A. Đặt vấn đề
Nước ta đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến năng suất lao động chưa cao, hiệu quả kinh tế thấp. Bên cạnh đó còn chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh. Điều đó chính làm cho nguyên nhân làm cho kinh tế nước ta chậm phát triển hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đứng trước tình hình đó đòi hỏi đảng phải đề ra đường lối chính sách đường lối đổi mới nhằm đưa đất nước ta phát triển về mọi mặt mà trọng t
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Toàn cầu hoá & hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âm là chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sẩn Việt Nam (tháng 12 năm 1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới mà một trong những định hướng quan trọng là mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Quán triệt quan điểm đó đại hội lần thứ VII (1992) và lần thứ VIII (1996) tiếp tục phát triển đường lối đối ngoại độc lập tự chủ đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế theo tinh thần:" Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển".
Sau hơn 15 năm đổi mới kết quả thực tế cho thấy đời sống nhân dân được nâng cao, kinh tế phát triển về mọi mặt. Điều này đã khẳng định con đường đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn. Trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI khi loài người đang bị cuốn hút vào một quá trình mang tính chất quốc tế thì chúng ta không thể phủ nhận được tầm quan trọng của tính hiệu quả của việc hội nhập kinh tế quốc tế, đã tạo thành tựu to lớn về văn hoá, xã hội, kinh tế chính trị để đất nước từ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một xu hướng khách quan tác động một cách toàn diện đến mọi dân tộc không có ngoại lệ , nó đặt mỗi quốc gia trước những thời cơ và cả những thách thức to lớn. Do đó việc nghiên cứu tìm hiểu toàn cầu hoá một cách sâu sắc, toàn diện. Đặc biệt là những tác động của nó đến đời sống kinh tế - chính trị để có đối sách thích hợp là nhiệm vụ trọng đại của mọi quốc gia trong những thập kỷ đâù của thế kỷ XXI.
B. Giải quyết vấn đề
I. Một số vấn đề lý luận về toàn cầu hoá và hội nhâp kinh tế quốc tế
1. Khái niệm về toàn cầu hóa, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
Toàn cầu hoá là một danh từ đầu tiên được Webster đưa vào từ điển năm 1961 và nó được sử dụng khá phổ biến trong hai thập kỷ gần đây. Nhưng ngược dòng lịch sử thì vào năm 1870 nhà triết học Jenemy- Bentham đã sử dụng tính từ "quốc tế" và khái niệm quan hệ quốc tế đã được sử dụng rộng rãi từ thời đó. Toàn cầu hoá hay quốc tế hoá đêu là những khái niệm diễn tả mối quan hệ vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Tuy nhiên cấp độ giữa chúng là khác nhau. Toàn cầu hoá mà cốt lõi là toàn cầu hoá kinh tế là bước phát triển và cao của quốc tế hoá kinh tế. Quá trình toàn cầu hoá đang phát triển còn tồn tại trên thế giới hiện nay về thực chất là quá trình quốc tế hoá đã đạt đến độ nhuần nhuyễn, nó phản ánh một quá trình phát triển với đặc trưng bản chất là không có ranh giới quốc gia và khu vực trong mối quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng phát triển.
Xét một cách cụ thể thì toàn cầu hoá kinh tế chính trị là sự gia tăng nhanh tróng của các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuôc lẫn nhau giữa các nền kinh tế thế giới thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu.
Tuy nhiên chúng ta cần chú ý quốc tế hoá toàn cầu hoá không chỉ là quá trình phản ánh sự gia tăng của các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau mà nét quan trọng nữa là phản ánh quy mô của các hoạt động liên quan quốc gia. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã hình thành và phát triển qua một chặng đường khá dài. Tính đến nay thế giới đã ba lần "toàn cầu hoá" và lần này là lần thứ 4.
Lần thứ nhất, diễn ra vào cuối thế kỷ XV sau khi Colombo phát hiện ra Châu Mỹ. Từ đó làm cho người ChâuÂu đổ đi các nơi khai hoá văn minh theo lối chủ nghĩa thực dân. Còn chinh phục thế giới lần này làm cho giá trị Châu Âu thay đổi và được truyền bá khắp nơi. Kết quả toàn cầu hoá lần thứ nhất tạo ra cơ hội tích luỹ tư bản lớn và làm cho nước Anh trở thành bá chủ thế giới.
