LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường ,các quan hệ kinh tế trở nên sống động và phức tạp . lợi nhuận trở thành mục tiêu hàng đầu và là động lực thúc đẩy hoat động của các chủ thể kinh doanh. Tranh chấp phát sinh là hệ quả tất yếu của quá trình kinh doanh đặc biệt là trong hoàn cảnh nền kinh tế thị trường với cơ chế phát triển các thành phầnkinh tế đa ngành đa dạng trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, tính đa dạng và phức tạp trong quan hệ kinh tế làm cho tranh
29 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1614 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tố tụng kinh tế tại toà án nhân dân thực trạng giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chấp kinh tế cũng trở lên phức tạp về nội dung , gay gắt về mức độ tranh chấp và phong phú hơn về chủng loại . Đã vậy xuất phát từ lợi ích kinh tế của mỗi bên tranh chấp kinh tế , việc giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện hiện nay phải đảm bảo :
Nhanh , thuận tiện , hạn chế đến mức tối đa sự gián đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh.
Đảm bảo dân chủ công khai.
Đảm bảo uy tín của các bên trên thương trường.
yêu cầu đặt ra là phải tiến hành nghiên cứu nhằm tìm ra một mô hình tổ chức giải quyết tranh chấp kinh tế phù hợp . Việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại toà án đã bộc lộ nhiều ưu thế hơn hẳn về trình độ tố tụng chặt chẽ và tính khả thi có hiệu lực phán quyết .do đó em chọn đề tài “tố tụng kinh tế tại toà án nhân dân thực trạng giải pháp” nhằm phân tích những ưu điểm và nhược điểm từ đó nêu ra nhưng giải pháp nhằm hoàn thiện công tác giải quyết tranh chấp kinh tế
I,NHỮNG QUI ĐỊNH CHUNG VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ TẠI TOÀ ÁN
1.KHÁI NIỆM ,ĐẶC ĐIỂM VÀ PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ
.
1.1. khái niệm tranh chấp kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế trở nên sống động và phức tạp.Lợi nhuận trở thành mục tiêu theo đuổi và động lực thúc đẩy hoạt động của các chủ thể kinh doanh.Tranh chấp phát sinh là hệ quả tất yếu của quá trình giao lưu dân sự ,kinh tế. Cùng với sự phát triển tất yêú của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ,các tranh chấp (đặc biệt là tranh chấp kinh tế)xuất hiện ngày càng nhiều với quy mô ngày càng lớn và tính chất ngày càng phức tạp.
Hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất về tranh chấp kinh tế.Xong có thể hiểu tranh chấp kinh tế là những mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư,các doanh nghiệp với tư cách là chủ thể kinh doanh.Đây là những tranh chấp phát sinh trong các khâu từ đầu tư,sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Việc xác định rõ khái niêm “tranh chấp kinh tế” là gì có ý nghĩa rất quan trọng sẽ giúp chúng ta thấy được bản chất đích thực của nó ,tránh được sự nhầm lẫn với các tranh chấp khác như tranh chấp hành chính,tranh chấp lao động ...mà đặc biệt là tranh chấp dân sự,trên cơ sở đó có biện pháp giải quyết các tranh chấp này một cách hiệu quả.
1.2Đặc điểm
Tranh chấp kinh tế có những đặc điểm chủ yếu sau:
u Tranh chấp kinh tế phát sinh trực tiếp hoăc có liên quan mật thiết tới hoạt
động kinh doanh,những hoạt động mang tính đặc thù như tính thời cơ
kinh doanh,bí quyết và uy tín kinh doanh;
u Các bên tranh chấp thường là doanh nghiệp hoặc là cá nhân có năng lực
hành vi dân sụ đầy đủ,ý thức được quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại
có khả năng tự bảo vệ cao;
u Các tranh chấp gắn liền với lợi ích riêng biệt của mỗi chủ thể và luôn
luôn thuộc quyền tự quyết của họ;
u Nhiều tranh chấp liên quan tới giá trị tài sản lớn.
