Đề tài:Toàn cầu hóa tác động tới lao động và việc làm Việt Nam.
A.Lời nói đầu
Thế giới đang chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hoà bình, hợp tác, phát triển. Quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang trở thành xu hướng tất yếu của thời đại. Các quốc gia dân tộc qua đó có thể giải quyết những vấn đề chung để cùng phát triển. Tuy nhiên ta cũng nhận ra mặt trái của nó khi một thế giới bao gồm đa dạng các quốc gia dân tộc, với sự phức tạp, muôn màu của các nền kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội đang cũng tham
44 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1596 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Toàn cầu hoá tác động tới lao động và việc làm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gia vào quá trình này.
Trước xu hướng chung của thế giới, quá trình toàn cầu hoá đã mang lại nhiều cơ hội cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội ở nước ta, là một trong những nhân tố để cơ cấu lại và hiện đại hoá nền kinh tế phát triển nguồn nhân lực, làm tăng năng suất lao động và cải thiện thu nhập của người lao động. Về cơ bản nước ta có nền chính trị-xã hội ổn định, được coi là một trong những nơi an toàn cho đầu tư, hợp tác và giao lưu quốc tế. Tăng trưởng kinh tế đã cải thiện được tình trạng thu nhập bình quân đầu người quá thấp trước chuyển đổi kinh tế.Và thực tiễn cho thấy, xu thế toàn cầu hoá không những tác động đến toàn bộ nền kinh tế, mà còn tác động lớn đến các vấn đề về lao động. Các nhân tố của toàn cầu hoá đã tác động đến mở rộng việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển thị trường thị trường lao động, tăng thu nhập của người lao động trong nhiều khu vực, ngành nghề. Năng suất lao động trong nhiều khu vực, ngành đã đạt mức cao hơn nhiều so với thời kỳ trước đổi mới. Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng đặt ra những thách thức đối với vấn đề laođộng, việc làm và phát triển nguồn nhân lực nước ta. Lực lượng lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ còn thấp, chất lượng đào tạo còn bất cập chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, đặc biệt là cho các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, các loại hình dịch vụ hiện đại; tỷ lệ thất nghiệp còn cao; thu nhập của người lao động con thấp. Lao động Việt Nam còn phải khắc phục những bất cập theo chuẩn mực lao động của khu vực và quốc tế để có đủ điều kiện tham gia hội nhập. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập cũng đặt ra nhiều vấn đề xã hội của lao động. Vì thế quá trình hội nhập kinh tế đòi hỏi nước ta phải vượt qua những yếu kém rất cơ bản, yêu cầu đất nước phải tích cực và chủ động nhiều hơn.Xuất phát từ tình hình thực tế trên, em đã chọn đề tài “ Toàn cầu hóa tác động tới lao động và việc làm Việt Nam.”
1.Mục đích nghiên cứu:
Giúp tìm ra giải pháp,định hướng cho sự phát triển của nguồn nhân lực trong nước trước xu thế toàn cầu hóa dn
2.Phương pháp nghiên cứu:
Đề tàichủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp phân tích, thống kê so sánh, đối chiếu tổng hợp,… để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu.
3.Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số lĩnh vực đó là những thuận lợi và khó khăn mà với lao động Việt Nam gặp phải trong tiến trình toàn cầu hóa.
B.Nội Dung
I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẤU HOÁ ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG,VIỆC LÀM VIỆT NAM
1. Khái quát chung về tác động của toàn cầu hoá
1.1. Khái niệm về toàn cấu hoá
1.2. Nhận xét chung về tác động của toàn cầu hoá đến lao động ,việc làm
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
2.Tổng quan về tác động của toàn cầu hoá đối với một số vấn đề lớn trên
thị trường lao động Việt Nam.
2.1. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề việc làm
2.2. Tác động của toàn cấu hoá đối với vấn đề nguồn nhân lực
2.3. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề quan hệ lao động.
II.THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ
1.Thực trạng về vấn đề việc làm đối với lao động Việt Nan trong bối
cảnh toàn cầu hoá
1.1.FDI và vấn đề việc làm
1.2. Tham gia các định chế thương mại khu vực, toàn cầu và ảnh hưởng tới việc làm: Tham gia AFTA, APEC và các hiệp định thương mại khác
1.3. Biến động lao động và thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá
1.3.1Biến động lao động trong khu vực doanh nghiệp dưới tác động của toàn cầu hóa
1..3.2. Vấn đề thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá
2.Thực trạng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
toàn cầu hóa
2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phù hợp với quá trình chuyển giao công nghệ
2.2. Vai trò của doanh nghiệp trong đào tạo, bồi dưỡng nhân lực
2.3. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của lao động nước ta
2.4.Những bất cập trong việc phát triển nguồn nhân lực VN đáp ứng yêu cầu toàn cầu hóa
III.GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VIỆT NAM DƯỚI TÁC
ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ
1.Giải pháp về việc làm và chống thất nghiệp
+) Ổn định nền kinh tế vĩ mô và đào tạo bầu không khí đầu tư lành mạnh trong toàn xã hội
+)Lựa chọn công nghệ ngoại nhập thích hợp
+) Hoàn thiện các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài
+) Xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối phó với những khả năng tác động mạnh mẽ của việc thực hiện các quá trình tự do hoá thương mại.
2.Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực
+)Đào tạo nhân lực cho phát triển các lĩnh vực công nghệ cao.
+)Đào tạo nguồn nhân lực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cải cách lao động ở nông thôn
+)Đào tạo nhân lực cho xuất khẩu lao động
+)Hoàn thiện các chính sách thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực
3.Giải pháp về chính sách lao động và giải quyết các vấn đề xã hội của LĐ
+)Hoàn thiện chính sách lao động
+)Chính sách giải quyết các vấn đề xã hội của lao động
IV.KẾT LUẬN
I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẤU HOÁ ĐỐI VỚI LAO đỘNG VIỆT NAM
1. Khái quát chung về tác động của toàn cầu hoá
1.1. Khái niệm về toàn cấu hoá
Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm 80 và đầu thập kỷ 90 đã làm biến đổi trật tự hệ thống thế giới. Cũng trong thời điểm chuyển đổi ấy, khái niệm “toàn cầu hoá” bắt đầu hình thành và được sử dụng một cách phổ biến. Những quan hệ, liên kết vượt lên trên quốc gia, đôi khi người ta cách điệu thành “siêu quốc gia”, ấy được gọi là quá trình quốc tế hoá. Đa số bắt nguồn từ cơ sở kinh tế, nhưng cũng có những quan hệ được dựng lên bởi những tham vọng, lý tưởng chính trị không có nguồn gốc từ những cơ sở kinh tế – xã hội hiện thực. Những quốc gia dân tộc đã thực sự trưởng thành đến lúc tham dự một cách có ý thức vào một quá trình mới, hình thành hệ thống thế giới. Nó mở đường cho sự hình thành một hệ thống toàn thế giới. Về mặt khái niệm, đó là lúc khái niệm “quốc tế hoá” được thay thế bởi khái niệm “toàn cầu hoá”
Toàn cầu hoá là quá trình hình thành một chính thể thống nhất toàn thế giới. Đó là sự ảnh hưởng, tác động, xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế, và vận hành trong một trật tự hệ thống toàn cầu. Toàn cầu hoá có thể được xem xét như một quá trình lịch sử tự nhiên.
Roland Robertson là người đi đầu trong quan niệm này. Ông gọi nó là quá trình hội tụ thế giới trên phạm vi rộng, phân biệt với các quá trình trên phạm vi nhỏ hơn diễn ra trong quốc gia hay địa phương. Hàm ý của R.Robertson là lịch sử toàn thế giới đi theo một tiến trình hợp nhất, thông qua việc hình thành nên những thực thể xã hội lớn dần ,mà lớn nhất là thực thể toàn cầu và ngay trong quá trình hình thành các thực thể trung gian đã hàm chứa quá trình toàn cầu hoá, dưới dạng manh nha. Ông cho rằng, tiến trình toàn cầu hoá bắt đầu ở Châu Âu đầu thế kỷ XV. Nó được mở rộng ra ngoài phạm vi Châu Âu từ giữa thế kỷ XVIII. Robertson phân quá trình này thành hai giai đoạn: từ 1750 đến 1870 là giai đoạn “toàn cầu hoá phôi thai”, còn từ 1870 đến những năm 1920 như là giai đoạn thiết yếu của sự “cất cánh” đưa đến sự thiết lập một xã hội toàn cầu. Hai giai đoạn này được xác định với một hỗn hợp của những sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hoá và công nghệ. Từ cách tiếp cận xã hội học tôn giáo, Robertson vẫn có được một cái nhìn khá biện chứng về quá trình toàn cầu hoá. Ông không coi nó là quá trình đồng nhất toàn cầu, mà là sự thâm nhập lẫn nhau giữa cái toàn cầu (the global) và cái địa phương (the local).