Lần thứ hai, vào giữa thế kỷ XIX và được đánh dấu bằng thời kỳ người Châu Âu chinh phục Châu á và làm cho Nhật Bản tiến hành cuộc "Duy Tân" hưng thịnh đất nước.
Lần thứ ba: Diễn ra vào thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai với trật tự thế giới mới của các nước thắng trận làm cho nhiều nước Châu á, Châu mỹ, Châu phi La tinh giành được độc lập và hoà nhập với cộng đồng thế giới.
Lần thứ 4:Là thời kỳ hiện nay với đặc trưng là xu thế toàn cầu hoá được thúc đảy bởi những nhân tố như cuộc bùng nổ thông tin thế giới , làn sóng dân chủ thứ ba của Bồ Đầu Nha vào năm 1974, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu vào đầu thập kỷ 90. Toàn cầu hoá lần này nặng về phương diện kinh tế và chính trị vì kinh tế toàn cầu hoá lấy toàn cầu hoá thị trường làm mục tiêu , lấy toàn cầu hoá thông tin làm động lực , bởi vậy nó mang ý nghĩa sâu rộng hơn nhiều so với những lần trước . Cũng vì vậy nội dung động chạm đến nhiều nước, lôi cuấn đông đảo dân số các nước nhập cuộc.
Theo quan niệm của Cácmác và Ănghen thì xu hướng toàn cầu hoá kinh tế có từ khi đại công nghiệp tuư bản chủ nghĩa hình thành và tuy không dùng khái niệm toàn cầu hoá nhưng những nhận định của các ông thực chất là bàn về các vấn đề toàn cầu hoá.Trong tác phẩm " Tuyên ngôn của Đảng cộng sản "các Ông viết "…Vì luôn bị thúc đẩy bởi những nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư bản xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải xâm nhập khắp nơi , trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi . Do bóp nặn ở thị trường thế giới, giai cấp tư bản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới " Như vậy, quốc tế hoá là cơ sở, tiền đề của toàn cầu hoá kinh tế và toàn cầu hóa là cấp độ của quốc tế hoá.
2. Các nhân tố thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế
2.1. Sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất do phân công lao động ngày càng diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới.
Toàn cầu hoá lao động thúc đẩy rất nhanh, mạnh sự phát triển và xã hội hoá lực lượng sản xuất, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới lên mức cao ( vào nửa đầu thế kỷ XX GDP của thế giới tăng 2,7 lần, đến nửa cuối tăng 5,2 lần ). Toàn cầu hoá kinh tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới đặc biệt làm tăng mạnh tỷ lệ hàng chế tác (chiếm 21.4%) cà các dịch vụ (62.4%) trong cơ cầu kinh tế thế giới ( Quan hệ hợp tác Nam - Nam và vấn đề toàn cầu hóa. Thông tấn xã Việt Nam số 3 năm 2000)
Lực lượng sản xuất vươn mạnh ra ngoài biên giới quốc gia cùng nhiều công nghệ hiện đại nhất trong cuộc cách mạng thông tin liên hoàn cầu. Sự chuyển biến có tính cách mạng trong lĩnh vực khoa học và công nghệ đã diễn ra trong nửa đầu thế kỷ XX mà biểu hiện có tính chất bước ngoặt là sự xuất hiện của chiếc maý tính điện tử hiện đại đầu tiên trên thế giới vào năm 1946 cùng với sự ra đời của điều khiển học , lý thuyết hệ thống va lý thuyết thông tin. Tiếp theo đó là sự bùng nổ của cách mạng khoa học và công nghệ vào nửa cuối thế kỷ XVIII và XIX, cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào thế kỷ thứ XX không chỉ góp phần nâng cao năng lực có hạn của cơ bắp, nối dài cánh tay và các giác quan của con người mà còn tạo ra được các phương tiện nâng cao năng lực tư duy vượt qua các giới hạn sinh lực của con người. Toàn câù hoá kinh tế thế giới là một xu thế khách quan so sự tác động của lực lượng phát triển, lực lượng sản xuất. Những thập niên cuối của thế kỷ XX của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ chuyển giao công nghệ trong phạm vi toàn cầu , xuất hiện nhiều hiện tượng mới như thương mại điện tử, đồng tiền ảo, nền kinh tế số kéo theo sự ra đời lý thuyết mới về kinh tế, đòi hỏi các dân tộc trên thế giới phải có tư duy mới đối với thách thức và cơ hội trong quá trình phát triển.
Vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi chính phủ của mọi quốc gia, giàu cũng như nghèo, lớn cũng như bé đều cố gắng đưa ra các chính sách và giải pháp nhằm bắt kịp trào lưu hướng tới xã hội thông tin. Đến nay hầu như quốc gia nào cũng có chính sách thông tin thậm chí có nước còn đang thực hiện cacs nỗ lực để tự khẳng định mình là một xã hội thông tin.
Trên khắp thế giới, mục tiêu của các chính sách thông tin và các giải pháp chủ yếu đều giống nhau một cách kỳ lạ. Đó là xây dựng một kết cấu hạ tầng thông tin vững chắc và phong phú trên cơ sở phát triển mạng thông tin các xa lộ thông tin và tham gia vào Internet, phát triển văn hoá kinh doanh dựa trên công nghệ thông tin và tri thức để tăng nâưng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đào tạo lại kỹ năng của người lao động và tạo ra nhiều việc làm hơn nữa, cải tổ về căn bản hệ thống giáo dục và phổ cập chế độ học liên tục, học suốt đời cho mọi người, phát triển các ngành công nghiệp mới dựa vào tri thức và đẩy nhanh việc cải cách thiết chế xã hội để thích ứng với thời đại thông tin. Có một lực lượng lao động có trình độ kiến thức và kỹ năng cơ bản về công nghệ và thông tin bằng cách nâng cao hệ thống giáo dục và đào tạo sao cho có khả năng đáp ứng yêu cầu học tập suốt đời và không ngừng mở rộng kiến thức, làm giàu trí tưởng tượng và óc sáng tạo của thế hệ trẻ.
Cùng với những tiến bộ của khoa học công nghệ thì những tiến bộ mới trong giao thông vận tải rút ngắn thời gian giao tiếp giữa các vùng lãnh thổ trên thế giới. Những điều kiện vật chất có tính quyết định đó làm cho các hoạt động kinh tế lan toả khắp toàn câù.
2.2 Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường.
2.2.1 Kinh tế thị trường phát triển đã mở ra điều kiện cho sự gia tăng xu thế quốc tế hoá
Dưới tác động của toàn cầu hoámà cụ thể là toàn cầu hoá kinh tế thị trường thế giới từng bước được thống nhất và ngày càng phát triển.Với xu thế đó nó sẽ tạo nên một sự loại bỏ các rào cản và có một sự điều chỉnh trong qui tắc vận hành
Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường đã mở ra điều kiện cho sự gia tăng xu thế quốc tế hoá thể hiện nên hai khía cạnh chính:
Một là, Kinh tế thị trường mở ra cơ sở điều kiện cho sự sự phát triển của lực lượng sản suất làm cho quy mô sản suất không bó hẹp trong phạm vi của từng quốc gia mà mang tầm quốc tế thúc đẩy phân công lao động xã hội gắn các quốc gia trong sự giàng buộc của sản xuất và tiêu dùng. Thật vậy, khi thị trường thế giới thống nhất và phát triển thì các rào cản thương mại từng bước bị loại bỏ, một trong ngững thành công của phương diện này là sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới (WTO) ngày 1/1/1995 và tiếp theo là việc giảm thuế quan giữa các thành viên của WTO xuống mức bình quân là 3% đối với các nước phát triển và dưới 15% đối với các nước đang phát triển. Thương mại phát triển khiến thị trưopừng thế giới thống nhất hơn xu thế thống nhất lại đòi hỏi loại bỏ các hàng rào thương mại.
Lĩnh vực sản xuất và thị trường tiền tệ cũng ngày càng thống nhất, tỷ trọng dịch vụ ở nước ngoài trên dịch vụ các chủ thể kinh tế hữu quan cũng đang gia tăng nhanh chóng, hệ thống phân công sản xuất cùng ngành nghề mang tính toàn cầu đang hình thành.
