TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp theo nghĩa rộng và cung cấp chứng cứ cho hoạt động của tòa án theo nghĩa hẹp, nhằm góp phần bảo đảm quyền lợi, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội; có tác dụng góp phần chủ động phòng ngừa các tranh chấp và vi phạm pháp luật, cung cấp tài liệu có giá trị chứng cứ phục vụ việc giải quyết các tranh chấp, đồng thời góp phần vào việc duy trì kỷ cương pháp luật trong xã hội. Việc

doc219 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5671 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng cường công tác công chứng trong tình hình hiện nay là yêu cầu bức xúc của quản lý kinh tế, quản lý xã hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội [107, tr. 262]. Để phát huy hiệu quả của hoạt động công chứng, tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật và giúp đỡ pháp lý cho công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế. Với một thời gian ngắn trong vòng 10 năm, Nhà nước ta đã ban hành ba Nghị định về tổ chức và hoạt động công chứng (Nghị định 45/HĐBT ngày 27/2/1991, Nghị định 31/CP ngày 18/5/1996; Nghị định 75/2000 ngày 8/12/2000), điều đó chứng tỏ tổ chức và hoạt động công chứng là một lĩnh vực không những được xã hội chú ý mà còn được Nhà nước luôn quan tâm để hoàn thiện pháp luật về công chứng ở nước ta. Thực tiễn hoạt động công chứng ở nước ta trong những năm vừa qua cho thấy, hoạt động công chứng là "hàn thử biểu" của sự phát triển kinh tế xã hội [23. tr. 3]. Nền kinh tế thị trường, trình độ xã hội hóa ngày càng cao, các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng trở nên phức tạp, đòi hỏi tổ chức và hoạt động công chứng cần phải đáp ứng kịp thời những nội dung của quá trình đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đề ra là "cải cách nền hành chính nhà nước là trung tâm của việc xây dựng hoàn thiện nhà nước trong những năm trước mắt" [67, tr. 31]. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan bổ tạo tư pháp, tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu lợi ích của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng [107, tr. 217]. Hoạt động công chứng ở nước ta trong những năm vừa qua, chừng mực nào đó đã đóng góp một phần tích cực vào việc lập lại trật tự trong lĩnh vực giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, đã đi vào cuộc sống và có ý nghĩa thiết thực, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. Song, tình hình hiện nay đang đặt ra cho tổ chức và hoạt động công chứng nhiều vấn đề cần phải được giải quyết bằng việc tổ chức lại hệ thống công chứng theo hướng thực hiện dịch vụ cộng với sự giám sát của cộng đồng, kiện toàn bộ máy và tinh giảm biên chế một cách cơ bản [107, tr. 217]. Chuyên môn hóa các hoạt động hỗ trợ tư pháp nói chung và công chúng nói riêng nhằm giải quyết kịp thời, khách quan, chính xác các việc công chứng mà nhân dân và tổ chức yêu cầu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thể chế công chứng là nội dung quan trọng và cần thiết trong đời sống kinh tế và xã hội của tất cả các nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Ở nước ta, thể chế này còn rất mới, mặc dù thời Pháp thuộc đã có cơ quan quản lý văn khế, nhưng những năm sau đó chúng ta không triển khai, đến nay mới bắt đầu thiết lập lại, do đó việc nghiên cứu về công chứng có thể nói là đang ở giai đoạn bắt đầu, còn thiếu nhiều cả lý luận và thực tiễn. Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về công chứng. Các tác giả chủ yếu nghiên cứu nhiều nội dung khác nhau, một số công trình nghiên cứu một cách khái quát hoặc mang tính chất giới thiệu pháp luật về công chứng ở Việt Nam và của các nước trên thế giới, cụ thể là: Nguyễn Văn Yểu - Dương Đình Thành "Những điều cần biết về công chứng nhà nước'' (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1992); Đề tài khoa học "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam" (Mã số 92-98-224 của Bộ Tư pháp, 1993); Giới thiệu vài nét về xây dựng và hoàn thiện công chứng nhà nước ở Thành phố Hà Nội (Thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, 1995); "Công chứng nhà nước và những vấn đề đặt ra hiện nay" của TS. Trần Thất (Thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, 1995); "Công chứng nhà nước Thành phố Hà Nội những vấn đề cần quan tâm" của tác giả Trần Anh Tuấn đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước, số 11, tháng 6 năm 1995; "Tình hình công chứng hiện nay và những vấn đề đặt ra" của tác giả Trần Kiên, đăng trên Tạp chí Pháp luật, số chuyên đề tháng 7 năm 1995; "Công chứng nhà nước công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức" của tác giả Dương Đình Thành, đăng trên Tạp chí Pháp luật, số chuyên đề tháng 7 năm 1995; "Một số vấn đề công chứng các giao dịch về tài sản ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp", Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Đỗ Xuân Hòa, hoàn thành năm 1998; "Một số vấn đề về công chứng nhà nước của TS. Nguyễn Ngọc Hiến'' (tài liệu nghiệp vụ về công chứng - Bộ Tư pháp phát hành tháng 10/1996); "Tập bài giảng công chứng, luật sư, giám định tư pháp, hộ tịch" của Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997; "Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay", (Luận án Tiến sĩ Luật học của Đặng Văn Khanh, Hà Nội 2000). Các đề tài nghiên cứu nói trên đã có những giải quyết nhất định về các lĩnh vực công chứng ở nước ta trong những năm trước đây, song các nội dung nghiên cứu chưa cập nhật đầy đủ và chưa đảm bảo tính hệ thống về tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta trong những năm vừa qua và tình hình đổi mới theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX hiện nay. Trong các quy định của pháp luật về công chứng trong dư luận xã hội cũng như quan điểm của các tác giả thì lĩnh vực công chứng dường như vẫn còn là một lĩnh vực thiếu nhất quán và còn nhiều mâu thuẫn. Với đề tài này, chúng tôi hy vọng sẽ giải quyết được một phần hạn chế nói trên. Chúng tôi có những thuận lợi hơn các tác giả trước đây là: Bản thân đã có 10 năm trực tiếp thực hiện các việc công chứng và làm quản lý tổ chức và hoạt động công chứng ở một Phòng công chứng nhà nước. Đã nghiên cứu cụ thể đề tài của các tác giả về các vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động công chứng, có kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn. Các giáo viên giảng dạy và hướng dẫn khoa học là những người có kiến thức sâu rộng, trực tiếp làm công tác nghiên cứu khoa học và quản lý tổ chức hoạt động công chứng trên phạm vi toàn quốc, đã từng hướng dẫn nhiều đề tài về lĩnh vực này. Song, chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn là: Nguồn tài liệu tham khảo còn hạn chế, pháp luật về công chứng nước ta vừa thiếu, vừa không ổn định, nhận thức chung về công chứng không được thống nhất. Với tinh thần say mê nghiên cứu chúng tôi đã cố gắng để luận án đạt được kết quả như mong muốn. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Mục đích: Trước yêu cầu của cuộc cải cách tư pháp nói chung và cải cách hệ thống các cơ quan bổ trợ tư pháp nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu của đời sống xã hội trong việc bảo đảm an toàn pháp lý cho các hoạt động kinh tế, thương mại dân sự, yêu cầu cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử của Tòa án. Mục đích của luận án là làm sáng tỏ về mặt lý luận một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề về tổ chức và hoạt động của công chứng nhà nước, để từ đó góp phần giải quyết các vướng mắc về tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta hiện nay. - Nhiệm vụ: Về mặt lý luận: Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của khái niệm công chứng trong quá trình lịch sử lập pháp hành chính - nhà nước Việt Nam, đồng thời so sánh với pháp luật công chứng của một số nước trên thế giới. Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động công chứng được áp dụng trong thực tiễn hoạt động của các phòng công chứng cũng như hoạt động của các cơ quan khác có thẩm quyền thực hiện công chứng, đồng thời trên cơ sở những vướng mắc, thiếu sót mà thực tiễn hoạt động công chứng đặt ra để phân tích về mặt lý luận và đề xuất những giải pháp nhằm kiện toàn lại tổ chức công chứng ở nước ta. - Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu về khái niệm công chứng nói chung và khái niệm công chứng theo mô hình tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta hiện nay; nghiên cứu về tổ chức công chứng, hoạt động công chứng; nghiên cứu về cơ quan quản lý công chứng; đặc biệt là nghiên cứu về công chứng viên - chủ thể của hoạt động công chứng; nghiên cứu về các cơ quan có liên quan đến hoạt động công chứng ở nước ta. - Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu việc tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta gồm các vấn đề về khái niệm công chứng, việc tổ chức các cơ quan thực hiện công chứng. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về Nhà nước và pháp luật. Trên cơ sở phương pháp luật duy vật biện chứng và quan điểm lịch sử để khẳng định vị trí vai trò chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và hoạt động công chứng. - Tác giả dựa vào đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế, về quản lý nhà nước, về cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp và đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp, hỗ trợ tư pháp. Nghiên cứu các chế định về công chứng nói chung, trong đó đáng chú ý là các quy định về tổ chức công chứng trong các thời kỳ lịch sử cụ thể ở nước ta và của các trường phái công chứng trên thế giới. - Trong quá trình nghiên cứu tác giả đặc biệt chú ý sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, sử dụng phương pháp điều tra, phân tích thực tiễn tổ chức và hoạt động của các Phòng công chứng trong toàn quốc thời gian từ năm 1992 đến năm 2000. Tác giả đặc biệt chú ý đến hoạt động của các phòng công chứng số 2, số 3 và ở các địa bàn khác để so sánh và tìm ra giải pháp xác định mô hình tổ chức công chứng trên địa bàn cả nước. - Luận án đặc biệt chú ý đến nguyên lý đời sống kinh tế, xã hội, quá trình giao lưu dân sự, kinh tế ở các vùng, miền trong cả nước để xác định mô hình tổ chức và phân bổ lực lượng công chứng viên. 5. Những đóng góp mới của luận án Để góp phần thiết thực vào việc hoàn thiện bộ máy nhà nước, cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách hệ thống các cơ quan hỗ trợ tư pháp, những nội dung sau đây là những vấn đề có ý nghĩa của luận án. - Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta, một loại hình hoạt động có tính đặc thù và còn mới ở Việt Nam. - Luận án đã đưa ra được khái niệm mới về công chứng trên cơ sở phân tích và chứng minh để làm rõ những hạn chế trong việc xác định khái niệm về công chứng nhà nước trước đây. Tác giả đã nghiên cứu, phân tích, so sánh vói các loại hình công chứng của các nước trên thế giới. Khái niệm mới về công chứng đảm bảo các yêu cầu về mặt pháp lý, phù hợp với tình hình, đặc điểm về tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế về công chứng. - Tác giả đã tập trung phân tích, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta trong những năm vừa qua và chỉ ra được những bất cập về tổ chức bộ máy, về phạm vi thẩm quyền hoạt động, về thủ tục thực hiện công chứng. Đặc biệt, tác giả đã phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa hoạt động của cơ quan có thẩm quyền thực hiện công chứng với hoạt động của công chứng viên và những người có thẩm quyền thực hiện hành vi công chứng. - Luận án đã đưa ra được mô hình tổ chức và quản lý công chứng trên cơ sở nghiên cứu về lịch sử phát triển công chứng, chứng thực ở nước ta qua các thời kỳ, dựa trên nền tảng của văn hóa dân tộc, thói quen ứng xử trong giao lưu dân sự, quá trình phát triển của quan hệ sở hữu, kết hợp với việc nghiên cứu có chọn lọc không áp đặt, rập khuôn máy móc, giáo điều mô hình công chứng của bất cứ quốc gia nào. Cơ cấu tổ chức bộ máy công chứng mà tác giả đưa ra là phù hợp, hoạt động có hiệu quả phù hợp với tiến trình cải cách nền hành chính quốc gia, phù hợp với tình hình đặc điểm của nước ta kể cả hiện tại và trong tương lai. - Luận án đã có những đề xuất cụ thể để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện những văn bản pháp luật về công chứng, chứng thực, về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan quản lý công chứng, về quy chế hoạt động của công chứng viên. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Về lý luận: Luận án là công trình nghiên cứu toàn diện và có hệ thống đầu tiên về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay. Với những đóng góp mới về mặt khoa học đã được nêu trên, trong quá trình viết luận án, tác giả đã công bố những kết quả nghiên cứu trong các tạp chí chuyên ngành. - Về thực tiễn: Luận án góp phần vào việc xác định khái niệm công chứng, chủ thể thực hiện hành vi công chứng cũng như việc nâng cao hiệu quả trong việc hạn chế bớt các tranh chấp xảy ra trong giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, lao động... Ngoài ra, với những đóng góp mới của luận án sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục nghiên cứu về tổ chức và hoạt động công chứng cũng như làm tài liệu phục vụ cho công tác giảng dạy ở các trường đại học, nhất là phục vụ cho việc đào tạo chức danh công chứng ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác giả và danh mục tài liệu tham khảo; luận án chia làm 3 chương, 9 tiết. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG NHÀ NƯỚC 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG NHÀ NƯỚC 1.1.1. Khái niệm công chứng nhà nước Lịch sử công chứng hay nói chính xác hơn là yêu cầu chứng nhận, xác nhận, làm chứng đã có từ hàng nghìn năm, đã trải qua những biến đổi cùng với những quan điểm, quan niệm về chứng cứ. Các chế độ chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau thì tổ chức và hoạt động công chứng cũng được quy định khác nhau. Hoạt động công chứng, chứng thực, làm chứng gắn liền với sự phát triển của xã hội. Suốt từ thời kỳ cổ đại đến trung cổ, giữa người làm công chứng (công chứng viên) và người lập văn tự thuê, chưa được phân biệt rõ ràng. Ở thời kỳ cổ đại người ta đã thấy những viên thư lại tiến hành soạn thảo các khế ước (hợp đồng) theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, khó có thể bị thay đổi về sau, khác hẳn với những khế ước không thành văn theo truyền thống (giao kết miệng) [24, tr. 21]. Lịch sử Nhà nước đã có thời kỳ chưa có khái niệm công chứng, một số tác giả nghiên cứu về công chứng cho rằng có hai loại hình thực hiện công chứng là tư chứng thư và công chứng thư'. Các tác giả đã đưa ra các khái niệm ''công'' và "tư", giữa cá nhân tự do làm chứng với các chức danh được Nhà nước giao cho nhiệm vụ thực hiện hành vi công chứng hoặc Nhà nước trực tiếp thực hiện các việc công chứng [7], [98, tr. 95]. Vấn đề này phải được lý giải một cách cụ thể như sau: - Tư chứng thư (người làm chứng tự do): Trong nhân dân ta tồn tại một truyền thống là mỗi khi có các giao dịch quan trọng đều phải nhờ những người có uy tín trong gia tộc, trong thôn xóm đứng ra làm chứng để xác nhận. Khi có tranh chấp xảy ra, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa vào hình thức chứng nhận trên để chứng minh sự thật, lấy đó làm cơ sở để giải quyết vụ việc tranh chấp. Những văn tự được lập ra do các cá nhân công dân thực hiện và có người thứ ba làm chứng với tư cách cá nhân nên được gọi là "tư chứng thư" [54, tr. 31]. Đây là một dạng chứng nhận của bất kỳ một cá nhân nào, thực hiện một cách tự do, làm chứng không phải là nghề chuyên môn mà họ được giao, Nhà nước không những không cấm mà còn có phần khuyến khích nhân dân tham gia cung cấp chứng cứ khi có yêu cầu. Loại hoạt động này chúng ta thấy xuất hiện từ thời cổ đại và tồn tại cho đến tận ngày nay. Ở Việt Nam trong Quốc triều thư khế (Thể thức giấy tờ, khế ước dùng trong triều) như chúc thư, văn khế bán ruộng đất, văn khế cầm cố ruộng đất, văn ước vay nợ, giấy giao kèo, văn ước bán trâu, bò... đều quy định người chứng kiến, người bảo lãnh, người viết thay phải điểm chỉ vào văn tự [54, tr. 61], [69], [78]. Đây là những quy định nhằm bảo đảm hiệu lực pháp lý, hạn chế tranh chấp kiện tụng. Trong xã hội phong kiến ở Việt Nam chính vì có những bảo đảm trong quan hệ giao dịch nên nhân dân đã tìm đến với Quốc triều hình luật, Quốc triều thư kế vốn có chứa đựng những chuẩn mực sinh hoạt đời thường. Một điều lý thú trong đời sống hàng ngày từ xa xưa ở Việt Nam đã có câu "Nói có sách, mách có chứng" phần nào như một luật tục. Cho đến nhà Nguyễn Gia Long ban hành Hoàng Việt luật lệ vẫn tiếp tục được nhân dân và quan lại chính quyền nhà Nguyễn vận dụng [53, tr. 21]. Bộ luật dân sự của nước ta hiện nay vẫn quy định trong quan hệ dân sự các bên phải thiện chí, trung thực... Nếu một bên cho rằng bên kia không trung thực thì phải có chứng cứ [1], [11], chứng cứ ở đây bao hàm cả những chứng cứ do cơ quan chuyên trách cung cấp và cả chứng cứ do bất kỳ tổ chức, cá nhân nào cung cấp. Khi nghiên cứu về khái niệm công chứng thì đồng thời phải nghiên cứu đến cơ sở hình thành khái niệm, lịch sử truyền thống, thói quen trong việc làm chứng ở mỗi thời kỳ lịch sử và mỗi quốc gia riêng biệt. Nghiên cứu mối liên hệ giữa tục và luật, niềm tin trong giao tiếp cư xử hàng ngày; cả trong mua, bán tài sản có giá trị lớn. Nghiên cứu đặc điểm của tư tưởng chính trị, pháp lý cổ truyền của mỗi quốc gia. Một số quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Ăng-lô Sắc-xông, "công chứng" là một nghề tự do hoàn toàn, Nhà nước không thừa nhận thể chế công chứng có nghĩa là không thừa nhận thể chế người lập văn bản hoạt động chuyên nghiệp, không có sự can thiệp của quyền lực hành pháp, hoạt động công chứng này chỉ thuần túy là hoạt động dịch vụ, tư vấn, thảo văn bản kiện tụng do các luật sư làm dịch vụ. Người soạn thảo văn bản không phải là công chứng viên chuyên nghiệp, hoạt động chứng nhận có tính chất linh hoạt và mềm dẻo hơn, giá trị pháp lý của văn bản do người làm chứng lập ra chỉ có giá trị chứng cứ [7, tr. 62], [35, tr. 183]. Như vậy, cho đến nay vẫn tồn tại một loại hoạt động chứng nhận, xác nhận, cung cấp chứng cứ của bất kỳ một cá nhân tổ chức nào, nhằm phản ánh một sự kiện, hiện tượng mà họ cho là có thật, ví dụ: Cung cấp chứng cứ cho Tòa án, xác nhận thời gian công tác, xác nhận ngày mất, làm chứng cho việc giao tiền mua bán nhà... Đây là một loại chứng nhận vẫn tồn tại và có ý nghĩa thiết thực trong đời sống xã hội, nhưng không phải là hoạt động công chức với danh nghĩa là một tổ chức được Nhà nước công nhận hoặc cho phép hoạt động. Hoạt động tư chứng thư là một hình thức hoạt động phong phú và đa dạng, dù ở giai đoạn lịch sử hay điều kiện xã hội nào cũng phải cần đến như một nhu cầu tất yếu cho xã hội. Thiết nghĩ, pháp luật về công chứng ở nước ta phải nghiên cứu để thực hiện đa dạng hóa các loại hình hoạt động chứng nhận và cung cấp chứng cứ. - Công chứng thư (Nhà nước thực hiện hoặc ủy quyền): Đây là hoạt động chứng nhận, chứng thực, xác nhận có tính chất công, phục vụ lợi ích công, do Nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý. Vì vậy, được gọi là công chứng. Tổ chức công chứng và người thực hiện hành vi công chứng được Nhà nước ra quyết định công nhận và cho phép hoạt động nhằm bảo đảm tính xác thực trong hoạt động giao dịch và các quan hệ khác theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu của công dân, tổ chức, được thể hiện bằng các hình thức Nhà nước trực tiếp thực hiện (công chứng nhà nước) hoặc Nhà nước ủy quyền (công chứng tự do). Hiện tại có những quan điểm cho rằng, công chứng có nghĩa là lấy công quyền mà làm chứng (Attestation), sự chứng nhận của Nhà nước, sự chứng nhận của quyền lực công [1, tr. 102]. Công chứng ở nước ta được hình thành (hiểu theo nghĩa hình thành một tổ chức) từ thời Pháp thuộc, lúc đó gọi là chưởng khế, hoạt động theo quy chế chưởng khế của người Pháp [7, tr. 63]. Thuật ngữ chưởng khế được hiểu như sau: Chưởng có nghĩa là chức vụ, chức tước mà mình đang nắm giữ (chức mình giữ), một người được Nhà nước giao cho một chức vụ nào đó. Khế có nghĩa là khế ước, hợp đồng, sự thể hiện ý chí với nhau, ý chí này phù hợp với các chủ thể (bày tỏ, tự nguyện). Thuật ngữ chưởng khế có nghĩa là: Các việc công chứng do người có chức vụ hoặc được Nhà nước giao nhiệm vụ chứng nhận các hợp đồng (khế ước, văn khế) hoặc là người lập hoặc giữ các khế ước, cấp bản sao khế ước cho các đương sự [97], [102, tr. 99]. Chứng nhận là cái dựa vào đó, để đảm bảo những sự kiện, hiện tượng diễn ra là có thật, là đúng sự thật. Có một số tài liệu nghiên cứu về công chứng cho rằng, thuật ngữ Notariat (tiếng Pháp), Notary (tiếng Anh), Notariat (tiếng Đức), Hotapiat (tiếng Nga) đều có gốc La tinh là Notarius, có nghĩa là ghi chép lập văn bản [8, tr. 20]. Có quan điểm cho rằng, bản thân thuật ngữ công chứng đã mang ý nghĩa là sự làm chứng công khai, có dấu ấn của công quyền, công chứng viên là người được Nhà nước bổ nhiệm thực hiện một công vụ. Thuật ngữ công vụ ở đây được hiểu là không hoàn toàn lệ thuộc vào những quy định của pháp luật về nền hành chính công. Công chứng là một hoạt động hành chính công, lấy lẽ công để làm chứng, là sự nhận thực, xác thực hoặc xác nhận một sự kiện, một hiện tượng đúng như là như thế. Có một số nhà nghiên cứu cho rằng, hoạt động công chứng thể hiện vai trò của quần chúng (công chúng, dân chúng), hoạt động phục vụ lợi ích công cộng, thể hiện tính công khai do Nhà nước cho phép và thừa nhận (Public hoặc Notary public). Hoạt động công chứng không phải là hoạt động thực thi công quyền, không phải lấy quyền công, lẽ công mà chứng như quan điểm vừa nêu trên, chúng tôi tán thành với quan điểm này. Quan niệm công chứng ở nước ta hiện nay là Nhà nước chứng nhận, thể hiện khá đậm nét về dấu ấn của quyền lực nhà nước. Vấn đề này sẽ được trình bày rõ hơn ở chương 3, phần nói về đổi mới quan niệm về công chứng. Nhà nước ủy quyền thực hiện công chứng: Đây là thể chế công chứng của người La Mã. Được gọi là thể chế công chứng phỏng theo luật La Mã hay còn gọi là hệ thống công chứng La tinh (UINL) mà điển hình là công chứng của Cộng hòa Pháp. Theo thể chế này thì công chứng viên do Nhà nước bổ nhiệm (Tổng thống hoặc Bộ trưởng Bộ Tư pháp). Được Nhà nước ủy quyền thực hiện chức năng trong khuôn khổ một nghề tự do. Đặc điểm nổi bật của loại hình hoạt động này là công chứng viên người lập hợp đồng, là chuyên gia pháp lý tinh thông về nghiệp vụ, hoạt động bằng nguồn tài chính của riêng mình, tự quản và chịu trách nhiệm về mọi hành vi công chứng. công chứng viên là người được Nhà nước ủy quyền đem lại tính đích thực cho hoạt động của các bên và bảo đảm cho nó có hiệu lực thi hành [91, tr. 20]. Văn bản công chứng có giá trị pháp lý rất cao, là bằng chứng không thể chối cãi được, buộc Tòa án phải thừa nhận và nhiều khi nó có giá trị như một bản án. Ở các nước thuộc hệ thống công chứng theo luật viết, các hoạt động công chứng phát triển, số lượng công chứng viên đông đảo (Pháp 7.600 công chứng viên, 4.600 văn phòng công chứng, Nhật Bản có 546 công chứng viên, 306 văn phòng công chứng. Có bộ máy từ cơ sở quận huyện, đến khu vực tỉnh hoặc liên tỉnh, có Hội đồng công chứng Trung ương, đặt bên cạnh Bộ Tư pháp để quản lý hoạt động công chứng) [31, tr. 65]. Ở một số nước quy định, trong vòng một tháng kể từ khi được bổ nhiệm công chứng viên phải tuyên thệ tại Tòa rộng quyền và chỉ được hoạt động sau ngày tuyên thệ, trước khi hoạt động công chứng công chứng viên phải đăng ký chữ ký tại Tòa rộng quyền, nơi đặt trụ sở của văn phòng. Nhược điểm của thể chế công chứng này là trong chừng mực nào đó bị chi phối bởi yếu tố dịch vụ, thiếu sự kiểm tra giám sát của Nhà nước. Tính chất "công" trong hoạt động chứng thực bị chi phối [88, tr. 92]. Tương tự như loại hình này còn có một số quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Ăng-lô Sắc-xông quan niệm công chứng là một nghề tự do hoàn toàn, Nhà nước không thừa nhận thể chế công chứng [7], [34]. Nhà nước thực hiện công chứng: Đây là loại hình công chứng nhà nước, Nhà nước trực tiếp tổ chức và thực hiện công chứng chứ không ủy quyền cho tổ chức hay cá nhân thực hiện. Là mô hình công chứng được tổ chức chặt chẽ hoạt động chuyên nghiệp bằng kinh phí của Nhà nước. Tổ chức công chứng là cơ quan nhà nước nằm trong bộ máy hành pháp [108]. Công chứng viên là công chức hưởng lương từ ngân sách của Nhà nước. Điển hình của hệ thống này được áp dụng ở nước ta và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây, công chứng nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây tuy có những nét riêng biệt, phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của mỗi quốc gia. Song, có những nét nổi bật là hoạt động mang tính chất nhà nước. Công chứng viên là viên chức nằm trong bộ máy nhà nước. Cơ quan công chứng được thành lập theo lãnh thổ hành chính, những nơi chưa có Phòng công chứng nhà nước thì giao cho Ủy ban nhân dân chứng nhận, ý nghĩa của văn bản công chứng chưa được coi trọng. Vai trò của công chứng viên không được đề cao, trách nhiệm bồi thường dân sự trong hoạt động công chứng hầu như không được nhắc đến [87]. Công chứng ở nước ta hiện nay được tổ chức theo loại hình này, công chứng đã xuất hiện ở nước ta từ những năm 1930, do đặc điểm lịch sử và điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, trong một thời gian dài nước ta không thành lập tổ chức công chứng. Ngày 27/2/1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên của nước ta sử dụng thuật ngữ công chứng nhà nước. Văn bản quy phạm pháp luật này đã thừa nhận thể chế công chứng nhà nước và đưa ra khái niệm về công chứng nhà nước như sau: Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ [63]. Sau 5 năm hoạt động, Nghị định 45/HĐBT (27/2/1991) đã được sửa đổi bổ sung bằng Nghị định 31/CP (18/5/1996) của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Tại Điều 1 của Nghị định này cũng đưa ra khái niệm về công chứng: Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội... góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu [65]. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân, tổ chức về công chứng, chứng thực, góp phần phục vụ sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đồng thời tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, chứng thực, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng, chứng thực. Ngày 08/12/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực. Nghị định này đã quy định về tổ chức của Phòng công chứng và công tác chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã. Khác với Nghị định 31/CP/1996 (18/5/1996), Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2000) lần này xác định khái niệm công chứng và khái niệm chứng thực: Công chứng là việc Phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng và giao dịch) và các việc khác theo quy định của nghị định này. Chứng thực là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của nghị định này [66]. Như vậy, cả ba nghị định về tổ chức và hoạt động công chứng đều xác định công chứng ở nước ta là Nhà nước thực hiện công chứng, mặc dù Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2000) có thay đổi tên gọi và tách bạch phạm vi công chứng và chứng thực song, nghị định này vẫn điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện công chứng, chứng thực, chứ không điều chỉnh riêng về hành vi công chứng, chứng thực hoặc hành vi yêu cầu công chứng, chứng thực của cá nhân và tổ chức như pháp luật về công chứng của các nước thuộc hệ thống pháp luật Ăng-lô Sắc-xông. Dựa trên những quy định của Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2000) về công chứng, chứng thực ở nước ta hiện nay thì khái niệm công chứng theo Nghị định 31/CP ngày 18/5/1996 đã được sửa đổi và phân định rõ trên cả hai phương diện về tổ chức và hoạt động công chứng, chứng thực. Những việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch và các quan hệ xã hội khác do công chứng viên của Phòng công chứng thực hiện thì được gọi là các việc công chứng. Những việc chứng nhận bản sao văn bản giấy tờ, chứng nhận chũ ký của cá nhân và một số việc khác do những người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện thì gọi là chứng thực. Phòng công chứng và cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước giao cho nhiệm vụ thực hiện các việc công chứng. Để tránh tình trạng nhầm lẫn giữa hoạt động của Phòng công chứng và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã không phải là cơ quan có chức năng công chứng, văn bản chứng nhận của cơ quan công chứng khác với văn bản chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã. Ranh giới để phân biệt sự khác nhau giữa công chứng và chứng thực là tiêu chí chủ thể thực hiện các loại công việc công chứng, chứng thực; chủ thể thực hiện hành vi công chứng là công chứng viên của Phòng công chứng hoạt động chuyên trách và các chuyên viên của cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài hoạt động kiêm nhiệm, chủ thể thực hiện hành vi chứng thực là những người có thẩm quyền chứng thực ở Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các hoạt động giao dịch và yêu cầu chứng nhận các việc công chứng khác ngày một nhiều, để đáp ứng được yêu cầu nói trên việc giao cho các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài thực hiện công chứng và Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện các việc chứng thực là cần thiết. Mặt khác, như một tiền lệ ở nước ta từ năm 1945 đến nay các việc công chứng, chứng thực đều do Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện là chủ yếu. Bên cạnh những ưu thế thuận lợi nói trên là những bất cập cần phải được giải quyết là phân định cụ thể các việc công chứng và các việc chứng thực. Nội hàm của khái n._.iệm công chứng và chứng thực là sự khác nhau của các loại việc về công chứng và chứng thực chứ không phải chỉ phân định về thẩm quyền thực hiện cùng một loại công việc. Không thể tách bạch một cách thuần túy là cùng một việc nếu phòng công chứng hoặc cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài thực hiện thì gọi là công chứng, nếu cũng việc ấy mà do Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện thì gọi là chứng thực. Như vậy, công chứng và chứng thực là hai khái niệm khác nhau cả về phương diện tổ chức, phạm vi hoạt động, chủ thể thực hiện hành vi công chứng, chứng thực. Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2000) trong chừng mực nào đó đã khắc phục được những thiếu sót về đồng nhất khái niệm công chứng và chứng thực, khắc phục được sự nhầm lẫn giữa văn bản của công chứng và văn bản của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã mà các nghị định về công chứng trước đây chưa giải quyết được. Tuy nhiên, hoạt động chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án, song việc xác định thẩm quyền, phạm vi hoạt động công chứng, chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng, chứng thực có mối quan hệ với nhau và nhiều vấn đề cần phải làm rõ, chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau. 1.1.2. Đặc điểm, vai trò của công chứng nhà nước Đặc điểm hoạt động công chứng nhà nước: Hoạt động công chứng ở nước ta do Nhà nước quản lý về tổ chức, hoạt động công chứng là hoạt động dịch vụ công, công chứng có nhiệm vụ giúp công dân, tổ chức thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ bằng các biện pháp pháp lý. Hoạt động này khác hoàn toàn với hoạt động của cơ quan tư pháp (Tòa án) là nhằm thực thi công quyền, lập lại trật tự pháp luật khi đã bị rối loạn. Hoạt động công chứng là hoạt động hỗ trợ tư pháp, cung cấp chứng cứ cho hoạt động tư pháp. Công chứng ở nước ta có đặc điểm khác biệt so với công chứng của các quốc gia trên thế giới, là do các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước thực hiện, hoạt động công chứng được xem là một nghề trong số các nghề tư pháp [22, tr. 3], công chứng viên là một chức danh do Nhà nước quy định về tiêu chuẩn chuyên môn, đạo đức. Văn bản công chứng thể hiện khá đậm nét về dấu ấn của quyền lực công, đó là con dấu của công chứng nhà nước mang hình Quốc huy, một biểu tượng đặc trưng của các cơ quan quyền lực. Công chứng viên là người được giao nhiệm vụ chứng nhận các giao dịch và những yêu cầu của công dân và tổ chức, nhằm tạo ra một loại chứng cứ bất khả phản bác loại trừ có phán quyết của Tòa án, đem lại niềm tin chắc chắn cho các bên đương sự. Công chứng viên là công chức nhà nước, được hưởng lương do Nhà nước đài thọ theo ngạch bậc công chứng viên. Lệ phí thu được phải nộp vào ngân sách Nhà nước. Khi công chứng viên gây ra thiệt hại đối với đương sự thì Nhà nước chịu trách nhiệm dân sự đối với đương sự, công chứng viên chịu trách nhiệm vật chất đối với Nhà nước theo quan hệ Luật lao động. Nghị định 31/CP (27/2/1991) quy định công chứng viên là công chức nhà nước hoạt động chuyên trách, không được hành nghề tự do. Đến Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2001) không có điều nào cấm công chứng viên hành nghề tự do, song cũng không có quy định nào cho phép công chứng viên hành nghề tự do. Đây là một bước phát triển mới trong tổ chức hoạt động công chứng ở nước ta. Với những đặc điểm trên, công chứng ở nước ta là hoạt động dịch vụ mang tính công, không hoạt động theo nguyên tắc tự hạch toán hoặc theo nguyên tắc tự trang trải. Công chứng còn là một khâu trong quá trình quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động giao dịch. Hoạt động công chứng ở nước ta hiện nay là hoạt động nghề nghiệp, do công chứng viên là công chức nhà nước thực hiện, đồng thời là hoạt động của các chức danh không chuyên nghiệp. Mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa và trật tự pháp luật, ngăn ngừa các tranh chấp và vi phạm pháp luật, cung cấp tài liệu có giá trị chứng cứ khi cần thiết để phục vụ việc giải quyết các tranh chấp. Vai trò của công chứng nhà nước: Đối với nước ta việc thiết lập lại hệ thống công chứng trong những năm gần đây là phù hợp với điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng kinh tế đối ngoại, thực hiện đổi mới kinh tế, xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII và lần thứ IX của Đảng; phù hợp với chủ trương của Nhà nước phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sản xuất kinh doanh đa dạng, trong đó sở hữu toàn dân và tập thể là nền tảng, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Chính cơ sở kinh tế này đã quyết định tới việc xây dựng hệ thống công chứng và xác định vị trí vai trò chức năng nhiệm vụ của công chứng ở nước ta [2], [93], [107], [135]. Phòng công chứng với tính cách là cơ quan bổ trợ tư pháp, đã có một vị thế mới, hoạt động công chứng lần đầu tiên trong văn bản của Chính phủ được thừa nhận là một nghề tư pháp (Nghị định 75/2000 NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ). Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động công chứng ở nước ta đang chứng tỏ là một công cụ đắc lực phục vụ quản lý Nhà nước có hiệu quả, góp phần tích cực phòng ngừa tranh chấp, tạo ra sự an toàn pháp lý cho các quan hệ giao dịch trong xã hội [22]. Hoạt động chứng nhận của các cơ quan thực hiện công chứng nhằm bảo đảm an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, kinh tế và các quan hệ xã hội khác, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, có tác dụng chủ động phòng ngừa các tranh chấp và vi phạm pháp luật, cung cấp các tài liệu có giá trị chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết các tranh chấp. Một nội dung hết sức quan trọng vượt ra khỏi vai trò hỗ trợ và phòng ngừa là giá trị thi hành đối với các bên giao kết, sự hiện diện của công chứng viên, người có trình độ chuyên môn hiểu biết pháp luật chứng nhận các bên đưa ra những điều khoản cam kết đúng pháp luật đã làm cho hiệu lực thi hành của văn bản công chứng có giá trị tuyệt đối. Sự đáng tin cậy và không thể phản bác của văn bản công chứng buộc tổ chức, công dân phải tự nguyện thi hành những nghĩa vụ và giúp họ đương nhiên được hưởng những quyền lợi mà văn bản công chứng đã xác nhận mà không phải nhờ đến phán xét của Tòa án. Ở những nước có hoạt động công chứng phát triển, những vụ tranh chấp, kiện cáo về dân sự giảm đi đáng kể. Ở nước ta, qua xem xét nguyên nhân dẫn tới các vụ tranh chấp dân sự cho thấy, hầu hết các bên tham gia ký kết hợp đồng không tuân thủ các quy định của pháp luật, nội dung hợp đồng quá sơ sài, đa số các hợp đồng không có chứng nhận của cơ quan công chứng. Điều này gây rất nhiều khó khăn, tốn kém thời gian cho Tòa án khi xem xét, giải quyết tranh chấp [5]. Hoạt động công chứng là hoạt động dịch vụ công, tuy không phải là hoạt động quản lý Nhà nước, nhưng nó góp phần hỗ trợ tích cực để Nhà nước thực hiện quản lý các hoạt động giao dịch. Trong nền kinh tế thị trường, khi các quan hệ sở hữu được mở rộng, nhất là sở hữu bất động sản thì vai trò của công chứng trở nên đặc biệt quan trọng. Việc đổi mới công chứng hiện nay thực sự là một yêu cầu cấp bách. Bất cứ ai, cho dù hiểu biết rất ít về công chứng hoặc có những ý kiến chê trách công chứng ở góc độ này hay góc độ khác, cũng phải thừa nhận rằng, nếu không có sự tồn tại của công chứng thì không ai có thể hình dung được giá trị pháp lý hay nói cách khác là "đời sống" của các hợp đồng, giao dịch sẽ như thế nào [44, tr. 32]. Với những vai trò nêu trên, công chứng được coi là một trong các hoạt động bổ trợ tư pháp, với nghĩa hẹp là bổ trợ cho hoạt động xét xử của Tòa án, với nghĩa rộng là hỗ trợ (góp phần) vào việc duy trì kỷ cương pháp luật trong xã hội. Trong một thế giới ngày càng văn minh, khi mà các quan hệ xã hội được pháp luật bảo hộ bằng những quy định rất chi tiết, trong một xã hội dân chủ nơi mà cá nhân luôn luôn có nhu cầu cần được Nhà nước bảo vệ, trong một môi trường luôn biến động, nơi mà an toàn pháp lý trở thành vấn đề cần thiết thì ngành công chứng thực sự có vai trò trọng yếu trong đời sống xã hội. Mục đích của hoạt động công chứng: Mục đích của hoạt động công chứng hay nói cách khác là việc công chứng nhằm đạt được cái gì? Điều 1 Nghị định 45/HĐBT (27/2/1991), Điều 1 Nghị định 31/CP (18/5/1996) và Điều 2 Nghị định 75/2000 NĐ-CP (8/12/2000) đều xác định mục đích của hoạt động công chứng là chứng nhận "tính xác thực của các hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác và giấy tờ theo quy định của pháp luật". Vấn đề tranh luận nhiều hiện nay là hiểu như thế nào về tính xác thực, bản chất của vấn đề xác thực là như thế nào? Nội dung của Điều 2 Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2000) đã đề cập tới khái niệm về công chứng. Mặt khác, đề cập tới mục đích của hành vi công chứng là chứng nhận tính xác thực của hợp đồng và giấy tờ và nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Cái mà pháp luật công chứng nhằm vào là bảo vệ lợi ích của các chủ thể, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [92, tr. 6]. Một số quan điểm cho rằng đây là mục đích của hành vi công chứng. Song mục đích của hành vi công chứng không phải là như vậy vì nó chưa phản ánh đúng đặc thù của hoạt động công chứng. Bảo vệ lợi ích của các chủ thể, phòng ngừa vi phạm pháp luật... là mục đích quan trọng và thể hiện chung cho tất cả các hoạt động khác của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội đều hướng tới chứ không riêng gì công chứng nhà nước. Vì vậy, chúng tôi đồng ý cho đây là yêu cầu của việc thực hiện công chứng. Tính xác thực có nghĩa là, người được Nhà nước giao nhiệm vụ làm chứng phải phản ánh đúng sự thật khách quan diễn ra trong một không gian, thời gian nhất định. Sự vật hiện tượng luôn diễn ra một cách khách quan đòi hỏi công chứng viên phải đủ các điều kiện về chuyên môn nghiệp vụ, hiểu biết xã hội, để phản ánh một cách chính xác [91, 5]. Nói đến hoạt động công chứng là nói đến việc yêu cầu chứng nhận và việc chứng nhận. Quá trình chứng nhận là quá trình diễn ra giữa các chủ thể yêu cầu chứng nhận và chủ thể chứng nhận cùng hoạt động chung, cùng phối hợp hài hòa với mục đích là phản ánh chính xác nội dung sự việc diễn ra. Công chứng nhà nước, nói chính xác hơn là công chứng viên - chủ thể của hoạt động công chứng là người chủ động tổ chức hoạt động chứng nhận. Mục đích của hành vi công chứng ngoài việc bảo đảm tính xác thực, còn hướng cho các hoạt động giao dịch phù hợp pháp luật, bảo đảm cho quyền và lợi ích hợp pháp của bên không bị xâm phạm. Điều 6 Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2000) tại khoản 2 có quy định: Khi thực hiện công chứng, chứng thực người thực hiện công chứng, chứng thực phải thực sự khách quan trung thực và phải chịu trách nhiệm về việc công chứng, chứng thực do mình thực hiện; trong trường hợp biết hoặc phải biết việc công chứng, chứng thực là trái pháp luật, đạo đức xã hội thì không được thực hiện công chứng, chứng thực [66]. Tuy nhiên, để xác định cụ thể trường hợp nào người thực hiện công chứng, chứng thực biết và phải biết là vấn đề hết sức phức tạp. Trên thực tế chúng ta chỉ có thể xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau như trình độ hiểu biết pháp luật, kinh nghiệm hoạt động của người thực hiện công chứng, chứng thực để xem xét vấn đề biết hoặc phải biết khi họ thực hiện hành vi công chứng. Để đảm bảo tính xác thực mà hoạt động công chứng nhằm vào, nội dung của vấn đề này hoàn toàn không đơn giản. Cho đến nay, chúng ta chưa có một cơ sở pháp lý nào để nói rằng người thực hiện hành vi công chứng xác thực nội dung hay xác thực hình thức của hợp đồng và giấy tờ. Như thế nào là xác thực về nội dung và như thế nào là xác thực về hình thức cũng chưa được quy định. Hiện nay có nhiều tác giả cho rằng: - Chứng nhận mang tính hình thức (công chứng hình thức): Là loại công việc mà công chứng viên chỉ chứng nhận năng lực hành vi và sự hiện diện, chữ ký của đương sự vào văn bản trước mắt mình. Còn nội dung, tính hợp pháp của văn bản, ý chí của đương sự thể hiện trong việc thỏa thuận, công chứng viên không cần kiểm tra. Văn bản loại này có giá trị chứng minh việc đương sự đã ký tên vào văn bản, giấy tờ là có thật. Chữ ký trong văn bản đúng là của đương sự còn ý chí của đương sự có đúng với sự thực khách quan và có phù hợp với đánh giá của cơ quan có thẩm quyền hay không thì công chứng viên không quan tâm. - Chứng nhận về nội dung: Là loại công việc mà công chứng viên tiến hành kiểm tra, xác minh để xác định năng lực hành vi, năng lực pháp luật trong việc ký kết văn bản. Công chứng viên tiến hành kiểm tra nội dung của văn bản, kiểm tra sự việc xem có đúng với ý chí của đương sự hay không, các quyền và nghĩa vụ của các bên có phù hợp với quyền năng pháp lý của họ hay không. Trong hai loại công chứng trên thì công chứng về mặt hình thức đơn giản hơn, đây là loại công việc đặc trưng của các nước dựa vào chế độ pháp luật theo án lệ của Tòa án (Ăng-lô Sác-xông). Còn công chứng nội dung là đặc trưng của các nước theo trường phái công chứng ''theo luật viết'' hình thành từng bước qua hoạt động công chứng của người La Mã. Các nước lục địa châu Âu, châu Phi đều theo hệ thống thể chế công chứng này. Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu trước đây cũng áp dụng theo trường phái công chứng "theo luật viết". Tuy nhiên, vì trước đây nền kinh tế của Liên Xô và các nước Đông Âu không chấp nhận chế độ sở hữu của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể, nên hoạt động công chứng không phát triển, hoạt động tương đối đơn giản vì ít phải chứng thực các quan hệ thuộc sở hữu tư nhân. Trường phái công chứng theo luật viết cũng tồn tại chứng nhận hình thức, chẳng hạn như chứng nhận chữ ký của người dịch giấy tờ tài liệu. Như vậy, theo quy định của pháp luật về công chứng ở nước ta hiện nay, chúng tôi nhận thấy rằng, pháp luật về công chứng của nước ta chịu ảnh hưởng của các trường phái công chứng trên thế giới. Về cơ bản là thiên về trường phái công chứng của hệ thống luật La Mã, đó là chứng nhận về nội dung. Công chứng hình thức có ảnh hưởng đến hoạt động công chứng nước ta, đó là chứng nhận các văn bản giấy tờ. Mặt khác, pháp luật của nước ta hiện nay không quy định trường hợp nào thì chứng nhận nội dung và trường nào thì chứng nhận hình thức. Song, nếu nói rằng công chứng của nước ta là công chứng mang tính chất nội dung, các văn bản công chứng có giá trị pháp lý cao, các giấy tờ có chứng nhận của công chứng có giá trị pháp lý không thể phản bác trước Tòa án thì không hoàn toàn đúng. Ngược lại, nếu nói công chứng nước ta chỉ chứng nhận hình thức thì lại không đầy đủ. Vấn đề cần phải xác định là, pháp luật về công chứng của ta phải quy định rõ loại việc nào thì công chứng hình thức hoặc chỉ chứng nhận theo yêu cầu, ý chí của đương sự. Tính xác thực trong chứng nhận hợp đồng: Theo quan niệm truyền thống về công chứng, việc chứng nhận hợp đồng do công chứng viên thực hiện theo ý muốn lời khai của đương sự họ đã tự nguyện cùng với công chứng viên ký vào văn bản công chứng. Lời khai của họ có đúng hay không, công chứng viên không thể xác minh được. Do đó, không chịu trách nhiệm về nội dung lời khai, lời trình bày hoặc nội dung thỏa thuận trong hợp đồng có đúng sự thật hay không. Nếu sau này phát hiện ra nội dung thỏa thuận trong hợp đồng mà đương sự đã khai hoặc trình bày trong chứng thư hợp đồng sai sự thật thì chính đương sự sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Và khi đó văn bản công chứng sẽ là một bằng chứng không thể chối cãi về sự khai man của đương sự. Vừa qua đã có những vụ kiện về hợp đồng mua bán nhà và quy