Tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó đối với các nước đang phát triển

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT AoA : Agreement on Agricultural - Hiệp định Nông nghiệp ATC : Agreement on Texitiles and Clothing of the WTO - Hiệp định hàng dệt may. GATS : General Agreement on Trade in Services - Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ. GATT : General Agreement on Tariffs and Trade - Hiệp định chung về thuế quan và thương mại. GDP : gross domestic product - Tổng thu nhập quốc dân. IMF : International Monetery Fund - Quỹ tiền tệ Quốc tế. ITO : International Trade Organizati

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1226 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó đối với các nước đang phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
on - Tổ chức thương mại thế giới. MFA : Multifibre Arrangement - Hiệp định đa sợi. MFN : Most-favored nation - Đối xử tối huệ quốc. NT : Nation Treatment -Đãi ngộ quốc gia. TRIMS : Trade - related investment measures - Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại. TRIPS : Trade - related intellectual propecty rights - Khía cạnh về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại. UNCTAD : United Nations Conference on Trade and Development - WTO : World Trade Organization - Tổ chức thương mại quốc tế. LỜI MỞ ĐẦU Cùng với xu thế toàn cầu hoá hiện nay, Tổ chức thương mại thế giới (WTO) kế thừa Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) bắt đầu hoạt động từ 1/1/1995 nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho sự phát triển của hệ thông thương mại đa biên, đảm bảo cạnh tranh công bằng, lành mạnh, xoá bỏ dần các rào cản trong thương mại quốc tế. Từ đó cho đến nay, WTO đã không ngừng mở rộng cả vế quy mô lẫn phạm vi hoạt động của mình, đã thực sự khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong quá trình tự do hoá thương mại quốc tế. Cùng với hệ thống các quy tắc, nguyên tắc, các Hiệp định của mình,WTO đã tạo ra một hành lang pháp lý để từ đó các nước có thể đẩy nhanh tiến hành tiến trình toàn cầu hoá, tự do thương mại, đồng thời tiếp nhận những cơ hội thuận lợi để phát triển nền kinh tế của mình. Tuy nhiên, hoạt động của WTO cùng với hệ thông các nguyên tắc và hiệp định của mình không phải lúc nào cũng có lợi và đảm bảo được sự công bằng cho các nước thành viên, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Để có thể tìm hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng của WTO đến sự phát triển nền kinh tế của các nước đang phát triển, em đã lựa chọn đề tài: Tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó đối với các nước đang phát triển. Làm khoá luận tốt nghiệp. Ngoài phần mở đầu, kết luận, và phụ lục, nội dung của khoá luận được chia làm ba chương: Với những kiến thức đã được trang bị trong 4 năm qua tại Khoa Kinh tế Đại học Quốc Gia - Hà Nội, cùng với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn Khu Thị Tuyết Mai, em đã hoàn thành được bài khoá luận này. Tuy nhiên, do tính phức tạp của vấn đề nghiên cứu và do trình độ có hạn của người viết khoá luận này không tránh được nhiều thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo để bài khoá luận này được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO 1.1. Sự ra đời của WTO 1.1.1. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT - Tổ chức tiền thân của WTO Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT (General agreements on Tariff & Trade) là tổ chức tiền thân của tổ chức thương mại thế giới WTO. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, GATT được ra đời trong trào lưu hình thành hàng loạt các cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động kinh tế quốc tế nhằm khôi phục lại sự phát triển kinh tế thương mại thế giới. Ý tưởng ban đầu của các nước là thành lập một tổ chức thứ ba cùng với hai tổ chức được biết đến là Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quĩ tiền tệ Quốc tế (IMF) nhằm giải quyết các vấn đề hợp tác kinh tế quốc tế trong hệ thống "Bretton Woods", hình thành các nguyên tắc thế lệ cho thương mại quốc tế, điều tiết các lĩnh vực về thương mại hàng hoá, công ăn việc làm, hạn chế và khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc thương mại phát triển. Vì vậy kế hoạch đầy đủ được trên 50 nước lúc đó dự định là thiết lập tổ chức thương mại thế giới (ITO) như là một tổ chức chuyên ngành của Liên hợp quốc (UN). Dự thảo hiến chương ITO rất tham vọng, dự thảo này đã tiến xa hơn các nguyên tắc về thương mại gồm các lĩnh vực như lao động, hiệp định hàng hoá, thực tiễn hạn chế kinh doanh, đầu tư quốc tế và dịch vụ. Trước khi hiến chương ITO được phê chuẩn, 23 trong số 50 nước đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phám vế thuế quan xử lý các biện pháp bảo hộ mậu dịch đang được áp dụng và duy trì trong thương mại quốc tế từ đầu những năm 30. Các nước này mong muốn nhanh chóng thúc đẩy tự do hoá mậu dịch, khôi phục lại nền kinh tế bị phá huỷ nặng nề sau chiến tranh thế giới thứ II. Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại thế giới đã được thoả thuận tại Hội nghị Liên hợp Quốc tế về thương mại và việc làm tại Havana từ 11/1947 đến 24/3/1948, nhưng do một số nước không tán thành nên việc hình thành tổ chức thương mại thế giới (ITO) đã không thực hiện được. Tuy nhiên kết quả của cuộc đàm phán cũng đem lại sự thành công nhất định; đã có 45000 nhượng bộ về thuế quan, ảnh hưởng đến khối lượng thương mại trị giá 10 tỉ $, tức là gần 1/5 tổng thương mại trên thế giới. 23 nước này đều cùng nhất trí chấp nhận ủng hộ một số quy định trong hiến chương của ITO. Các quy định này sẽ được thực hiện hết sức nhanh chóng một cách tạm thời để có thể bảo vệ được thành quả của những cam kết thuế quan đã được đàm phán. Kết hợp của những qui định thương mại và cam kết thuế quan được biết đến dưới tên gọi Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 11/1/1948. 23 nước tham gia trở thành những thành viên sáng lập GATT, hay còn gọi là "các bên tham gia hiệp định". Mặc dù GATT chỉ mang tính tạm thời nhưng đây vẫn là công cụ duy nhất mang tính đa biên điều tiết thương mại thế giới kể từ năm 1948 cho đến khi WTO được thành lập vào năm 1995 và trong suốt thời gian đó các văn bản pháp lý của GATT vẫn được duy trì gần giống năm 1948. Có thêm một số hiệp định mới được đưa vào dưới dạng hiệp định "nhiều bên" và các nỗ lực cắt giảm thế quan vẫn được tiếp tục. Tất cả những bước tiến lớn của thương mại quốc tế đã diễn ra thông qua các cuộc đàm phán thương mại đa biên được biết đến dưới cái tên "vòng đàm phán thương mại". Bảng 1: Các vòng đàm phán của GATT Năm Địa điểm Chủ đề đàm phán Số nước 1947 Geneva Thuế quan 23 1949 Annecy Thuế quan 13 1951 Torquay Thuế quan 38 1956 Geneva Thuế quan 26 1960 - 1961 Geneva (vòng Dillon) Thuế quan 26 1964 - 1967 Geneva (vòng Kenedy) Thuế quan và các biện pháp chống bán phá giá 62 1973 - 1979 Geneva ( Vòng Tokyo) Thuế quan và các biện pháp phi thuế, các hiệp định khung. 102 1986 - 1994 Geneva (vòng Uruguay) Thuế quan và các biện pháp Phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí Tuệ, giải quyết tranh chấp, Nông nghiệp,WTO... 123 Trong các vòng đàm phán thương mại đầu tiên của GATT chủ yếu tập trung vào việc cắt giảm thuế quan hơn nữa. Đến vòng Kenedy, nội dung của các vòng đàm phán đã được mở rộng: đưa ra đàm phàn về hiệp định chống bán phá giá, số nước tham gia là 62 nước. Tiếp theo là vòng đàm phán Tokyo, kéo dài từ năm 1973 đến năm 1979 với sự tham gia của 102 nước. Kết quả vòng đàm phán này bao gồm 9 thị trường công nghiệp hàng đầu trên thế giới cắt giảm trung bình 1/3 mức thuế quan và do đó mức thuế trung bình đối với hàng nông sản giảm xuống ở mức 47%. Việc cắt giảm thuế quan sẽ được thực hiện trong vòng 8 năm bao gồm cả vấn đề điều hoà thuế - thuế càng cao thì cắt giảm càng lớn theo tỷ lệ. Tuy nhiên, bên cạnh các vấn đề có kết quả như trên thì đối với các vấn đề khác kết quả của vòng đàm phán Tokyo là không mấy hoàn hảo. Vòng đàm phán này đã thất bại trong việc giải quyết một số vấn đề liên quan đến thương mại hàng nông sản, không đưa ra được hiệp định mới về các biện pháp tự vệ (biện pháp khẩn cấp đối với hàng nhập khẩu). Mặc dù vậy, đã có nhiều hiệp định về hàng rào phi quan thuế đã xuất hiện tại vòng đàm phán này (một vài hiệp định mới hoàn toàn, một vài hiệp định tiếp tục bổ sung thêm từ các qui dịnh của GATT). Trong phần lớn các trường hợp thì chỉ có một số nước rất nhỏ, chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển chấp nhận tham gia vào các hiêp định mới này vì họ là những người được lợi ích nhiều nhất. Do đó, các hiệp định này chỉ được gọi là "hệ thống qui tắc". Những qui tắc này không mang tính chất đa biên, nhưng đây là một bước khởi đầu mới. Các "hệ thống qui tắc" của vòng Tokyo: + Trợ cấp và các biện pháp đổi kháng - diễn giải điều 6.16 và 23 hiệp định GATT. + Các hàng rào kỹ thuật đổi với thương mại - còn được gọi là: Hiệp định về tiêu chuẩn. + Các thủ tục cấp phép nhập khẩu. + Mua sắm chính phủ. + Định giá hải quan - diễn giải điều 7. + Chống phá giá - diễn giải điều 6, thay cho qui định vòng Kenedy. + Thoả thuận về sữa quốc tế. + Thương mại máy bay dân dụng. Một số hệ thống qui tắc sau vòng đàm phán Uuguay đã được điều chỉnh lại và được cam kết mang tính chất đa biên buộc các nước thành viên phải cùng nhau thực hiện. Chỉ có 4 hiệp định: mua sắm chính phủ, máy bay dân dụng cho đến hiện nay vẫn mang tính nhiều bên. Vào năm 1997, hai hiệp định về thịt bò và sữa đã được huỷ bỏ. Cho đến hết vòng đàm phán Tokyo, GATT hoạt động mang tính tạm thời và có phạm vi hoạt động hạn chế. Tuy nhiên, GATT đã đem lại những thành công rất lớn trong việc đảm bảo tự do hoá phần lớn thương mại quốc tế. Chỉ tính đến việc cắt giảm thuế quan đã khiến cho tốc độ tăng trưởng trung bình của thương mại thế giới lên mức trung bình trong suốt thập niên 50-60. Chính tốc độ tự do hoá mậu dịch đã giúp cho tốc độ tăng trưởng của thương mại luôn luôn vượt qua tốc độ tăng trưởng kinh tế trong suốt thời kỳ GATT tồn tại. Bên cạnh đó, ngày càng nhiều nước đệ đơn tham gia xin gia nhập đã cho thấy hệ thống thương mại đa biên đã được công nhận như một công cụ để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế, thương mại của cả thế giới nói chung và của từng quốc gia nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đã xuất hiện những vấn đề mới nảy sinh. Vòng Tokyo đã cố gắng giải quyết một số vấn đề đó nhưng kết quả mang lại còn khá hạn chế. GATT đã phải đối mặt với những khó khăn rất lớn. Thứ nhất, thành công của GATT trong việc cắt giảm thuế quan xuống mức thấp cộng với tác động của suy thoái kinh tế trong suốt thập niên 70 và 80 đã dẫn đến việc chính phủ các nước đã tiến hành điều chỉnh các hình thức bảo hộ đối với các lĩnh vực đang phải cạnh tranh với nước ngoài nhằm có thể giữ được ổn định cho nền kinh tế của họ. Tỷ lệ thất nghiệp cao cộng với việc phải đóng cửa liên tục nhiều nhà máy đã buộc chính phủ các nước Tây Âu và Bắc Mỹ phải đi đến thoả thuận song phương về chia sẻ thị trường với các nhà cạnh tranh và ngày càng tăng dần mức độ trợ cấp nhằm duy trì được vị trí của mình, nhất là trong thương maị hàng nông sản. Những thay đổi này có nguy cơ làm giảm và mất đi những giá trị của việc giảm thuế quan đã mang lại cho thương mại quốc tế, vì vậy hiệu quả và độ tin cậy của GATT bị suy giảm. Thứ hai, đến thập niên 80 thì Hiệp định chung không còn đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn của thương mại quốc tế như ở thập niên 40 nữa. Ít nhất thì hệ thống thương mại thế giới đã trở nên phức tạp, đa dạng và quan trọng hơn rất nhiều so với 40 năm trước. Phần lớn GATT chỉ điều tiết