Mạng lưới sản xuất mạng tính toàn câù sẽ thực sự "kết nối" thế giới. Đây là xu thế khách quan tác động đến tất cả các quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên đây là cái khách quan trong xã hội nên nó phải được thể hiện ra thông qua hoạt động của con người có ý thức, vì vậy nó là quá trình thống nhất của khách quan và chủ quan là thể hiện biện phép biện chứng của khách quan và chủ quan. Do đó không nên quan niệm tính tất yếu khách quan của toàn cầu hoá như một định mệnh, trái lại các quốc gia các lực lượng hội khác nhau có thể phát huy nỗ lực chủ quan, chủ động nhận thức và hành động, có chính sách khác nhau để tham gia toàn cầu hoá như một định mệnh, trái lại các quốc gia, các lực lượng xã hội khác nhau có thể phát huy nỗ lực chủ quan , chủ động nhận thức và hành động có chính sách khác nhau để tham gia toàn cầu hoá nhằm hạn chế mặt tiêu cực, sử dụng mặt tích cực cuả toàn cầu hoá nhằm giành lợi ích về cho mình. Đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Đảng và Nhà nước ta chính là như vậy.
Hai là, kinh tế thị trường phát triển các quốc gia đưa lại cơ chế thống nhất cho xử lý các mối quan hệ kinh tế đó là cơ chế thị trường. Có nghĩa thúc đẩy mở rộng đầu tư , giao dịch thương mại và tiếp nhận nguồn lao động.
Thế giới đã chứng kiến vai trò của kinh tế thị trường ở các quốc gia đưa lại cơ chế thống nhất cho sử lý các mối quan hệ kinh tế đó là cơ chế thị trường . Có nghĩa thúc đẩy mở rộng đầu tư, giao dịch thương mại và tiếp nhận nguồn lao động.
Thế giới đã chứng kiến vai trò của kinh tế thị trường trong thúc đẩy sự phát triển sản xuất. Không có một quốc gia nào phát triển mà không dựa trên nền kinh tế thị trường. Quá trình hình thành, phát triển của nền kinh tế thị trường trên thế giới rất đa dạng, phong phú với nhiều cấp độ, nhiều dạng, nhiều kiểu.
Sự ra đời của các tổ chức: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng quốc tế (WB), Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), Tổ chức thương mại thế giới (WTO) có vai trò ngày càng to lớn đối với quá trình toàn cầu hoá, các tổ chức này ra đời là kết quả của quá trình toàn cầu hoá song đến lượt mình song đến lượt mình chúng lại trở thành nhân tố thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế cả bề rộng và chiều sâu IMF và ƯB ra đời và cuối chiến tranh thế giới lần thứ 2 (năm 1994) còn GATT ra đời năm 1947, WTO ra đời năm 1995 trên cơ sở kế tục GATT đã trải qua 8 vòng đàm phán chỉ đóng khung trong mua bán hàng hoá WTO bao quát cả thương mại hàng hoá , dịch vụ và tài sản trí tuệ. ƯTO là một thể chế kinh tế toàn cầu hoá chi phối hơn 90% tổng kim ngạch thương mại quốc tế. chức năng chủ yếu của WTO là điều hành và thực thi các hiệp định thương mại đa phương và hiệp định giữa một số bên cấu thành WTO, hoạt động với tính chất diễn đàn cho các cuộc mậu dịch đa phương, tìm kiếm các giải pháp xử lý tranh chấp thương mại, giám sát các chính sách thương mại quốc gia và hợp tác với các thiết chế quốc tế khác liên quan tới hoạch định chính sách toàn cầu . Những quy tắc, luật lệ của WTO trở thành những định chế cơ bản của một nền kinh tế toàn cầu hoá mang tính chất của tư bản chủ nghĩa. Trong thực tế hoạt động của mình, WTO không dừng ở phạm vi thương mại mà can thiệp sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội vượt qua mọi biên giới quốc gia, áp đặt lên toàn thế giới những luật lệ có lợi cho sự thống trị của chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường càng phát triển thì sự giao thoa, xâm nhập lẫn nhau giữa các nền kinh tế càng gia tăng. Có thể nói ngày nay không có một nền kinh tế thị trường dân tộc thuần khiết. Chẳng hạn cho đến năm 1998 Nhật đã chiếm 35% tổng số vốn đầu tư nước ngoài ở Mỹ, còn EU chiếm 19,3%. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường không chỉ ở sự mở rộng quy mô về không gian, về sự xâm nhập ràng buộc lẫn nhau giữa các thị trường còn thể hiện ở chiều sâu đó là sự bùng nổ phát triển của thị trường tài chính gắn liền với sự xuất hiện của một loại công cụ mới trong thanh toán giao dịch. Các thị trường tài chính đan xen vào nhau chặt chẽ đến mức lãi xuất cho vay và chứng khoán cũng ràng buộc với nhau và lượng vốn cần luân chuyển trên thị trường tài chính lớn. Thị trường sản phẩm cũng gia tăng mạnh mẽ thể hiện ở quy mô chất lượng của khối lượng giao dịch thương mại và ở sự phát triển của các giao dịch mới như thương mại dịch vụ và điện tử.