Những đặc điểm chủ yếu trên đây có vai tró rất quan trọng trong việc phân định tranh chấp kinh tế với các tranh chấp khác.
1.3 Giải quyết tranh chấp kinh tế
Khi tranh chấp phát sinh đòi hỏi phải được giải quýêt thỏa đáng. Giải quyết tranh chấp là các hoạt động khắc phục, loại trừ tranh chấp đã phát sinh bằng một biện pháp nào đó, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội.
Việc giải quyết thỏa đáng các tranh chấp kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng:
·Bảo vệ được quyền và lơị ích hợp pháp của các bên, giải tỏa sự nặng nề
về tâm lý, duy trì và củng cố quan hệ hợp tác giữa các bên tranh chấp;
·Đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh, giữa các công dân
trước pháp luật, góp phần thiết lập sự công bằng trong toàn xã hội ;
·Giải quyết tranh chấp kinh tế nhanh chóng, thuận tiện là điều kiện tạo
dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, bảo đảm quyền tự do kinh
doanh ;
·Thông qua việc giải quyết tranh chấp kinh tế, đánh giá được việc áp dụng
pháp luật trong thực tiễn kinh doanh, chỉ ra những bất cập, tạo định
hướng hoàn thiện pháp luật.
Với vai trò quan trọng như vậy đòi hỏi việc giải quyết tranh chấp kinh tế phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
·Chính xác, đúng pháp luật ;
·Nhanh chóng, thuận lợi, hạn chế tối đa sự gián đoạn trong quá trình kinh
doanh;
·Đảm bảo tính dân chủ và quyền định đoạt ở mức độ cao của các bên;
·Phán quyết phải có tính năng cưỡng chế thi hành cao;
·Đảm bảo yếu tố bí mật trong kinh doanh, bảo vệ uy tín cho các bên trên
thương trường;
·Đảm bảo chi phí giải quyết tranh chấp thấp.
1. 4.Phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế.
Trong cơ chế kinh tế thị trường có nhiều phương thức khác nhau để giải quyết tranh chấp kinh tế. Đó là:
-Thương lượng
-Trung gian hòa giải
-Trọng tài
-Tòa án
Mỗi phương thức giải quyết tranh chấp có những lợi thế và hạn chế riêng. Phụ thuộc vào tính chất tranh chấp, khả năng và điều kiện cụ thể của các bên tranh chấp mà họ có thể lựa chọn phương thức này hay phương thức khác để giải quyết tranh chấp hoặc có thể sử dụng phối hợp nhiều phương thức.
Ở các nước có nền kinh tế phát triển, trung gian hòa giải và trọng tài là hai hình thức giải quyết tranh chấp chủ yếu. Giải quyết tranh chấp qua các phương thức này thể hiện hàng loạt ưu điểm như tính nhanh chóng, dứt điểm, hoàn toàn tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp, các bên không ràng buộc bởi những thủ tục tố tụng phức tạp, nặng tính hình thức, hơn nữa chi phí giải quyết thấp.
Ở Việt Nam giai đoạn hiện nay hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế phổ biến nhất, quan trọng nhất là Tòa án. Thực tế này có thể giải thích bởi các lý do sau:
-Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Hệ thống cơ quan tài phán trong kinh doanh cũng mới được thiết lập. Nhiều người còn khá xa lạ với việc ủy thác tranh chấp của mình cho một cơ quan không đại diện cho quyền lực tư pháp của Nhà nước giải quyết.
-Kiến thức pháp luật, đặc biệt pháp luật kinh tế; kinh nghiệm tranh tụng trên thương trường, thái độ hợp tác, thiện chí và trung thực của các bên tranh chấp là điều kiện thành công của việc giải quyết qua trọng tài, qua trung gian hòa giải, nhiều khi lại rất thiếu trong hành trang của các chủ thể kinh doanh.