Trong kinh doanh, nó thể hiện bằng sự hợp tác toàn cầu đáp ứng nhu cầu sản phẩm và thị trường của địa phương theo từng hoàn cảnh cụ thể, tương thích với sự thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Từ đó, Robertson đưa ra khái niệm “glocalization” hay “local globalization” (toàn cầu hoá có tính địa phương.
Tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế bao hàm sự lưu chuyển ngày càng tự do hơn và nhiều hơn hàng hoá, vốn, công nghệ và lao động vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Đó chính là phương thức để giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển của sức sản xuất, một quá trình làm cân đối cung cầu đối với những yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất, bao gồm vốn, công nghệ, quản lý, nhân công và hàng hoá nhằm tối ưu hoá việc phân bố và sử dụng những yếu tố này trên phạm vi toàn cầu.
Như vậy, toàn cầu hoá là một quá trình khách quan của xã hội loài người, cả thế giới chỉ có một quá trình toàn cầu hoá duy nhất đang trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, mỗi nước - đặt biệt là các nước đang phát triển – không thể có sự lựa chọn: tẩy chay toàn cầu hoá này hay chỉ tham gia vào toàn cầu hoá kia, hoặc chờ đợi làn sóng toàn cầu hoá mới nào đó có lợi cho mình. Việt Nam cũng không là trường hợp ngoại lệ. Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Anan đã nói “ Những người thua cuộc thực sự trong một thế giới còn rất nhiều bất bình đẳng ngày nay không phải là những người đã phải đối mặt quá nhiều với toàn cầu hoá mà là những người bị gạt ra lề của quá trình ấy”. Thủ tướng Phan Văn Khải cũng không chỉ rõ: “Chúng ta cần cùng nhau tìm ra các biện pháp nhằm tối đa hoá các mặt tích cực và tối thiểu hoá các mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá, đặc biệt là ngăn chặn sự phát triển của đói nghèo tại các nước đang phát triển vì các nước này tham gia vào quá trình toàn cầu hoá là nhằm đạt được một sự phát triển ổn định và bền vững”.
1.2. Nhận xét chung về tác động của toàn cầu hoá đến thị trường lao động và việc làm thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
Trong xu thế toàn cầu hoá, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, nhất là tác động vào các nước đang phát triển, hai xu thế tưởng chừng như trái ngược nhau đang diễn ra đồng thời , đó là vừa thúc đẩy sự di chuyển lao động, vừa hạn chế dòng di chuyển này. Một mặt, nhu cầu của thị trường lao động ở nhiều nước phát triển và các nước khan hiếm lao động đã tạo ra một dòng chảy lao động tới những nước này từ những nước đang phát triển và dư thừa lao động. Mặt khác, sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia thông qua FDI vào các nước đang phát triển đã trở thành yếu tố có tác dụng giữ lao động tại chỗ, hạn chế dòng di chuyển lao động quốc tế, nhưng lại thúc đẩy dòng di chuyển lao động trong nước từ nông thôn ra thành thị, từ những khu vực kém phát triển tới những địa phương phát triển hơn và tới những ngành nghề có nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cao hơn.
Xét theo nghĩa rộng đây chính là những hình thức khác nhau của thị trường lao động quốc tế vì lực lượng lao động làm việc trong các công ty được quản lý tập trung theo những tiêu chuẩn nhất định, buộc người lao động phải học hỏi nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu công việc giống nhau trong các chi nhánh của công ty tại các quốc gia khác nhau. Lao động tại các quốc gia đang phát triển được thu hút vào các chi nhánh công ty xuyên quốc gia. Như vậy, thực chất vẫn có sự dịch chuyển lao động nhưng không vượt qua biên giới quốc gia. Một hình thức phân công lao động quốc tế và dịch chuyển lao động vô hình nữa là trong thời đại tin học và Internet này nay, một người vẫn ngồi ở quốc gia mình mà vẫn có thể làm việc cho một công ty ở quốc gia khác thông qua mạng Internet. Như vậy, cho dù không có sự di chuyển lao động, trên thực tế lao động vẫn được quốc tế hoá, có sự phân công và ràng buộc lẫn nhau. Đây là những điểm mới của thị trường lao động quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
Toàn cầu hoá, cùng với những nỗ lực cải cách đi liền với nó, đã làm tăng áp lực cạnh tranh trên các thị trường sản phẩm. Áp lực cạnh tranh gia tăng đến lượt mình sẽ làm giảm bớt mức độ định đoạt tiền lương và phân biệt đối xử với lao động nữ của những người sử dụng lao động. Không chỉ có vậy, nhờ có thương mại hàng hoá và dịch vụ, nhờ sự chu chuyển về vốn và các luồng di chuyển trên thị trường, thu nhập từ lao động trong xu hướng dài hạn ở các nước đang phát triển ngày một tăng. Tác động tích cực của toàn cầu hoá đến tiền lương trước hết được chỉ ra trong mối liên hệ chặt chẽ giữa tiền lương và năng suất ở trong một quốc gia. Nhìn chung các nhà kinh tế thừa nhận: Năng suất lao động tăng nhanh hơn ở những nền kinh tế mở hơn, trong khi đến 90% sự khác biệt về tiền lương được giải thích bởi sự khác biệt về năng suất lao động. Với chừng mực nhất định, sự di chuyển các luồng vốn quốc tế có thể làm cho khủng hoảng tài chính dễ xảy ra hơn, những mất mát về thu nhập do toàn cầu hoá gây nên có thể lớn hơn rất nhiều so với những gì mà thương mại quốc tế mang lại. Khủng hoàng tài chính nổ ra làm giảm mức thu nhập từ lao động là do các luồng vốn đã ngày càng tự do di chuyển , trong khi lao động thì không như vậy. Do vậy, đồng thời với việc “làm thông thoáng” thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần quản lý kinh tế vĩ mô tốt và thực thi những chính sách tài chính có hiệu quả.
Trong khi tác động ngắn hạn của tự do hoá thương mại đến tiền lương có thể là tiêu cực, thì tích cực ngắn hạn của đầu tư trực tiếp nước ngoài lại là tích cực. Do vậy, mở cửa nền kinh tế, tự do di chuyển lao động mà không thu hút được vốn đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến những mất mát lớn về tiền lương và thu nhập từ lao động.
Tại Việt Nam cũng đang diễn ra những xu hướng tiền lương và dòng di chuyển lao động khác nhau. Những cơ hội việc làm được tạo ra bởi dòng FDI, nhất là ở những khu công nghiệp và khu chế xuất và sự trả công hấp dẫn hơn đã tạo nên dòng di chuyển lao động từ vùng nông thôn ra thành thị, từ khu vực nông nghiệp chuyển đến khu công nghiệp, từ nơi có thu nhập thấp hơn đến khu có thu nhập cao hơn. Ngoài ra, dòng di chuyển lao động ra nước ngoài làm việc cũng tuân theo quy luật trên, tức là tới những nơi có cơ hội việc làm nhiều hơn và trả công cao hơn. Xét về khía cạnh kinh tế, đây là những sự dịch chuyển lao động tuân theo quy luật thị trường, làm cho nguồn lực lao động được sử dụng hợp lý hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, sự di chuyển lao động theo quy luật thị trường nhiều khi lại không phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Thể hiện rõ nhất là sự bất hợp lý trong việc tập trung quá nhiều lao động có trình độ đại học ở các đô thị, trong khi loại hình lao động này lại đang rất thiếu ở những vùng kinh tế khó khăn. Ngoài ra, khác với sự di chuyển của vốn và hàng
hoá, di chuyển lao động là sự di chuyển con người nên bao giờ cũng phát
sinh nhiều vấn đề đòi hỏi có sự can thiệp và trợ giúp hiệu quả và kịp thời
của của Nhà nước. Đây là những thách thức lớn xét từ góc độ quản lý lao
động.
Toàn cầu hoá đang đặt ra những yêu cầu và điều kiện cho việc điều chỉnh
cơ cấu lao động xã hội sao cho có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế. Toàn
cầu hoá mở ra khả năng cho các quốc gia phát triển chậm hơn nhanh
chóng tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, từ đó hình thành
một cơ cấu kinh tế – xã hội có hiệu quả hơn, đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình
hiện đại hoá. Xu hướng phân công lao động quốc tế đang chuyển từ phân
công theo chiều dọc sang phân công lao động theo chiều ngang , với nội
dung của nó là phân công theo bộ phận cấu thành sản phẩm. Các cơ sở sản
xuất ở khắp các nơi trên thế giới tham gia vào sản xuất các bộ phận, chi
tiết, linh kiện theo một quy chuẩn rồi ráp nối với nhau thành sản phẩm
hoàn chỉnh. Về lâu dài, với hình thức phân công này, Việt Nam có thể
tham gia vào công đoạn nào đó của quá trình phân công lao động quốc tế
mà đẩy nhanh tiến trình điều chỉnh kết cấu ngành của nền kinh tế quốc gia
như một số quốc gia trong khu vực, đặc biệt là các “con rồng, con hổ” đã
và đang áp dụng. Về chiến lược phát triển nguồn nhân lực, các nước phát triển thường tập trung vào những ngành kỹ thuật cao, có tỷ trọng công nghệ cao và vốn cao hơn trong khi các nước đang phát triển lại tập trung nhiều vào những ngành sử dụng nhiều lao động. Điều đó cũng phản ánh một bức tranh chung về phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện phát
triển đan xen hiện nay, một mặt ta tiếp tục phát triển những ngành công
nghiệp sử dụng nhiều lao động, mặt khác vẫn có thể đầu tư phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng cho những ngành công nghệ cao để đa dạnh hoá
cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực
không thể cách ly, mà luôn phải gắn chặt với chiến lược phát triển kinh tế
– xã hội, vừa có tác dụng phục vụ, vừa có tác dụng thúc đẩy chiến lược
phát triển kinh tế – xã hội. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý và phát triển nguồn nhân lực
trong tiến trình toàn cầu hoá.Mặc dù toàn cầu hoá đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, với nguy cơ về sựkhông ổn định và gạt ra bên lề một số nước, kinh nghiệm hiện tại cho thấy toàn cầu hoá mở ra những triển vọng mới cho hội nhập của các nước đang
phát triển vào nền kinh tế thế giới.
