Lời nói đầu
Hiện nay, trước xu hướng toàn cầu hoá đang trở thành một đặc trưng phổ biến của sự phát triển thế giới, nó bao trùm toàn bộ đời sống của cộng đồng dân tộc ở những mức độ và quy mô ngày càng sâu sắc hơn. Nhưng vấn đề quan trọng hơn ở chỗ, tất cả các quốc gia dường như đều bị cuốn vào vòng xoáy chung ấy. Điều đó chứng tỏ rằng toàn cầu hoá không thể là quá trình đẩy lùi lịch sử mà là xu hướng khách quan của chính thời đại. Cũng chính vì lẽ đó ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ban hành
45 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tổ chức thương mại thế giới WTO & các giải pháp đẩy nhanh tiến trình gia nhập của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghị quyết số 07 - NQ/HN về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm định hướng cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong thời kỳ đổi mới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001) đã khẳng định “phát huy cao nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”.
Việt Nam đang trong quá trình đàm phán gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới. Nên việc nghiên cứu và tìm hiểu về tổ chức này là yêu cầu tất yếu không chỉ đối với Đảng và Nhà nước ta mà còn đối với toàn dân mà đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam trước sự cạnh tranh gay gắt của thị trường thế giới nhằm nâng cao khả năng cạnh trên thị trường thế giới nhằm giúp Việt Nam sớm gia nhập vào WTO trước năm 2005. Do vậy em chọn nghiên cứu đề tài “Tổ chức thương mại thế giới WTO và các giải pháp đẩy nhanh tiến trình gia nhập của Việt Nam”. Bố cục của đề tài được phân bổ gồm ba chương
Chương I: Tổng quan về tổ chức thương mại thế giới
Chương II: Tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới của Việt Nam
Chương III: Các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình gia nhập của Việt Nam
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích hoạt động kinh tế tài chính, phân tổ thống kê, phương pháp ngoại suy, phương pháp tương quan. Để khảo sát, phân tích thực tiễn trong đề tài sử dụng số liệu thống kê chính thức của các Bộ, Ban, ngành liên quan.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong sưu tập và nghiên cứu nhưng do những hạn chế về tư liệu, chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của các thày cô và các bạn nhằm giúp em hoàn thiện đề tài này.
Em xin chân thành cám ơn cô Nguyễn Thuý Hồng đã hướngdẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt cho em hoàn thành đề tài này.
Chương I
Tổng quan về Tổ chức thương mại thế giới - WTO
1. Từ GATT đến WTO
1.1. Quá trình hình thành GATT
Năm 1944, khi chiến tranh thế giới lần thứ hai đang đi vào giai đoạn kết thúc, thì tại Bretton Woods, 44 quốc gia tư bản đã tổ chức một hội nghị quốc tế gọi là hội nghị Bretton Woods. Tại hội nghị này, các quốc gia đã thành lập hai tổ chức kinh tế là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD đây là tiền thân cho Ngân hàng thế giới sau này), đồng thời đã đi đến một quyết định là thành lập ra một Tổ chức Thương mại quốc tế, gọi tắt là ITO.
Trong khuôn khổ của Liên hợp quốc, đã có ba Hội nghị quốc tế đã được tổ chức (London, tháng 10/1946; tại Geneva, tháng 8/1947 và tại La Havana từ tháng 11/1947 đến tháng 3/1948) nhằm soạn thảo ra văn kiện thành lập ITO có tên gọi là “Hiến chương La Havana”. Mục tiêu của ITO được quy định trong Hiến chương La Havana là tạo việc làm đầy đủ và tăng trưởng thương mại. Vì vậy, để đạt được hai mục tiêu nói trên, Hiến chương đã đề ra bốn biện pháp hành động chủ yếu: tái thiết và phát triển kinh tế; tất cả các nước đều được tiếp cận với các nguồn cung cấp nguyên liệu và yếu tố sản xuất khác trên cơ sở bình đẳng; cắt giảm các trở ngại đối với thương mại quốc tế; hợp tác và tư vấn với ITO. Tuy nhiên, quá trình đàm phán để đi đến Hiến chương ITO đã cho thấy những bất đồng sâu sắc giữa Mỹ, Tây Âu với các nước đang phát triển về mục tiêu và những ưu tiên của ITO. Trong khi mục tiêu quan trọng nhất của Mỹ là mở cửa thị trường các nước Tây Âu và Nhật Bản, nhất là hạn chế đến mức tối đa các hàng rào thuế quan, tự do hoá thương mại trên cơ sở bình đẳng và tối huệ quốc thì các nước đang phát triển như Trung Quốc, ấn Độ, Libăng.. lại cương quyết chống lại các điều khoản tối huệ quốc vì cho rằng các điều khoản này sẽ đặt những nước trên rơi vào thế bình đẳng trên danh nghĩa nhưng lại bất bình đẳng trên thực tế.