thương mại hàng hoá hữu hình nhưng ngày nay nền kinh tế thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ, thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng, thương mại dịch vụ - lĩnh vực không được hiệp định GATT điều chỉnh đã trở thành lợi ích cơ bản của ngày càng nhiều nước. Từ ngân hàng, bảo hiểm, vận tải biển, tư vấn ... đã phát triển không ngừng; đầu tư quốc tế cũng được mở rộng. Thương mại dịch vụ phát triển cũng kéo theo sự gia tăng hơn nữa của thương mại hàng hoá. Thứ ba, trong một số lĩnh vực của thương mại hàng hoá GATT cũng còn nhiều bất cập, ví dụ đối với lĩnh vực nông nghiệp, những lỗ hổng của hệ thống thương mại đa biên đã bị lợi dụng triệt để và mọi nỗ lực nhằm tự do hoá hàng nông sản đã không đạt được thành công. Trong lĩnh vực hàng dệt may cũng vậy, các nước đã cùng nhau miễn trừ các nguyên tắc của GATT và đưa ra một hiệp định mới là Hiệp định đa sợi. Thứ tư, cơ cấu tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT cũng gây ra nhiều lo ngại. GATT chỉ là một hiệp định, việc tham gia không mang tính chất bắt buộc do vậy các nước có thể tuân theo và cũng có thể không. Bên cạnh đó, thương mại quốc tế trong những năm 80 trở đi đòi hỏi phải có một tổ chức cố định, có nền tảng pháp lý vững chắc để có thể đảm bảo thực thi các quy định, các nguyên tắc chung của thương mại quốc tế. Về hệ thống các quy chế giải quyết tranh chấp, GATT cũng chưa có cơ chế chặt chẽ, chưa có thời gian biểu nhất định do vậy các cuộc tranh chấp thường bị kéo dài, dễ đi vào ách tắc. Đây là những nhân tố khiến cho các thành viên của GATT tin rằng phải có những nỗ lực mới nhằm củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa biên. Những nỗ lực đó đã dẫn đến kết quả có vòng đàm phán Uruguay, tuyên bố Marrakesh và việc tổ chức thương mại thế giới WTO ra đời. 1.1.2. Vòng đàm phán Uruguay và sự ra đời của WTO 1.1.2.1. Vòng đàm phán Uruguay Vòng đàm phán Uruguay là vòng đàm phán lớn nhất cả về thời gian và các lĩnh vực thương mại. Vòng này kéo dài 7 năm rưỡi, gần bằng 2 lần thời gian dự định ban đầu. Đến cuối vòng đàm phán số nước tham dự đă lên tới 125 nước; đây thực sự là vòng đàm phán thương mại lớn nhất từ trước tới nay và có lẽ đây cũng là cuộc đàm phán thuộc loại lớn nhất trong lịch sử. Một số thời điểm chủ chốt của vòng Uruguay: Tháng 9/86 Punta del Este: bắt đầu. Tháng 12/88 Montreal: rà soát giữa kỳ của các bộ trưởng. Tháng 4/89 Geneva: Rà soát giữa kỳ hoàn thành. Tháng 12/90 Brussels: bế mạc hội nghị bộ trưởng trong bế tắc. Tháng 12/91 Genneva: Dự thảo đầu tiên của "Hiệp định cuối cùng" được hoàn thành. Tháng 11/92 Washington: Mỹ và EC đạt được mức bột phá mang tên "Blair House" trong lĩnh vực nông nghiệp. Tháng 7/93 Tokyo: Nhóm Quad đạt được bước đột phá về mở cửa thị trường tại hội nghị thượng đỉnh G7 Tháng 12/93 Geneva: Phần lớn các cuộc đàm phán kết thúc (một số cuộc thương thảo về mở cửa thị trường được tiếp tục). Tháng 4/94 Marrakesh: Các hiệp định được ký. Tháng 1/95 Geneva: WTO được thành lập và các hiệp định bắt đầu có hiệu lực. Mặc dù tại một số thời điểm, vòng đàm phán có vẻ như thất bại, nhưng cuối cùng vòng Uruguay đã đem lại sự cải tổ lớn nhất từ trước tới nay đối với hệ thống thương mại quốc tế. Cơ sở cho chương trình nghị sự của vòng đàm phán Uruguay đã được khởi đầu ngay từ tháng 11 năm 1982 tại Geneva, tuy nhiên phải mất đến 4 năm để thăm dò làm rõ các vấn đề và xây dựng sự nhất trí thì các bộ trưởng mới đi đến thống nhất trong việc đưa ra 1 vòng đàm phán mới. Cuộc đàm phán được bắt đầu tại Punta del Este Uruguay (1986). Chương trình đàm phán bao gồm hầu hết các vấn đề chính sách thương mại còn chưa được điều chỉnh, nhằm mở rộng hệ thống thương mại đa biên sang một số lĩnh vực mới. Trong đó, quan trọng nhất là: dịch vụ, sở hữu trí tuệ và cải tổ hệ thống thương mại trong một số lĩnh vực có tính nhạy cảm cao như hàng nông sản và hàng dệt may, mọi nguyên tắc về điều khoản ban đầu của GATT đều được rà soát lại. Hai năm sau đó, vào tháng 12 năm 1988, các Bộ trưởng gặp nhau tại Montreal, Canada nhằm mục đích kiểm điểm lại những tiến triển tại thời điểm giữa vòng đàm phán, bên cạnh đó tiếp tục đề ra mục tiêu cho các cuộc đàm phán tiếp theo. Tuy nhiên, đàm phán đã đi đến bế tắc. Mọi vấn đề chỉ được giải quyết tại hội nghị ở Geneva 4 năm sau đó. Mặc dù gặp phải nhiều khó khăn, tại hội nghị Montreal các vị bộ trưởng đều thống nhất thông qua hầu hết các kết quả ban đầu gồm: các nhượng bộ mở cửa thị trường cho hàng nhiệt đới nhằm mục đích giúp đỡ các nước đang phát triển; cơ chế giải quyết tranh chấp được đơn giản hóa và một cơ chế rà soát chính sách thương mại. Từ trước đến nay, đây là lần đầu tiên đưa ra được một cơ chế thường xuyên, mang tính hệ thống và toàn diện để rà soát chính sách và thực hành thương mại đối với các nước thành viên của GATT. Vòng đàm phán này đã dự định kết thúc tại Brussels vào tháng 12 năm 1990, nhưng do bất đồng quan điểm giữa các bên về cách thức tiến hành cải cách hệ thống thương mại hàng nông sản nên đã phải kéo dài. Đây là thời kỳ vòng Uruguay đang đi vào giai đoạn khó khăn nhất. Cho dù viễn cảnh chính trị đen tối, một khối lượng công việc kỹ thuật đáng kể đã được thực hiện và dẫn đến kết quả là có một dự thảo hiệp định pháp lý cuối cùng, dự thảo này được gọi là “Dự thảo luật cuối cùng”. Dự thảo này được đệ trình tại Geneva vào năm 1991. Dự thảo đã hoàn tất được tất cả các mục tiêu đề ra tại Punta del Este, ngoại trừ danh mục cam kết cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường dịch vụ của các nước. Dự thảo này đã trở thành cơ sở để có được sự thống nhất cuối cùng. Trong vòng hai năm tiếp theo, các cuộc đàm phán đã đứng giữa hai ngả, một bên là thất bại cận kề, một bên là thành công với tới được. Một vài thời hạn cuối cùng được đưa ra và bị vượt quá. Tại vòng đàm phán đã nảy sinh những bất đồng quan điểm bên cạnh vấn đề nông nghiệp ; đó là dịch vụ, mở cửa thị trường, các qui tắc chống bán phá giá và đề xuất về việc thành lập một tổ chức thương mại mới. Tại đây, bất đồng quan điểm của Mỹ và EU chính là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho vòng đàm phán chưa thể kết thúc thành công được. Tháng 11 năm 1992, Mỹ và EU đã thống nhất được phần lớn sự khác biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, cả hai đã đưa ra được một thỏa thuận mang tên “Thỏa thuận Blair House”. Đến tháng 7 năm 1993, nhóm Quad ( Mỹ, EU, Nhật, Canada ) tuyên bố đã đạt được những thỏa thuận đáng kể trong đàm phán thuế quan và các vấn đề liên quan đến mở cửa thị trường. Đến 15 tháng 12 năm 1993 thì tất cả mọi vấn đề đều được giải quyết và đàm phán về mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ được kết thúc. Ngày 15/4/1994, thỏa thuận đã được bộ trưởng của phần lớn 125 nước tham gia hội nghị ký kết tại Marrakesh, Marốc. Cuối cùng, vào tháng 1/1995 hội nghị bộ trưởng tại Geneva đã thống nhất thành lập một tổ chức thương mại mới, tổ chức thương mại thế giới - World Trade Organization - viết tắt là WTO chính thức được thành lập ; các hiệp định được kí kết tại vòng đàm phàn Uruguay bắt đầu có hiệu lực. Nhìn chung tại một số thời điểm, vòng Uruguay có vẻ như đã thất bại, tuy nhiên cuối cùng thì vòng Uruguay đã đem lại sự cải tổ lớn nhất, là bước tiến quan trọng nhất đối với hệ thống thương mại thế giới kể từ ngày GATT được thành lập sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Mặc dù còn gặp phải nhiều vấn đề, vòng Uruguay đã đem lại một số kết quả ngay từ những ngày đầu: Trong vòng 2 năm các nước tham dự đã nhất trí cắt giảm thuế nhập khẩu với hàng nhiệt đới - những sản phẩm chủ yếu do các nước đang phát triển xuất khẩu. Các nước cũng đã nhất trí điều chỉnh các qui định về giải quyết tranh chấp, trong đó một số biện pháp đã được thực hiện ngay lập tức. Các nước cũng yêu cầu cần có báo cáo thường xuyên về hệ thống chính sách thương mại của các nước thành viên, đây là một bước tiến hết sức quan trọng nhằm làm minh bạch hóa hệ thống chính sách của các nước trên thế giới. Với kết quả của vòng đàm phán Uruguay người ta ước tính thuế quan nói chung sẽ giảm đi trung bình khoảng 40%. Dự kiến Mĩ sẽ giảm 35%, Canada 45%, ấn Độ 55%, Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) 41%, Đài Loan giảm khoảng 30 - 50% cho hàng công nghiệp và nông sản. Với mức thuế hàng nông sản nói riêng, trong vòng 6 năm tới tính từ năm 1995 sẽ giảm 36% và mức trợ cấp gây phương hại cho thương mại bình đẳng cũng sẽ giảm 20%. Do đó, người ta dự đoán rằng từ năm 1995 đến năm 2002, buôn bán quốc tế sẽ tăng thêm từ 213 - 272 tỷ đô la mỗi năm, xuất khẩu thế giới mỗi năm tăng 5% nhập khẩu tăng 3,5%. * Chương trình nghị sự : 15 chủ đề tại vòng đàm phán Uruguay + Thuế quan + Hàng rào phi thuế quan + Sản phẩm tài nguyên thiên nhiên + Hàng dệt may + Nông nghiệp + Sản phẩm nhiệt đới + Các điều khoản của GATT + Các hệ thống qui định của vòng đàm phán Tokyo + Chống phá giá + Trợ cấp + Tài sản trí tuệ + Các biện pháp đầu tư + Giải quyết tranh chấp + Hệ thống GATT + Dịch vụ. 1.2.2. Sự khác nhau giữa WTO và GATT WTO là một tổ chức thương mại được thành lập trên cơ sở kế thừa GATT. GATT sau WTO đã được sửa đổi, bổ sung và là một trong những hiệp định của WTO. Sau đây là những khác biệt chủ chốt : + GATT chỉ mang tính chất tạm thời. Hiệp định chung về thương mại và thuế quan chưa bao giờ được quốc hội các nước phê chuẩn; nó không có qui định nào về việc thành lập một tổ chức nhất định. WTO và các hiệp định của nó mang tính thường trực lâu dài. WTO là một tổ chức quốc tế được thành lập bởi sự nhất trí của các quốc gia thành viên. WTO có nền tảng pháp lý vững chức bởi vì các nước thành viên đã thông qua các hiệp định và chính các hiệp định đã mô tả phương thức hoạt động của tổ chức. Các quốc gia thành viên phải thực hiện đúng theo các qui định, nguyên tắc của WTO và các hiệp định của nó. + GATT chỉ có "các bên tham gia ký kết", điều này cho thấy rõ ràng là GATT chỉ mang tính chất một hiệp định. WTO có các nước thành viên và WTO là một tổ chức quốc tế. + Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT chỉ giải quyết các vấn đề liên quan đến thương mại hàng hoá. Trong khi đó WTO là tổ chức kế thừa và phát triển GATT, hiệp định GATT tồn tại cùng với các hiệp định khác của WTO như hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS); hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS). WTO đã đưa 3 hiệp định này vào chung một tổ chức. + Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO mang tính tự động và nhanh hơn so với cơ chế của GATT. Đây là đóng góp lớn nhất của WTO đối với hệ thống thương mại thế giới. Trước đây việc giải quyết tranh chấp giữa các nước ký kết GATT được dựa vào hai cơ chế chủ yếu: + Theo điều khoản tham vấn và điều khoản Bảo vệ các ưu đãi và lợi ích. + Cơ chế giải quyết tranh chấp của mỗi hiệp định đa phương. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT còn bị những hạn chế : + Các nghị quyết đạt được không giải quyết được những tranh chấp phát sinh, thường dẫn đến việc các bên thương lượng hoà giải là chính. + Hệ thống giải quyết tranh chấp không mang tính tự động do vậy bên bị kiện có thể dễ dàng gây khó khăn để ngăn cản một nhóm chuyên trách (Ban hội thẩm) tiến hành hoạt động của mình. + Thời hạn tiến hành qui trình giải quyết tranh chấp quá dài. + Hệ thống không có cơ chế bảo đảm cho các nghị quyết được thực hiện. Những khiếm khuyết trên làm giảm bớt những giá trị của tự do hoá thương mại mà hệ thống thương maị đa phương đem lại các nước đã vấp phải nhiều khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp với các đối tác mạnh hơn mình. Đối với WTO, tổ chức thương mại thế giới đã đưa ra được một cơ chế giải quyết tranh chấp hoàn chỉnh hơn, cho phép các mối quan hệ trong thương mại quốc tế được giải quyết một cách công bằng hơn, hạn chế được những hành động đơn phương, độc đoán của các cường quốc thương mại, cho phép nhanh chóng tháo gỡ những ách tắc thường xảy ra và khó giải quyết trước đây. Các thủ tục của WTO dựa trên qui định luật pháp và giúp cho hệ thống thương mại an toàn và dễ dự báo hơn. Hệ thống này dựa trên các qui tắc được xác định rõ ràng với cả biểu thời gian để hoàn thành một vụ tranh chấp. Một nhóm chuyên gia sẽ được thành lập cho mỗi tranh chấp. Nhóm này sẽ đưa ra các qui định đầu tiên và các thành viên WTO có thể ủng hộ hay phản đối, các kháng cáo dựa trên luật là có thể chấp nhận được. Các thành viên WTO đều nhất trí rằng khi mà một nước thành viên khác đang vi phạm qui tắc thương mại, họ sẽ sử dụng hệ thống thương mại đa biên để giải quyết tranh chấp thay cho việc thực hiện các hành động đơn phương. Trước đây GATT có thủ tục để giải quyết tranh chấp nhưng nó chưa đưa ra được thời gian biểu cụ thể, các qui định dễ bị cản trở và nhiều vụ vẫn không giải quyết được sau một thời gian dài. WTO đã đưa ra một quy trình giải quyết tranh chấp với thời gian và thủ tục được xác định rõ ràng hơn. Khoảng thời gian để giải quyết một vụ tranh chấp dài hơn trước kia. Thời hạn cuối cùng cho mỗi giai đoạn giải quyết tranh chấp rất linh hoạt. Hiệp định nhấn mạnh việc giải quyết nhanh chóng là cần thiết. Các thủ tục và thời gian biểu phải được tuân theo trong quá trình giải quyết. WTO cũng không cho phép các nước thất bại trong vụ tranh chấp ngăn cản việc thi hành quyết nghị. Theo thủ tục của GATT các quyết định chỉ có thể được thông qua theo các thoả hiệp. Điều đó có nghĩa là chỉ cần một sự phản đối nào đó cũng có thể ngăn việc thi hành quyết nghị. Nhưng hiện nay các quyết nghị được thông qua một cách tự động, trừ khi có một thoả hiệp để từ chối một quyết nghị. Bất kỳ một nước nào muốn ngăn cản một quyết nghị cũng cần phải thuyết phục các thành viên khác (kể cả đối thủ) đồng ý với quan điểm của mình. Tóm lại, hệ thống giải quyết tranh chấp được coi là một trong những thành tựu lớn nhất của WTO. 1.2. Mục tiêu, chức năng và nguyên tắc hoạt động của WTO Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là cơ quan quốc tế duy nhất giải quyết các qui định về thương mại giữa các quốc gia với nhau. Nội dung chính của WTO là các hiệp định được hầu hết các nước có nền thương mại cùng nhau tham gia đàm phán và ký kết. Các văn bản này qui định các cơ sở pháp lý làm nền tảng cho thương mại quốc tế. Các tài liệu đó về cơ bản mang tính ràng buộc các chính phủ phải duy trì một chế độ thương mại trong một khuôn khổ đã được các bên thống nhất. Mặc dù các thoả thuận đạt được là do các chính phủ đàm phán và ký kết nhưng mục đích lại nhằm giúp các nhà sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ trong nước; các nhà hoạt động xuất nhập khẩu có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh dễ dàng hơn. 1.2.1. Mục tiêu Mục tiêu chính của hệ thống thương mại thế giới là nhằm giúp thương mại được lưu chuyển tự do ở mức tối đa, chừng nào nó còn nằm trong giới hạn không gây ra các ảnh hưởng xấu không muốn có. Ngoài ra, WTO còn có những mục tiêu sau: + Nâng cao mức sống của con người. + Bảo đảm tạo đầy đủ công ăn việc làm, tăng trưởng vững chắc thu nhập và nhu cầu thực tế của người lao động. + Phát triển việc sử dụng hợp lý của người lao động. + Phát triển việc sử dụng hợp lý các nguồn lực của thế giới . + Mở rộng việc sản xuất và trao đổi hàng hóa dịch vụ trên phạm vi toàn thế giới. 1.2.2 Chức năng của WTO WTO có những chức năng sau đây: Chức năng thứ nhất của WTO: Là tổ chức các cuộc đàm phán mậu dịch đa biên mà nội dung của nó rất đa dạng đề cập lớn tới nhiều lĩnh vực khác nhau. Thông qua các cuộc đàm phán như vậy, việc tự do hoá mậu dịch của các nước trên thế giới được phát triển, đồng thời những qui tắc quốc tế mới cũng được xây dựng và sửa đổi theo yêu cầu của thời đại. Chức năng thứ hai của WTO: Là một luật lệ quốc tế chung được các nước thành viên cùng nhau ký kết. WTO đề ra những qui tắc quốc tế về thương mại và đảm bảo các nước thành viên của WTO phải thực hiện các nguyên tắc đó. Đặc trưng của các quyết định và qui tắc của WTO là nó có hiệu lực bắt buộc tất cả các thành viên và có khả năng làm cho mọi thành viên có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện. Bất cứ một nước thành viên nào một khi đã thừa nhận "hiệp định WTO" và những hiệp định phụ khác của WTO thì nước đó cần phải điều chỉnh hay chuyển các quy định pháp luật và các thủ tục hành chính của mình theo các quy định của WTO. Chức năng thứ ba của WTO: Là khả năng giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp mậu dịch quốc tế. WTO có chức năng như là một toà án giải quyết các tranh chấp nảy sinh giữa các thành viên trong các lĩnh vực liên quan. Bất cứ một thành viên nào của WTO khi thấy lợi ích của nước mình đang bị xâm hại trong hoạt động kinh tế ở một thị trường nào đó vì có thành viên khác đang thực hiện chính sách trái với các qui tắc của WTO thì có quyền khởi tố lên cơ quan giải quyết mâu thuẫn mậu dịch của WTO và yêu cầu nước đó ngừng các hoạt động kinh tế xâm hại đến lợi ích của mình. Bất cứ thành viên nào cũng phải chấp nhận khi bị các thành viên khác khởi tố lên WTO vì đây là một trong những nghĩa vụ của mọi thành viên, không nước nào có thể tránh khỏi. Chức năng thứ tư của WTO: Là phát triển nền kinh tế thị trường. Để nền kinh tế thị trường hoạt động và nâng cao được hiệu quả, WTO xúc tiến việc giảm nhẹ qui chế. Phần lớn các nước trước kia theo cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung hiện nay đều đang chuyển sang nền kinh tế thị trường đã và đang làm thủ tục để xin gia nhập WTO. Qua các cuộc đàm phán cần thiết để gia nhập WTO, các nước này có thể tìm hiểu được về hệ thống kinh tế thị trường và đồng thời xắp xếp lại những chế độ và qui tắc để có thể quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường. 1.2.3. Các nguyên tắc của WTO Các hiệp định của WTO mang tính chất lâu dài và phức tạp đó là vì những văn bản pháp lý bao trùm nhiều lĩnh vực hoạt động rộng lớn. Các hiệp định này giải quyết các vấn đề liên quan đến: nông nghiệp, hàng dệt may, ngân hàng, bưu chính viễn thông, mua sắm chính phủ, tiêu chuẩn công nghiệp, các qui định về vệ sinh dịch tễ, sở hữu trí tuệ và nhiều lĩnh vực khác nữa. Tuy nhiên có một số các nguyên tắc hết sức cơ bản và đơn giản xuyên suốt tất cả các hiệp định. Các nguyên tắc đó chính là nền tảng của hệ thống thương mại đa biên. Sau đây là chi tiết các nguyên tắc đó. Nguyên tắc thứ nhất: Là thương mại không phân biệt đối xử. Nguyên tắc này được áp dụng bằng hai loại đãi ngộ song song, đó là đãi ngộ tối huệ quốc và đối xử quốc gia. Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): đối xử mọi người bình đẳng như nhau. Theo qui định của các hiệp định WTO, nguyên tắc này được áp dụng như sau: Mỗi thành viên đối xử với mọi thành viên khác bình đẳng với nhau như là các bạn hàng được ưu đãi nhất. Nếu như một nước cho một nước khác được hưởng lợi nhiều hơn thì đối xử "tốt nhất" đó phải được giành cho tất cả các nước thành viên WTO khác để các nước khác vẫn tiếp tục có được đối xử tối huệ quốc. Nguyên tắc MFN đảm bảo rằng mỗi thành viên WTO đối xử trên 140 thành viên khác tương tự nhau. Nguyên tắc này rất quan trọng vì vậy nó được ghi nhận tại điều đầu tiên của hiệp định chung về quan thuế và thương mại GATT về thương mại hàng hoá. Nguyên tắc MFN cũng được đề cao trong hiệp định chung về dịch vụ GATS, hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại TRIMs tuy có khác nhau một ít ở từng hiệp định. Đối xử quốc gia (NT): đối xử người nước ngoài và người trong nước như nhau. Hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước phải được đối xử như nhau, ít nhất là sau khi hàng hoá nhập khẩu đã đi vào đến thì trường nội địa. Theo nguyên tắc này, khi áp dụng những qui chế trong nước và thuế nội địa đối với hàng nhập khẩu thì phải cung cấp các điều kiện tương tự như đối với sản phẩm trong nước. Vì thế các thành viên của WTO không được áp dụng thuế nội địa để bảo vệ sản xuất trong nước và không được phân._. biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu từ các nước thành viên WTO khác. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho dịch vụ nhãn hiệu thương mại, bản quyền và quyền phát minh sáng chế trong nước và của nước ngoài. Đối xử quốc gia chỉ áp dụng được khi hàng háo dịch vụ và đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đã vào đến thị trường. Vì vậy, việc đánh thuế nhập khẩu hàng hoá không vi phạm nguyên tắc này mặc dù hàng nội địa không chịu thuế tương tự. Nguyên tắc thứ hai: Thương mại phải ngày càng được tự do thông qua đàm phán.WTO đảm bảo thương mại giữa các nước ngày càng tự do hơn thông qua quá trình đàm phán hạ thấp hàng rào thuế quan để thúc đẩy buôn bán. Hàng rào thương mại bao gồm thuế quan, và các biện pháp khác như cấm nhập khẩu, quota có tác dụng hạn chế nhập khẩu có chọn lọc, đôi khi vấn đề khác như tệ quan liêu, chính sách ngoại hối cũng được đưa ra đàm phán. Kể từ khi GATT, sau đó là WTO được thành lập đã tiến hành 8 vòng đàm phán để giảm thuế quan, dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan và mở cửa thị trường. Để thực hiện nguyên tắc tự do thương mại này, WTO đảm nhận chức năng là diễn đàn đàm phán thương mại đa phương để các nước có thể liên tục thảo luận về vấn đề tự do hoá thương mại. Nguyên tắc thứ ba: WTO tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. WTO là một hệ thống các nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do, công bằng và không bị bóp méo. Các quy định về phân biệt đối xử được xây dựng nhằm đảm bảo các điều kiện công bằng trong thương mại. Các đều khoản về chống phá giá, trợ cấp cũng nhằm mục đích tương tự. Tất cả các hiệp định của WTO như Nông nghiệp, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại đều nhằm mục đích tạo ra được một môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn giữa các nước. Nguyên tắc thứ tư: Tính tiên liệu được thông qua ràng buộc thuế. Các cam kết không tăng thuế cũng quan trọng như việc cắt giảm thuế vì cam kết như vậy tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể dự đoán tốt hơn các cơ hội trong tương lai. Trong WTO, khi các nước thoả thuận mở cửa thị trường cho các hàng hoá và dịch vụ nước ngoài, họ phải tiến hành ràng buộc các cam kết thuế. Đối với thương mại hàng hoá, các ràng buộc này được thể hiện dưới hình thức thuế trần. Một nước có thể thay đổi mức thuế ràng buộc, tuy nhiên điều này chỉ có thể thực hiên được sau khi nước đó đã đàm phán với các nước bạn hàng và có nghĩa là phải bồi thường cho khối lượng thương mại đã bị mất. Qua vòng đàm phán Uruguay, một khối lượng thương mại lớn được hưởng cam kết về ràng buộc thuế. Tính riêng trong lĩnh vực hàng nông sản 100% sản phẩm đã được ràng buộc thuế. Kết quả là WTO đã tạo được sự đảm bảo cao hơn cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Nguyên tắc thứ năm: Các thoả thuận thương mại khu vực. WTO thừa nhận các thoả thuận thương mại khu vực nhằm mục tiêu đẩy mạnh tự do hoá thương mại. Các liên kết như vậy là một ngoại lệ của nguyên tắc đãi ngộ Tối huệ quốc theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, nhằm bảo đảm các thoả thuận này tạo thuận lợi cho thương mại các nước liên quan song không làm tăng hàng rào cản trở thương mại với các nước ngoài liên kết. Nguyên tắc thứ sáu: Các điều kiện đặc biệt dành cho các nước đang phát triển. WTO là một tổ chức quốc tế với hơn 2/3 tổng số nước thành viên là các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi, vì thế một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO là khuyến khích phát triển, dành những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước này, với mục tiêu đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của họ vào hệ thống thương mại đa biên. Để thực hiện được nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và các ưu đãi nhất định trong việc thực thi các hiệp định, đồng thời chú ý đến việc trợ giúp kỹ thuật cho các nước này. CHƯƠNG 2. TÁC ĐỘNG CỦA WTO ĐẾN CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 2.1. Những ảnh hưởng của WTO đối với các nước đang phát triển 2.1.1. Những ảnh hưởng tích cực Tổ chức thương mại thế giới WTO là một tổ chức quốc tế, điều tiết hệ thống thương mại đa biên, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và đến nền kinh tế của mỗi quốc gia thành viên nói riêng. Đối với các nước đang phát triển, gia nhập WTO đã mang lại được rất nhiều lợi ích thiết thực đối với công cuộc phát triển kinh tế của họ. Cùng với quá trình toàn cầu hoá kinh tế và đặc biệt là sự ra đời của WTO từ năm 1995, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân của các nước đang phát triển luôn đạt khoảng từ 4% đến 5%. Tỷ trọng kinh tế của các nước này trong nền kinh tế toàn cầu đã tăng lên nhanh chóng, từ 13% năm 1995 lên 29% năm 1998 (chỉ 3 năm, sau khi WTO ra đời). Tỷ trọng trong thương mại thế giới của các nước đang phát triển cũng tăng lên từ 11% đến 32% trong cùng thời kỳ. Đến năm 2010, theo dự báo, tỷ lệ này có thể lên tới 45%. Đặc biệt, các nền kinh tế Đông á trong nhiều năm liền có tốc độ tăng trưởng nhanh đã đạt đến tỷ lệ 7%. Các nước Mỹ La Tinh cũng đạt mức tăng trưởng bình quân cao; các nước Châu Phi đã dần dần bước ra khỏi tình trạng bi đát về kinh tế. Năm 1999, Châu Phi đã đạt mức tăng trưởng 3,6% là mức cao nhất từ hơn một thập kỷ qua. Một số nước đang phát triển có tốc độ phát triển cao đã trở thành một trong những động lực thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Đây là những con số tổng quan về những thành công của hoạt động của tổ chức thương mại thế giới đối với các nước đang phát triển, làm rõ thêm những ảnh hưởng tích cực của WTO đến các mặt của nền kinh tế: Thứ nhất, tất cả các hàng hoá và dịch vụ của các nước đang phát triển là thành viên của WTO đều được đối xử theo các nguyên tắc, quy định của WTO; được đối xử bình đẳng, không phân biệt đối với hàng hoá và dịch vụ của các nước phát triển. Các loại hàng hoá và dịch vụ này khi được xuất khẩu sang bất kỳ một thị trường của một nước thành viên nào kể cả Mỹ hay EU đều được hưởng mọi quyền lợi mà chính phủ nước đó dành cho hàng hoá và dịch vụ nước mình. Thứ hai, các rào cản thuế và phi thuế quan đều buộc phải cắt giảm, các biện pháp hạn chế định lượng đều bị cấm sử dụng được áp dụng cho mọi thành viên của WTO không loại trừ một thành viên nào của WTO. Do đó cơ hội xuất khẩu của các nước đang phát triển gia tăng rõ rệt, thị trường tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ được mở rộng. Các nước đang phát triển đã và sẽ tập trung chuyên môn hoá các mặt hàng mà mình có lợi thế, nhằm thúc đẩy xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Thứ ba, sản xuất trong nước được chú trọng và thu hút được nhiều lao động, tạo được nhiều công ăn việc làm hơn cho người dân, đặc biệt là trong những ngành nghề sản xuất phục vụ xuất khẩu làm tăng nhanh sự tăng trưởng của nền kinh tế và xã hội của nước đó. Thứ tư, là thành viên của WTO, có nghĩa là các nước đã tạo dựng được một môi trường kinh tế, chính trị ổn định, tạo được sự tín nhiệm của các nước trên thế giới. Chính vì vậy, các nước đang phát triển có thể mở rộng được thị phần của mình trên thị trường quốc tế, giành được nhiều ưu đãi thương mại tạo được cho mình lợi thế kinh tế chính trị, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Thứ năm, các quan hệ kinh tế, văn hoá, chính trị với các nước thành viên được mở rộng, tiếp thu được nhiều kinh nghiệm tốt trong quản kí kinh tế, xã hội, khoa học kĩ thuật, tiếp cận được các thành tựu KHKT tiên tiến trên thế giới, cũng như tiếp thu được các lối sống văn hoá của các nền văn minh khác nhau trên thế giới. Thứ sáu, hoạt động của WTO khiến cho cạnh tranh quốc tế ngày càng trở nên gay gắt, do đó các doanh nghiệp của các nước đang phát triển buộc phải tìm tòi, khắc phục những hạn chế của mình, đồng thời áp dụng công nghệ mới phát triển bền vững hoạt động sản xuất kinh doanh, tích tụ được nhiều nguồn lực để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh tích cực trong nước thúc đẩy nền kinh tế phát triển và có đủ năng lực canh tranh được với nước ngoài, thích ứng với xu hướng toàn cầu hoá hiện nay. Cạnh tranh với bất cứ bản chất nào thì cũng khiến cho các nước đang phát triển có tầm nhìn tốt hơn, tiếp cận được kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước phát triển, đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp nội địa cải tiến và chấp nhận các tiêu chuẩn giám sát quốc tế tốt nhất, kiểm soát được rủi ro và thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Thứ bẩy, vấn đề di chuyển lao động giữa các nước thành viên đã trở nên dễ dàng hơn. Di chuyển lao động tự do đã mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho các nước đang phát triển. Cái lợi của các nước đang phát triển thường xuyên xuất khẩu lao động là nhận được một khoản thu nhập ngoại tệ không nhỏ từ tiền lương mà nước sở tại trả cho người lao động. Theo báo cáo của Economic Aspects thì trong những năm 1990 - 1995 khoản tiền đó lên đến 70 tỷ USD. Xuất khẩu lao động có vị trí đặc biệt đối với các nước đang phát triển, vừa thay đổi cán cân kinh tế vừa tăng sức mua của xã hội thúc đẩy thương mại và sản xuất nội địa. Thêm vào đó, các nước phát triển thường nhập khẩu lao động từ các nước đang phát triển và sau thời gian làm việc cho các hãng, công ty kinh nghiệm, tay nghề và trình độ của người lao động được nâng lên, có khả năng tiếp cận với nền công nghiệp tiên tiến, khi trở về tổ quốc, họ sẽ trở thành nguồn nhân lực quan trọng cho phát triển đất nước. 2.1.2. Những ảnh hưởng tiêu cực Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, những lợi ích không nhỏ, nhận được từ WTO, các nước đang phát triển phải đối mặt với những ảnh hưởng tiêu cực của nó: Thứ nhất, trong tổ chức thương mại thế giới, theo các nguyên tắc của nó, mọi thành viên đều được đối xử như nhau, đều được hưởng mọi đãi ngộ MFN và NT, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan của các nước đều được giảm dần... chính vì vậy, thị trường tiêu thụ được mở rộng, các nước đều tập trung sản xuất theo định hướng xuất khẩu. Các nước đang phát triển cũng không là ngoại lệ. Các nước này đều chú trọng sản xuất các mặt hàng xuất khẩu mà mình có lợi thế so sánh và mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất là nguyên liệu thô và các mặt hàng công nghiệp có giá trị thấp. Tuy nhiên trên thực tế, các nước đang phát triển cũng bị buộc phải sản xuất ra các mặt hàng có giá trị và lợi nhuận thấp đó. Các nước phát triển sử dụng đòn bẩy thuế quan buộc các nước đang phát triển phải tập trung khai thác và xuất khẩu hai loại hàng hoá có mức thuế thấp như nguyên liệu thô và hàng hoá bán thành phẩm, còn mặt hàng công nghiệp có giá trị cao thì chịu thuế cao hơn và vấn đề tìm kiếm thị trường cũng gặp nhiều khó khăn hơn, điều này ảnh hưởng rất lớn đến nền công nghiệp nội địa của các nước đang phát triển. Do các nước đang phát triển chỉ sản xuất được các hàng công nghiệp có giá trị thấp, không chú trọng được vào đầu tư và phát triển các ngành công nghiệp giá trị cao và phải nhập khẩu các mặt hàng này từ các nước phát triển. Công nghiệp nội địa của các nước đang phát triển do đó không có cơ hội để phát triển. Mặt khác, trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, vai trò của các ngành công nghiệp dịch vụ và lao động kỹ năng ngày càng tăng lên và cùng với nó là sự giảm dần tầm quan trọng của các hàng hoá sơ chế và lao động không kỹ năng. Bên cạnh đó, sự tiến bộ trong khoa học công nghệ cũng không chỉ làm thay đổi cơ cấu mà còn làm thay đổi tầm quan trọng của các sản phẩm đầu vào. Các ngành công nghiệp hiện đại ngày càng ít sử dụng tài nguyên thiên nhiên, do đó chúng không còn là yếu tố cạnh tranh quan trọng nữa. Điều này đã khiến cho các nước đang phát triển vốn là những nước xuất khẩu hàng hoá sơ chế và nguồn lao động không kỹ năng rơi vào tình trạng rất bất lợi. Thứ hai, trong lĩnh vực nông nghiệp, các nước đang phát triển cũng phải chịu những tác động rất lớn trong quá trình điều tiết hệ thống thương mại đa biên của WTO: Do định hướng xuất khẩu, nền nông nghiệp của các nước đang phát triển cùng chú trọng vào sản xuất các mặt hàng có giá trị xuất khẩu, đất đai ngày càng khan hiếm, vì một phần bị lấy đi để phát triển công nghiệp, thành thị. Sản lượng lương thực của nhiều nước giảm đi rõ rệt. Điều đó, có nghĩa là sự sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp đã không thoả mãn yêu cầu của nhân dân trong nước do sự bành trướng của cây công nghiệp. Rất nhiều nước đang phát triển, vấn đề an ninh lương thực bị đe doạ nghiêm trọng, buộc các nước này phải nhập khẩu lương thực từ nước ngoài, mức độ lệ thuộc lương thực của các nước này ngày càng gia tăng. Sự chênh lệch giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn ngày càng trở nên rõ rệt hơn. Các nước đang phát triển phần lớn đều phải gánh chịu tình trạng dù tỷ lệ tăng trưởng của cả nước khá cao và ngày càng gia tăng nhưng tại các khu vực nông thôn, tình trạng đói nghèo vẫn tồn tại, có nơi còn tăng lên. Sự phồn vinh chỉ thấy được tại các khu vực thành thị. Nguyên nhân của hiện tượng này là do các nước đangphát triển quá chú trọng vào phát triển công nghiệp,dẫn đến sự phát triển bất cân đối, các nguồn lực ít được đầu tư cho nông nghiệp, nông dân không có đủ điều kiện để phát triển sản xuất. Thứ ba, xu hướng đô thị hoá cộng với tình trạng nguồn lực của nông thôn bị hạn chế buộc rất nhiều nông dân ra thành phố kiếm sống. Nhiều thành phố vì thế đã trở nên quá tải, mật độ dân cư tăng lên quá nhanh ,đã khiến cho tình trạng ô nhiễm, các tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông... tăng vọt. Thứ tư, để thực hiện theo quy định của WTO, các nước đang phát triển sẽ bị thúc ép, buộc phải từ bỏ ngày càng nhiều các chính sách hiện hữu đang bảo vệ và phát triển nền kinh tế nội địa của mình cho hàng hoá và dịch vụ của nước ngoài tự do tràn vào, gây ra các tác động xấu: Phải mở cửa nền kinh tế khi đất nước chưa đủ tiềm lực và sự chuẩn bị đối phó trước những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp trong nước chưa đủ mạnh và chưa chuẩn bị sẵn sàng để cạnh tranh với các tập đoàn lớn, có thể các công ty, tập đoàn đó sẽ thế chân họ trên thị trường trong nước. Hàng hoá hoặc dịch vụ nước ngoài có thể tràn ngập thị trường, thế chỗ hàng hóa và dịch vụ nội địa do chúng có sức cạnh tranh cao hơn, như giá rẻ hơn, chất lượng tốt hơn. Do vậy, các công ty nước ngoài sẽ ngày càng chiếm được nhiều thị phần của khu vực nội địa. Tình trạng chảy máu chất xám tại các nước đang phát triển gia tăng, do các chính sách đãi ngộ cao của các nước phát triển, nhằm thu hút lao động có trình độ cao sang làm việc cho họ. Nguồn nhân lực tại các nước đang phát triển bị thiệt hại nặng nề, đặc biệt là nguồn nhân lực có kĩ năng cao. Quá trình tự do hoá thương mại đã kéo theo nhiều vấn đề, ảnh hưởng xấu đến nền văn hoá, lối sống tại các nước đang phát triển, du nhập nhiều sách báo, văn hoá phẩm không lành mạnh, làm cho nhận thức của người dân bị sai lệch, do ảnh hưởng của lối sống nước ngoài; tình trạng xung đột bạo lực ngày một gia tăng...Môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, do tình trạng khai thác bừa bãi, các