của Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá.
Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan bởi vì khi hội nhập thì nó đem lại những lợi ích vô cùng to lớn cho đất nước, mở ra những cơ hội phát triển rất lớn. Những lợi ích và cơ hội đó là:
Một là, thông qua các hiệp ước song phương và đa phương, cho đến nay, nước ta đã có quan hệ với 154 nước ở khắp các châu lục. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta đã tăng từ 677,8 rúp/USD năm 1998 lên 14,3 tỷ rúp/USD lên tới 15,2 tỷ USD. Từ chỗ nhập siêu tương đối lớn vào cuối những năm 80, đến nay cán cân xuất- nhập khẩu đã gần đạt đến độ cân bằng. Từ chỗ có rất ít hàng hoá đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD. Đến cuối những năm 90, nước ta đã có những mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD như dầu thô, gạo, hàng dệt may, giầy dép, chế biến thuỷ sản...
Nhìn về tương lai, nếu chúng ta thực hiện đầy đủ các cam kết của AFTA, tức là giảm thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của các nước thành viên xuống từ 0 đến 5% vào năm 2006, thì lúc đó các hàng hoá của Việt Nam có thể tiêu thụ khắp thị trường ASEAN với dân số trên 500 triệu người và GDP trên 700 tỷ USD. Nếu sau một số năm nữa, Việt Nam gia nhập WTO,thì đương nhiên được hưởng quyền ưu đãi tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với khoảng 150 nước thành viên của WTO (hiện nay đã có 134 nước thành viên) Nhờ vậy, hàng hoá nước ta xuất khẩu vào các nước đó dễ dàng hơn. tiềm năng mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá Việt Nam tại các nước đó rất lớn. Nước ta có bán được nhiều hàng hoá ra bên ngoài hay không còn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, mẫu mã ...
Hai là, đi đôi với mở rộng thị trường ra thế giới, Việt Nam đã tăng khả năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài. Kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được chính thức ban hành đầu năm 1988 đến cuối năm 2000 đã có trên 700 công ty thuộc 62 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào nước ta với hơn 3000 dự án, có tổng số vốn đăng ký 36 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện khoảng 17 tỷ USD. Mặc dù trong mấy năm gần đây, do ảnh hưởng của cuổc khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực vũng do chúng ta chậm tiếp tực đổi mới cơ chế chính sách, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta giảm mạnh so với những năm 90, song sự đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào sự phát triển kinh tế đất nước vẫn có xu hướng gia tăng: tỷ trọng của khu vực này trong GDP đã lần lượt tăng lên 6,3% năm 1995: 7,4% năm 1996: 9,1% năm 1997:9,8% năm 1998: khoảng 10% năm 2000. Ngoài việc góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu, các dự án đầu tư còn tạo ra khoảng 35 vạn việc làm trực tiếp và hàng chục vạn việc làm gián tiếp.
Ba là cùng với các dòng vốn đầu tư trực tiếp, nhiều tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới cũng được đưa vào nước ta. Trong những dự án liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài thuộc các ngành bưu chính viễn thông, dầu khí, điện, điện tử, dệt may, da giầy,... các công nghệ được chuyển giao là tương đối hiện đại. Cũng có những công nghệ thuộc loại trung bình không còn hiệu quả ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Tây Âu nhưng lại là thích hợp và còn hiệu quả ở nước ta trong một số ngành sản xuất khác do yêu cầu sử dụng lao động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo thêm nhiều việc làm mới. Dĩ nhiên, ngoài việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo cơ hội tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới về phục vụ các nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Song vì nước ta còn nghèo, dự trữ ngoại tệ rất hạn chế, kinh nghiệm tiếp cận thị trường chưa nhiều, trình độ thẩm định công nghệ lại kém và khả năng quản lý sản xuất kinh doanh với công nghệ cao còn yếu, cho nên con đường thích hợp đối với nước ta hiện nay là tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để lấy lại nhịp độ gia tăng thu hút vốn đầu tư trực tiếp như nhưng năm trước, qua đó mà tiếp nhận chuyên giao và sử dụng công nghệ tiên tiến có hiệu quả hơn.
Bốn là, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện khai thông việc giao lưu các nguồn lực giữa nước ta và thế giới. Trong các nguồn lực của sự phát triển hiện nay, nguồn lực con người với trí tuệ là tay nghề cao ngày càng có tầm quan trọng đặc biệt. Hiện nay, với dân số trên79 triệu người, Việt Nam có nguồn nhân lực khá dồi dào, tỷ lệ lao động được đào tạo kỹ thuật chuyên môn còn thấp (năm 2000 mới đạt trên 20%), ít hiểu biết về thị trường và nghiệp vụ kinh doanh, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn khá cao. Vì thế, nước ta đang thừa nhiều lao động giản đơn được đào tạo trong khi lại thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật và biết kinh doanh. Trong tình hình ấy, chúng ta đã thông qua con đường hội nhập kinh tế quốc tế để vừa xuất khẩu mỗi năm khoảng 24-25 ngàn lao động ra bên ngoài vừa thực hiện các hợp đồng gia công chế biến xuất khẩu, được xem là xuất khẩu lao động tại chỗ, nhờ vậy mà giảm bớt sức ép về việc làm ở trong nước. Đồng thời chúng ta đã nhập khẩu một số lại lao động kỹ thuật cao để giúp cho việc quản lý ,điều hành các cơ sở sản xuất kinh doanh có công nghệ tiên tiến ,qua đó chúng ta có thể học hỏi những kinh nghiệm cần thiết .