1.2.1Những cơ hội mở ra đối với Việt Nam
Toàn cầu hoá đang mở ra những cơ hội chưa từng có cho các nước trên thếgiới. Nhờ những tiến bộ của công nghệ thông tin và viễn thông mà chi phí giao dịch giảm đi rất nhiều, khoảng cách về không gian và thời gian giữa
các quốc gia được thu hẹp, tốc độ và điều kiện tiếp cận với tri thức mới
được tăng lên. Toàn cầu hoá làm tăng thêm tính tự chủ của các tác nhân
tham gia quá trình này vì làm tăng cơ hội lựa chọn của họ, Toàn cầu hoá có lợi cho việc thúc đẩy các nhân tố kinh tế như tiền tệ, kỹ thuật, tri thức, phân bổ hợp lý hoá các nguồn lực, mở rộng hoạt động thương mại, nâng cao hiệu quả kinh tế, gắn chặt mối liên kết kinh tế , kỹ thuật giữa các nước và khu vực. Thị trường thế giới đã trở thành một nguồn công nghệ và vốn vô cùng lớn lao mà các nước đều có cơ hội để khai thác. Tri thức của loài người và thông tin toàn cầu được phổ biến rộng rãi mà mọi người đều có cơ hội tiếp cận.
Đối với nước ta, toàn cầu hoá tạo cơ hội thu hút các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, tiếp thu các công nghệ mới để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Toàn cầu hoá thúc đẩy phát triển thương mại và tạo điều kiện cho nước ta
tham gia sâu rộng hơn vào phân công lao động quốc tế nhằm phát huy tốt
hơn lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế. Như vậy, với những điều kiện phù
hợp, toàn cầu hoá có thể đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, xoá
đói giảm nghèo và mở ra con đường phát triển lâu dài bền vững tiến kịp
các nước đi trước.
1.2.2Những thách thức lớn đối với Việt Nam
Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh rằng, cơ hội, xét về ý nghĩa thực tiễn
chỉ là tiềm năng. Bản thân các cơ hội không mang lại các giá trị cụ thể.
Các cơ hội có thể trở thành hiện thực khi và chỉ khi các điều kiện cần thiết
để thực hiện đã được hội đủ. Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá cũng có nghĩa là nước ta cần phải tuân thủ hàng loạt các yêu cầu để hôị nhập, từ các luật lệ về bản quyền đến các tiêu chuẩn về ngân hàng. Trong khi đó , rất nhiều chuẩn mực, quy tắc quốc tế được soạn thảo trong tình hình các nước phát triển giữ vai trò chính. Như vậy, đối với các nước có trình độ phát triển thấp như nước ta, rủi ro trong vận hành kinh tế sẽ gia tăng.
Toàn cầu hoá kinh tế đưa đến nhiều cơ hội lập nghiệp, nhiều cơ hội việc
làm, nhưng kèm theo là đổi mới kỹ thuật nhanh hơn , vòng quay tuổi thọ
ngắn hơn, vốn lưu thông linh hoạt hơn, sự cạnh tranh nhân lực sâu sắc hơn
và tính rủi ro trong việc làm cũng cao hơn.
Những thách thức lớn nhất đối với nước ta hiện nay và trong tương lai là
làm thế nào để vượt qua được những yếu kém của nền kinh tế và sự tụt
hậu của nguồn nhân lực như:
Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của từng loại hàng hoá, dịch vụ nói riêng còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới và về chất lượng, giá cả, mẫu mã...; Cơ sở hạ tầng (đướng sá, bến cảng, giao thông, thông tin liên lạc, điện nước...) kém phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế; Trình độ công nghệ của các ngành kinh tế rất lạc hậu (đi sau các nước trong khu vực từ 3-5 thế hệ). Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và kinh doanh còn ở mức rất thấp; Các thể chế kinh tế thị trường chưa được thiết lập và phát triển đồng bộ;Chất lượng nguồn nhân lực còn bất cập. Ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ, những phẩm chất khác như ý thức chấp hành kỷ luật lao động và kỷ luật công nghệ, khả năng ngoại ngữ, tình trạng sức khoẻ... cũng đáng lo ngại;Cơ sở vật chất của hệ thống đào tạo, dạy nghề nước ta lạc hậu so với trình độ chung của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Trong khi khả năng đầu tư cho đào tạo, dạy nghề còn ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực. Xu hướng thương mại hoá giáo dục, đào tạo cản trở yêu cầu tăng cường giáo dục và đào tạo cho người lao động tại các vùng chậm phát triển và cho người nghèo .
2.Tổng quan về tác động của toàn cầu hoá đối với một số vấn đề lớn trên
thị trường lao động Việt Nam
Đối với Việt Nam trong gần hai thập kỷ qua, nhiều thay đổi đã và đang diễn ra dưới những tác động kép. Thứ nhất, đó là những thay đổi do quá trình đổi mới mà Đảng và nhân dân ta chủ động khởi xướng và thực hiện mang lại. Thứ hai là tác động của xu hướng toàn cầu hoá. Đường lối đổi mới của Việt nam được thực hiện trong bối cảnh trên thế giới đang diễn ra xu hướng toàn cầu hoá và yếu tố toàn cầu hoá được tính đến trong quá trình triển khai đường lối đổi mới. Bởi vậy, chúng ta cần đánh giá, dự báo đúng những thay đổi đã và có thể diễn ra dưới những tác động của nhữngyếu tố nội tại trong đường lối đổi mới và những tác động từ bên ngoài của xu hướng toàn cầu hoá. Nói cách khác, chúng ta cần đánh giá đúng mức độ và phạm vi tác động của toàn cầu hoá đổi với những thay đổi của Việt Nam để có những đối sách thích hợp. Trong lĩnh vực lao động – việc làm và các vấn đề xã hội, có thể khái quátmột số tác động của toàn cầu hoá như sau
2.1. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề việc làm
Về tổng thể trên phạm vi toàn cầu, quá trình toàn cầu hoá làm tăng lưu
lượng giao dịch trên cả 3 thị trường là thị trường hàng hoá-dịch vụ, thị
trường tài chính và thị trường lao động. Đối với thị trường lao động thế
giới, tổng cầu về lao động, tức số việc làm mới được tạo ra nhiều hơn,
nhưng đi kèm theo đó sẽ là sự dư thừa lao động cục bộ, tức thất nghiệp do
sự cạnh tranh và sự phân bổ lại các nguồn lực dưới tác động điều chỉnh
của thị trường toàn cầu. Như vậy, sự gia tăng của tổng cầu về lao động và
suy giảm cục bộ về lao động chính là hai yếu tố mang đến thời cơ và thách
thức cho mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp trong quá trình toàn cầu hoá.
Trong khi toàn cầu hoá vừa làm mất đi việc làm vừa tạo ra việc làm mới,
hai quá trình này không diễn ra đồng thời. Trong giai đoạn tự do hoá
thương mại, và nói chung hơn là giai đoạn của cải cách kinh tế, tốc độ mất
việc làm có thể cao hơn so với tốc độ tạo việc làm. Những nguyên nhân
thường được nêu ra là:
- Do phải sắp xếp lại lao động khi dỡ bỏ những rào cản thương mại, đặt
biệt là trong những ngành được Nhà nước chính thức bảo hộ dựa vào
nguồn lao động rẻ và chất lượng thấp.
- Song song với quá trình trên là việc thu hẹp “đặc quyền” và giảm dư
thừa lao động trong doanh nghiệp Nhà nước cùng các cơ quan hành
chính. Quá trình này làm tăng đáng kể tỷ lệ thất nghiệp trong những
năm đầu của “mở cửa”.