chất độc hại của các khu công nghiệp thải ra môi trường không kiểm soát được. Trong xã hội, tình trạng bất bình đẳng ngày càng trầm trọng, người giàu càng giàu thêm, người nghèo càng nghèo đi, sự bất bình đẳng vốn đã ngấm ngầm trong xã hội về giai cấp, sắc tộc, màu da... hiện nay càng trở nên rõ rệt và sâu sắc hơn bao giờ hết. 2.2. Những cơ hội và thách thức đặt ra đối với các nền kinh tế đang phát triển trong qúa trình thực hiện các hiệp định của WTO 2.2.1. Hiệp định về tự do hàng nông sản 2.2.1.1. Nội dung Hàng nông sản là mặt hàng tương đối nhạy cảm, cho nên từ trước đến nay vẫn được hưởng nhiều ngoại lệ. Mặc dù nông sản chỉ chiếm không quá 10% thương mại thế giới và không quá 5% GDP của nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, nhưng thương mại hàng nông sản vẫn luôn là đối tượng rất quan trọng trong đàm phán thương mại quốc tế. Thương mại hàng nông sản là lĩnh vực được bảo hộ cao nhất trong chính sách thương mại của các nước thành viên WTO. Trong thời kỳ GATT, thương mại hàng nông sản đã được quy định, điều chỉnh, nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng, chẳng hạn như cho phép các nước áp dụng một số biện pháp phi thuế, hạn ngạch nhập khẩu... cho loại hàng hóa này. Mậu dịch nông sản do đó trở nên méo mó cao độ. Nguyên nhân của vấn đề này chính là do hàng nông sản là mặt hàng chịu thuế cao nhất, là đối tượng của chính sách bảo đảm an ninh lương thực và nông nghiệp của thế giới, được các nước phát triển áp dụng trợ cấp với mức độ cao. Nông nghiệp là lĩnh vực gây nhiều tranh chấp và thách thức đối với các nước thành viên WTO, đặc biệt là các nước đang phát triển phải gánh chịu ảnh hưởng và sức ép lớn nhất. Nhằm tạo ra khuôn khổ cho thương mại hàng nông sản thế giới và thúc đẩy trao đổi mặt hàng này, tại vòng đàm phán Uruguay các nước đã cùng nhau ký kết hiệp một hiệp định mới : “Hiệp định nông nghiệp”. Thỏa thuận đạt được tại vòng đàm phán Uruguay là một bước tiến quan trọng dẫn đến sự cạnh tranh công bằng, có trật tự hơn và mậu dịch ít bị bóp méo hơn. Hiệp định nông nghiệp đã đạt được những thoả thuận về mở cửa thị trường nông sản, thuế khoá và các biện pháp phi thuế quan; giảm trợ cấp cũng như mức hỗ trợ trong nước của các nước thành viên. Hiệp định vẫn cho phép chính phủ các nước thành viên hỗ trợ cho nền kinh tế nông thôn của mình phát triển, với hy vọng, sự hỗ trợ này sẽ được thực hiện thông qua các chính sách làm cho thương mại nông sản được thông thương và ít bị lệch lạc hơn. Hiệp định này cũng cho phép có linh hoạt về cách thức với mực độ mà các cam kết thực hiện và chấp nhận được. Các nước đang phát triển không phải cắt giảm các khoản trợ cấp hay hạ thấp biểu thuế của họ với mức như các nước phát triển đang áp dụng và họ được dành thêm thời gian để hoàn thành nghĩa vụ của mình. * Tiếp cận thị trường: Tất cả thuế quan đối với hàng nông sản đều bị ràng buộc. Hầu hết các hạn chế khác không phải dưới dạng thuế đều được chuyển sang thuế - đây là quá trình mà nội dung thực chất là “thuế hoá”. Mức độ thuế hoá dựa trên việc tính toán tác động bảo hộ của biện pháp phi thuế quan đó, nhằm đưa ra mức thuế quan có tác động bảo hộ tương đương. Các nước phát triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình 36%, mức độ giảm tối thiểu đối với mỗi dòng thuế không ít hơn 15% và được thực hiện trong thời gian 6 năm ,từ 1995-2000. Các nước đang phát triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình 24% và mức giảm tối thiểu với mỗi dòng thuế không ít hơn 10% và thực hiện trong vòng 10 năm, từ 1995-2004. Các nước chậm phát triển không phải cắt giảm biểu thuế của mình. Đối với các sản phẩm mà hạn chế phi thuế đã được chuyển hoá thành thuế, chính phủ các nước thành viên được phép thực hiện các hành động khẩn cấp đặc biệt hay còn gọi là biện pháp tự vệ, nhằm ngăn chặn không để tình hình giá trượt xuống nhanh hay giá hàng nhập khẩu tăng vọt ảnh hưởng xấu đến nông dân nước họ. Có 4 nước có vấn đề an ninh lương thực đặc biệt nhạy cảm (chủ yếu là với mặt hàng gạo) sử dụng điều khoản đối xử đặc biệt để hạn chế hàng nhập khẩu nhưng họ lại phải có nghĩa vụ đẩy nhanh mức độ mở cửa thị trường cho hàng nhập khẩu. Ví dụ với Nhật Bản: mở cửa thị trường bắt đầu là 4% và lên đến 8% vào năm 2000. Các nước cũng cam kết giữ mức mở cửa thị trường tối thiểu không thấp hơn mức trung bình của thời kỳ 1986-1990 và không đưa ra thêm hàng rào phi thuế quan. * Các biện pháp hỗ trợ trong nước: Các chính sách trong nước có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và thương mại phải được cắt giảm. Các nước thành viên WTO đã tính toán được mức hỗ trợ toàn bộ hay “tổng AMS” cho khu vực nông nghiệp trong mỗi năm tại các cơ sở, từ năm 1986-1988. Tổng AMS là giá trị của toàn bộ các khoản trợ cấp nội địa và khoản trợ cấp cho từng mặt hàng nông sản. Trong các cam kết, yêu cầu cắt giảm 20% của AMS toàn phần đối với các nước phát triển trong thời gian 6 năm; đối với các nước đang phát triển, cam kết cắt giảm là 13% trong vòng 10 năm, kể từ năm 1995; không có yêu cầu cắt giảm đối với những nước chậm phát triển. * Giảm trợ cấp xuất khẩu hàng nông sản. Hiệp định Nông nghiệp cấm trợ cấp xuất khẩu đối với các sản phẩm nông nghiệp, trừ phi các trợ cấp này được quy định rõ ràng trong danh mục các cam kết của một nước. Đối với các trợ cấp đã liệt kê này, hiệp định đòi hỏi các thành viên của WTO cắt giảm số tiền sử dụng cho trợ cấp xuất khẩu lẫn số lượng xuất khẩu nhận trợ cấp. Lấy mức bình quân trong các năm 1986-1990 làm cơ sở, các nước phát triển thoả thuận cắt giảm 36% nguồn ngân sách để trợ cấp xuất khẩu và 21% khối lượng xuất khẩu được hưởng trợ cấp trong vòng 6 năm tính từ năm 1995. Còn các nước đang phát triển sẽ cắt giảm 24% nguồn ngân sách cho trợ cấp xuất khẩu; khối lượng hàng được hưởng trợ cấp sẽ giảm 14% trong vòng 10 năm tính từ năm 1995. Các nước chậm phát triển không phải đưa ra các cam kết cắt giảm. * Các quy định đối với các sản phẩm động thực vật. Có một hiệp định riêng về vấn đề an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn y tế về động thực vật gọi tắt là: “Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch”, đặt ra các quy định cơ bản cho vấn đề an toàn thực phẩm. Hiệp định cho phép các nước đặt tiêu chuẩn cho riêng mình, nhưng đồng thời cũng quy định rằng các quy chế phải căn cứ trên cơ sở khoa học. Các nước thành viên WTO được khuyến khích sử dụng các tiêu chuẩn, hướng dẫn và gợi ý mang tính quốc tế. Hiệp định cho phép các nước được sử dụng những biện pháp khác nhau để giám định hàng hoá; đồng thời hiệp định cũng có những điều khoản quy định về kiểm tra, giám định và các thủ tục phê duyệt. Bảng 2: Mục tiêu cắt giảm trợ cấp, bảo hộ trong thương mại hàng nông sản. Các nước phát triển (6 năm) 1995 - 2000 Các nước đang phát triển ( 10 năm) 1995 - 2000 Thuế quan cắt giảm trung bình : +Cho tất cả các nông phẩm +Tối thiểu cho từng sản phẩm 36 % 15 % 24 % 10 % Trợ cấp nội địa Tổng mức cắt giảm AMS ( giai đoạn cơ sở : 1986 - 1988 ) 20 % 13 % Xuất khẩu +Giá trị trợ cấp +Khối lượng được trợ cấp ( gíai doạn cơ sở :1986 -1990 ) 36 % 21 % 24 % 14 % 2.2.1.2. Những cơ hội Hiệp định về Nông nghiệp (AoA) đã bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 1/1/1995. Hầu hết các nhà đàm phán của các nước đang phát triển nói chung đều muốn tham gia vào AoA. Hiệp định về Nông nghiệp đã mang lại những cơ hội chắc chắn cho các nước đang phát triển. Trước hết, khả năng tiếp cận thị trường của các nước đang phát triển sẽ trở nên dễ dàng hơn. Theo quy định của AoA, các nước dần dần phải loại bỏ các loại hạn chế thương mại khác nhau mà nhà xuất khẩu phải đối phó như hạn ngạch, thuế quan và các hàng rào phi thuế quan... Các nước đang phát triển có thể xuất khẩu các mặt hàng nông sản không hạn chế định lượng sang mọi thị trường các nước thành viên WTO, thị trường xuất khẩu được bảo đảm chắc chắn. Tất cả các thuế quan đối với hàng nông sản đều bị ràng buộc sẽ làm tăng độ ổn định thị trường cho các nhà kinh doanh xuất và nhập khẩu. Hầu như tất cả các hạn chế không phải dưới dạng thuế đều được chuyển sang thuế dưới hình thức thuế hoá, điều này khiến cho các nhà xuất khẩu nông sản các nước đang phát triển có thể xác định chính xác mức độ bảo hộ của các thành viên khác. Tiếp theo, các nước đang phát triển có thời gian dài hơn (10 năm thay vì 4 năm đối với các nước phát triển) để cắt giảm thuế quan và trợ cấp xuất khẩu; trong những năm thực hiện, các nước này đều được phép sử dụng trợ cấp theo những điều kiện nhất định để giảm bớt chi phí Marketting và vận chuyển hàng xuất khẩu. Ngoài ra, WTO còn cho phép chính phủ các nước đang phát triển hỗ trợ cho nền nông nghiệp nước mình được hưởng ưu đãi hơn so với các nước phát triển; các nước đang phát triển không phải cắt giảm các khoản trợ cấp hay hạ thấp biểu thuế của mình với mức như của các nước phát triển. Mặt hàng nông sản của các nước đang phát triển nhờ đó có cơ hội cạnh tranh nhiều hơn đối với hàng nông sản của các nước phát triển do có giá thành thấp hơn nhiều. Tự do hoá mậu dịch hàng nông sản dẫn đến hàng nông sản của các nước đang phát triển không bị đối xử phân biệt theo các nguyên tắc của WTO (nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và tối huệ quốc), khối lượng hàng xuất khẩu không bị hạn chế, các mặt hàng nông sản không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, thu nhập của nông dân được tăng lên, giảm đói nghèo. Trình độ, kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp tiến bộ rất đáng kể. Các nước đang phát triển có khả năng và điều kiện công nghiệp hóa nền nông nghiệp của mình, cải thiện và nâng cao đời sống của người lao động, nâng cao chất lượng, hạ giá thành và đa dạng hóa hàng nông sản, qua đó nâng cao được khả năng canh tranh của hàng hóa nông nghiệp trên thị trường quốc tế. 2.2.1.3. Những thách thức Bên cạnh những cơ hội đạt được trong Hiệp định Nông nghiệp AoA, các nước đang phát triển đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn trong lĩnh vực này. Trên thực tế, AoA có lợi nhiều hơn cho các cường quốc kinh tế, nhất là Mỹ và EU. Có nhiều nước đang phát triển đã cảm thấy rằng họ bị buộc phải ký vào Hiệp định này. Vấn đề cạnh tranh thị trường tiêu thụ cộng với việc phải trợ cấp cho nông dân quá cao đã khiến cho Mỹ và EU thống nhất một ý tưởng chung là cùng nỗ lực đưa vấn đề nông nghiệp vào đàm phán tại Uruguay nhằm củng cố thế cạnh tranh độc quyền và mỗi bên tìm kiếm lợi thế của mình trong đó. (Vào cuối những năm 80, EU phải chi gần 80% ngân sách cho việc trợ cấp các chương trình nông nghiệp, còn Mỹ thì bắt tay vào một chương trình tổng thế rất tốn kém để dành lại thị trường từ tay EU, như thị trường bột mì tại Tây Phi): Thứ nhất, về quá trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định nông nghiệp: Do chính phủ các nước đang phát triển phải tiến hành chương trình cắt giảm thuế quan, dần xoá bỏ hạn ngạch và hàng rào phi thuế quan khác, ngành nông nghiệp sẽ không được bảo hộ nhiều như trước. Khó khăn sẽ đến với các nhà sản xuất các mặt hàng chưa có lợi thế cạnh tranh vốn vẫn được nhà nước bảo hộ, đặc biệt đối với những người nông dân sản xuất những mặt hàng mà các nước đang phát triển xuất khẩu nhiều nhất như: gạo, cà phê, hạt điều, cọ dừa...vì thời gian và điều kiện chưa đủ để họ hiện đại hóa nền nông nghiệp. Thời gian cho quá trình cắt giảm các chính sách là 10 năm, so với các nước phát triển là 6 năm, tuy vậy ,đối với các nước đang phát triển thời gian đó là quá ngắn so với quảng đường họ phải đi, vẫn chưa đủ cho nền nông nghiệp các nước này thích ứng được với quá trình chuyển đổi. Những ngành sản xuất nông sản chắc chắn gặp phải những khó khăn rất lớn, thậm chí có nhiều doanh nghiệp chuyên