Như vậy có thể thấy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường chính là cơ sở, là điều kiện cho quá trình quốc tế hoá .Nhìn chung các quốc gia trên thế giới ngày nay đều dựa trên cơ chế thị trường,sử dụng các phương tiện và công cụ của kinhb tế thị trường trong hoạt động kinh doanh , đưa lại một không giân rộng lớn , không gian toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lưu chuyển các yếu tố cho các hoạt động sản xuất ấy.
2.2.2. Mức độ liên kết thống nhất của thị trường thế giới được tăng cường.
Toàn cầu hoá xã hội nhập quốc tế đã tạo nhiều sự liên kết giữa nhiều nền kinh tế quốc tế đẩy tới là là không còn hiện tượng tách rời thị trường xã hội chủ nghĩa (khu vực I) với thị trường TBCN (khu vực II), các cường quốc công nghiệp không còn phân chia thị trường thế giới thành những vùng ảnh hưởng rõ rệt riêng của từng nước, các công ty đa quốc gia phát triển nhanh tróng trong cùng một lúc thâm nhập vào thị trường nhiều nước, quy mô và tốc độ chu chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ, lao động công nghệ tăng rất nhanh diễn ra đồng thời trên cả 3 cấp : quốc gia, khu vực, toàn cầu.
Đúng như nhận định của Mác - Ăngen trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản: "Đại công nghiệp tạo rathị trường thế giới … thay cho tình trạng co lập trước kia của các địa phương và dân tộc tự cung, tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến , sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Hoặc như một sự suy tưởng khác của các nhà kinh điển cho rằng: giá rẻ của những sản phẩm là những trọng pháo bắn thương vạn lý trường thành của các quốc gia.
Hiện thực đời sống cho thấy: quan hệ kinh tế có tình toàn cầu là sản phẩm tất yếu, xu thế khách quan khi lực lượng sản xuất đạt đến trình độ quốc tế hoá rất cao, khoa học công nghệ đạt tới mức vượt bậc, kinh tế thị trường trở nên phổ cập. Nói cách khác không phải giai cấp kinh tế này hay thế lực kia có thể tự mình sáng tạo ra toàn cầu hoá theo ý muốn chủ quan mà chính những điều kiện kinh tế - kỹ thuật nhất định đã quốc tế hoá các quan hệ kinh tế phát triển đến đỉnh cao là toàn cầu hoá.
Dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá, xuất hiện nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế là hoạt động của các quốc gia về mở rộng hợp tác kinh tế nhưng không chỉ đơn giản là các quan hệ giao dịch song phương mà bằng hình thức cao hơn là xây dựng các tổ chức kinh tế, xã hội, moi trường chỉ riêng một quốc gia, dù là quốc gia lớn mạnh nhất cũng không thể giả quyết được mà phải có sự liên kết của nhiều nước. Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia trong những thập niên qua vừa phản ánh dặc điểm của quá trình toàn cầu hoá gia tăng mạnh mẽ lên một bước mới: toàn cầu hoá.
Như chúng ta đã biết một trong những nhân tố thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá kinh tế là sự phát triển và bành trướng của các công ty xuyên quốc gia - lực lượng chi phối toàn cầu hoá hiện nay, làn sóng sát nhập các công ty lớn của Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc diễn ra khá mạnh mẽ nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường. Chỉ riêng năm 1998 có 7700 vụ sáp nhập với tổng giá trị lên tới 2400 tỷ USD bằng mức thu nhập thập niên 80 và gấp rươĩ năm 1997. Năm 1999 riêng 10 cụ sáp nhập của các công ty lớn trên thế giới đã lên tới 2400 tỷ USD bằng mức thu nhập thập niên 80 và gấp rưỡi năm 1997. Năm 1999 riêng 10 vụ xe sáp nhập của các công ty lớn trên thế giới đã lên tới 1500 tỷ USD. Hiện nay các công ty xuyên quốc gia đang chi phối thống trị nền kinh tế thế giới. Các công ty xuyên quốc gia có quy mô cực kỳ lớn, địa bàn hoạt động rất rộng, kin doanh đa ngành, những chi nhánh của chúng như những chiếc vòi bạch tuộc giăng ra khắp hành tinh. Các công ty xuyên quốc gia bành trướng các hoạt động thương mại, tài chính, tín dụng, đầu tư, chuyển giao công nghệ trên phạm vi toàn cầu, hình thành hệ thống chi nhánh của mình ở nhiều quốc gia trên thế giới, lôi cuốn quốc gia vào "vòng kim cô" vòng phong toả của nó, biến mỗi quốc gia thành những bọ phận trong quy trình sản xuất của nó. Có thể nói các công ty xuyên quốc gia là đội quân xung kích thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá.