Thách thức cần vượt qua
Thách thức đầu tiên mà nhiều người lo ngại nhất hiện nay là do tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta phải giảm dần thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan thì hàng hoá nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào nước ta chèn ép nhiều đơn vị kinh doanh trong nước kéo theo hệ quả xấu về việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Với lo ngại đó, nhiều doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp trung bình và yếu kém, thường đỏi hỏi nhà nước thi hành chính sách bảo hộ càng lâu càng tốt. Tuy nhiên, nếu đứng từ góc độ lợi ích về lâu dài của quốc gia mà xem xét thì nhà nước không thể và không nên đáp ứng đòi hỏi nêu trên của các doanh đó được bởi lẽ: Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại vào các mốc 2006 và 2020 khi đã tham gia AFTA và APEC, cũng như các cam kết khác khi được kết nạp vào WTO.
Thách thức thứ hai, một thách thức rất nhạy cảm và hệ trọng được đặt là phải làm giữ vững được độc lập tự chủ trong tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Không ít ý kiến cho rằng, nước ta hiện nay với xuất phát điểm kinh tế rất thấp nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi thị trường phát triển chưa đồng bộ, một bộ phận đáng kể của nền kinh tế chưa thoát khỏi lối sản xuất nhỏ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh kém, trong khi các nước đi trước, nhất là các cường quốc tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt. Do đó, nếu chúng ta mở rộng quan hệ với các nước đó thì chúng ta khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ lệ thuộc về kinh tế mà có thể đi đến chỗ không giữ vững được độc lập tự chủ nữa. Để hoá giải vấn đề này cần có cách nhìn nhận theo quan điểm mới. Trước hết, cần nhận rõ độc lập, tự chủ về thực chất là mỗi nước tự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của mình. Tự quyết định các chủ trương, chính sách kinh tế- xã hội, tự đề ra mục tiêu chiến lược và kế hoạch trong từng thời kỳ và các biện pháp thực hiện các mục tiêu đo nhưng độc lập, tự do không có nghĩa là đóng cửa với thế giới quan niệm độc lập, tự chủ theo kiểu tự cấp, tự túc xây dựng cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh, hướng nội đã được kinh nghiệm của bản thân nước ta chứng minh là không còn phù hợp với xu thế chung của thời đại và không có hiệu quả, đẩy đất nước vào tình trạng chậm phát triển về kinh tế không được nếu không được khắc phục thì sẽ làm xói mói lòng tin của nhân dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo ra nguy cơ từ bên trong đối với trật tự, an toàn xã hội và điều đó rốt cuộc khiến cho chúng ta khó giữ vững đựoc con đưòng phát triển đã lựa chọn là kết hợp độc lập dân tộc với CNXH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trái lại, việc mở rộng hợp tác kinh tế hai bên cùng có lợi giữa nước ta với các nước, các tổ chức quốc tế thì sẽ tạo nên một hình thái tương tuỳ, đan xen lợi ích với nhau, do đó mà chúng ta có thân thế và lực để giữ vững độc lập tự chủ của đát nước. Đặc biệt trong khi thực hiện phương châm “ đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại” chúng ta sẽ thúc đẩy việc hình thành nên một hệ thống chằng chịt các mối quan hệ quốc tế để hạn chế và đẩy lùi âm mưu và hành động của một số thế lực nào đó buộc chúng ta phải lệ thuộc thái quá vào họ.
Một thách thức nữa không kém phần quan trọng được đặt ra đối với chúng ta trong tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế là làm sao giữ vững được bản sắc văn hoá dân tộc, đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của đất nước. Đây không chỉ là nỗi lo riêng của chúng ta mà còn là nỗi lo chung của nhiều nước khác trên thế giới. Bởi lẽ, thông qua các “ siêu lộ thông tin với mạng Internet, xu thế toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập quốc tế một mặt tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có để các dân tộc, các cộng đồng người ở mọi chân trời góc biển có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hàng hoá, dịch vụ, kiến thức, phát minh, sáng chế, dữ liệu... qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ, mở mang sự hiểu biết về các nền văn hoá của nhau mặt khác, quá trình trên cũng làm nảy sinh mối nguy cơ ghê gớm về “ sự đồng nhất hoá các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe doạ làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hoá, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của cả nhân loại”
Đứng trước tình hình đó, chúng ta không thể lui về chính sách đóng cửa, khước từ giao lưu, trao đổi, đối thoại với bên ngoài. Trái lại, với bản lĩnh vốn có của dân tộc trong quá trình giao lưu văn hoá với thế giới suốt mấy ngàn năm, chúng ta có thể vững tin và chủ động lựa chọn, tiếp thu các nhân bản, hợp lý, khoa học, tiến bộ của văn hoá các nước ở phương đông và phương tây, xem đó là nhân tố cực kỳ quan trọng khơi dậy các tiềm năng sáng tạo, làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, chúng ta c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35674.doc