sản xuất kinh doanh các nông sản này cũng có thể bị phá sản, nhiều vùng nông thôn đang nghèo đói sẽ trở nên đói nghèo hơn, nếu những ngành đó không có sự chuẩn bị điều kiện thích ứng và thích ứng nhanh,không có kế hoạch điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư thích hợp, xác định rõ mức độ cạnh tranh với nông sản nhập khẩu và cấu trúc thị trường trong từng thời kỳ. Tự do hoá thương mại hàng nông sản, có nghĩa là nền nông nghiệp các nước đang phát triển phải đối mặt với tình trạng hàng nhập khẩu tràn lan trên thị trường nội địa với chất lượng cao và giá thấp, điều này sẽ khiến cho các nhà sản xuất trong nước mất đi thị phần, ngay cả đối với những nông sản truyền thống. Một ví dụ về tình trạng nhập khẩu ngô tại Mêhicô. Ngô là một trong những lương thực chủ yếu của Mêhicô. Việc đột nhiên mở cửa thị trường cho nhập khẩu mặt hàng nông nghiệp vào, đã gây ra một cú sốc lớn cho các nhà sản xuất nông nghiệp Mêhicô đặc biệt là ngô. Mỹ là nước xuất khẩu ngô nhiều nhất vào Mêhicô. Sau khi mở cửa, Mỹ xuất khẩu ngô ồ ạt vào Mêhicô, năm 1996 Mêhicô phải chi ra 1,1 tỷ USD cho việc nhập khẩu mặt hàng này, hậu quả là ngô thừa mứa trên thị trường, đẩy giá nội địa tụt xuống 18-23% so với năm 1995. Như vậy, nhập khẩu ngô của Mêhicô đã làm giá ngô nội địa giảm kỷ lục, trong khi giá thế giới đang ở mức cao kỷ lục. Nhà nước phải chi một lượng tiền lớn trong khi nhưng người nông dân và các doanh nghiệp sản xuất hàng nông sản bị khốn đốn. Giá cả các mặt hàng nông sản, đặc biệt là nông sản thô trên thị trường thế giới biến động rất mạnh, người nông dân khó có thể tự bảo vệ mình trước sự biến động của giá cả. Vì vậy, nhiều nông dân rất lo lắng ngay cả khi họ được mùa. Thứ hai, về mặt trợ cấp. Các nước phát triển trợ cấp cho nông dân của họ như phụ cấp thu nhập trực tiếp cho những người này để bù đắp cho sự bấp bênh của thị trường. Tuy Hiệp định AoA đã có hiệu lực hơn 5 năm, nhưng nó lại chẳng có mấy hiệu lực đối với sự hạn chế bảo hộ và trợ cấp cho nông dân tại các nước phát triển. Việc đặt trợ cấp thu nhập trực tiếp ra ngoài khuôn khổ quy định của GATT là một trong những đòn giáng nặng nề vào các nước đang phát triển, khi họ đang hy vọng Hiệp định Nông nghiệp sẽ được sử dụng như một cơ chế làm cho thương mại quốc tế được thông thoáng hơn. Các phụ cấp trực tiếp đó được chi trả cho nông dân với lý do là “không dính dáng đến sản xuất” và do đó không làm biến dạng thị trường. Mức độ trợ cấp của các nước phát triển rất cao. Các nước OECD, kể từ khi hiệp định AoA có hiệu lực thực hiện trợ cấp trực tiếp cho người nông dân, từ trợ cấp 182 tỷ USD năm 1995 đã lên đến hơn 300 tỷ USD vào năm 1998. Phần lớn số tiền này thuộc về Mỹ và EU, trong khi đó, do các nước đang phát triển không đủ tiền để trợ cấp, nông dân của các nước thành viên này chỉ nhận được rất ít trợ cấp của chính phủ, nếu có thì cũng chưa đạt đến tỷ lệ phần trăm của giá trị sản xuất mà AoA cho phép và không thể so sánh với những khoản tiền mà người nông dân của nước phát triển được trợ cấp. Thực tế các nước đang phát triển đã bị thua thiệt do các chính sách của AoA đã ảnh hưởng tiêu cực cho nền nông nghiệp của họ. Nông dân các nước này đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề của việc phải điều chỉnh cho thích hợp với hệ thống nông nghiệp mới (giảm thuế quan, thay đổi hạn ngạch...), vì với một mức trợ cấp ít ỏi của chính phủ cộng với việc họ phải mở cửa thị trường rộng hơn cho các nước phát triển xuất khẩu hàng hoá dư thừa của họ vào làm căng thêm sợi dây thọng lọng thắt vào cổ chính họ. Việc trợ cấp cho các nhà sản xuất nông sản ở các nước phát triển đã biến tự do hoá toàn cầu thành việc giành giật thị trường của các nước đang phát triển và bóp chết những người nông dân không được trợ cấp ở các nước này. Thứ ba, mức độ lệ thuộc vào lương thực của các nước đang phát triển có chiều hướng gia tăng. Hiện nay, sản xuất lương thực theo hướng xuất khẩu là sức ép buộc người nông dân làm ăn theo lối tự cung tự cấp lâu nay phải bỏ mảnh đất của mình hoặc chuyển hướng sang sản xuất hàng nông sản để xuất khẩu. Do vậy lương thực cung cấp cho nội địa ngày một ít đi. Chính vì vậy, mặc dù._. động kinh tế vi phạm nguyên tắc WTO ảnh hưởng tới lợi ích của nước kia, nước nhỏ có quyền trả đũa. Nhưng một cường quốc như Mỹ hay EU đâu có sợ một nước nhỏ ở Thế giới thứ 3 đe dọa trừng phạt họ, nhưng ngược lại các nước đang phát triển có thể mất rất nhiều nếu như bị các cường quốc cấm vận thương mại. Mặt khác, nhiều khi xảy ra tranh chấp, các nước đang phát triển không thể khiếu nại đến cùng hoặc cố tình lờ đi vì họ thiếu khả năng và nguồn lực cũng như sức mạnh chính trị để khiếu nại các nước phát triển. Nhiều nước đang phát triển phải lệ thuộc rất nhiều vào các cường quốc kinh tế về nhập khẩu, xuất khẩu, viện trợ, đầu tư, an ninh, chính sự phụ thuộc đó đã ngăn cản các nước đang phát triển sử dụng hệ thống WTO để giải quyết các tranh chấp thương mại xảy ra với các bạn hàng giàu có. Thứ sáu, các quy định của GATT trước đây không mang tính ràng buộc như các quy định WTO hiện nay. WTO đòi hỏi các thành viên phải thực hiện đúng toàn bộ theo các Hiệp định của WTO. Điều này hoàn toàn có lợi đối với các nước phát triển, còn với các nước đang phát triển thì gặp phải một số khó khăn không nhỏ. Chấp nhận mọi quy định của WTO sẽ rất bất lợi cho phát triển nền kinh tế trong nước của các nước đang phát triển. Thứ bẩy, hầu hết các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước nhỏ đều không có đủ nguồn lực để có thể tham gia tích cực vào vòng đàm phán WTO diễn ra hàng ngày tại Geneva. Các nước này phải cố gắng tính toán chi phí và may mắn họ có thể có được một phái đoàn tại Geneva. Nhiều nước không thể có được phái đoàn tại đây, họ chỉ có một vài người kiêm nhiệm phụ trách các công việc khác nhau. Ngoài vấn đề của WTO họ còn phải giải quyết tất cả mọi công việc diễn ra tại đây như: UNCTAD, ILO..Trong khi đó, ví dụ như trường hợp của Mỹ, có đến hơn vài trăm người chuyên phụ trách các vấn đề của WTO tại Geneva. Hàng tuần trung bình có đến 47 cuộc họp của WTO, ngưòi ít, công việc lại nhiều, do vậy các nước đang phát triển không thể nắm hết được mọi thông tin một cách đầy đủ và nhanh chóng, điều này ảnh hưởng rất lớn đối với các kết quả trên bàn đàm phán. Cuối cùng là tình trạng thiếu sự minh bạch trong quá trình ra quyết định của WTO. Vấn đề là trên thực tế các nước đang phát triển không phải lúc nào cũng có thể cùng ngồi đàm phán những vấn đề quan trọng với các nước phát triển. Tại diễn đàn Seatle vừa qua, có trường hợp đại biểu của các nước đang phát triển đến phòng họp và thấy rằng các văn bản mà họ đã bàn bạc bị thay đổi về căn bản do kết quả của các cuộc trao đổi riêng mà họ không được tham dự. Đoàn đại biểu của nhiều nước thậm chí không biết nội dung đàm phán là gì, đang diễn ra ở đâu vì họ không được thông báo và thực sự không được phép tham dự các phiên họp “kín”. Điều này xảy ra nhiều trong các tiến trình đàm phán, các nước phát triển luôn khống chế và thúc đẩy đàm phán có lợi cho mình không theo hướng của các đang phát triển. 2.3.2. Các giải pháp nhằm đem lại lợi ích cao hơn cho các nước đang phát triển trong WTO Là thành viên của WTO, các nước đang phát có thể tiếp nhận được nhiều lợi ích phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế của mình, nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Qua việc phân tích những cơ hội và thách thức mà việc tham gia vào WTO đối với những nước đang phát triển ở phần trên, có thể thấy rằng vấn đề hàng đầu trước mắt của các nước đang phát triển là làm thế nào có thể một mặt hội nhập được tốt với quá trình tự do hoá thương mại quốc tế, đấu tranh dành quyền bình đẳng trong nhiều lĩnh vực, mặt khác vẫn giữ được ổn định và duy trì phát triển nền kinh tế trong nước. Sau đây là một số giải pháp đối với các nước đang phát triển: Thứ nhất, các nước đang phát triển kể cả những nước đã hay đang xin gia nhập WTO cần đoàn kết lại, cùng nhau đấu tranh để làm cho WTO được công bằng hơn ; minh bạch hơn ; cùng nhau hợp tác đàm phán để đưa ra được những điều khoản có lợi cho mình. Nếu không có sự cộng tác toàn bộ thì ít nhất cũng phải có các khối liên minh khu vực tạo nên những khối kinh tế lớn mạnh để có thể đủ sức cạnh tranh được với sức mạnh của các cường quốc kinh tế . Thứ hai, các nước đang phát triển phải lựa chọn các chính sách phát triển kinh tế cho phù hợp; phải cơ cấu lại nền kinh tế, dựa vào sức mình là chính . Đối với công nghiệp, mặc dù có rất nhiều hạn chế để phát triển công nghiệp khi các nước đang phát triển thực hiện các điều khoản của WTO tuy nhiên các nước vẫn có thể thực hiện được một chính sách để phát triển công nghiệp có hiệu quả: Các nước đang phát triển cần nâng cao tiết kiệm và đầu tư trong nước, đẩy mạnh tích luỹ vốn, tiếp nhận kĩ thuật công nghệ, khai thác thị trường nội địa, tiến đến nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế quốc gia, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, chính phủ các nước đang phát triển còn có thể hỗ trợ cho những cố gắng công nghiệp hoá và sức cạnh tranh quốc tế của nền công nghiệp nước mình bằng cách tập trung nhiều hơn để cung cấp cho những nhà sản xuất công nghiệp trong nước những điều kiện thuận lợi như: đào tạo lực lượng lao động, những dịch vụ nghiên cứu và triển khai khoa học, thiết lập những khu khoa học và công nghiệp hoặc cung cấp đất đai nhà xưởng kinh doanh với giá rẻ.. Tập trung vào một số ngành công nghiệp mũi nhọn: công nghiệp khai khoáng, chế biến dệt may, phát triển công nghiệp chế tạo... Đối với nông nghiệp, các nước đang phát triển cần phải phát huy hơn nữa sức mạnh của nền nông nghiệp một cách tối đa. Một mặt phát triển sản xuất các sản phẩm nông nghiệp hướng về xuất khẩu, mặt khác phải duy trì được mức độ tự cấp tự túc trong nước, tránh tình trạng phải nhập khẩu lương thực của nước ngoài do lương thực không đủ để cung ứng cho nhân dân nội địa. Không chỉ đối với công nghiệp và nông nghiệp, các ngành khác cũng không ngừng phát triển, huy động mọi nguồn lực để sản xuất trong nước thay vì tập trung quá nhiều cho xuất khẩu. Các ngành kinh tế phải được đa dạng hoá và nâng cao được sức cạnh tranh của thương mại nứơc mình đối với thương mại quốc tế, giữ vững được thị phần ít nhất là trong thị trường nội địa Chính phủ các nước đang phát triển cần có các chính sách thích hợp để khuyến khích và tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp tư nhân phát triển để cho các doanh nghiệp này có đủ tiềm lực có thể cạnh tranh được vơí các doanh nghiệp nước ngoài . Cần phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh và có tiềm năng trong tương lai với các chính sách bảo hộ thích hợp . Cơ cấu lại hệ thống tài chính tiền tệ; phải xây dựng một hệ thống tài chính đủ mạnh, giảm tối thiểu sự lệ thuộc trước các dòng vốn nước ngoài, vì vậy các nước cần phải thận trọng khi lựa chọn các chính sách trong việc mở cửa thị trường tài chính. Thứ ba, cần phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực: Mở các chương trình đào tạo, giáo dục nâng cao trình độ tay nghề của lưc lượng lao động, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý và các kĩ sư có trình độ chuyên môn cao; tiếp thu và học tập kinh nghiệm của bạn bè các nước thành viên. Cần phải nhận thức rằng nhân lực là một nguồn lực đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của một quốc gia. Để nâng cao năng lực canh tranh và thu hút vốn đầu tư phải có một đội ngũ nhân lực lành nghề. Và để khắc phục được tình trạng chảy máu chất xám sang các nước phát triển, chính phủ các nước này cần phải tạo điều kiện tốt hơn cho các nhà nghiên cứu, giáo sư, bác sĩ, lao động có tay nghề cao... để họ có thể yên