-Bản thân trọng tài chưa phát huy được vai trò của mình trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế .Chúng ta chưa có các văn bản pháp luật giá trị cao về tổ chức và hoạt động của trọng tài.Văn bản gần như duy nhất về trọng tài(phi chính phủ) là Nghị định 116/cp bộc lộ nhiều bất cập.Phán quyết của trọng tài chưa có cơ chế cưỡng chế thi hành.Sự hỗ trợ của tòa án đối với các hoạt động của trọng tài gần như không có.
-Thực tế kinh doanh ở Việt Nam cho thấy các chủ thể thường chỉ đưa tranh chấp giữa họ ra giải quyết tại các cơ quan tài phán trong những trường hợp bất đắc dĩ nhất,khi mâu thuẫn đã trở nên gay gắt,cần phân định rõ phải-trái ,đúng-sai và trong những tình huống như vậy về tâm lý họ thích giải quyết tranh chấp tại một cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước hơn.
những lý do trên vô hình chunglàm chotoà án trở thành cơ quan độc quyềngiải quyết tranh chấp kinh tế ngoài ý muốn của nhà nước và của các bên tranh chấp.
2.Cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế thông qua tố tụng tại Tòa án
Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước,nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành,kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế Nhà nước.Do đó các đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của Toà án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền ,lợi ích của mình khi họ thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng hoà giải và cũng không muốn vụ tranh chấp giữa họ được giải quyết bằng con đường trọng tài.
2.1.Sơ lược về sự ra đời của Toà kinh tế-cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế ở việt Nam hiện nay
Trong tiến trình xây dựng và phát triển kinh tế việt Nam ,Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đánh dấu sự chuyển hướng có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành mô hình kinh tế vĩ mô phù hợp với thực tế Việt Nam và quy luật khách quan đó là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN .
Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế trở nên đa dạng ,sống động và phức tạp .Đặc trưng của cơ chế thị trường là sự cạnh tranh ,có thể nói “lợi nhuận” là mục đích của hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp kinh tế.Trong điều kiện mới các thành phần kinh tế sẽ hoạt động một cách tích cực và bình đẳng trước pháp luật ,vì thế các quan hệ kinh tế không những trở nên phức tạp có sự cạnh tranh gay gắt hơn mà hệ thống chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế cũng phong phú đa dạng hơn.Các tranh chấp kinh tế không chỉ đơn thuần trong lĩnh vực hợp đồng kinh tế mà đã có những tranh chấp mới phát sinh mang nét đặc thù của nền kinh tế thị trường ,những tranh chấp này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài kinh tế như:
+Tranh chấp trong mua bán tiền tệ ,chứng khoán;
+ Tranh chấp trong việc giải quyết công nợ khi một
doanh nghiệp nào đó phá sản;
+ Tuyên bố phá sản đối với một doanh nghiệp nào đó;
+ Tranh chấp giữa công ty với các cổ đông và giữa các
cổ đông với nhau liên quan đến vấn đề thành lập ,
hoạt động ,giải thể công ty...
Từ thực tiễn khách quan trong quá trình đổi mới kinh tế đã đặt ra yêu cầu phải tổ chức lại hệ thống các cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế một cách phù hợp.Mặt khác đứng ở góc độ nào đó để xem xét thì về cơ bản quan hệ kinh doanh có cùng tính chất với quan hệ dân sự vì nó cũng có thể phát sinh quyền và nghĩa vụ trên cơ sở các quan hệ hàng hoá tiền tệ giữa các chủ thể độc lập và bình đẳng với nhau, do đó tranh chấp kinh tế cũng không khác nhiều với tranh chấp dân sự. Tuy nhiên với những đặc điểm riêng, đặc thù tranh chấp kinh tế cũng rất khác so với tranh chấp dân sự (tranh chấp kinh tế phát sinh giữa các nhà kinh doanh với nhau, mục đích trong hoạt động kinh doanh của họ là nhằm lợi nhuận, còn tranh chấp dân sự thì phát sinh giữa các công dân với tổ chức xã hội hoặc giữa các tổ chức xã hội với nhau với tư cách là những người tiêu dùng, không nhằm mục đích mưa cầu lợi nhuận mà chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt).