trách nhiệm đối với công chứng viên trong những trường hợp: Mua phải nhà nằm trong diện quy hoạch; chất lượng công trình không đảm bảo; diện tích không đúng như trong giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất; giá cả không hợp lý... Hiện nay, chúng ta chưa có văn bản pháp luật nào quy định công chứng viên chứng nhận về nội dung (xác thực về nội dung của hợp đồng). Vì vậy, dẫn đến các quan điểm khác nhau trong việc xem xét trách nhiệm của công chứng viên. Quan điểm thứ nhất cho rằng, công chứng viên chỉ kiểm tra năng lực hành vi, năng lực pháp lý, các giấy tờ hợp pháp, còn việc nhà có nằm trong khu vực quy hoạch hay không, chất lượng công trình, diện tích cụ thể, giá cả là do các bên phải trực tiếp kiểm tra, công chứng viên không cần biết và không buộc phải biết các tình tiết nói trên. Tại Thông tư số: 01/TTB liên bộ Tư pháp - Tài chính - Ngân hàng ngày 3/7/1996 quy định thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, quy định: Việc làm thủ tục công chứng được tiến hành sau khi bên cho vay đồng ý duyệt cho vay và thỏa thuận ký hợp đồng... Chứng nhận của công chứng nhà nước là xác thực việc ký kết hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của hai bên, tính hợp pháp của các giấy tờ kèm theo... việc kiểm tra tài sản, định giá tài sản do các bên chịu trách nhiệm. Tương tự như vậy, việc chứng nhận hợp đồng mua bán nhà công chứng viên chỉ tiến hành kiểm tra giấy tờ sở hữu, còn việc kiểm tra chất lượng nhà cửa, thỏa thuận giá cả không thuộc trách nhiệm của công chứng viên. Chứng nhận của công chứng viên là xác nhận tính hợp pháp của giấy tờ, chứng nhận sự tự nguyện của các bên thể hiện trong nội dung hợp đồng, để làm cơ sở pháp lý khi giải quyết tranh chấp trước Tòa án. Như vậy, trong trường hợp này công chứng viên chỉ chịu trách nhiệm về việc xác định năng lực hành vi, năng lực pháp lý và tính hợp pháp của giấy tờ [39], [62]. Quan điểm thứ hai cho rằng, khi chứng nhận hợp đồng, công chứng viên phải trực tiếp kiểm tra tất cả các vấn đề liên quan đến việc mua bán nhà như: Chất lượng của nhà, diện tích đất, giá trị ngôi nhà, các tình trạng pháp lý khác như: Các vấn đề tranh chấp, khiếu nại... Tóm lại, công chứng viên phải chịu trách nhiệm toàn bộ những gì liên quan đến hợp đồng mua bán nhà, nếu có tranh chấp xảy ra. Thực tế xảy ra, rất nhiều trường hợp không thể xác định được tình trạng pháp lý của tài sản. Chẳng hạn, khi chứng nhận hợp đồng mua bán, thế chấp tàu biển, công chứng viên tiến hành kiểm tra giấy tờ đăng ký, biên bản kiểm tra tình trạng kỹ thuật, kiểm tra năng lực pháp luật và năng lực hành vi của các bên, sau đó tiến hành viết lời chứng. Nếu trong thời gian đang bảo đảm để thanh toán nợ mà tàu bị chìm do tình trạng kỹ thuật không bảo đảm thì công chứng viên phải chịu trách nhiệm, có nghĩa là phải xác thực về nội dung. Pháp luật phải quy định cụ thể, phải căn cứ vào yêu cầu của các bên cũng như căn cứ vào nội dung lời chứng của công chứng viên để xác định tính xác thực của hợp đồng (phạm vi xác thực, phạm vi bảo đảm của lời chứng). Có thể pháp luật không liệt kê hết được loại hợp đồng nào thì chứng nhận nội dung và loại hợp đồng nào thì chứng nhận hình thức. Để đảm bảo giá trị chứng cứ cho Tòa án xem xét, chúng tôi nghĩ rằng, việc yêu cầu chứng nhận nội dung hay hình thức thuộc quyền của người yêu cầu công chứng. Giá trị chứng cứ được thể hiện rõ trong nội dung của lời chứng mà công chứng viên ghi trong hợp đồng. Vì vậy, pháp luật phải quy định cụ thể cho công chứng viên khi tiếp nhận và giải quyết phải giải thích rõ cho người yêu cầu biết để họ đề xuất yêu cầu và dựa trên cơ sở này để quy định mức thu lệ phí khác nhau giữa chứng nhận nội dung và chứng nhận hình thức. Đây là cơ sở khách quan nhất để xác định trách nhiệm pháp lý đối với công chứng viên. Ở một số nước tư bản, xác định sự tồn tại của nghề công chứng bao hàm một số nghĩa vụ của công chứng viên đối với thân chủ của họ. Công chứng viên phải lập một chứng thư có giá trị cả về hình thức và nội dung. Chứng thư đó tạo thành một công cụ chứng cứ có hiệu quả cho những hợp đồng mà công chứng viên đảm trách xác nhận và đi đến kết quả pháp lý mà các bên mong muốn với phí tổn ít nhất và trong những điều kiện tốt nhất. Công chứng viên có nghĩa vụ bảo đảm hiệu quả trọn vẹn của những bản hợp đồng, bằng cách thực hiện đầy đủ các thể thức tiếp theo sau khi lập chứng thư vào bảo vệ cho các bên cho đến khi đạt được hiệu quả đó [37]. Chúng tôi tán thành quan điểm trên đây, song việc áp dụng quan điểm này đối với công chứng ở Việt Nam chỉ có thể thực hiện được trong tương lai sau khi chúng ta đã hoàn thành công việc đào tạo, bổ nhiệm công chứng viên phải thực sự chính quy và khi đã có luật về công chứng. Tuy nhiên, giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc song phương của cá nhân, pháp nhân và của các chủ thể khác, nhằm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Vì vậy, khi chứng nhận hợp đồng, công chứng viên phải chịu trách nhiệm khi hợp đồng bị vô hiệu. Nghĩa là chứng nhận hợp đồng dân sự không có một trong các điều kiện quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự chẳng hạn: Chứng nhận người tham gia giao dịch không có năng lực hành vi dân sự. Mục đích và nội dung của giao dịch trái pháp luật và đạo đức xã hội, người tham gia giao dịch không hoàn toàn tự nguyện, hình thức giao dịch trái với quy định của pháp luật. Việc chứng nhận các giao dịch dân sự vô hiệu giả tạo (Điều 138 Bộ luật dân sự), giao dịch dân sự do bị nhầm lẫn (Điều 141 Bộ luật dân sự), giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa (Điều 142 Bộ luật dân sự), giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức được hành vi của mình (Điều 143 Bộ luật dân sự)... công chứng viên phải chịu trách nhiệm, tùy theo tính chất mức độ của thiệt hại gây ra. Tính xác thực đối với các loại giấy tờ: Hiện nay pháp luật của ta quy định: Phòng công chứng, chứng nhận tính xác thực của giấy tờ, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận giấy tờ. Ở phần đầu chúng tôi đã phân tích để làm rõ bản chất của vấn đề, song có quan niệm việc xác thực giấy tờ có phải thuộc phạm vi của phòng công chứng hay không là vấn đề cần phải xem xét, vì đây chỉ là công việc thị thực hành chính đơn thuần của Ủy ban nhân dân và cơ quan nhà nước các cấp thực hiện. Tinh thần chung của các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động công chứng là chứng nhận về nội dung của văn bản giấy tờ (xác thực nội dung) không được công chứng, chứng thực bản sao, văn bản giấy tờ trong các trường hợp sau đây: Người thực hiện công chứng, chứng thực biết hoặc phải biết bản chính được cấp là sai thẩm quyền hoặc không hợp lệ, bản chính giả. Văn bản giấy tờ bị tẩy xóa, sửa chữa, thêm bớt hoặc đã bị hư hỏng, cũ nát không thể xác định rõ nội dung; văn bản giấy tờ có xác định độ mật của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế; văn bản giấy tờ không phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng; đơn thư và các giấy tờ tự lập không có chứng nhận, chứng thực hoặc xác nhận của cơ quan tổ chức có thẩm quyền; các giấy tờ và văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ quy định không được sao [66]. Công chứng viên không thể bảo đảm chắc chắn rằng văn bản mình chứng nhận bản sao là văn bản thật, chữ ký và con dấu thật của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền ký. Vì vậy, pháp luật cũng không nên buộc công chứng viên phải chứng nhận xác thực về mặt nội dung bởi lẽ: công chứng viên không thể biết hết và phân biệt được trên toàn quốc có bao nhiêu cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các loại giấy tờ và nhận biết chính xác được tất cả các chữ ký và con dấu của cơ quan và người có thẩm quyền ký để phân biệt đâu là chữ ký thật, dấu thật và đâu là chữ ký giả, dấu giả. Công chứng viên đang làm một việc không thể biết và đúng hơn là không phải biết, công chứng viên không phải là giám định viên, công chứng viên không phải là đối tượng được thông báo những bí mật của con dấu và bí mật của chữ ký của những người ký văn bản. Mặt khác, trên thực tế ngoài giấy tờ giả, chữ ký giả, con dấu giả còn có cả những loại giấy tờ chữ ký thật, dấu thật nhưng nội dung không thật, ví dụ: Giám đốc Sở Giáo dục cấp bằng phổ thông trung học cho người mới học văn hóa lớp 4. Trường hợp này công chứng viên không thể biết văn bằng giả về nội dung nên rất dễ nhầm lẫn. Như vậy, tính xác thực của việc chứng nhận giấy tờ tài liệu chỉ nên và chỉ có thể quy định xác thực về hình thức. Xác thực chữ ký của người dịch: Đa số các ý kiến cho rằng: Chứng nhận chữ ký của người dịch là xác thực về hình thức. Vì công chứng viên không biết rõ nội dung trong bản dịch có chính xác không (nếu công chứng viên không thành thạo thứ tiếng này). Pháp luật của ta chỉ quy định công chứng viên chứng nhận chữ ký của người dịch; người dịch phải chịu trách nhiệm về nội dung, tính chính xác của bản dịch [42]. Quan điểm khác cho rằng, công chứng viên phải chịu trách nhiệm về nội dung của bản dịch, nếu không chịu trách nhiệm về nội dung thì việc chứng nhận của công chứng viên sẽ không có giá trị. Bởi vì, mục đích của việc xác thực bản dịch là xác thực độ chính xác của việc dịch thuật. Người yêu cầu dịch thuật yêu cầu bản dịch phải đúng chứ không quan tâm đến chữ ký của người dịch, do đó yêu cầu công chứng viên phải chịu trách nhiệm về mặt nội dung. Chúng tôi tán thành quan điểm thứ nhất, chứng nhận chữ ký của người dịch là xác thực về hình thức. Người dịch chịu trách nhiệm về nội dung của bản dịch. Song, dù sao chăng nữa tính xác thực trong việc chứng nhận bản dịch mà lại quy định chứng nhận chữ ký của người dịch giấy tờ tài liệu thì cũng không có đầy đủ. Bởi vì, mục đích của hành vi công chứng là nhằm vào tính xác thực của việc chuyển hóa ngôn ngữ chứ không phải tính xác thực chữ ký của người dịch [92]. Văn bản công chứng và hiệu lực chấp hành: Nhiệm vụ của công chứng viên là đem lại tính xác thực cho các văn bản và các hợp đồng của các bên. Nhiệm vụ này là yếu tố quyết định sự tồn tại của nghề công chứng. Văn bản công chứng là cơ sở bảo đảm cho các giao dịch một sự an toàn pháp lý, tạo nên một phương tiện làm bằng chứng có hiệu quả. Một văn bản công chứng bao giờ cũng phải thể hiện hai yếu tố cơ bản: Sự chính xác về ngày, tháng, địa điểm; có giá trị chứng cứ và hiệu lực chấp hành. Sự chính xác về ngày, tháng: Ngoài việc đòi hỏi công chứng viên phải tuân thủ các quy định về thể thức của văn bản. Sự chính xác về ngày tháng thể luận trong văn bản công chứng đem lại niềm tin chắc chắn đối với các bên đương sự, đối với những người được hưởng quyền lợi và ngay cả đối với người thứ ba, về các văn bản sau khi ký nhận đều được xác định đúng thời gian, địa điểm được ghi vào sổ cập nhật và sổ lưu danh mục công chứng. Do vậy, không thể đánh tráo hoặc thay đổi được ngày tháng. Chúng ta đều phải thừa nhận rằng, đối với các loại giấy tờ do cá nhân tự lập ra (chứng thư tư) thì không bao giờ có thể tin ngay được về ngày, tháng đã ghi trong văn bản, vì người ta có thể tự ý ghi sớm hơn hoặc lùi lại so với ngày lập giao kết hoặc có sự tẩy xóa, ghi thêm hoặc sửa chữa mà không có một loại sổ sách ghi chép đểu lưu lại. Ví dụ: người ta có thể lập một hợp đồng bán nhà và đề ngày, tháng trước thời gian ký hợp đồng thế chấp với ngân hàng nhằm mục đích tránh việc phát mại của ngân hàng. Giá trị chứng cứ và hiệu