tâm làm việc phục vụ cho đất nước . Thứ tư, các nước đang phát triển cần phải định hướng lại con đường phát triển của mình, lấy thị trường trong nước làm động lực chính cho tăng trưởng kinh tế. Mở rộng thị trường trong nước có nghĩa là làm tăng sức mua của nhân dân, tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp trong nước . Thứ năm, phải gắn kết tăng trưởng bền vững với công bằng xã hội. Các nước đang phát triển bên cạnh việc tập trung các nguồn lực để phát triển kinh tế còn cần phải đầu tư nhiều cho dịch vụ công cộng: y tế, trường học, vui chơi giải trí... nhằm nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân. CHƯƠNG 3: TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO Ở VIỆT NAM, NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC 3.1. Sự cần thiết của việc gia nhập WTO Trong hai thập kỉ gần đây, quá trình toàn cầu hoá là một quá trình được diễn ra với một tốc độ nhanh chóng. Toàn cầu hoá là quá trình hội nhập của các nền kinh tế, nó không chỉ là sự gia tăng thương mại giữa các nước mà còn tạo ra sự gia tăng rất mạnh mẽ của các dòng tài chính liên biên giới. Những dòng di chuyển vốn và đầu tư đã kéo theo một sự thâm nhập lẫn nhau sâu sắc hơn nữa giữa các doanh nghiệp. Mức độ liên kết thị trường thế giới ngày càng tăng với tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều lần tốc độ tăng trưởng của sản xuất. Thị trường quốc tế được mở rộng, các quốc gia nhanh chóng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, xích lại gần nhau hơn, tự do và bình đẳng hơn. Kỷ nguyên toàn cầu hoá đã mở ra được nhiều cơ hội cho mọi quốc gia cũng như cho hàng triệu người trên toàn thế giới, đặc biệt là với các nước có nền kinh tế đang phát triển. Mậu dịch thế giới gia tăng, phân công lao động quốc tế cũng như chuyển giao công nghệ và các dòng vốn đầu tư của nước ngoài đã kích thích cho quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung cũng như của mỗi quốc gia nói riêng. Cuộc sống xã hội con người đã bước sang một trang mới, ở đó con người tự do hơn, có quyền tự chủ hơn và có thể phát huy được sức mạnh của mình ở mọi nơi trên thế giới. Tất cả những tiềm năng to lớn đó giúp cho mỗi quốc gia có thể tiếp thu được các công nghệ, kĩ thuật cao cũng như học hỏi được nhiều kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới. Điều này rất có lợi cho sự phát triển kinh tế của tất cả các nước, nhất là các nước có nền kinh tế đang phát triển. Chính vì vậy, có thể nói toàn cầu hoá là quá trình rất quan trọng và cần thiết nhất đối với các nước. Xu hướng toàn cầu hoá là một xu hướng tất yếu. Trên thế giới, các nước đã và đang cố gắng để hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá này. Hiện nay, tổ chức thương mại thế giới WTO cùng với mọi hoạt động của nó đă thể hiện được rõ nét nhất quá trình toàn cầu hoá. Tính đến hết tháng 1/2000, WTO đã có đến 141 nước thành viên và hơn 20 nước đệ đơn xin gia nhập. Chính vì vậy, gia nhập WTO là điều rất cần thiết với các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển trên con đường xây dựng nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, thay đổi tình trạng bất bình đẳng trên thế giới, thu hẹp được khoảng cách với các nước phát triển. Gia nhập WTO chính là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để được hội nhập với quá trình toàn cầu hoá. 3.2. Những cơ hội và thách thức trong tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam 3.2.1. Những cơ hội Tham gia WTO là một bước ngoặt quan trọng dẫn đến sự thành công của chương trình cải cách nền kinh tế đang chuyển đổi và các nền kinh tế chậm phát triển vì bên cạnh việc thúc đẩy ngoại thương phát triển, nó còn kích thích việc thiết lập được cơ chế thị trường ngay trong khu vực nội địa. Thứ nhất, Việt Nam khi là thành viên của WTO sẽ được hưởng mọi ưu đãi như các thành viên khác, đặc biệt là ưu đãi cho các nước đang phát triển, đó là quyền được hưởng các chế độ không phân biệt đối xử như qui chế đãi ngộ quốc gia, đãi ngộ tối huệ quốc đối với hàng xuất khẩu của mình sang thị trường các nước thành viên. GATT sau đó đến WTO đều giữ vững nguyên tắc “có đi có lại tương đối” trong quan hệ giữa các nước đang phát triển vá các nước phát triển thay vì áp dụng nguyên tắc “có đi có lại thông thường”. Vì vậy trong quan hệ kinh tế giữa các nước, Việt Nam cũng được áp dụng nguyên tắc “có đi có lại tương đối”. Theo nguyên tắc này, Việt Nam có thể được chịu một mức độ bồi thuờng ít khi vi phạm các qui tắc của WTO hay khi các nước phát triển giảm mức thuế đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam thì nước ta cũng không bị ép phải giảm tương tự mức thuế của mình để bồi hoàn cho các nước phát triển. Thưa hai, Việt Nam được hưởng nhiều thuận lợi trong thương mại quốc tế: Trước hết, Việt Nam có thể hội nhập sâu rộng hơn vào thị trường các nước trên thế giới. Khi hàng rào thuế quan và phi thuế quan được tháo bỏ, Việt Nam có nhiều cơ hội mở rộng thị trường buôn bán, hàng hoá và dịch vụ của ta sẽ có chỗ đứng tốt hơn trên thị trường quốc tế: Với mặt hàng nông sản, với những yếu tố mới về mở cửa thị trường và giảm thuế quan, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu hơn, khối lượng hàng nông sản sẽ tăng lên rất nhiều do các hạn chế về số lượng sẽ được chuyển sang thuế. Đặc biệt với sản phẩm gạo, Việt Nam sẽ có lợi nhiều hơn khi thị trường gạo thế giới mở cửa, các nước trước đây rất ít nhập khẩu gạo của ta như Hàn Quốc cũng bắt buộc phải mở cửa thị trường của họ . Đối với mặt hàng dệt may, hiệp định về hàng dệt may ATC đã thay thế hiệp định đa sợi MFA đã tạo rất nhiều điều kiện tốt cho các sản phẩm dệt may của Việt Nam, gia tăng cơ hội xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp trong nước. Khi tham gia WTO, sau năm 2001 Việt Nam sẽ không bị các nước áp đặt hạn ngạch nữa, dó đó các doanh nghiệp sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với thị trường thế giới mà hoàn toàn không bị hạn chế định lượng. Việc giảm thuế quan và tiến đến múc thuế bằng không với mọi hàng hoá sẽ thuận lợi cho việc nhập khẩu của Việt Nam nhất là đối với các loại hàng hoá mà sản xuất trong nước chưa đạt hiệu quả cao như: hàng tân dược, thiết bị y tế, hoá chất, sắt thép.. Thứ ba, những qui định và nguyên tắc của WTO giúp cho Việt Nam có thể tự bảo vệ và đòi được sự công bằng trong buôn bán quốc tế. Việt Nam có quyền thương lượng với các đối tác và có quyền khiếu nại họ khi thương lượng không có kết quả. Cơ chế giải quyết của WTO thật sự đảm bảo cho Việt Nam có vị trí ngang hàng với mọi quốc gia thành viên khác trong việc giải quyết tranh chấp khi có tranh chấp xảy ra. Thứ tư, việc gia nhập WTO làm tăng đọ tin cậy và khẳng định được tính nhất quán trong đường lối phát triển của Đảng và nhà nước Việt Nam, quyết tâm chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, mở cửa theo định hướng XHCN. Đây là nhân tố hết sức quan trọng làm gia tăng lòng tin của các doanh nhân( đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài) vào sự ổn định về chính trị và xã hội ở Việt Nam. Tất cả sẽ tạo nên một trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam, hội nhập vào xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Việt Nam có thể khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế. Thứ năm, gia nhập vào WTO Việt Nam có thể tiếp nhận dễ dàng khoa học công nghệ cao của các nước phát triển cũng như nâng cao được khả năng thu hút được luồng vốn của nước ngoài trong công cuộc xây dựng nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Cuối cùng, những lợi ích từ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại, quan hệ hợp tác với các nước thành viên WTO. Quan hệ của Việt Nam với các nước thành viên được mở rộng cả về kinh tế đến chính trị và lĩnh vực văn hoá. Việt Nam có điều kiện để học hỏi được kinh nghiệm và rút ra được nhiều bài học từ các nước đi trước. 3.2.2. Những thách thức Bên cạnh những cơ hội của tiến trình gia nhập WTO, Việt Nam cung phải đối mặt với một số thách thức sau: Thứ nhất, Việt Nam là đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Ta chưa thể thích ứng nhanh được với tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu vì nền kinh tế của ta chưa ổn định, các chính sách của Nhà nước chưa thực sự hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường rất non trẻ. Bên cạnh đó các vấn đề bất bình đẳng giữa khu vực doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa thể giải quyết thoả đáng. Các doanh nghiệp nhà nước vẫn nhận được rất nhiều ưu đãi từ phía Chính phủ. Hàng năm, nhà nước ta phải chi ra một khoản ngân sách rất lớn để bù lỗ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả của khu vực này. Trong khi đó, các doanh nghiệp tư nhân chưa được nhà nước tạo điều kiện để phát triển, sự phận biệt còn tồn tại rất lớn giữa hai khu vực này. Doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam do chưa thể phát triển lớn mạnh được, ảnh hưởng lớn đến sức cạnh tranh so với các công ty nước ngoài khi Việt Nam hội nhập nền kinh tế thế giới. Thứ hai, nền sản xuất của ta còn non yếu, các thành phần kinh tế hoạt động trong một cơ chế thị trường chưa dày dạn kinh nghiệm, hàng hoá dịch vụ của ta có chất lượng chưa cao, mẫu mã chưa đẹp, sức cạnh tranh còn thấp so với hàng ngoại nhập. Chúng ta mở cửa thị trường là phải chấp nhận cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khẩu. Điều này là một thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp trong quá trình giữ vững được thị phần của mình không chỉ tại các thị trường nước ngoài mà ngay cả đối với thị trường nội địa. Thứ ba, nguồn lực phát triển kinh tế của ta khá dồi dào nhưng sử dụng đạt hiệu quả chưa cao. Viêt Nam có rừng vàng biển bạc gia trị rất to lớn nhưng do tình trạng khai thác bừa bãi, cộng với thiếu vốn và công nghệ phù hợp nên giá trị thu được còn hạn chế.Bên cạnh đó, nguồn nhân lực của ta cũng chưa đáp ứng với nhu cầu của tình hình hiện nay.Vì nguồn lao động nhiều, lao động có trình độ đại hoc giai đoạn hiện nay tăng lên nhiều so với giai đoạn trước nhưng số lượng lao động trình độ thấp tay nghề chưa cao vẫn nhiều, tác phong công nghiệp yếu..., ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ta. Thứ tư, Việt Nam sẽ vấp phải nhiều khó khăn khi thực hiện những nguyên tắc, những hiệp định của WTO: Thuế quan: Việt Nam buộc phải cắt giảm thuế nhập khẩu và hàng rào phi thuế theo các kết quả đàm phán gia nhập tuỳ theo từng lĩnh vực đối với hàng ngoại nhập. Khó khăn khi thưc hiện các quy tắc về vệ sinh dịch tễ, bao bì, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư cho thương mại... Các biện pháp chống phá giá, thuế đối kháng và tự vệ: Việt Nam chưa có luật liên quan đến vấn đề này, vì vậy ta phải đưa ra các quy định về vấn đề này để tránh mối lo ngại của các nước thành viên WTO. Thứ năm, các cơ chế chính sách quản lý kinh tế của ta còn yêu kém, thiếu sự ổn định, thiếu sự tin cậy. Các thủ tục cấp giấy phép rườm rà, không cần thiết và thiếu tính rõ ràng. Cuối cùng, trình độ và kinh nghiệm đàm phán của ta còn yếu. Đàm phán là công việc rất khó khăn, đòi hỏi thời gian dài, sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, đồng thời những ngưòi tham gia đàm phá phải có trình độ năng lực cao. Vì vậy, tăng cường kiến thức cho các cán bộ nước ta về chiến thuật, kỹ thuật đàm phán là rất cần thiết. 