Chính bởi có sự khác biệt nhất định giữa tranh chấp kinh tế và tranh chấp dân sự mà không thể đồng nhất việc giải quyết tranh chấp kinh tế với tranh chấp dân sự hay để Toà dân sự đồng thời là cơ quan giải quyết luôn tranh chấp kinh tế được. Mặt khác hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Trọng tài chỉ có hiệu quả thấp, không đáp ứng được yêu cầu của các nhà kinh doanh. Trong khi đó họ mong muốn một phương thức giải quyết mới đạt hiệu quả cao, đảm bảo chắc chắn việc khôi phục lại quyền lợi kinh tế của họ. Con đường duy nhất để đảm bảo quyền lợi đó là tài phán kinh tế mang tính tư pháp.
Như vậy việc thành lập và tổ chức các Toà kinh tế để thực hiện nhiệm vụ giải quyết tranh chấp kinh tế và thực hiện tuyên bố phá sản doanh nghiệp là nhu cầu khách quan nảy sinh từ sự đòi hỏi của chuyển đổi cơ chế kinh tế.
Trên tinh thần đó ngày 28 tháng 12 năm 1993 Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX kỳ họp thứ tư đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân. Chủ tịch nước công bố Luật ngày 10 tháng 1 năm 1994 và Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 10 tháng 1 năm 1994. Phần sửa đổi, bổ sung chủ yếu là các điều liên quan đến việc thành lập Toà kinh tế, tổ chức và thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các vụ án kinh tế. Tiếp đến luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân được Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ VIII thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995 đều xác đinh Toà kinh tế được đặt trong Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và toà án nhân dân tối cao. Toà kinh tế không phải là hệ thống toà án riêng biệt, khác biệt với toà án thường mà nằm trong và là một bộ phận cấu thành của các toà án nhân dân ,cụ thể là:
Theo khoản 2 điều 17 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức toà án nhân dân: “Cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân tối cao gồm:
-Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;
-Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;
-Toà án quân sự trung ương, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế và các Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao; trong trường hợp cần thiết, uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Toà chuyên trách khác theo đề nghị của chánh án Toà án nhân dân tối cao.
-Bộ máy giúp việc”.
Theo khoản 1 điều 27 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân “cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm:
-Uỷ ban thẩm phán
-Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, trong trường hợp cần thiết Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Toà chuyên trách khác theo đề nghị của bộ trưởng bộ tư pháp sau khi thống nhất với chánh án Toà án nhân dân tối cao.
-Bộ máy giúp việc”.
Đối với các Toà án nhân dân cấp quận huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì không có các phân Tòa kinh tế mà chỉ có các thẩm phán kinh tế chuyên trách.
2.2. Tố tụng kinh tế.
2.2.1. Khái niệm
Với tư cách là một chế định của Luật kinh tế, tố tụng kinh tế là tổng hợp các quan hệ pháp luật điều chỉnh mối quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế giữa Toà án kinh tế với các bên tham gia tố tụng và giữa họ với nhau. Những quan hệ đó là quan hệ tố tụng kinh tế.
2.2.2. Đặc điểm.
Quan hệ tố tụng kinh tế có các đặc điểm:
; Chúng phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế tại Toà án kinh tế. (Vụ án kinh tế là vụ án phát sinh tại Toà án kinh tế, khi Toà giải quyết các tranh chấp kinh tế phát sinh từ hoạt động kinh doanh.)
; Một trong các chủ thể bắt buộc của quan hệ tố tụng kinh tế là Toà án kinh tế, các chủ thể khác là người kinh doanh, doanh nghiệp);
; Căn cứ phát sinh quan hệ tố tụng kinh tế là sự tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các nhà kinh doanh, người có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu Toà án giải quyết.
; Mục đích của việc giải quyết các vụ án kinh tế tại Toà án kinh tế là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ kinh tế.
Nội dung của tố tụng kinh tế bao gồm các quy định về nguyên tắc giải quyết vụ án kinh tế, thẩm quyền, trình tự, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng kinh tế.