Nhưng hội nhập với thị trường thế giới, đẩy mạnh cạnh tranh, cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước, bãi bỏ độc quyền trong một số ngành cung cấp
dịch vụ công cộng, cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là chính sách mở
cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã gắn liền với việc tạo ra khối lượng
công ăn việc làm lớn, mở rộng thị trường lao động phi nông nghiệp và
hướng mạnh vào các ngành xuất khẩu.
Việc làm tạo ra dễ thấy là nhờ đầu tư trực tiếp nước ngoài, cụ thể nhất là
trong các khu công nghiệp và khu chế xuất. Đây chính là những động lực
tạo việc làm mạnh mẽ, bởi lẽ khu vực này không chỉ trực tiếp tạo việc làm
mà còn tác động “lan tỏa” tạo cầu lao động mới và thu hút vào các dự án
liên qua.
Nhìn chung, những đánh giá dài hạn và kinh nghiệm hội nhập cho thấy
trong cả quá trình, tốc độ tạo việc làm mới cao hơn nhiều so với tốc độ
mất việc làm.
Đối với Việt Nam, với tư cách là một nước phát triển, toàn cầu hoá có tác
dụng tích cực trong việc tạo ra việc làm mới trong bốn khu vực: Thứ nhất
là khu vực đầu tư nước ngoài FDI, Thứ hai là các doanh nghiệp sản xuất
và chế biến hàng xuất khẩu, thứ ba là xuất khẩu lao động, và thứ tư là tại
các khu vực khác, toàn cầu hoá đã có ảnh hưởng nhất định tới kích cầu nội
địa về hàng hoá-dịch vụ đã có tác dụng tăng cầu lao động, tức tạo thêm
việc làm.
Theo số liệu thống kê, số lao động làm việc trong khu vực đầu tư nước ngoài tăng từ 373,7 nghìn người năm 2000 đến 1674,1 nghìn người năm 2008 và ứng với đó là cơ cấu lao động tăng từ 0.99% đến 3.73%.
Hàng triệu lao động được thu hút vào những ngành nghề sản xuất hàng
xuất khẩu, trong đó có những ngành có tổng kim ngạch xuất khẩu lớn và
sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, nuôi trồng và chế biến thuỷ
sản, thủ công mỹ nghệ, trồng các loại cây nông nghiệp và công nghiệp như
lúa, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, cao su, cây ăn quả....
Về xuất khẩu lao động, Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết từ đầu năm 2009 đến nay, cả nước đã đưa được 65.787 người đi xuất khẩu lao động, đạt 73,1% kế hoạch. Xét trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kết quả này thể hiện sự nỗ lực của đội ngũ làm công tác xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích cho rằng, đằng sau các con số là những vấn đề cần mổ xẻ một cách nghiêm túc, để đánh giá triển vọng một cách chính xác. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lao động cho rằng, diễn biến trên thị trường lao động ngoài nước thời gian qua là khá phức tạp và không sát dự kiến. Ví dụ, khoảng 2 năm trở về trước, Malaysia là thị trường dẫn đầu về số lượng, tiếp nhận khoảng 35.000 - 40.000 lao động/năm. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cũng xác định từ năm 2009 trở về sau, thị trường Trung Đông đóng vai trò trọng điểm, với mục tiêu mỗi năm đưa được khoảng 25.000 người. Ngoài ra, thị trường Đông Âu (gồm Nga, Czech, Slovakia, Bulgaria, Romania,...) cũng từng được đặc biệt quan tâm với kỳ vọng mỗi năm giải quyết việc làm cho hàng chục ngàn người. Tuy vậy, số liệu tổng kết từ Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cho thấy, năm 2009, Đài Loan là thị trường tiếp nhận nhiều nhất, với 19.577 người lao động, Hàn Quốc 7.175 người, Nhật Bản 4.959 người. Điều khá bất ngờ, Lào đột ngột “bứt phá” và vươn lên trở thành thị trường lao động xuất khẩu lớn thứ tư, với 4.580 người. Kế đến là Libya 4.550 người, UAE 3.933 người... Các thị trường được xác định là trọng điểm trước đây, hoặc cơ bản không còn tồn tại (như Đông Âu), tiếp nhận lao động nhỏ giọt (như Trung Đông), hoặc thiếu “nguồn” (như Malaysia).
Ngoài ra, còn phải kể đến hàng chục ngàn lao động bằng cách này cách
khác đã tìm được cách ra nước ngoài làm ăn sinh sống, phần lớn ở các
nước Đông Âu và các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ, và trong thời gian
gần đây là sang Trung Quốc và Căm Pu Chia. Trong số này có những
người làm ăn nghiêm túc, có những đóng góp cho kinh tế của nước sở tại
và tạo thu nhập cho bản thân và gia đình. Bên cạnh đó, cũng còn những
người có những hoạt động vi phạm pháp luật nước sở tại. Việc di chuyển
lao động quốc tế mang tính tự phát này cũng phản ánh tác động của xu thế
toàn cầu hoá. Dòng di chuyển này đang ẩn chứa trong nó cả cơ hội và
nguy cơ. Một mặt, nó góp phần giải quyết việc làm, tạo cơ hội cho một bộ
phận dân cư. Mặt khác nó cũng kèm theo nhiều hiện tượng xã hội phức
tạp, thậm chí tội phạm.
Thu nhập dân cư tăng, giao lưu quốc tế tăng, thông tin trao đổi trong và
ngoài nước đã kích thích nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cả về lượng
lẫn về chất. Đây chính là yếu tố kích thích cầu của thị trường hàng hoá và
dịch vụ trong nước và là tác động gián tiếp của toàn cầu hoá đối với việc
tạo việc làm trong nước. Trong hơn hai năm thực hiện Luật doanh nghiệp,
đã có hơn 42 ngàn doanh nghiệp và hơn 300 ngàn hộ kinh doanh mới đăng
ký, thu hút thêm vốn đầu tư tương đương 4 tỷ đô la Mỹ và tạo được
khoảng 750 ngàn chỗ làm việc mới.
Ngoài tác động tích cực trong việc tạo việc làm mới, toàn cầu hoá cũng
buộc các doanh nghiệp của Việt Nam phải không ngừng nâng cao tính
cạnh tranh, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực, trong đó có
nguồn lực lao động. Chính sức ép này đang tạo ra những thách thức đối
với vấn đề việc làm, nhất là trong khu vực kinh tế quốc doanh. Trước hết,
cần khảng định chủ trương tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà
nước là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm làm cho khu vực kinh tế
Nhà nước làm ăn có hiệu quả hơn, sử dụng hợp lý và kinh tế hơn các
nguồn lực của xã hội. Quá trình sắp xếp , tổ chức lại doanh nghiệp Nhà
nước lại diễn ra trong điều kiện toàn cầu hoá nên nhiều doanh nghiệp chịu
sức ép cạnh tranh hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp từ thị trường quốc tế. Trong
thời đại ngày nay, khó có thể tìm thấy một doanh nghiệp nào mà các yếu
tố đầu vào hoặc đầu ra, hoặc các phần cấu thành nên yếu tố đầu vào không
chịu ảnh hưởng của giá cả thị trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, nhiều
doanh nghiệp Nhà nước đã bộc lộ yếu kém trong quản lý và sử dụng
nguồn lực, trong đó có nguồn lực lao động. Để đảm bảo tính hiệu quả và
sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của toàn bộ khu vực kinh tế Nhà
nước, một bộ phận lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp Nhà
nước sẽ thuộc diện dôi dư. Bởi vậy, trong những năm tới, xử lý vấn đề lao
động dôi dư từ các doanh nghiệp Nhà nước đang là vấn đề trọng tâm của
Việt Nam trong lĩnh vực lao động việc làm.
2.2. Tác động của toàn cấu hoá đối với vấn đề nguồn nhân lực
Toàn cầu hoá không chỉ là vấn đề của Quốc gia, khu vực mà là công việc
của từng cá nhân và từng doanh nghiệp, họ là chủ thể chính của quá trình
toàn cầu hoá đang diễn ra trên thế giới. Với cách nhìn này nhiều người còn
nói toàn cầu hoá là một hiện tượng vi mô. Bởi lẽ:
Quá trình toàn cầu hoá hiện nay với nền kinh tế tri thức ngày càng phát
triển, yếu tố con người được phát huy hơn bao giờ hết so với giai đoạn
phát triển trước đây của xã hội loài người.
Tính chất toàn cầu hoá trong sản xuất và cạnh tranh của mỗi q._.uốc gia
ngày càng đi vào chiều sâu; sự phát triển của nền kinh tế tri thức với
động lực là sự tiến triển vũ bão và không ngừng của khoa học kỹ thuật
và công nghệ ngày càng làm sâu sắc thêm đặc điểm trên, qua đó con
người – với tính cách và trình độ từng cá nhân – ngày càng đóng vai
trò trung tâm trong mọi hoạt động, mọi quyết định của quá trình sản
xuất và cạnh tranh.