3.3. Các biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam cần khẩn trương xây dựng mọi hệ thống pháp luật đầy đủ, chính xác, có khả năng đảm bảo cho mọi hoạt động thương mại quốc tế giữa Việt Nam với các nước thành viên WTO khác được thực hiện bình thường. Thứ hai, Việt Nam cần xây dựng hệ thống thuế quan thích ứng cho tất cả lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp, công nghiệp...cũng như mọi ngành dịch vụ. Việt Nam phải sớm cắt giảm và loại bỏ các rào cản phi thuế quan theo đúng các Hiệp định của WTO, nhằm mở rộng thị trường cho các nước thành viên là bạn hàng. Như vậy Việt Nam mới thể hiện được chính sách tự do hóa mậu dịch, tranh thủ được sự đồng tình của các quốc gia trên thế giới. Nhưng bên cạnh đó, chính phủ Việt Nam cũng cần phải nghiên cứu và đánh giá được cụ thể những thiệt hại đối với nền kinh tế nước nhà do thực hiện tất cả các biện pháp trên, như cắt giảm thuế và hàng rào phi thuế quan...để từ đó có những hành động, biện pháp khắc phục giảm thiểu những thua thiệt có thể có. Thứ ba, trong đàm phán các hiệp định thương mại, Việt Nam cần quan tâm các điều kiện đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN) và đãi ngộ quốc gia (NT), các điều kiện đòi hỏi phải tạo được những điều kiện kinh doanh bình đẳng với tất cả các doanh nghiệp trong và nước ngoài .Vì vậy chính phủ cần phải thay đổi chính sách đối với các doanh nghiệp trong nước, tạo điều kiện cho tất cả mọi doanh nghiệp được bình đẳng trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ...Đối với doanh nghiệp nhà nước, điều kiên trên đòi hỏi phải loại bỏ các ưu đãi mà chính phủ đang chỉ dành cho khu vực này, như cấp vốn, cấp quota, các thủ tục pháp lí...Chính phủ phải đối xử bình đẳng với tất cả mọi thành phần kinh tế trong nước, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tư nhân. Việt nam phải sớm tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển, vì các doanh nghiệp này là lực lượng quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, nhờ đó các doanh nghiệp tư nhân mới có đủ điều kiện để đối mặt với sự canh tranh gay gắt của qúa trình tư do thương mại thế giới. Đối với doanh nghiệp nước ngoài, chúng ta phải loại bỏ tất cả mọi phân biệt đối xử với họ, nhất là chế độ hai giá hay là chế độ ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp trong nước. Thứ tư, lựa chọn các chiến lược ngoại thương như thế nào để thúc đẩy mậu dịch, đồng thời chú trọng thích đáng, kích thích sản xuất trong nước phát triển. Đầu tư phát triển sản xuất các lĩnh vực, các ngành hàng mà nà chúng ta có tiềm năng. Chiến lược phát triển công nông nghiệp định hướng xuất khẩu, nhằm đưa Việt Nam tạo được động lực thúc đẩy công nông nghiệp, cũng như nền kinh tế Việt Nam phát triển lớn mạnh thông qua canh tranh với các nước khác trên thế giới. Chúng ta cần tận dụng tốt được các yếu tố đầu vào như vốn, đầu tư, công nghệ kĩ thuật hiện đại để thực hiện tốt chính sách này. Đồng thời phải kiểm soát được mức độ canh tranh thị trường nội địa để có thể tránh được tình trạng cạnh tranh không cân sức của các doanh nghiệp trong nước so với các doanh nghiệp nước ngoài. Để nhằm mục tiêu thác đẩy mậu dịch theo hướng xuất khẩu cần phải cơ cấu lại sản xuất, không ngừng đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Chú trọng đến 3 vấn đề quan trọng có ý nghĩa then chốt trong thương mại quốc tế là: chất lượng, giá cả và điều kiện buôn bán. Mặc dù nó đòi hỏi cả một quá trình lâu dài và nhiều nguồn lực, nhưng cần phải tiến hành tốt, khẩn trương, rút ngắn được như có thể thì hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam mới có chổ đứng trên thị trường quốc tế. Những mặt hàng Việt Nam ta nên chú trọng : - Hàng nông sản: Quy hoạch vùng sản xuất cây con có thế mạnh về khí hậu, thổ nhưỡng , có truyền thống về tập quán canh tác nuôi trồng, kết hợp với áp dụng kỹ thuật, thâm canh, tăng năng suất để tạo ra sản lượng lớn và chất lượng thích hợp với thị trường để đưa đi xuất khẩu. Trước mắt nên quan tâm tới: gạo, chè, cà phê, đậu phọng, cao su, mía đường, rau quả vụ đông, tôm cá, gia cầm, bò, lợn, tơ tằm... Đầu tư để đẩy mạnh việc chế biên, nâng cao giá trị các mặt hàng trên, nhưng phải đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế, và các yêu cầu thương mại mà các hiệp định ký tại Uruguay quy định. Những việc làm trên cần tiến hành từng bước, trước mắt xây dựng một số chương trình thí điểm để rút kinh nghiệm cả về mặt tổ chức sản xuất và xây dựng bạn hàng truyền thống, số lượng lớn, ổn định lâu dài. - Hàng dệt may: Đây là mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam. Khi Việt Nam gia nhập WTO thì sẽ mở rộng được thị trường. Tuy vậy, mặt hàng này có tiêu thụ được hay không vẫn còn tuỳ thuộc vào chất lượng giá cả vì vậy cần phải đầu tư đổi mới kĩ thuật, qui hoạch lại ngành công nghiệp này: tạo ra những đơn vị sản xuất (công ty, nhà máy, xí nghiệp) có qui mô tương đối lớn, hoàn chỉnh đồng bộ, tập trung thợ có tay nghề cao, để có thể tạo những lực lượng sản xuất chủ đạo cung cấp hàng đủ sức cạnh tranh cho xuất khẩu. Xoá bỏ hoặc thu gom lại những cơ sở sản xuất dệt may yếu kém hiện nay. Ngoài ra, hiệp định hàng dệt may ATC khống chế mạnh nhất là hàng sợi bông, len, gai. Vì vậy chúng ta nên tạo ra các loại sợi mới được người tiêu dùng yêu chuộng mà có thể tránh được hàng rào bảo hộ. - Lĩnh vực dịch vụ: Đây là mảng công việc lớn trong khuôn khổ của Hiệp định WTO. Các ngành có liên quan cần tổ chức nghiên cứu sâu hơn các qui chế của các hiệp định để vận dụng thích hợp trong giao dịch quốc tế của ta trong lĩnh vực này. Đối với lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại vì nhiều dịch vụ là thiết yếu cho nền kinh tế quốc dân. Nguyên liệu thô là sản phẩm mà ta có nhiều lợi thế để xuất khẩu, vì vậy ta cần phải đề ra chiến lược nhằm có thể khai thác, sử dụng các tiềm năng hiện có như lao động, tài nguyên, vị trí địa lý thuận lợi ... thế nào để có hiệu quả nhất. Nếu làm được như vậy, chúng ta có thể giải quyết được các vấn đề: giải quyết được tình trạng khai thác bừa bãi tài nguyên, tạo công ăn việc làm cho người lao động và thu được ngoại tệ nhờ xuất khẩu các sản phẩm này. Áp dụng chiến lược hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu ở những lĩnh vực cần thiết. Chúng ta cần phát huy mọi nguồn lực để sản xuất trong nước, hạn chế nhập khẩu từ nước ngoài bên cạnh tăng cường xuất khẩu. Chiến lược này giúp ta có thể tiết kiệm một lượng khá lớn ngoại tệ và có thể tạo động lực, bảo vệ cho các ngành trong nước đủ sức để phát triển và cạnh tranh với nước ngoài. Thứ năm, cuộc cải cách mậu dịch phải đồng thời giải quyết hai vấn đề: chính sánh tài chính, tỷ giá hối đoái và chính sách ngoại thương. Chính vì vậy bên cạnh phát triển chính sách ngoại thương cần phải thay đổi và phát triển chính sách về tài chính và tỷ giá hối đoái. Đối với chính sách tỉ giá chúng ta nên kết hợp với chính sách bảo lãnh tín dụng, như vậy việc thiếp lập ra một hệ thống tỷ giá cố định sẽ an toàn cho nền kinh tế của ta, nhất là khi có khủng hoảng. Đối với chính sách tài chính, nhà nước đã chủ chương sử dụng các biện pháp kích cầu từ năm 1999 nhưng hiệu quả đạt được không đáng kể. Vì vậy, muốn giải pháp kích cầu thực hiện đực phải hạ lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay để dòng vốn chảy thẳng vào các dự án đầu tư. Lãi suất tiền gửi và tiền vay do cơ quan ngân hàng tự điều tiết và quyết định, nhà nước không nên can thiệp vào. Thứ sáu, Việt Nam cần duy trì sự ổn định chính trị, những nguy cơ bất ổn chính trị còn có thể xảy ra trong nội bộ quốc gia đó nếu như dân chủ hoá không được thực hiện, phân cách giàu nghèo ngày càng tăng, quyền lợi các dân tộc không được đảm bảo, tệ quan liêu tham nhũng tràn lan không thể ngăn chặn được. Do vậy, chúng ta cần phải giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá không phải chỉ tập trung phát triển tại các khu đô thị, các khu công nghiệp.Cần phải đầu tư vào nông thôn, kết cấu hạ tầng cơ sở như: hệ thống thuỷ nông, đường sá, trường học, bệnh viện... giúp nông thôn phát triển, nông dân giảm đói nghèo. Giảm bất bình đảng về đời sông vật chất cũng như tinh thần của người dân cũng như giảm bất bình đẳng về mức độ phát triển giũa các vùng. Nhà nước cần đưa ra các giải pháp để điều hoà thu nhập, tạo cơ hội và việc làm mới, chống tham nhũng... Thứ bẩy, Việt Nam phải dự tính một thoả thuận chuyển đổi khi tham gia WTO. Thoả thuận này phải được rút ngắn thời hạn trong thời gian các cuộc thương lượng để Việt Nam nhận được các lợi ích sớm hơn của tự do hàng hoá thương mại theo các hiệp định của vòng đàm phán Urugoay. Ngoài ra, các cải cách thương mại của Việt Nam phải gắn với sự hướng dẫn của WTO trong thời kì chuyển đổi. Thứ tám, tiếp thu và học tập kinh nghiệm của các nước thành viên WTO trong phát triển kinh tế cũng như trong tiến trình gia nhập WTO trước đây. Thứ chín, tiếp tục tiến hành các cuộc đàm phán với các nước thành viên WTO nhằm xúc tiến quá trình xin gia nhập của mình. Thứ mười, Việt Nam tham gia vào WTO đòi hỏi các thể chế mới và nhu cầu mới về kiến thức và kỹ năng của bộ máy quản lý. Nhất là những người trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán gia nhập WTO và những người hoạch định các chính sách của nền kinh tế. Ngoài ra, tất cả các thành phần kinh tế của ta cũng như mọi người dân đều phải nắm rõ các vấn đề về WTO và quá trình hội nhập của Việt Nam. Vì vậy, ta nên chú trọng vào công tác đào tạo cán bộ, giáo dục người dân có đủ kiến thức về WTO để chúng ta có thể thích ứng nhanh chóng với tiến trình hội nhập và đẩy nhanh tiến trình đàm phán gia nhập của ta. Hiện tại, Việt Nam đã lập ban chỉ đạo về WTO, thực hiện cơ chế để rà soát toàn bộ cơ chế chinh sách, pháp luật của ta theo các quy định của WTO, tham gia các cuộc họp của WTO với chức năng quan sát viên. Việt Nam cần tăng cường quan hệ với các nước thành viên để tranh thủ được sự ủng hộ của họ đối với tiến trình gia nhập của ta. Việc trở thành thành viên của WTO đăc biệt quan trọng đối với Việt Nam. Mặc dù chúng ta phải đối mặt với nhiều khó khăn khi thực hiện các quy định của WTO nhưng được là thành viên sẽ là động lực để phát triển nền kinh tế củata, thu hẹp đựoc khoảng cách với các nước trên thế giới, hoà nhập với xu hưóng toàn cầu hoá hiện nay. KẾT LUẬN Trong quá trình hoạt động, Tổ chức thương mại thế giới WTO đã thực sự chứng minh được tầm quan trọng của mình trong việc điều tiết hoạt động của hệ thống thương mại đa biên, cũng như trong việc phát triển kinh tế của các nước thành viên. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 . Chủ quyền kinh tế trong một thế giới đang toàn cầu hoá, NXB chính trị quốc gia -1999. 2 . Hội thảo về WTO và các nước đang phát triển, Bộ ngoại giao - 1999. 3 . Toàn cầu hoá và khu vực hoá. Cơ hội và thách thức đói với các nước đang phát triển, Trung tâm KHXH và NV Quốc gia - 2000. 4 . Tự do hoá và toàn cầu hoá. Rút ra nhưng kết luận đối với công cuộc phát triển, Viện nghiên cứu quản lí kinh tế TW -2000. 5 . Từ diễn đàn Siatơn. Toàn cầu hoá và tổ chức thương mại thế giới, NXB chính trị quốc gia - 2000. 6 . Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế, NXB chính trị quốc gia -2000. 7 . WTO - future organization. 8 . Phan Thị Thanh Hà, Hội nhập kinh tế quốc tế với việc điều chỉnh một số chính sách thương mại, tạp chí Kinh tế và dự báo - số 4/2000. 9 . TS Võ Đại Lược, Nhưng vấn đề đặt ra cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới - 10 . PGS, PTS Đỗ Hoài Nam; PTS Đỗ Đình Thiêm, Xu hướng toàn cầu hoá và tác động của nó đến Việt Nam, tạp chí Những vấn đề kinh tế Thế giới - số 2(58) /1999. 11 . Nguyễn Duy Khiên, Tổ chức thương mại thế giới và những thách thức đối với các nước đang phát triển, tạp chí Nghiên cứu kinh tế - số 276, tháng 5/2001. 12 . Nguyễn Xuân Thắng, Toàn cầu hoá & vấn đề cơ cấu lại nền kinh tế tronh các nước đang phát triển và chuyển đổi, tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới - số 5 (61) /1999. MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLTM1107.doc
Tài liệu liên quan