2.2.3. Các nguyên tắc của tố tụng kinh tế ( nguyên tắc của việc giải quyết các vụ án kinh tế)
Nguyên tắc, đó là tư tưởng chỉ đạo đối với việc giải quyết các vụ án kinh tế được các quy phạm pháp luật và tố tụng kinh tế ghi nhận nó thể hiện được những đặc trưng và nội dung cơ bản của tố tụng kinh tế.
Việc tôn trọng các nguyên tắc của tố tụng kinh tế là cơ sở cho việc đảm bảo giải quyết vụ án kinh tế khách quan, đúng pháp luật.
Toà kinh tế là một toà chuyên trách của Toà án nhân dân, do đó nó cũng phải tuân theo những nguyên tắc chung trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân. Ngoài ra khi giải quyết các vụ án kinh tế còn phải tuân theo những nguyên tắc sau:
. Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự
Theo nguyên tắc này các bên tranh chấp có quyền tự quyết định việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước Toà án. Điều đó có nghĩa là khi đương sự có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm, thi họ có quyền khởi kiện hoặc không khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi cho mình. Khi đương sự đã khởi kiện vụ án người khởi kiện có quyền rút đơn kiện, thay đổi nội dung đơn kiện. Các đương sự có quyền hoà giải vơi nhau.
Căn cứ vào nguyên tắc này, Toà án kinh tế chờ giải quyết vụ án kinh tế nếu đương sự yêu cầu và cũng chỉ giải quyết những vấn đề mà đương sự yêu cầu. Còn tranh chấp kinh tế nào đương sự không yêu cầu thì Toà án không giải quyết.
. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Khi các doanh nghiệp, người kinh doanh tham gia vào quan hệ tố tụng kinh tế họ hoàn toàn bình đẳng với nhau về quyền lợi và nghĩa vụ, không có sự phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước, công ty, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân hay người kinh doanh nhỏ. Doanh nghiệp nào vi phạm quyền lợi của doanh nghiệp khác đều phải chịu trách nhiệm, đều phải thực hiện những nghĩa vụ do pháp luật quy định. Doanh nghiệp nào bị vi phạm đều được pháp luật bảo vệ
Nguyên tắc này đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án kinh tế được công bằng, đúng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
.Nguyên tắc xét sử công khai
Xét sử công khai là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Tòa án. Việc giải quyết các vụ án kinh tế ngoài mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn có mục đích tuyên truyền giáo dục pháp luật. Do đó về nguyên tắc, các vụ án kinh tế được xét sử công khai trừ trường hợp cần giữ bí mật Nhà nước hoặc giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ. Trong hoạt động kinh doanh, người kinh doanh có thể có bí quyết kinh doanh riêng , nếu họ yêu cầu Tòa án có thể xét xử kín nếu Tòa thấy yêu cầu đó là chính đáng. Xong dù Tòa có xét xử kín thì phần quyết định của bản án cũng phải công bố.
. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ
Khi giải quyết các vụ án kinh tế, Tòa án chỉ căn cứ vào những chứng cứ mà đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình. Trong trường hợp quyền lợi của đương sự bị vi phạm mà đương sự không đưa ra được chứng cứ để chứng minh thì Tòa án không có trách nhiệm giải quyết. Khi cần thiết, Tòa án có thể xác minh, thu thập chứng cớ để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được chính xác. Tòa án không tiến hành điều tra như trong vụ án hình sự và dân sự.
. Nguyên tắc hòa giải
Khi có tranh chấp kinh tế xảy ra, các bên đương sự phải chủ động gặp gỡ nhau để hòa giải, thương lượng. Khi mà sự thương lượng đó không đem lại kết quả thì bên bị vi phạm có quyền khởi kiện vụ án kinh tế ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế Tòa án nhân dân có nhiệm vụ phải hòa giải giữa các bên đương sự. Hòa giải là bắt buộc trong tố tụng kinh tế. Nếu như khi giải quyết vụ án kinh tế của Tòa án không hòa giải giữa các bên thì coi như đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tòa án chỉ đưa vụ án ra xét sử khi hòa giải không thành. Hòa giải có ý nghĩa quan trọng đối với cả hai bên đương sự và với cả Tòa án. Nó giúp vụ án được giải quyết nhanh chóng, đạt được yêu cầu của cả hai bên và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những thỏa thuận sau này.
Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, dứt điểm
Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường rất năng động, linh hoạt, thời gian đối với các nhà kinh doanh có ý nghĩa sống còn. Do đó khi có tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, các nhà kinh doanh cần các cơ quan giải quyết tranh chấp, không những giải quyết đúng pháp luật mà phải nhanh chóng kịp thời, dứt điểm, tránh dây dưa kéo dài. Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đơn giản hơn thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Cũng nhằm vào việc giải quyết nhanh chóng, vì vậy mà trong quá trình giải quyết các vụ án kinh tế Tòa án không cần giai đoạn điều tra, hạn chế việc quay vòng vụ án để xét sử nhiều lần
3.Thẩm quyền của Tòa kinh tế
Tòa kinh tế là một cơ quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Những tranh chấp kinh tế thuộc lĩnh vực giải quyêt của Tòa kinh tế.Nói đến thẩm quyền của tòa kinh tế tức là nói đến những thẩm quyền trong việc giải quyết các tranh chấp về kinh tế.khi xảy ra một tranh chấp kinh tế thì việc xác định nó thuộc thẩm quyền của cơ quan nào có ý nghĩa quan trọng trong việc thụ lý ,chuẩn bị hồ sơ giải quyết tranh chấp kinh tế cũng như việc thi hành quyết định bản án của tòa kinh tế.
Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế được thể hiện ở các mặt sau:
3.1.Thẩm quyền xét xử theo tính chất ,nội dung vụ việc
Theo điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế,Toà kinh tế có thẩm quyền giải quyết các vụ việc sau:
v các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân
,giữa pháp nhân vói cá nhân có đăng ký kinh doanh;
v Các tranh chấp kinh tế giữa các công ty với công ty,giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập,hoạt động
,giải thể công ty;
v Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu trái phiếu ;
v Các tranh chấp kinh tế khác mà pháp luật quy định thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa kinh tế.
Việc quy định tòa kinh tế được :”giải quyết các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật” là một quy phạm mở,cho phép Tòa kinh tế tòa án nhân dân các cấp được giải quyết các tranh chấp liên quan đến đầu tư nước ngoài theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ,các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế thuộc các kĩnh vực như thương mại ,hàng hải,hàng không ,bưu chính viền thông ,tài chính ,ngân hàng,bảo hiểm... và các tranh chấp thuộc thẩm quyền xem xét của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam mà các bên đương sự quyết định khởi kiện tại tòa kinh tế tòa án nhân dân các cấp khi không đồng ý với phán quyết của Trọng tài.
3.2.Thẩm quyền theo cấp Tòa án
Điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy đinh:
v Tòa án nhân dân huyện ,quận ,thị xã,thành phố thuộc tỉnh(gọi chung là tòa án cấp huyện )giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp hợp đồng kinh tế mà giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng,trừ trường hợp có nhân tố nước ngoài.
v Tòa án nhân dân tỉnh ,thành phố trực thuộc trung ương(gọi chung là Tòa án cấp tỉnh)giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án kinh tế được quy đinh tại điều 12 của pháp lệnh này,trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện.Trong trường hợp cần thiết tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án cấp huyện.Theo quy đinh này:
Tại các tòa án nhân dân cấp huyện mặc dù không có tranh chấp kinh tế nhưng tòa án vẫn được giao thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ tranh chấp hợp đông kinh tế có giá trị tranh chấp nhỏ ,tình tiết đơn giản.Đó là các tranh chấp hợp đồng kinh tế có giá trị dưới 50 triệu đồng,còn nếu là các tranh chấp khác như tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp ,chứng khoán... dù có giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng vẫn không thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện .
v Thẩm quyền của Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao là giám đốc thẩm ,tái thẩm những vụ án kinh tế má bản án ,quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng (khoản3-điều23 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật tổ chức Tòa án nhân dân).