lực chấp hành của văn bản công chứng: Ngay sau khi thực hiện công chứng văn bản công chứng đã có giá trị pháp lý (hiệu lực thi hành). Đó là vấn đề cốt lõi của tính xác thực, mà chỉ có văn bản do công chứng viên lập ra mới có hiệu lực thi hành gần như tuyệt đối. Đa số các quốc gia quan niệm khác hẳn với một văn bản tư chứng thư, văn bản do công chứng viên lập ra không cần phải điều tra xác minh hoặc không thể chấp nhận, văn bản công chứng được coi là phán quyết của Tòa án (loại trừ những trường hợp giả mạo, sai sót ở những điểm cơ bản hoặc văn bản bị hoãn thi hành, tùy theo từng tình huống cụ thể). Nhìn chung, một văn bản công chứng của bất cứ quốc gia nào đều có ý nghĩa, trước Tòa án, văn bản công chứng là những chứng cứ hoàn toàn được tin cậy về những điều mà các đương sự đã thỏa thuận được ghi trong văn bản. Tuy vậy, các trường phái công chứng khác nhau có quan niệm khác nhau về mức độ giá trị của văn bản công chứng: - Trường phái công chứng theo hệ thống pháp luật La tinh (luật viết) thì cho rằng: Văn bản công chứng có giá trị như văn bản của chính quyền. Văn bản công chứng hợp đồng có hiệu lực thực hiện đối với các bên ngang với phán quyết của Tòa án. - Các nước theo hệ thống luật tập quán thì cho rằng văn bản công chứng chỉ đơn thuần có giá trị chứng cứ ở mức độ cao. Những quan điểm trên cho thấy rõ về giá trị pháp lý của văn bản công chứng và ý nghĩa của việc công chứng. Văn bản công chứng mang giá trị chứng cứ, một loại chứng cứ cao hơn chứng cứ thông thường ở chỗ không thể phản bác trừ khi Tòa án chứng minh được sự gian dối của chính bản thân công chứng viên trong việc lập văn bản đó. Cần phân biệt rõ giá trị của văn bản công chứng với văn bản do chính quyền cấp hoặc ban hành. Quyết định của các cấp chính quyền có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các tổ chức và cá nhân có liên quan, nếu không thi hành sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Văn bản của công chứng không có hiệu lực như vậy. Hiệu lực pháp lý của các loại hợp đồng do pháp luật dân sự quy định. Hiệu lực thi hành của văn bản công chứng có giá trị bắt buộc đối với các bên phải thi hành vô điều kiện sau khi đã thỏa thuận. Quan niệm truyền thống về công chứng rất được đề cao, công chứng viên đóng vai trò của một người đã tuyên thệ với những lời thề thiêng liêng, cao thượng nên không thể có những nghi ngờ về sự thiếu trung thực hoặc có những sai lệch. Để có thể chứng nhận được một điều khoản của một giao kết, công chứng viên đã phải lao vào làm việc hết sức căng thẳng, nặng nề để tránh những sai sót dù là nhỏ nhất. Do vậy, chứng thư do công chứng viên lập khó có thể bị phản bác. Chính từ đặc tính cơ bản này của văn bản công chứng mà ngành công chứng của Pháp mang biểu tượng là GNMN (Hình mặt trời theo tiếng Hy Lạp) có nghĩa là văn bản công chứng chứa đựng một ý chí thực sự của các bên, chẳng khác nào một cái đồng hồ mặt trời đem lại cho con người ta những giờ phút chính xác. Biểu tượng của ngành công chứng được kèm theo hàng chữ La Tinh: "IEX EST QUO ACUMQUE NOTAMU" (khẳng định rằng nội dung của văn bản công chứng có sức mạnh như một đạo luật)._. nhiệm vụ và quyền hạn rõ ràng, chế độ đãi ngộ thỏa đáng. Tiêu chuẩn công chứng viên: Ngoài các tiêu chuẩn và các điều kiện cần phải có đối với công chứng viên như: Học vấn, sức khỏe, ngoại ngữ, đạo đức, phẩm chất. công chứng viên phải được tuyển chọn qua Hội đồng tuyển chọn quốc gia xét duyệt và định kỳ sát hạch để chuyển ngạch. công chứng viên đủ điều kiện được chuyển ngạch (nâng bậc) được giữ cương vị cao hơn hoặc giáng ngạch hoặc buộc thôi đảm nhiệm công việc nếu không đủ khả năng hoặc không xứng đáng với cương vị của mình. Hội đồng tuyển chọn công chứng viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định. Ban hành quy chế tuyển chọn. Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm công chứng viên và phân công nơi công tác theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp hoặc Thủ trưởng cơ quan công chứng tỉnh. Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền điều động công chứng viên từ địa phương này sang địa phương khác, sau khi có sự thỏa thuận của các địa phương đó. công chứng viên phải qua thời gian tập sự từ 1,5 năm đến 2 năm. Trước khi hết thời hạn phải có báo cáo nhận xét kết quả công việc và đánh giá của thủ trưởng cơ quan công chứng hoặc người phụ trách, quản lý công chứng viên đó. Có thể phân công chứng viên thành hai loại: công chứng viên và công chứng viên trưởng. Mỗi loại có các bậc lương riêng, chuyển bậc lương phải qua thời gian quy định và phải thi sát hạch. Nội dung yêu cầu sát hạch do Hội đồng tuyển chọn công chứng viên đề ra và cử người trong thành viên Hội đồng về địa phương cùng với cơ quan quản lý công chứng cấp tỉnh tổ chức sát hạch, loại hết bậc sẽ được tính thâm niên công tác sau khi đã vào bậc, ngạch lương. Nghĩa vụ của công chứng viên: Nghĩa vụ của công chứng viên là bổn phận, trách nhiệm của họ phải thực hiện trước nhiệm vụ được giao. Nghĩa vụ công chứng viên gắn với thẩm quyền của Nhà nước giao theo luật định. + Thẩm quyền được giao cho công chứng viên khi thi hành công vụ và được Nhà nước quy định trong văn bản pháp luật về công chứng. Thẩm quyền được giao cho công chứng viên là do nhiệm vụ, chứ không phải do cá nhân, để tránh lạm dụng quyền hành, tự cho mình có quyền mà quên rằng thẩm quyền là do nhiệm vụ quy định. Thẩm quyền của công chứng viên được xác định theo nguyên tắc chung: - Phục vụ lợi ích nhân dân. - Hoàn thành nhiệm vụ Nhà nước giao. - Tuân thủ quy định của Pháp luật. + Nghĩa vụ của công chứng viên: Là làm tròn bổn phận theo chức trách được giao, thể hiện bằng sự trung thành với Nhà nước, tận tâm phục vụ nhân dân, tận tụy với công việc. - Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về công tác công chứng do luật định, thực hiện đúng quy chế làm việc, chấp hành sự phân cấp của cấp trên. - Khác với luật sư, công chứng viên là viên chức công phải tuyên thệ trước Nhà nước khi được bổ nhiệm. - Giữ bí mật về tài liệu, nội dung công chứng, những sự việc mà mình biết có liên quan đến hoạt động nghề nghiệp đã quy định cho các cơ quan công chứng. - Không làm bất cứ điều gì có hại cho Nhà nước và thanh danh của công chứng viên. Không lợi dụng danh nghĩa công việc đang phụ trách để tiến hành các hoạt động tư lợi. Một vấn đề hết sức quan trọng mà pháp luật công chứng của nước ta không đề cập tới đó là trách nhiệm hình sự đối với công chứng viên. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự có nhiều điều khoản vận dụng trong mọi trường hợp. Song, yêu cầu pháp luật về công chứng cũng cần xác định trách nhiệm đối với công chứng viên trong khi thực hiện công chứng chẳng hạn chữ ký giả mạo trong việc làm trái các chứng thư, hoặc chữ viết, chữ ký không đúng, thay tên người khác vào văn bản công chứng lẽ ra người ấy không có tên trong văn bản công chứng. Luật công chứng và Luật hình sự của một số nước quy định rất chi tiết những hành vi cấm đoán đối với công chứng viên. Pháp luật công chứng không đầy đủ là một trở ngại lớn cho hoạt động của công chứng viên cũng như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi xem xét trách nhiệm pháp lý đối với công chứng viên. Tình trạng hiện nay công chứng viên rất lo ngại việc quy kết trách nhiệm hình sự đối với công chứng viên trong những trường hợp thực hiện hành vi công chứng. Lịch sử công chứng ở nước ta mới qua 5 năm hoạt động đã có một công chứng viên bị tử hình (ở Phòng công chứng nhà nước số 1 tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đa số các công chứng viên cho rằng việc quy kết trách nhiệm hình sự trong trường hợp chứng nhận thế chấp tài sản là quá nặng chứ chưa nói đến việc tử hình. Lẽ ra trách nhiệm chính là cơ quan quản lý tài sản, cơ quan ngân hàng và cơ quan định giá tài sản, công chứng viên không có quyền cho thế chấp hoặc cho vay tiền, cũng như không có quyền định giá tài sản thế chấp. Quyền lợi của công chứng viên: Với những tiêu chuẩn như đã nói ở trên, do tính chất phức tạp của công chứng viên nên chế độ tiền lương phải được xem xét thỏa đáng, không thể chung ngạch, bậc lương chuyên viên như hiện nay đang hưởng. Hoạt động công chứng là hoạt động hỗ trợ tư pháp, lương của công chứng viên cũng phải bằng lương của các thẩm phán, kiểm sát viên, thanh tra viên, chấp hành viên. công chứng viên phải có ngạch bậc lương riêng, ngạch công chứng viên nên có 3 bậc và ngạch công chứng viên trưởng có 2 bậc, hết bậc mà công chứng viên không đủ điều kiện chuyển ngạch hoặc đã ở bậc cuối cùng thì được chuyển sang chế độ thâm niên (mỗi năm công tác thêm 1% tiền lương). Ngoài ra, nếu công chứng viên đảm nhận công tác quản lý thì được hưởng phụ cấp và được hưởng đầy đủ các chế độ khác như cán bộ công chức nhà nước. Quản lý công chứng viên: Thống nhất quản lý đội ngũ công chứng viên trong phạm vi cả nước vào cơ quan Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp có nhiệm vụ: - Xây dựng quy chế tổ chức và hoạt động của công chứng viên. - Xây dựng tiêu chuẩn công chứng viên. - Phân công quản lý chức danh công chứng viên ở các địa phương và theo dõi, kiểm tra việc quản lý công chứng viên. - Xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng công chứng viên. Người phụ trách cơ quan công chứng tỉnh và huyện sẽ được chọn trong số các công chứng viên để bổ nhiệm và vẫn đảm nhiệm một phần công việc như công chứng viên trong công tác nghiệp vụ. Trong quy chế tổ chức và hoạt động của công chứng viên, phải quy định rõ trách nhiệm của công chứng viên trưởng, thủ trưởng cơ quan công chứng, với tư cách là công chứng viên thực hiện nhiệm vụ chuyên môn như những công chứng viên khác; đồng thời quy định trách nhiệm, quyền hạn với tư cách là người phụ trách cơ quan công chứng nhà nước, quản lý điều hành hoạt động của cơ quan theo quy chế. Đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên: Là những người làm công tác pháp luật, công chứng viên dù hành nghề với tư cách cá nhân hoặc là công chức nhà nước làm công ăn lương, bằng cách xử sự của mình, phải luôn luôn tâm niệm một hình ảnh tốt đẹp nhất về nghề nghiệp của mình. Công chứng viên phải là người có nhân cách tốt và phải là người hoàn thiện kiến thức về pháp luật, luôn đổi mới kiến thức và nắm bắt kịp thời về sự tiến triển của pháp luật kinh tế và xã hội. Pháp luật về công chứng của một số quốc gia còn quy định một số các hoạt động bị ngăn cấm như không được hoạt động kiêm nhiệm, vợ hoặc chồng của công chứng viên không được làm thẩm phán; không được hoạt động thương mại; không được đầu cơ chứng khoán; không tham gia vào hội đồng quản trị của bất cứ công ty hoặc doanh nghiệp thương mại hay công kỹ nghệ nào. Cần phân biệt rõ trách nhiệm đạo đức với trách nhiệm khác của công chứng viên ở chỗ: trách nhiệm đạo đức do các quy phạm về đạo đức, tập quán đặt ra, nó không bị cưỡng chế bởi quyền lực công. Song đối với công chứng viên thì sự lên án của xã hội cũng là một hình phạt, bởi lẽ công chứng viên hành nghề bằng uy tín nghề nghiệp. Nếu một công chứng viên vi phạm về chuẩn mực đạo đức, làm mất lòng tin và để lại dư luận không tốt trong công chúng, thì điều đó tổn hại đến uy tín của công chứng viên nói riêng và đến ngành công chứng nói chung. Đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên còn thể hiện ở việc đưa ra những lời khuyên vô tư phù hợp với cách thức thực hiện hợp đồng cho các bên, bảo vệ tốt nhất quyền lợi chính đáng của họ, bảo đảm hiệu lực thực hiện của hợp đồng, bằng cách hoàn thành mọi thể thức sau khi công chứng, hỗ trợ cho các bên để họ thu được kết quả mong muốn. Những người giúp việc cho công chứng viên: Tùy theo số lượng công việc của công chứng nhà nước cấp tỉnh và công chứng nhà nước cấp huyện mà quy định số lượng nhân viên giúp việc, có thể chia thành hai loại: - Thư ký: Có thể là công chứng viên trong tương lai hoặc là chuyên viên thực hành trong từng lĩnh vực công chứng, đó là những cộng sự trực tiếp để thảo và lập hợp đồng. - Các nhân viên: Bao gồm kế toán, thủ quỹ và thư ký hành chính. Ngoài công chứng viên là công chức nhà nước, các thư ký giúp việc khác có thể tuyển theo chế độ hợp đồng lao động. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo: Hiện nay Nghị định 31/CP và NĐ75/2000/NĐ-CP (8/12/2000) quy định: Công dân tổ chức có quyền khiếu nại về việc từ chối thực hiện công chứng hoặc về nội dung công chứng mà công chứng viên đã thực hiện và có quyền tố cáo các hành vi công chứng được xem xét theo pháp luật khiếu nại tố cáo. Chúng tôi cho rằng, hoạt động công chứng là hoạt động hỗ trợ tư pháp, vì vậy không nên giao cho cơ quan hành chính giám sát hoạt động công chứng. Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2000) không quy định cụ thể khiếu nại nội dung công chứng là thế nào. Nếu có tranh chấp về nội dung công chứng thì tranh chấp này thuộc thẩm quyền của Tòa án. Việc giao cho giám đốc Sở Tư pháp xem xét giải quyết khiếu nại hoạt động công chứng như hiện nay là bất hợp lý, giám đốc Sở Tư pháp không đủ thẩm quyền kết luận văn bản công chứng trong trường hợp có khiếu nại tố cáo, mà chỉ dựa trên bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án mà thôi. Quỹ bảo hiểm đối với hoạt động của công chứng viên:Khi thực hiện công chứng, các Phòng công chứng được thu lệ phí theo quy định của pháp luật. Trong những năm vừa qua, các Phòng công chứng đã thu lệ phí và tăng thu cho ngân sách nhà nước với số lượng không phải là ít. Bình quân mỗi năm một Phòng công chứng thu trên một tỷ đồng. Tuy nhiên, hoạt động công chứng có những đặc thù riêng, do vậy hoạt động công chứng còn chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, không thể lường hết trước những hậu quả pháp lý bất lợi, có thể gây thiệt hại cho Nhà nước và công dân. Nhưng hiện nay Nhà nước ta chưa có văn bản pháp lý quy định việc xây dựng quỹ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp trong hoạt động công chứng, để bồi thường cho công dân tổ chức, trong trường hợp khi thi hành công cụ do lỗi vô lý của công chứng viên gây ra là điều bất hợp lý. Trong khi đó Chính phủ có ban hành Nghị định 47/CP ngày 3/5/1997 về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Như vậy, việc lập quỹ bảo hiểm cho hoạt động công chứng cần phải được quy định và hướng dẫn cụ thể bằng một văn bản của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong hoạt động công chứng, trách nhiệm vật chất của Nhà nước đối với người thứ ba hay đương sự bị tổn thất, sẽ được bảo đảm bằng một quỹ riêng, có thể gọi là "quỹ bảo đảm". Quỹ này lập bằng cách trích một tỷ lệ nhất định của lệ phí thu được trong mỗi tháng, còn công chứng viên vì là viên chức ăn lương Nhà nước nên phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước theo luật hành chính. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Sau gần 10 năm hoạt động, hệ thống tổ chức công chứng được thành lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Song, về cơ cấu tổ chức chưa ổn định, thiếu thống nhất. Quản lý về tổ chức công chứng còn chồng chéo, lẫn lộn, thậm chí còn buông trôi kéo dài. Pháp luật về công chứng còn mang nặng tính đối phó trước đòi hỏi của xã hội về hoạt động công chứng. Các quy định về tổ chức và hoạt động công chứng không đảm bảo tính khoa học, quy định một số công việc không đúng với bản chất của hoạt động công chứng. Mặt khác, bỏ trống nhiều lĩnh vực quan trọng lẽ ra cần phải được pháp luật công chứng ghi nhận. Trong chương này luận án đã đề cập đến yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta hiện nay bao gồm: Yêu cầu phục vụ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; yêu cầu phù hợp với pháp luật quốc tế về công chứng; yêu cầu của quá trình cải cách hành chính và cải cách tư pháp hiện nay; yêu cầu bảo đảm tính chuyên nghiệp, độc lập trong hoạt động công chứng. Luận án đưa ra các quan điểm đổi mới quan niệm về công chứng bao gồm các nội dung; đổi mới nhận thức về vai trò của Nhà nước trong quản lý tổ chức và hoạt động công chứng. Đổi mới tổ chức thực hiện công chứng ở nước ta cần phải được tổ chức lại theo mô hình mới và phải thực hiện qua từng bước và liền theo đó là đổi mới về hoạt động công chứng chủ yếu là xác định phạm vi hoạt động công chứng. Sau nhiều năm nghiên cứu về tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta, kết hợp với việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động công chứng của các nước trên thế giới, chúng tôi thấy rằng, ở nước ta hiện nay đã có đầy đủ điều kiện để thiết lập một hệ thống công chứng độc lập hoạt động theo đúng chức năng vốn có của nó. Những phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng mà chúng tôi đưa ra hy vọng sẽ đáp ứng được yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế đất nước, yêu cầu của quá trình hợp tác quốc tế về công chứng trong giai đoạn hiện nay. KẾT LUẬN Chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, quy chế hoạt động của cơ quan công chứng, làm cho bộ máy gọn nhẹ đảm bảo sự điều hành tập trung, thống nhất, đồng thời phát huy tính chủ động, độc lập, năng động của đội ngũ công chứng viên là yêu cầu cần thiết hiện nay. Việc kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan công chứng cũng như một số cơ quan hỗ trợ tư pháp khác là góp phần thiết thực vào công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh và giải quyết các quan hệ trong đời sống xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, chúng ta càng không thể phủ nhận vai trò của công chứng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bằng việc chứng nhận tính xác thực, công chứng đã góp phần vào việc quản lý các hoạt động giao dịch, phòng ngừa, hạn chế các tranh chấp, vi phạm pháp luật, tạo sự ổn định cho các hoạt động giao dịch, hạn chế tối đa hậu quả đáng tiếc và không đáng có xảy ra. Hoạt động của công chứng trong thời gian vừa qua đã đem lại những kết quả rõ rệt trong việc giải quyết các mối quan hệ kinh doanh và quan hệ dân sự. Tuy nhiên, việc cải cách tư pháp trong thời gian vừa qua triển khai còn chậm, chưa có một chương trình thống nhất, chưa thật gắn bó với cải cách hành chính, đã đến lúc phải có một chương trình cải cách tư pháp trong đó có tổ chức hoạt động công chứng. Yêu cầu về quản lý nhà nước đặt ra cho các chủ thể quản lý một hiện thực là nếu không có sự vận động phát triển và được tổ chức tương ứng với sự phát triển của các quan hệ xã hội thì không thể thực hiện tốt chức năng của mình. Công chứng ở nước ta hiện nay còn bộc lộ nhiều bất cập cả về bộ máy, cả về chức năng nhiệm vụ, cả về thẩm quyền. Chưa có quan điểm chính thống nhất về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Trên cơ sở phân tích thực trạng về tổ chức và hoạt động của công chứng ở nước ta, từ thực tiễn của quá trình đổi mới và phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Có thể tóm tắt kết luận một số vấn đề chủ yếu sau đây: Về tổ chức công chứng: Xã hội hóa công chứng theo hướng đề cao vai trò của công chứng viên, công chứng viên là chủ thể duy nhất thực hiện hành vi công chứng; công chứng viên là viên chức trong bộ máy nhà nước, chịu trách nhiệm trước Nhà nước về hành vi công chứng của mình, thu hẹp phạm vi quản lý công chứng của Nhà nước theo kiểu bao biện như hiện nay. Quan điểm này phù hợp với thông lệ quốc tế về công chứng, phù hợp với tình hình đặc điểm của nước ta trong giai đoạn hiện nay, xã hội hóa công chứng cần phải tiến hành từng bước thận trọng. Về lâu dài, bộ máy công chứng cần phải chuyển sang hoạt động theo thể chế công chứng viên chịu trách nhiệm toàn bộ về hoạt động công chứng (thể chế công chứng tự do). Về hoạt động công chứng: Bản thân hoạt động công chứng là hoạt động dịch vụ không phải là hoạt động quản lý của Nhà nước, nhưng nó góp phần hỗ trợ tích cực để Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế, xã hội bằng pháp luật. Với chức năng, nhiệm vụ, vai trò đã được phân tích trong luận án, công chứng được coi là một trong các hoạt động bổ trợ tư pháp, với nghĩa hẹp là hỗ trợ cho hoạt động xét xử của Tòa án, với nghĩa rộng là hỗ trợ (góp phần) vào việc duy trì kỷ cương pháp luật trong xã hội. - Hoạt động công chứng bảo đảm các chuẩn mực pháp lý cho tổ chức, cá nhân trong tham gia quan hệ sự, nhằm tăng cường quản lý các sinh hoạt xã hội bằng pháp luật theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam. - Hoạt động công chứng góp phần hạn chế tranh chấp, tiêu cực trong các quan hệ dân sự, làm lành mạnh các quan hệ xã hội, bảo đảm tính dân chủ, công bằng, giữ vững ổn định trong giao lưu dân sự. Một trong những ý nghĩa, lý do tồn tại cho hoạt động công chứng là: Bảo đảm cho các tranh chấp phát sinh một cơ sở pháp lý đáng tin cậy để giải quyết theo hướng tích cực, tạo lối ra an toàn cho các tranh chấp đó. Thực tế đáng quan tâm lâu nay của hoạt động tài phán các tranh chấp dân sự là thiếu chứng cứ để giải quyết. Vì vậy, không ít trường hợp rơi vào tình trạng lúng túng, rất khó tìm hướng cho việc giải quyết tranh chấp của các cấp Tòa án. Tinh thần này được thể hiện đậm nét trong phạm vi hoạt động của công chứng. Để đạt được mục đích trên, tác giả luận án kiến nghị một số vấn đề sau đây: Một là: Sớm ban hành luật hoặc pháp lệnh về công chứng, trong đó định rõ khái niệm công chứng. Trên cơ sở luật, pháp lệnh, Bộ Tư pháp ban hành quy chế đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên. Hai là: Tăng cương công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan quản lý công chứng và công chứng viên, xác định cụ thể trách nhiệm pháp lý đối với công chứng viên, đặc biệt là trách nhiệm hình sự đối với công chứng viên trong hoạt động công chứng. Ba là: Phải có chương trình đào tạo công chứng viên theo tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế, không nên đào tạo bồi dưỡng kiểu chắp vá như hiện nay. Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, về nhà nước và pháp luật, kỹ năng, nghề nghiệp, sắp xếp tổ chức, quản lý sử dụng có hiệu quả đội ngũ công chứng viên. Trên đây là một số kết quả nghiên cứu và đề xuất đối với tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta hiện nay. Đây là lĩnh vực mới được triển khai thực hiện trong những năm gần đây, tài liệu về vấn đề này rất hạn chế, trình độ và kinh nghiệm của bản thân có giới hạn nên không thể tránh khỏi thiếu sót, khuyết điểm. Với kết quả có được là cả một sự cố gắng của bản thân, tôi xin trân trọng cảm ơn việc xem xét đánh giá và cho ý kiến của Hội đồng chấm luận án. NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Dương Khánh (2000), "Bàn về giá trị pháp lý của văn bản công chứng", Kiểm sát, (5), tr. 31-33. Dương Khánh (2000), "Về vai trò của công chứng viên", Dân chủ và pháp luật, (4), tr. 34; 46. Dương Khánh (2001), "Thẩm quyền thực hiện công chứng", Tòa án nhân dân, (2), tr. 5-6. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Đào Duy Anh (1992), Từ điển Hán - Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Vũ Tuấn Anh (Chủ biên) (1998), "Vai trò của Nhà nước trong trật tự kinh tế thị trường ở Việt Nam", Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. Báo cáo công tác của Phòng công chứng nhà nước số 1 thành phố Hà Nội (1996). Báo cáo công tác của Phòng công chứng nhà nước số 1 thành phố Hồ Chí Minh (1996). Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao (1997), Hà Nội. Báo cáo công tác của Phòng công chứng nhà nước số 1 tỉnh Thanh Hóa (1997). Vũ Huy Bằng (1999), Những cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện công chứng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội. Nguyễn Thanh Bình (1994), Tập bài giảng về công chứng, luật sư, giám định, hộ tịch, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. Nguyễn Văn Bình (1999), "Hoạt động công chứng", Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Bộ Nội vụ, Thông tư số 11-TT/BNV (C13) ngày 7/2/1989 về con dấu của Phòng công chứng nhà nước. Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Hà Nội. Bộ luật Dân sự của Việt Nam Cộng hòa (1973), Sài Gòn. Bộ Tài chính - Tư pháp, Thông tư liên bộ số 84/TTLB ngày 18/12/1992 về thu lệ phí công chứng. Bộ Tư pháp, Thông tư 57/QLTPK ngày 10/10/1987 quy định về công tác công chứng. Bộ Tư pháp, Thông tư 276-QLTPK ngày 20/4/1991 về tổ chức và hoạt động công chứng. Bộ Tư pháp (1994), Báo cáo công tác tư pháp năm 1994, Hà Nội. Bộ Tư pháp (1995), Báo cáo công tác tư pháp năm 1995, Hà Nội. Bộ Tư pháp (1996), Báo cáo công tác tư pháp năm 1996, Hà Nội. Bộ Tư pháp, Thông tư 1411 ngày 3/10/1996 về hướng dẫn thực hiện Nghị định 31/CP. Bộ Tư pháp (2000), Báo cáo công tác tư pháp năm 2000, Hà Nội. Bộ Tư pháp, Thông tư 120-TT/CC ngày 20/4/1991 về chứng nhận giá trị tài sản bằng hiện vật thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp và công ty cổ phần. Hà Hùng Cường (2001), Trả lời phỏng vấn Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 1-2001, Hà Nội. Các văn bản tổ chức Tư pháp (1962), Sài Gòn. Mi Chen Corderl (1995), Tổ chức công chứng ở Pháp, tài liệu hội thảo về công chứng tại nhà pháp luật Việt - Pháp, Hà N`ội. Dụ số 43 (1954), "Ấn định quy chế chung cho ngạch chưởng khế", Công báo Việt Nam, số 11 tháng Chạp 1954, Sài Gòn. Bùi Đình Dũng - Nguyễn Hữu Tráng (1993), Việc thực hiện chức năng công chứng của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài, Đề tài khoa học mã số 92-98-224, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Đặng Minh Đạo (1996), "Hệ thống công chứng ở Nhật Bản", Pháp luật, Hà Nội. Bùi Xuân Đức (1992), "Tổ chức cơ quan chính quyền địa phương trong Hiến pháp sửa đổi", Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. Bùi Xuân Đức (1993), "Vấn đề tổ chức cơ quan chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay", Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. Bùi Xuân Đức (2000), "Vấn đề hoàn thiện bộ máy nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. Điều lệ công chứng (1968) ban hành kèm theo lệnh số 48 FR của Tổng thống nước Cộng hòa Bê Nanh. Điều lệ Liên đoàn công chứng hệ La tinh (UTNL) (1948). Nguyễn Duy Gia (chủ biên) (1997), Một số vấn đề cơ bản hoàn thiện bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Giáo trình Luật Dân sự của Pháp (1993), Tài liệu nghiên cứu của Bộ Tư pháp, Hà Nội. Giáo trình Luật tổ chức Tòa án, Viện kiểm sát, công chứng, luật sư (1998), Khoa Luật trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. Giới thiệu vài nét về đề tài: Xây dựng và hoàn thiện công tác công chứng nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội (1995), Chuyên đề công chứng của Viện NCKHPL, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Giới thiệu tóm tắt luật công chứng của Cộng hòa Singapore (1992), Viện NCKHPL, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Hiến (1996), Một số vấn đề chung về công chứng nhà nước, Tài liệu nghiệp vụ, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Nguyễn Văn Hoạt (1998), "Công chứng hợp đồng thế chấp tài sản vay vốn Ngân hàng", Dân chủ Pháp luật, Hà Nội. Học viện Hành chính Quốc gia (1993), Nội dung và phương thức tổ chức hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đề tài KX-05-08, Hà Nội. Học viện Hành chính Quốc gia (1995), Nền hành chính nhà nước Việt Nam, những kinh nghiệm xây dựng và phát triển, Hà Nội. Đặng Văn Khanh (1993), Giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học về công chứng, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Đặng Văn Khanh (1999), Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng, và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội. Dương Khánh (2000), "Về vai trò của công chứng viên", Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Lịch sử Việt Nam 1930 - 1945 (1995), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Luật doanh nghiệp (công bố ngày 26/6/1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật doanh nghiệp nhà nước, công bố ngày 30/4/1995. Luật và xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII - XVIII (1996), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Luật về công chứng nhà nước của nước Ucraina về công chứng nhà nước. Luật ngày 19/7/1993 của Liên bang Nga về hệ thống công chứng nhà nước. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi) (1994). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Thương mại (1997). Nguyễn Đình Lộc (1996), Bộ Luật Dân sự Việt Nam quá trình xây dựng và các quan điểm chỉ đạo, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Một số văn bản Pháp lệnh Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII (1994), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Bernard Maugain (1995), Trách nhiệm dân sự, bảo đảm trách nhiệm dân sự, hủy bỏ chứng thư công chứng, Tài liệu hội thảo công chứng, Nhà Pháp luật Việt - Pháp, Hà Nội. Đinh Văn Mậu (1995), "Xây dựng nền hành chính phục vụ công dân", Quản lý nhà nước, Hà Nội. Vũ Văn Mẫu (1973), Cổ luật Việt Nam và Tư pháp sử, Nxb Khai trí, Sài Gòn. Lê Tuyết Nga (1995), Giới thiệu tóm tắt Luật công chứng ngày 28/8/1969 của Công hòa Liên bang Đức, Viện NCKHPL, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Phạm Hữu Nghị (1995), "Giao dịch dân sự, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự", Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. Nghị định 1/10/1945 của Bộ Tư pháp, Công báo năm 1945, Hà Nội. Nghị định 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp. Nghị định 17/HĐBT ngày 16/1/1990 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Nghị định 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Nghị định 86/CP ngày 10/2/1996 về việc bán đấu giá tài sản. Nghị định 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 08/2/2000 quy định về công chứng, chứng thực. Nghị quyết Hội nghị lần thứ BCH TW Đảng (khóa VIII), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 BCHTW Đảng (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nghị quyết số 38/CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân, tổ chức. Nghiên cứu hệ thống Pháp luật Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII (1994), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nền hành chính và cải cách nền hành chính của Nhật Bản, Việt Nam và Trung Quốc (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam (1997), Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Nguyên lý và thực hành thương mại, Luật Kinh doanh (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế (1989), Nxb Sự thật, Hà Nội. Pháp lệnh Lãnh sự (1990), Nxb Sự thật, Hà Nội. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (1990), Nxb Sự thật, Hà Nội. Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất được thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn Ngân hàng, 14/10/1994. Nguyễn Như Phát (1995), "Chủ thể của Luật Dân sự", Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. Vũ Thị Phụng (1997), Lịch sử Nhà nước Pháp luật Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. Dương Trung Quốc (1989), Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách mạng 8/1945, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Quốc Triều Hình luật (1991), Viện Sử học Việt Nam, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Quy chế thế chấp tài sản, ban hành kèm theo quyết định 217/QĐ-NH1 ngày 17/8/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Quyết định 145/HĐBT ngày 28/4/1992 về việc cho người nước ngoài nhận con nuôi tại Việt Nam. Quyết định 196/QĐ-NH ngày 16/9/1994 quy định nghiệp vụ bảo lãnh của các Ngân hàng Thương mại. Sắc lệnh 59/SL ngày 15/11/1945, ấn định thể lệ và thị thực giấy tờ, Công báo năm 1946. Sắc lệnh 85/SL ngày 29/2/1952, ban hành về các việc mua bán, cho và đổi nhà cửa ruộng đất, Công báo 1952. Sổ tay thuật ngữ Pháp lý thông dụng (1996), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Lê Kim Thanh (1993), Công chứng nhà nước thuộc các nước XHCN (cũ), Viện Nghiên cứu KHPL, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Dương Đình Thành (1998), Công chứng nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Văn Thảo (1986), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Thất (1995), Những vấn đề cơ bản về công chứng, Thông tin KHPL, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Trần Thất (1995), Nghị định 5/HĐBT về công chứng nhà nước và những vấn đề đặt ra hiện nay, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Trần Thất - Đặng Văn Khanh (1998), "Các quy định của pháp luật hiện hành về công chứng nhà nước", Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Lê Minh Thông (1998), "Vai trò của Nhà nước trong trật tự kinh tế thị trường", Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. Lê Minh Thông (1998), "Hoàn thiện pháp luật về quyền con người trong điều kiện phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay", Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. Lê Minh Thông (2000), "Một số vấn đề về hoàn thiện các cơ sở Hiến định của tổ chức bộ máy Nhà nước ở nước ta hiện nay", Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. Vũ Quốc Thông (1973), Pháp chế Việt Nam, Đại học Luật khoa, Sài Gòn. Thuật ngữ pháp lý phổ thông (tập 1) (1986), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Nguyễn Khánh Toàn (1995), Văn bản công chứng ở Pháp, Ba Lan, chuyên đề công chứng, Viện NCKHPL, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Bùi Ngọc Toàn (1993), Công chứng đối với việc quản lý và phát triển các quan hệ hợp đồng ở nước ta, Viện nghiên cứu KHPL, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Đoàn Trọng Truyến (1996), Một số vấn đề xây dựng và cải cách đơn vị hành chính nhà nước ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Tuân (1993), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công chứng nhà nước ở Việt Nam, Viện NCKHPL, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Từ điển Pháp luật hành chính (1992), Nxb Thế giới, Hà Nội. Từ điển tiếng Việt (1994), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Từ điển tiếng Việt (1974), Viện nghiên cứu Ngữ học, Nxb Khoa học xã hội (in lần thứ 3), Hà Nội. Đào Trí Úc (1997), Những vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Yểu - Dương Đình Thành (1992), Những điều cần biết về công chứng nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2697.DOC