Như vậy, có thể thấy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường chính là cơ sở, là điều kiện cho quá trình quốc tế hoá. Nhìn chung các quốc gia trên thế giới ngày nay đều dựa trên cơ chế thị trường, sử dụng các phương tiện và công cụ của kinh tế thị trường trong hoạt động kinh doanh, đưa lại một không gian rộng lớn không gia toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lưu chuyển các yếu tố của quá trình sản xuất ấy.
2.3. Sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh thế giới kết thúc chiến tranh lạnh, bước vào thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển
Kinh tế là cơ sở tồn tại và phát triển của nhân loại kể tù khi khai sinh lập địa cho đến giai đoạn phát triển cao hiện nay, vai trò quyết định của kinh tế đối với đời sỗng xã hội không hề thay đổi. Lợi ích kinh tế là lợi ích căn bản nhất cuả lợi ích quốc gia. Việc bảo vệ an ninh kinh tế giữ một vị trí trung tâm trong việc bảo vệ an ninh quốc gia. Trong cộng đồng quốc tế, quan hệ kinh tế giữa các nước là cơ sở của quan hệ quốc tế. Trong quan hệ quốc tế cuộc cạnh tranh giữa các nước chủ yếu là kinh tế, mỗi quốc gia đều coi lợi ích kinh tế là con bài chủ yếu để mặc cả với nhau, thậm trí là mục tiêu chủ yếu để công kích lẫn nhau, chiến tranh kinh tế bùng phát ngay cả giữa những nước đồng minh chính trị quân sự với nhau. Chính sách ngoại giao bá quyền của Mỹ chủ yếu là cấm vận kinh tế đối với những quốc gia mà Mỹ cho là cơ sở nguy hại đến lợi ích an ninh Mỹ. Từ sau chiến tranh thế giới thứ II cho đến 1996, Mỹ đã tiến hành 115 cuộc cấm vận kinh tế. Ngay cả chue nghĩa khủng bố quốc tế cũng dựa vào vũ khí kinh tế. Sự cách trở này là nhân tố ảnh hưởng lớn đến xu thế toàn cầu hoá. trong bối cảnh chiến tranh lạnh thị trường thế giới bị chia cắt không cho phép các quốc gia thống nhất hành động liên kết sức mạnh. Chính vì vậy đã có những thay đổi sâu sắc trong tình hình quốc tế.
Chiến tranh lạnh kết thúc, hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu tan dã cùng với sự sụp đổ của mô hình kinh tế xã Việt, xu hướng toàn cầu hoá mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế phát triển sâu rộng. Các nước Đông á đi theo con đường phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế đã thu được kết quả nổi bật.
Toàn cầu hoá là kết quả tính chính thể các mối quan hệ quốc tế ngày càng tăng cường và phát triển. Đến nay lợi ích chung của các quốc gia trên thế giới không ngừng mở rộng, các nước phát triển và đang phát triển , các nước lớn nhỏ đều do toàn cầu hoá kinh tế và các vấn đề "mang tính toàn cầu" nâng cao mức độ phụ thuộc lẫn nhau, đưa vào nhau cùng tồn tại, cùng hợp tác, cùng phát triển.
Đặc điểm hoà bình và phát triển trở thành chủ đề của thế giới hiện nay càng rõ nét, toàn cầu hoá trở thành nếp tư duy trong cuộc sống thường nhật của con người.
3. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế Việt Nam
Vào cuối những năm của thế kỷ XX, đời sống kinh tế quốc trở nên đặc biệt sôi động. Những thanh tựu kỳ diệu về khoa học công nghệ đã mở ra những khả năng lớn đồng thời các nước đang phát triển trước nguy cơ tụt hậu vì kinh tế và ở vào thế bất lợi so với các nước công nghiệp phát triển. Trong thập niên 90 - Thập niên bản lề "vượt thế kỷ" nhờ những đột phá quan trọng trong công nghệ thông tin đã dẫn đến sự phát triển có tính chất bùng nổ các mạng thông tin truyền dữ liệu quốc gia và quốc tế, nhất là sau khi hợp nhất các mạng Telex, điện thoại, phát thanh truyền hình trên cơ sở kỹ thuật lade, công nghệ chuyển tải đồng bộ (ATM), công nghệ thông tin tầm thấp … đã tạo được khả năng nối mạng rộng rãi với các trung tâm thông tin với hàng trăm triệu mày tính cá nhân, có khả năng truy cập đến hàng triệu nguồn thông tin thế giới thì việc hình thành "không gian điều khiển" toàn cầu trên cơ sở các "siêu lộ thông tin cao tốc" cũng như sự chuyển đổi cấu trúc xã hội dựa vào sản xuất, phổ biến, truy cập và sử dụng thông tin kiến thức một cách rộng rãi để sáng tạo ra sản phẩm mới , tri thức mới đã phác hoạ những đường nét cơ bản đặc trưng cho "xã hội thông tin". Sự phát triển mạnh mẽ công nghệ sinh học phát triển nhảy vọt ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều đó đã tác động trực tiếp đến quá trình toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác để phát triển vừa đấu tranh hết sức phúc tạp đặc biệt là đấu tranh của các nước phát triển bảo vệ lợi ích của mình. Bức tranh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế cực kỳ đa dạng và phức tạp. Một mặt toàn cầu hoá hội nhập kinh tế giúp cho các nước đang phát triển có cơ hội mở rộng thị trường tăng thu hút đầu tư và công nghệ, tham gia một cách bình đẳng vào xây dựng nhưng luật "luật chơi" chung công bằng và bình đẳng hơn để bảo vệ lợi ích của mình. Mặt khác quá trình này đặt các nước đó vào vị thế dễ bị thua thiệt nếu không tích cực và chủ động tham gia.
Nhận thức rõ những cơ hội và thách thức đó, xuất phát từ mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế là để phát triển đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá theo định hướng XHCN thực hiện dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Đảng và Nhà nước ta ngay từ đầu năm 1990 đã chủ trương tích cực tham gia hội nhập khu vực và thế giới với phương châm: hội nhập kinh tế quốc tế là luôn giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, không ngừng phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và giữ vững định hướng XHCN. Bên cạnh đó chúng ta cũng khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế phải tiến hành từng bước với lộ trình hợp lý, phù hợp với điều kiện của một nước đang phát triển có nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như nước ta. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi chỉ trên cơ sở những bước đi phù hợp , chúng ta mới có thể vượt qua được những thách thức to lớn và tận dụng được những cơ hội thuận lơị mà tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế có thể đem lại. Thực tế cho thấy tuy chỉ ở giai đoạn đầu nhưng tiến trình đa dạng hóa, đa phương hoá quan hệ hội nhập kinh tế của cùng với những cải cách và đổi mới trong nước, đã đưa đất nước ta lên một tầm cao mới, gặt hái được những thành quả đáng khích lệ trên nhiều lĩnh vực.
II. Thực trạng hội nhập kinh tế ở Việt nam
1. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
1.1. Thuận lợi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1.Thuận lợi rất cơ bản đầu tiên của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước có quan điểm và đường lối đúng đắn và có sự năng động điều chỉnh về chủ trương, chính sách phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước trong mỗi thời kỳ.
Vào giữa và cuối những năm 80 (thế kỷ XX) nền kinh tế Việt Nam phát triển chậm không ổn định. Trong bối cảnh cực kỳ khó khăn đó, đại hội lần thứ VI của đảng và các hội nghị ban chấp hành trung ương khoá VI đã nẵm bắt xu thế khách quan của thời đại, đề ra đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước, trong đó có những quan điểm cơ bản về mở rộng kinh tế đối ngoại theo phương châm: " đa phương hoá, đa dạng hoá". Tiếp theo đại hội VII, VIII và IX của Đảng ta tiếp tục khẳng định thực hiện chủ trương đó. Tính đến đầu năm 2003, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 90 nước, quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 60 nước, ký kết nhiều hiệp định thương mại … Nền kinh tế ngoại giao đa phương hoá và đa dạng hoá Việt Nam phát triển vượt bậc cả về lượng và chất. Tích cực hội nhập ASEAN tham gia AFTA và ASEM phát triển ngày càng sâu rộng quan hệ trên nhiều phương diện với các nước Tây - Bắc Âu và EU, đã gửi đơn gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ tháng 12/1994, đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách tại các thiết chế khu vực và thế giới. Đây là thành tựu quan trọng góp phần tạo ra thế và lực mới cho việc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
1.1.2.Thuận lợi rất cơ bản thứ hai để Việt nam đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là: những thành tựu to lớn của quá trình đổi mới môi trường hoà bình và ổn đình về nhiều mặt, tiềm năng lớn cả về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực con người, vị trí địa lý kinh tế quan trọng.