3.3.Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ
Theo quy định tại Điều 14 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế là Tòa án nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú ; trong trường hợp vụ án chỉ liên quan đến bất động sản thì Tòa án nơi có bất động sản giải quyết.
4.Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Điều 15 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án để yêu cầu giải quyết vụ án ,gồm các trường hợp:
; Nếu không biết trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn thì có
quyền yêu cầu Tòa án nơi có tài sản , nơi có rụ sở hoặc
nơi cư trú cuối cùng của bị đơn để giải quyết;
; Nếu vụ án phát sinh là hoạt động của chi nhánh doanh
nghiệp thì có thể yêu cầu tòa án nơi doanh nghiệp có trụ
sở hoăc nơi cư trú cuối cùng của bị đơn để giải quyết;
; Nếu vụ án phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế thì có
quyền yêu cầu tòa án nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của
một trong số các bị đơn giải quyết vụ án ;
; Nếu vụ án không chỉ liên quan đến bât động sản thì có
quyền yêu cầu tòa án nơi có bât động sản hoặc nơi cư trú
của bị đơn giải quyết ;
; Nếu vụ án liên quan đến bất động sản ở nhiều nơi khác thì
có quyền yêu cầu Tòa án của một trong số các nơi đó giải
quyết .
Trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền của Tòa án thì do Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết.
.
5.TRÌNH TỰ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ TẠI TOÀ ÁN
5.1.Khởi kiện vụ án
Khởi kiện vụ án kinh tế là quyền của công dân, pháp nhân có lợi ích bị xâm hại hoặc có tranh chấp cần được bảo vệ.
Theo khoản 1 - điều 31- Pháp lệnh quy định: Người khởi kiện phải làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết vụ án kinh tế trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp.
Theo khoản 2- diều 31 quy định : đơn khởi kiện phải có các nội dung sau đây:
Ngày, tháng, năm viết đơn.
Toà án được yêu cầu giải quyết vụ án .
Tên của nguyên đơn, bị đơn.
Địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn.
Tóm tắt nội dung tranh chấp, giá trị tranh chấp.
Quá trình thương lượng của các bên.
Các yêu cầu, đề nghị Toà án xem xét, giải quyết.
Ngoài ra, đơn kiện phải do nguyên đơn hoặc người đại diện của nguyên đơn ký. Kèm theo đơn kiện phải có các tài liệu chứng cứ cho yêu cầu của nguyên đơn (khoản 3- điều 31)
5.2Thụ lý vụ án
Thụ lý vụ án là việc Toà án chấp nhận đơn của người khởi kiện và ghi vào sổ thụ lý vụ án của Toà án.
Theo điều 32 – Pháp lệnh quy định Toà án thụ lý vụ án với các điều kiện sau đây:
Người khởi kiện có quyền khởi kiện .
Đơn kiện gửi đúng thời hiệu khởi kiện.
Sự việc chưa được giải quyết bằng bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc của cơ quan có thẩm quyền khác.
Sự việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án đó.
Sự việc không được các bên thoả thuận trước là phải giải quyết theo thủ tục Trọng tài.
Nếu Toà án xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình thì thông báo ngay cho nguyên đơn biết. Trong thời hạn 7 ngày , kể từ ngày được thông báo, nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật và Toà án vào sổ thụ lý vụ án vào ngày nguyên đơn xuất trình chứng từ về việc nộp tiền tạm ứng án phí (quy định tại điều 33- Pháp lệnh)
5.3.Chuẩn bị xét xử
Chuẩn bị xét xử là giai đoạn Toà án tiến hành những công việc đưa vụ án ra xét xử.
Theo khoản 2 - điều 34- Pháp lệnh quy định: thời hạn chuẩn bị xét xử là 40 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với các vụ án phức tạp thì thời hạn đó không quá 60 ngày.