Môi trường để con người phát huy vai trò nói trên của mình là doanh
nghiệp. Doanh nghiệp là người trực tiếp nhất trong đối chọi hay hợp tác
với mọi đối tác trong nền kinh tế toàn cầu hoá- Nhà nước chỉ đứng
đằng sau làm hậu thuẫn. Đương nhiên đến lượt mình, bản thân sự phát
triển của mỗi doanh nghiệp lại cũng do yếu tố con người quyết định.
Lao động giản đơn ngày càng giảm ý nghĩa trong sản xuất và cạnh tranh
mang tính toàn cầu, trái lại năng lực và tư chất con người quyết định biến
những cơ hội do môi trường mới mang lại thành những hoạt động sản xuất
thiết thực, mở đường “tiến kịp” các nước đi trước.
Toàn cầu hoá càng phát triển, các thị trường càng được mở rộng, thương
mại càng tự do thì sức ép về tính cạnh tranh càng cao đối với mỗi nền kinh
tế, mỗi doanh nghiệp, thậm chí mỗi cá nhân. Trước đây, giá nhân công rẻ
là lợi thế của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, để thu hút
vốn đầu tư nước ngoài và xuất khẩu lao động. Nhưng ngày nay, lợi thế này
đang dần mất đi ý nghĩa. Trong bối cảnh khả năng tiếp cận đối với các
thiết bị, máy móc, công nghệ hiện đại của các doanh nghiệp là gần như
nhau, yếu tố tạo nên sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, mỗi nền kinh tế
chủ yếu nằm ở yếu tố quản lý và chất lượng nguồn nhân lực. Ngoài ra, yếu
tố giá lao động rẻ chỉ có lợi thế tuyệt đối với những ngành kinh tế sử dụng
công nghệ cao hoặc những ngành sử dụng nhiều vốn. Bởi vậy, việc không
ngừng nâng cao tính cạnh tranh của nguồn nhân lực đang trở thành cuộc
chạy đua giữa các doanh nghiệp, giữa các nền kinh tế. Có thể nói toàn cầu
hoá đang tạo ra yêu cầu, động lực và điều kiện để phát triển nguồn nhân
lực, đào tạo và nâng cao tay nghề chuyên môn kỹ thuật. Đây vừa là điều
kiện thuận lợi , vừa là thách thức lớn đối với Việt Nam trong lĩch vực phát
triển nguồn nhân lực.
Về mặt thuận, toàn cầu hoá đã có một số tác động tích cực đối việc nâng
cao chất lượng lao động của Việt Nam.
Thứ nhất, toàn cầu hoá kích thích sự phát triển nhanh chóng của Khoa học
công nghệ đòi hỏi người dân nói chung và lực lượng lao động nói riêng
phải không ngừng nâng cao trình độ cho theo kịp sự phát triển của khoa
học, công nghệ và yêu cầu của công việc, của cuộc sống. Toàn cầu hoá
cũng tạo điều kiện cho người lao động nhanh chóng tiếp nhận được thông
tin, tri thức mới, góp phần nâng cao dân trí. Đây là điều kiện và động lực
quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Thứ hai, đối với số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp có
phương pháp quản lý tiên tiến, sử dụng công nghệ hiện đại ở trong và
ngoài nước, qua quá trình làm việc họ đã học tập, tiếp thu thêm về tay
nghề, năng lực quản lý và tác phong làm việc.
Quá trình hội nhập quốc tế cũng đã làm bộc lộ những hạn chế của lực
lượng lao động của Việt Nam. Cả nước đang chứng kiến một nghịch lý là
trong khi chúng ta thừa lao động trên thị trường lao động thì vẫn thiếu cục
bộ đối với một số ngành nghề đang có nhu cầu tại một số khu chế xuất,
khu công nghiệp và đặc biệt là đối với thị trường lao động ngoài nước.
Sức cạnh tranh chưa cao của lao động nước ta không chỉ thể hiện ở trình
độ chuyên môn, tay nghề chưa cao , thiếu ngoại ngữ, mà còn ở tinh thần
chấp hành kỷ luật, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, văn hoá ứng sử trong
công việc chưa phù hợp với tác phong làm việc hiện đại. Tính cạnh tranh
chưa cao của lực lượng lao động Việt Nam tiếp tục là những thách thức
lớn đối với Việt Nam trong quá trình toàn cầu hoá, đòi hỏi chúng ta phải
có những cố gắng lớn hơn trong chiến lược giáo dục và phát triển nguồn
nhân lực cho phù hợp với yêu cầu của thời đại.
2.3. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề quan hệ lao động
Dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế cơ chế quan hệ lao động mới được
hình thành. Trong đó, cơ chế thoả ước lao động tập thể (cộng đồng hiệp
ước) và hợp đồng lao động nguyên tắc cơ sở để người lao động và người
sử dụng lao động cam kết thực hiện quan hệ lao động.
Thoả ước lao động tập thể và hợp động lao động được sử dụng rộng rãi
trong quan hệ lao động tại các nước kinh tế thị trường trên thế giới, là căn
cứ để bảo vệ người lao động và người sử dụng lao động trước pháp luật có
sự tham gia của đại diện Công đoàn, Nghiệp đoàn.
Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh quan hệ lao động thông qua Bộ luật
lao động và các văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng Bộ luật lao động.
Cơ chế quan hệ lao động mới bao hàm việc trao quyền tự chủ hoàn toàn
cho người sử dụng lao động trong tuyển dụng, sử dụng, trả lương (trả
công) và kết thúc hợp đồng đối với người lao động trên cơ sở tuân thủ các
quy định pháp luật lao động, bảo vệ các lợi ích của người lao động và của
người sử dụng lao động.
Dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế với sự phát triển của nhiều loại
hình doanh nghiệp, quan hệ lao động có những đặc trưng riêng. Đó là quan
hệ lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá, hợp tác xã kiểu mới,
doanh nghiệp FDI. Nhà nước đã có một số quy định riêng đối với quan hệ
lao động trong các doanh nghiệp loại này; đặc biệt là về tiền lương tối
thiểu, cổ phần của các cổ đông, các quyền lợi vật chất khác của người lao
động...
Phù hợp với quan hệ lao động mới, quyền đình công của người lao động
được luật pháp lao động quy định. Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động
mang tính phổ biến của các nước trên thế giới được hình thành (hệ thống
hoà giải lao động, toà án lao động...).
Chính sách mở cửa, tự do hoá có các nội dung chính là loại bỏ dần các
hàng rào nhân tạo cản trở sự giao lưu quốc tế như hạn chế dần sự độc
quyền của nhà nước trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu, cho
phép nước ngoài đầu tư kinh doanh một cách ít hạn chế nhất, thực hiện
cạnh tranh tự do, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, hạ thấp và bãi bỏ
hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hiện nay, ngày càng có nhiều chính phủ chuyển sang chính sách tự do
hoá, mở cửa thị trường và loại bỏ những cơ chế điều hành cản trở các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Chính sách này đã tạo ra một môi trường thông
thoáng hơn bao giờ hết cho sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế giữa
các quốc gia. Chính sách tự do hoá đã tạo điều kiện cho việc khai thác các
công nghệ mới ở các thị trường có quy mô toàn cầu ở mọi nơi trên thế
giới. Nhiều nước đã mạnh dạn dựa nhiều hơn vào các thị trường quốc tế
nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng và phát triển của
mình. Quá trình tự do hoá hiện đang tập trung vào lĩnh vực đầu tư và
thương mại của WTO đang đóng một vai trò chủ đạo trong quá trình này.
II.THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ
1.Thực trạng về vấn đề việc làm đối với lao động Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hoá
Có những nhân tố của toàn cầu hoá góp phần làm gia tăng nguy cơ thất
nghiệp trong điều kiện của Việt Nam, nhưng rất nhiều nhân tố hoặc trực
tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến thị trường lao động nước ta, tạo
thêm nhiều việc làm hơn.
1.1.FDI và vấn đề tạo việc làm
Trên phạm vi toàn cầu, mỗi năm của thập kỷ 70 trong thế kỷ trước có đến
40 triệu việc làm trực tiếp do FDI tạo ra, con số này trong các năm thập kỷ
80 là 65 triệu việc làm và thập kỷ 90 là 70-75 triệu việc làm
Đối với nước ta, dòng chảy của FDI (chủ yếu là từ các Công ty xuyên
quốc gia) là bộ phận vốn đầu tư quan trọng trong tạo việc làm.
Vốn FDI hàng năm giai đoạn 2001-2008 trong tổng vốn đầu tư cơ bản của
toàn xã hội.