Việt nam là quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tài nguyên phong phú không chỉ tạo điều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai thác chế biến mà còn là sức thu hút đối với khu các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên chúng ta có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới.
Về vị trí địa lý, nước ta là cửa ngõ đi ra ngoài Thái Bình Dương của một số quốc gia Đông Nam á, là điểm tiếp giáp với các tuyến đường giao thông quan trọng của thế giới với bờ biển rộng trải dài từ Bắc tới Nam với nhiều hải cảng, đặc biệt là cảng Cam Ranh có độ sâu thuận lợi cho phát triển giao thông hàng hải cũng như phát triển kinh tế hàng hoá. Ngoài một số khoáng sản như Bôsit có chữ lượng lớn 5 tỷ tấn đứng thứ ba trên thế giới , quặng đất hiếm có trữ lượng lớn đứng thứ 2 trên thế giới, sau Trung Quốc thì các loại khoáng sản ở Việt Nam tuy trữ lượng không lớn nhưng rất đa dạng và phong phú. Với nguồn tài nguyên hiện có chúng ta cần tập trung phát triển ngành vật liệu xây nghiệp: gốm, sứ, du lịch, kết hợp phát triển từ các sản phẩm công nghiệp để tạo ta sản phẩm xuất khẩu. Đồng thời chú ý phát triển các loại hình xí nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở liên doanh để tận dụng nguồn phóng sản phong phú, đa dạng phục vụ nhu cầu CNH, HĐH.
Đến nay, sau gần 17 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng để chủ động hội nhập kinh tê quốc tế. Thuận lợi này có tác dụng thúc đẩy quá trình đổi mới ở Việt Nam.
1.1.3. Những thời cơ mới để Việt Nam phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đó là: Mở rộng thị trường ra nước ngoài, tìm hiểu thị trường mới cho hàng hoá Việt Nam trên cơ sở các hiệp đinh thương mại song phương đã ký kết.
Việc mở rộng thị trường ra nước ngoài sẽ đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Nếu chúng ta thực hiện đầy đủ cam kết của AFTA vào năm 2006 thì các hàng công nghiệp chế biến mang thương hiệu Việt Nam có thể tiêu thụ ở tất cả các nước ASEAN - thị trường có số dân hơn nửa tỷ người và GDP trên 700 tỷ USD. Trong tương lai gần, khi gia nhập WTO thì Việt Nam sẽ được hưởng quyền ưu đãi tối huệ quốc (MFN) và hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu 148 nước thành viên của các tổ chức này được thuận lợi hơn. Nhìn về tương lai xa hơn, nếu như nhìn vào năm 2020 hàng rào thuế quan các nước APEC được rỡ bỏ thì hàng hoá "Made in Vietnam" sẽ có một thị trường tiêu thụ rất rộng lớn. Thực tế cho thấy nếu trước khi hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, thuế xuất của hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ ở mức từ 40% đến 50% thì sau khi hiệp định đó có hiệu lực thuế suất chỉ còn từ 3% đến 4%. Nhờ đó hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ tăng từ 6% (năm 1998) lên 27.8% (năm 2000) và năm 2002 còn tăng cao hơn.
Có cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Theo số liệu của bộ kế hoạch và đầu tư, tính đến đầu năm 2003, Việt Nam đã nhận được các khoản cam kết ODA là hơn 20 tỷ USD, trong đó giải ngân được hơn 10 tỷ hơn USD đối với FDI có trên 3800 dự án với tổng số vốn đăng ký trên 24 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 22 tỷ USD. Chính nhờ có nguồn vốn này, chúng ta xây dựng được nhiều công trình kết cấu hạ tầng quan trọng, hoạt động có hiệu quả, hình thành thành phần kinh tế thứ 6 ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0142.doc