Trong thời gian này , Toà án tiến hành các công việc sau:
Thông báo việc kiện: (khoản 1- điều 34) trong thời hạn 10 ngay, kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo cho bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết nội dung đơn kiện.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày được thông báo, bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phải gửi cho Toà án ý kiến của mình bằng văn bản về đơn kiện và các tài liệu khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
Xác minh, thu thập chứng cứ (điều 35 – Pháp lệnh):
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử , nếu xét thấy cần thiết, Toà án có thể tiến hành hoặc uỷ thác cho Toà án khác tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, bao gồm:
Yêu cầu đương sự cung cấp , bổ sung chứng cứ hoặc trình bầy về những vấn đề cần thiết .
Yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án .
Yêu cầu người làm chứng trình bầy về những vấn đề cần thiết.
Xác minh tại chỗ.
Yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc lập hội đồng định giá tài sản có tranh chấp.
Hoà giải:( điều 36- pháp lệnh)
Trước khi mở phiên toà, Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự có thể thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án .
Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án , thì Toà án lập biên bản hoà giải thành và ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự và quyết định này có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp các đương sự không thể thoả thuận với nhau được thì Toà án lập biên bản hoà giải không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
5.4 Phiên toà sơ thẩm
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử , Toà án phải mở phiên toà. Trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn đó không quá 20 ngày.
Phiên toà sơ thẩm được tiến hành với sự điều khiển của một Hội đồng xét xử gồm 2 thẩm phán và một hội thẩm, với sự có mặt của các đương sự hoặc người đại diện của đương sự. Nếu viện kiểm sát có yêu cầu tham gia phiên toà thì được tiến hành với sự có mặt của viện kiểm sát viên. Nếu sự có mặt của người làm chứng, người giám định , người phiên dịch là không thể thiếu được thì phiên toà chỉ đựoc tiến hành khi họ có mặt(điều 45- Pháp lệnh).
Phiên toà sơ thẩm vụ án kinh tế gồm các thủ tục sau:
* Thủ tục bắt đầu phiên toà(điều 46-Pháp lệnh):
Chủ toạ phiên toà đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, kiểm tra sự có mặt và căn cước của những người được triệu tập đến phiên toà và giải thích cho họ biết quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên toà.
Chủ toạ phiên toà giới thiệu các thành viên tham gia phiên toà.
Người làm chứng phải cam đoan khai đúng sự thật. Nếu thấy người làm chứng có thể bị ảnh hưởng bởi lời khai của người khác thì chủ toạ phiên toà cho cách ly người làm chứng với những người khác trước khi lấy lời khai của người làm chứng.
* Thủ tục xét hỏi tại phiên toà(điều 47- Pháp lệnh):
Hội đồng xét xử xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án bằng cách nghe lời trình bầy của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện của đương sự, người làm chứng, người giám định, xem xét vật chứng.
Khi xét hỏi, Hội dồng xét xử hỏi trước, sau đó đến kiểm sát viên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Những ngời tham gia tố tụng có quyền đề xuất với Hội đồng xét xử những vấn đề cần được hỏi thêm.
* Thủ tục tranh luận tại phiên toà(điều 48- Pháp lệnh):
Sau khi Hội đồng xét xử kết thúc việc xét hỏi, các đương sự hoặc người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trình bày các tình tiết liên quan đến vụ án và nêu ý kiến của mình về cách thức giải quyết vụ án, tham gia tranh luận, có quyền đáp lại ý kiến của người khác, Kiểm sát viên trình bầy ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án.
* Nghị án(điều 51- Pháp lệnh):
Các quyết định của Hội đồng xét xử phải được các thành viên thảo luận và quyết định theo đa số. Khi nghị án phải có biên bản ghi các ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử.
* Tuyên án(điều 52- Pháp lệnh): Chủ toạ phiên toà công bố toàn văn bản án và có trách nhiệm giải thích cho đương sự biết qu._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9733.doc