Bảng 1:Cơ cấu vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính:%
Thành phần kinh tế
Năm
Tổng số
Kinh tế nhà nước
Kinh tế nước ngoài nhà nước
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
2001
100
59,8
22,6
17,6
2002
100
57,3
25,3
17,4
2003
100
52,9
31,1
16,0
2004
100
48,1
37,7
14,2
2005
100
47,1
38,0
14,9
2006
100
45,7
38,1
16,2
2007
100
37,2
38,5
24,3
2008
100
28,6
40,0
31,4
Nguồn: Lao động đang làm việc hàng năm phân theo thành phần kinh tế và phân theo ngành kinh tế năm 2008- TCTK
Số việc làm do khu vực FDI tạo ra chiếm tỷ trọng không lớn nhưng là việc
làm có mức đầu tư cao. Suất đầu tư bình quân / chỗ làm việc khu vực FDI
là 663,4 triệu đồng, trong khi suất đầu tư/ chỗ làm việc bình quân của toàn
bộ nền kinh tế khoảng 39,3 triệu đồng, công nghiệp quốc doanh 50 triệu
đồng, tiểu thủ công nghiệp 10 triệu đồng, nông lâm ngư nghiệp 14 triệu
đồng, dịch vụ 27 triệu đồng. Mức đầu tư/ chỗ làm cao của khu vực FDI đã
góp phần nâng cao trình độ công nghệ và quản lý, năng suất và hiệu quả
của việc làm.
Bảng 2: Lao động chuyên môn kỹ thuật trong khu vực FDI
Đơn vị tính: Nghìn người
Loại lao động
1998
1999
2000
2001
2002
Công nhân kỹ thuật
159,3
174.64
194.7
199.8
222.5
Trung học chuyên nghiệp
17,55
19.24
21.45
22.9
25.27
Cao đẳng, đại học trở lên
39,69
43.51
48.51
50.21
54.75
Nguồn: Cơ cấu lao động đang làm việc hàng năm phân theo thành phần kinh tế và phân theo ngành kinh tế
Số việc làm gián tiếp như: Cung cấp dịch vụ, gia công và đại lý tiêu thụsản phẩm... do khu vực FDI tạo ra cao hơn nhiều so với số việc làm trực tiếp do khu vực này tạo ra. Nếu chỉ lấy tỷ lệ việc làm trực tiếp – việc làm gián tiếp thấp nhất như kết quả khảo sát là 1/1,97 thì tổng số việc làm gián tiếp theo phương pháp suy rộng do các dự án FDI tạo ra tính đến năm 2008 đã là 1674.1 nghìn việc làm. Ngoài ra, khu vực FDI còn tạo nhiều việc làm cho lao động nông thôn liên quan đến sản xuất nguyên vật liệu như: Trồng mía, trồng cây lấy gỗ, nuôi trồng thuỷ sản... Dưới động tác của FDI, các ngành công nghiệp xuất khẩu, ngành sử dụng nhiều lao động đã thu hút được nhiều lao động.
Công nghệ thông tin: dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế, công
nghệ thông tin có sự phát triển mạnh từ năm 1990 trở lại đây. Tính đến
tháng 3/2002 công nghệ thông tin và điện tử đã thu hút được 726 triệu
USD FDI. Số lao động làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin các
năm 1991-1993 hầu như chưa đáng kể. Từ 1994 trở lại đây, quy mô lao
động của lĩnh vực công nghệ thông tin tăng nhanh. Năm 2002 đã có
trên 20 nghìn người làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin, hàng
năm thu hút thêm hàng nghìn lao động. Riêng trong công nghiệp phần
mêm, tốc độ tăng trưởng nhân lực như sau: năm 1996 tổng số: 1800
người, 1997: 2300 người, 1998: 2800 người, 1999: 3400 người, 2000:
4200 người, 2001: 5200 người, năm 2001: 5500 người.
1.2. Tham gia các định chế thương mại khu vực, toàn cầu và ảnh hưởng tới
việc làm: Tham gia AFTA, APEC và các hiệp định thươngmại khác
Tham gia AFTA (khu vực thương mại tự do ASEAN)
Việt nam là một thành viên của ASEAN đã cam kết thực hiện lịch trình
CEPT (chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung của ASEAN), tự
do hoá hầu như hoàn toàn mậu dịch qua lại trong nội bộ khối với việc xoá
bỏ hàng rào phi thuế và giảm thuế nhập khẩu xuống 0 – 5% vào năm 2006.
Các năm 1996 – 2002 kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam với các
nước ASEAN chiếm tỷ trọng 25 – 26% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu
của nền kinh tế.
Danh mục giảm thuế quan của Việt Nam các năm 1996-2002 bao gồm 15
nhóm sản phẩm: Dầu thực phẩm, thực vật, ximăng, hoá chất, dược phẩm,
phân bón, chất dẻo, sản phẩm cao xu, sản phẩm da, bột giấy, hàng dệt, đồ
gốm – thuỷ tinh, đồng thỏi, hàng điện tử, đồ gỗ – song mây, đá quí-đồ
trang sức. Ngoài ra còn có các danh mục sản phẩm tạo miễn trừ trong các
năm của kế hoạch CEPT.
Các danh mục nhậy cảm của hàng nông sản chưa chế biến đưa vào 3 danh
mục khác nhau là: Danh mục giảm thuế, danh mục tạm thời chưa giảm thuế và danh mục nhậy cảm của nông sản chưa chế biến.
Đến năm 2002, Việt Nam đã chuyển 5.550 dòng thuế vào IL (ban hành theo Nghị định số 21/2002/NĐ-CP ngày 28/2/2002 và Nghị định số 53/2002/NĐ-CP ngày 13/5/2002) (gọi tắt là Danh mục CEPT 2002), chiếm 85% trên tổng số 6.523 dòng thuế của biểu thuế nhập khẩu (Danh mục Thuế quan Hài hòa Chung ASEAN – (AHTN) là 8.770 dòng). Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 2002-2006; trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-5%. với mức thuế suất từ 0 đến 20%, trong đó có khoảng 2/3 có mức thuế suất từ 0 đến 5%. Nhóm này đến năm 2006 sẽ giảm mức thuế xuống 0 - 5%. Nhóm thứ hai, là danh mục loại trừ tạm thời gồm 755 dòng thuế (theo AHTN là 1.415 dòng thuế) sẽ chuyển sang danh mục cắt giảm IL từ 01/7/2003, các dòng thuế có mức thuế cao sẽ đưa xuống 20% và giảm dần xuống 0 - 5% vào năm 2006. Danh mục này bao gồm các nhóm hàng dầu thực vật, bánh kẹo, rau quả chế biến, clinker, xi măng, thiết bị vệ sinh, giấy báo, giấy in, giấy vệ sinh, hóa chất, mỹ phẩm, kính xây dựng, điện tử, điện lạnh, quần áo, giày dép,... Nhóm thứ ba, là danh mục nhạy cảm gồm hàng nông sản chưa chế biến, chủ yếu cần bảo hộ cao, như thịt, trứng gia cầm, động vật sống, thóc gạo lức, đường mía.... Nhóm này có 53 dòng thuế (theo AHTN là 89 dòng thuế) bắt đầu giảm thuế từ 01/01/2004 và kết thúc vào 01/01/2013 với mức thuế cuối cùng là 0 - 5%. Riêng mặt hàng đường sẽ kết thúc vào 01/01/2010. Nhóm thứ tư, là danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm các sản phẩm không cam kết trong AFTA vì lý do an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ cuộc sống con người và động thực vật, bảo vệ các tác phẩm có giá trị nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ học. Việt Nam cũng đưa vào một số mặt hàng cần bảo hộ cao hơn như ô-tô, xe máy nguyên chiếc có dung tích dưới 250cc. Nhóm này có 158 dòng thuế (AHTN là 415 dòng). Như vậy, lộ trình cắt giảm theo danh mục phải cắt giảm ngay IL và danh mục loại trừ tạm thời, lộ trình của Việt Nam chậm hơn sáu nước thành viên cũ là ba năm. Hai nhóm nhạy cảm và loại trừ hoàn toàn thời gian dài hơn, đến năm 2010 hoặc 2015.Các sản phẩm mà ASEAN có lợi thế là những sản phẩm mà Việt Nam đang sử dụng các biện pháp phi thuế quan để khôngs chế, tạo thu nhập như: Phân bón urê của Inđônêxia, xe máy của Thái Lan, ô tô Malaixia, hàng điện tử của Singapore.
Do đó trong các năm qua, tham gia CEPT có tác động tích cực đáng kể đối với sản xuất kinh doanh của nước ta, nước ta được hưởng ưu đãi thuế một số mặt hàng xuất khẩu vào các nước ASEAN. Các ưu đãi thuế đã có tác
động tích cực đối với phát triển sản xuất kinh doanh và việc làm. Việc giảm thuế sẽ làm nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.mở ra các khu công nghiệp và các khu chế xuất.chính vì vậy sẽ tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Tham gia APEC:
Việc tham gia APEC là thuận lợi đối với Việt Nam để tiếp cận và mở rộng
thị trường tiêu thụ hàng hoá, nắm bắt các yêu cầu về chất lượng hàng hoá
của các nước thành viên, thực hiện các biện pháp nâng cao khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp. Các nước APEC là đối tác chủ yếu về kinh tế,
thương mại và đầu tư của Việt Nam với 80% kim ngạch ngoại thương,
75% tổng vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, APEC còn là nguồn cung cấp
ODA lớn nhất cho Việt Nam. Các chương trình hành động của APEC (đặc
biệt là chương trình hợp tác Khoa học và Công nghệ hướng tới thế kỷ
XXI) rất thiết thực đối với Việt Nam trong phát triển cơ sở hạ tầng truyền
thông, phát triển nguồn nhân lực, áp dụng công nghệ môi trường... cơ chế
hoạt động của “Hội đồng cố vấn kinh doanh” của APEC phù hợp với tình
hình phát triển doanh nghiệp của Việt Nam.
Hiện nay, vì mới gia nhập APEC nên ảnh hưởng của việc tham gia APEC
đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và tác động đến biến động
việc làm là chưa nhiều.
Kế hoạch của APEC thực hiện các chương trình giảm thuế mang tính chất
tự nguyện nhưng đều hướng tới đích là giảm thuế xuống mức không quá
10% và triệt tiêu các hàng rào phi thuế quan, tự do hoá hoàn toàn thương
mại vào năm 2020. Do đó, các tác động tích cực và tác động ngược chiều
của gia nhập APEC đối với việc làm trong tương lai phụ thuộc vào sự lựa
chọn chương trình tự do hoá thương mại với các nước APEC.
Tham gia các hiệp định thương mại khác:
Hiệp định thương mại Việt-Mỹ.
Hiệp định thương mại được ký kết ngày 14/7/2000 và được cơ quan lập
pháp hai nước thông qua, có hiệu lực từ ngày 11/12/2001 là Hiệp định
vượt ngoài tầm quan hệ song phương. Bởi vì ảnh hưởng của nền kinh tế
Mỹ có phạm vi toàn cầu, Mỹ là nước có kim ngạch nhập khẩu hàng năm
trên 1100 tỷ USD và có tiềm năng xuất khẩu công nghệ hiện đại thuộc loại
bậc nhất thế giới. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ tạo điều kiện cho cho
Việt Nam mở rộng thương mại với Mỹ nhờ áp dụng quy chế tối huệ quốc
(MFN).
Trong 11 tháng đầu năm 2009 tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam với Mỹ là 10213704 nghìn usd, tốc đột tăng này đã tác động tích cực đối với việc làm. Một số mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ gia tăng nhanh như: thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghệ, giầy dép, quần áo, khoáng sản... đã tạo ra hàng vạn việc làm cho người lao động. Tiềm năng thịtrường Mỹ đối với xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và tạo việc làm của Việt Nam là rất lớn.
Tuy nhiên, để xuất khẩu vào Mỹ, chúng ta còn rất nhiều việc phải làm. Ví dụ như sựkiện Mỹ hạn chế xuất khẩu cá tra, cá basa trong thời gian gần đây đã ảnhhưởng tới công ăn việc làm của 15 nghìn hộ gia đình nuôi cá da trơn Đồng bằng sông Cửu Long trong khoảng thời gian dài (có hộ đã thiệt hại đến gần 1 tỷ đồng) là một ví dụ về yêu cầu chuẩn bị tốt để thực hiện Hiệp định.
Qua đó có thể thấy rằng mặc dù các Hiệp định thương mại đã được ký kết
nhưng các trở ngại ngắn hạn có thể xảy ra và ảnh hưởng đến việc làm của
người lao động.
Tối huệ quốc trong quan hệ thương mại song phương.
Việt Nam được 69 nước đối sử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với
các nhóm mặt hàng nhất định. Trong đó, bao gồm cả các nước có nền kinh
tế lớn như: Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp, Anh, Nga, Canada, CHLB Đức...
Đồng thời có 8 nước dành cho Việt Nam đối sử ưu đãi đặc biệt trong quan
hệ thương mại: Brunei, Inđônêxia, Lào, Malaisia, Myamar, Philippine,
Singapore, Thái Lan.
Các đối sử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại song phương đã góp
phần tạo điều kiện cho nước ta hội nhập mạnh vào nền kinh tế thế giới, mở
rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ, tăng cường khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Trong khi đó, hàng rào thuế và
phi thuế quan của nước ta vẫn duy trì ở mức khá cao, một số chủng loại
hàng hoá của các nước này nhập khẩu vào nước ta không đáng kể, nên
thời gian qua các Hiệp định thương mại song phương có tác động tích cực
đối với sản xuất kinh doanh và việc làm của người lao động.
1.3. Biến động lao động và thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá
kinh tế
1.3.1. Biến động lao động trong khu vực doanh nghiệp dưới tác động của toàn cầu hóa
Toàn cầu hoá kinh tế có tác động nhất định đến biên độ dao động của lao
động trong các doanh nghiệp.Có sự chênh lệch giữa nam và nữ về số lượng và trình độ chuyên môn.
Báo cáo thống kê gần nhất của Tổng cục Thống kê (đầu năm 2008), dân số nước ta có khoảng 86,3 triệu người, trong đó nữ chiếm 50,9%. Tính riêng lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên, cả nước có khoảng 44,1 triệu lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân, trong đó có gần 21,1 triệu lao động là nữ (chiếm 47,8%).
Theo số liệu một cuộc điều tra về lao động - việc làm năm 2007 cho thấy, lao động nữ tham gia vào thị trường lao động sớm hơn nam giới, nhưng lao động phổ thông, chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao. Phần lớn phụ nữ khi tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông, thậm chí nhiều người chỉ tốt nghiệp tiểu học, không tiếp tục học lên mà tham gia ngay vào thị trường lao động. Đa số phụ nữ làm việc trong các lĩnh vực: dệt, may, da giày (78,5%); chế biến lương thực, thực phẩm (66,8%); sành, sứ, thủy tinh (59,2%). Nhìn chung, lao động phổ thông nữ chiếm tỷ lệ cao nhất trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (62,9%), sau đó đến các doanh nghiệp tư nhân (62,6%) và doanh nghiệp nhà nước là 49,1%. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nữ trong các cơ sở sản xuất kinh doanh thấp hơn so với nam giới.
Bảng 3: Tỷ lệ lao động phân theo giới tính và trình độ chuyên môn kỹ thuật năm
Đơn vị:%
Lao động phổ thông
CNKT không có bằng
CNKT có bằng
Trung cấp
Cao đẳng, đại học
Chung
100
100
100
100
100
Lao động nữ
55,59
38,1
30,1
47,5
41,2
Lao động nam
44.41
61.9
69.9
52.5
58.8
Nguồn: Điều tra lao động - việc làm năm 2007 của Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội
- Tình trạng có việc làm của lao động nữ cũng kém hơn so với lao động nam, tỷ lệ lao động nữ thất nghiệp ở thành thị cũng cao hơn mức chung của cả nước. Năm 2007, cả nước có trên 2,5 triệu lao động thiếu việc làm, trong đó nữ chiếm 51%. Lao động thiếu việc làm chủ yếutập trung ở nông thôn (88,87%) - khu vực lao động nữ chiếm số lượng lớn.
Bảng 4 . Tình trạng việc làm của lao động nữ (đơn vị %)
Thất nghiệp thành thị
Thất nghiệp nông thôn
Chung cả nước
4,6
1,7
Lao động nữ
5,2
2,6
Nguồn: Tổng cục Thống kê (năm 2008)
Trong khu vực có quan hệ lao động, phụ nữ chỉ chiếm 40% số việc làm được trả lương và chiếm tỷ lệ thấp trong ngành nghề bậc cao (quản lý, chuyên môn kỹ thuật), chiếm tỷ lệ cao trong nghề bậc trung và nghề bậc thấp.Biến động lao động trong các doanh nghiệp xảy cũng có nguyên nhân từquá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Để nâng cao khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp cần cơ cấu lại sản phẩm, chuyên môn hoá sản xuất, đổi mới chất lượng lao động.
1.3.2. Vấn đề thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá
Quá trình đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm , năng xuất
lao động và khả năng cạnh tranh làm cho một bộ phận lao động bị thất nghiệp. Chỉ tính trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước, lao động dôi dư do nguyên nhân người lao động không đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ chiếm tới 30,41% tổng số lao động dôi dư.
Cũng theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số trong độ tuổi lao động cả nước là 55 triệu người, trong đó 45,2 triệu người thuộc lực lượng lao động trong độ tuổi, chiếm 82,2% tổng dân số trong độ tuổi lao động. Số lao động trong độ tuổi đang làm việc là 43,9 triệu người, chiếm 51,1% tổng dân số, bao gồm: lao động khu vực thành thị gần 12 triệu người, chiếm 27% tổng lao động trong độ tuổi đang làm việc; lao động khu vực nông thôn 31,9 triệu người, chiếm 73%. Tỷ lệ lao động có trình độ học vấn trung học cơ sở trở lên là 56,7% so với tổng số lao động trong độ tưổi, trong đó tỷ lệ lao động có trình độ trung học phổ thông trở lên là 27,8%. Lực lượng lao động trong độ tuổi có trình độ đại học trở lên chiếm 5,3% tổng lực lượng lao động trong độ tuổi, trong đó thành thị 14,4%; nông thôn 1,8%; nam 5,6%; nữ 5%. Tại thời điểm điều tra, cả nước có 1,3 triệu lao động trong độ tuổi thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp là 2,9% (cao hơn mức 2,38% của năm 2008), trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 4,64%, xấp xỉ năm 2008; khu vực nông thôn là 2,25%, cao hơn mức 1,53% của năm 2008
Thất nghiệp do doanh nghiệp bị phá sản: Trong nền kinh tế thị trường mở cửa, hiện tượng có doanh nghiệp bị phá sản là chuyện bình thường. Sự phá sản của một bộ phận doanh nghiệp dẫn đến hậu quả là số lao động làm việc trong các doanh nghiệp này rơi vào tình trạng thất nghiệp.
Ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước, giai đoạn mở cửa nền kinh tế đã có
1344 doanh nghiệp (20% doanh nghiệp) bị phá sản trong tổng số 6720
doanh nghiệp đã đưa ra khỏi danh sách doanh nghiệp Nhà nước.
Hiện tượng doanh nghiệp bị phá sản trong khu vực ngoài quốc doanh cũng
không còn hiếm.
Nhà nước Việt Nam đã ban hành luật phá sản doanh nghiệp để giải quyết
các vấn đề đến tình trạng doanh nghiệp bị phá sản.
Toàn cầu hoá kinh tế đã làm tăng mức độ cạnh tranh trong nền kinh tế:
hiện tượng thất nghiệp do phá sản, giải thể doanh nghiệp là hiện tượng có
tính quy luật.
Thất nghiệp của lao động không kỹ năng: Trong các khu vực FDI, khu công nghệ cao, các ngành nghề, lĩnh vực mới thường sử dụng công nghệ hiện đại, mức đầu tư chỗ làm việc lớn, năng xuất lao động cao.Các ngành, lĩnh vực này sử dụng phần lớn lao động có kỹ năng, do đó có tác động đến thu hẹp việc làm của lao động không kỹ năng, khả năng thất nghiệp cao nghiêng về lao động không có kỹ năng.
2.Thực trạng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
toàn cầu hóa
Toàn cầu hoá và quá trình hội nhập có nhiều tác động tích cực tới sự phát
triển nguồn nhân lực của Việt Nam, làm thay đổi nhận thức và phát huy
khả năng sáng tạo cũng như mở rộng các cơ hội lựa chọn cho con người
Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình này cũng có những tác động không thuận
cho sự phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế
chuyển đổi mà tỷ trọng nông nghiệp còn cao.
2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phù hợp với quá trình
chuyển giao công nghệ
Song song với sự phát triển các ngành nghề mới và nâng cấp công nghệ
trong nền kinh tế dưới tác động của toàn cầu hoá, thì sự đổi mới chất
lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu làm chủ công nghệ, xử lý hệ
thống thông tin kỹ thuật, lắp đặt và vận hành, bảo trì công nghệ, tổ chức
sán xuất cũng là một vấn đề vô cùng quan trọng.
Trong khu vực FDI, các ngành nghề mới phát triển như: Công nghệ thông
tin, sản xuất xe máy, ô tô, điện tử, viễn thông... đã tiếp nhận công nghệ
ngoại nhập với quy mô lớn hơn các ngành kinh tế khác, đồng thời cũng là
những ngành có nhu cầu lớn sử dụng lao động chuyên môn kỹ thuật trình
độ cao.
Bảng 5: Sử dụng lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
của các loại hình doanh nghiệp
Loại hình doanh
nghiệp
Doanh
nghiệp
FDI
Doanh
nghiệp
Nhà nước
Doanh
nghiệp
ngoài quốc doanh
Văn phòng đại
diện nước ngoài
Lao động
phổ thông
19.8
25,7
39,2
1.5
Công nhân kỹ
thuật, sơ cấp
59,0
49.1
44.5
16.9
Trung
cấp
6.5
11.7
8.2
30.9
Cao đẳng, đại
học trở lên
14.7
13.5
8.1
50.7
Tổng
số
100
100
100
100
Nguồn: Nguồn: Điều tra lao động - việc làm năm 2002 Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội
Kết quả điều tra phần nào cho thấy, khu vực FDI có nhu cầu cao sử dụng
công nhân kỹ thuật (59%) và lao động cao đẳng và Đại học trở lên
(14,7%). Theo tỷ lệ này thì năm 2002 nhu cầu sử dụng thêm lao động
chuyên môn kỹ thuật của khu vực FDI là: Công nhân kỹ thuật là 20,06
nghìn người, trung học chuyên nghiệp 2,21 nghìn người , cao đẳng và đại
học trở lên 4,99 nghìn người.
Hội việc làm tại T.p Hồ Chí Minh và Đồng Nai tháng 7 và 8/ 2002 cho
thấy nhu cầu lao động có chuyên môn kỹ thuật của các doanh nghiệp tại
các khu công nghiệp (trong đó có một tỷ lệ lớn là doanh nghiệp FDI) là rất
lớn. Nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp T.p Hồ Chí Minh:
Lao động phổ thông 14,4%, công nhân kỹ thuật và kỹ thuật viên 65,0 %,
cao đẳng và đại học 20,6%; tại Đồng Nai: lao động phổ thông 32,0%, công
nhân kỹ thuật và kỹ thuật viên 45,4%, cao đẳng và đại học 22,6%.
Ngoài ra, nhu cầu lao động chuyên môn kỹ thuật trong các ngành công
nghệ cao và một số loại hình dịch vụ đã thúc đẩy phát triển đào tạo lao
động chuyên môn kỹ thuật. Cơ cấu sử dụng lao động theo trình độ chuyên
môn kỹ thuật trong các ngành này có sự khác biệt so với các ngành khác.
Bảng 6: Cơ cấu sử dụng lao động một số ngành công nghệ cao và dịch vụ
Đơn vị tính: %
Công nghệ
Thông tin
Khoa học, công nghệ
Thông tin
Liên lạc
Tài chính, Tín dụng
Làm việc trong các
tổ chức Quốc tế
Lao động
phổ thông
0
16.2
10
8.5
6.2
Công nhân kỹ
thuật, sơ cấp
28.22
22.5
61
28.1
6.3
Trung
cấp
20.4
15.5
22.7
21.4
25
Cao đẳng, đại
học trở lên
51.38
45.8
20.5
42.0
62.5
Tổng số
100
100
100
100
100
Nguồn: Điều tra lao động - việc làm năm 2002 Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội
Phần lớn làm việc trong các ngành này là lao động có kỹ năng và kỹ năng
cao. Lao động làm việc trong các ngành công nghệ cao và các ngành dịch
vụ trình độ cao, chất lượng phục vụ cao đòi hỏi phải có sự đào tạo kỹ năng
nghề nghiệp và tri thức hiện đại, theo tiêu chuẩn lao động của các nước
phát triển , phù hợp với công nghệ áp dụng, đặc biệt là trong điều kiện
phát triển mạnh của các ngành công nghệ cao.
2.2.Vai trò của doanh nghiệp trong đào tạo, bồi dưỡng nhân lực
Dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá kinh tế, các doanh nghiệp rất chú
trọng đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động để đáp ứng yêu cầu
đổi mới, nâng cấp công nghệ. Các doanh nghiệp coi chất lượng lao động là
nguồn lực quan trọng bậc nhất để năng cao năng xuất lao động và hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Và tỷ lệ lao động được đào tạo lại trong các doanh
nghiệp FDI cao hơn tỷ lệ chung của tất cả các loại hình doanh nghiệp là
14,42% so với 10,69%:
Các doanh nghiệp FDI chi phí cho đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn kỹ
thuật cho người lao động rất lớn. Thí dụ, tại các công ty ở Bình Dương, để
gửi lao động đi đào tạo ở nước ngoài bình quân công ty bỏ ra 3000 USD/
người, đào tạo trong nước 1500 USD / người; Công ty VIDAMCO là liên
doanh giữa công ty Daewoo (Hàn Quốc) và một công ty ô tô của Bộ Quốc
Phòng đi vào hoạt động từ 1995 đến nay đã gửi 25% tổng số kỹ sư và cán
bộ đi đào ở Hàn Quốc và hơn 35% số công nhân được thực tập sử dụng
công nghệ của các chi nhánh công ty ô tô tại Inđônêxia và Ân Độ.
2.3.Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của
lao động nước ta
Đặc trưng của xuất khẩu lao động trong các năm 2002 - 2009 là lao động
có tay nghề ngày càng cao. Tỷ lệ lao động xuất khẩu có nghề trong tổng số
lao động xuất khẩu hàng năm qua đã đạt hơn 70%. Theo tỷ lệ này, năm
2009 nhu cầu lao động chuyên môn kỹ thuật cho xuất khẩu là 21,7 nghìn
người. Tại một số thị trường: Coét, Angola, Nhật Bản, Cộng Hoà Séc,
Libia... lao động xuất khẩu có có nghề đạt gần 100%. Xu hướng tăng xuất
khẩu lao động qua đào tạo nghề đã có tác động đến mở rộng quy mô và
nâng cao ch._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26630.doc