Chính những mâu thuẫn trên đã khiến cho Hiến chương La Havana không bao giờ có hiệu lực và ITO cũng không bao giờ ra đời. Tuy nhiên, song song với các vòng đàm phán cho việc ra đời ITO, thì ở Genever, ngày 30/10/1947, đại diện của 23 nước đã đi đến một thoả thuận cắt giảm thuế quan đối với khoảng một nửa số hàng hoá trong thương mại quốc tế, đồng thời đã ký kết Nghị định thư áp dụng tạm thời “Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại”, gọi tắt là GATT 1947.
Chính việc Hiến chương La Havana không được phê chuẩn, nên Hiệp định GATT với 38 điều đã được các nước áp dụng “tạm thời” trong hơn 40 năm như là một hiệp định đa phương duy nhất, điều chỉnh các qua hệ thương mại quốc tế. Sau gần nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, GATT đã trở thành một thể chế và pháp lý của nền thương mại quốc tế cũng như đã trở thành thể chế mậu dịch đa phương quản lý và điều hành hoạt động mậu dịch của các nước sau khi tiến trình thành lập Tổ chức Mậu dịch quốc tế bị đứt quãng. Tuy chỉ là một “bản hiệp định quân tử” mang tính tạm thời song nó lại có tác dụng rất lớn trong việc đảm bảo và thúc đẩy sự phát triển của nền mậu dịch quốc tế sau chiến tranh.
GATT đã trở thành “nôi đàm phán” của mậu dịch quốc tế, phát động và thúc đẩy tiến trình tự do hoá mậu dịch giữa các nước; GATT cũng đã trở thành nơi giải quyết các tranh chấp mậu dịch quốc tế, điều hoà những mâu thuẫn và va chạm về mậu dịch quốc tế giữa các nước.
GATT đã thông qua những chế độ và cơ chế về mậu dịch của các nước đang phát triển, có một tác dụng nhất định trong việc thúc đẩy sự phát triển về kinh tế và mậu dịch của các nước đang phát triển.
Hàng năm các thành viên nhóm họp để vạch ra chính sách cơ bản của GATT, mỗi quốc gia thành viên có một phiếu. Chế độ đa số phiếu được tôn trọng nhằm tránh việc rời xa các nghĩa vụ cụ thể mà GATT quy định. Các tiểu ban hòa giải được xác lập nhằm giải quyết các tranh chấp trong thương mại.
Từ vòng đàm phán đầu tiên năm1947, GATT dần dần được hoàn thiện qua các lần tu chỉnh nhưng vẫn dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản sau:
Không phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế các nước thành viên dành cho nhau quy chế tối huệ quốc (Most Favored Nation - MFN) đối với hàng hoá nhập khẩu, bất cứ xuất xứ hàng hoá là của quốc gia nào đi nữa.
Không được bảo hộ nền công nghiệp trong nước bằng chính sách phân biệt đối xử và các giải pháp thương mại khác như hạn ngạch xuất khẩu.
Nhấn mạnh vào việc tiếp xúc và tham vấn để tránh xâm phạm lợi ích thương mại lẫn thuế, cũng như các rào cản thương mại khác và ghi lại kết quả đàm phán trong một văn bản có giá trị pháp lý.
Tuy nhiên vẫn tồn tại một số ngoại lệ trong các nguyên tắc trên. Chẳng hạn, ở nguyên tắc “không phân biệt đối xử” được thể hiện trong điều khoản “tối huệ quốc”, theo đó không cho phép ưu đãi mậu dịch đối với bất kỳ quốc gia nào hơn so với những thành khác viên ký kết GATT. Nhưng trong các khu vực mậu dịch tự do (còn gọi là liên minh thuế quan - Customs Unions) thì các thành viên trong khu vực hoặc trong liên minh đều được ưu đãi hơn. Hay ở nguyên tắc “cấm trợ cấp cho xuất khẩu” có nghĩa là các nhà sản xuất nội địa không được hưởng những lợi ích hoặc ưu đãi nào khiến họ chiếm ưu thế trên thị trường nước ngoài. Ngoại lệ của nguyên tắc này dành cho mặt hàng nông sản. Ngoài mặt hàng nông sản ra, nếu có trợ cấp ưu đãi khác thì các nước được quyền áp dụng chính sách thuế quan phân biệt đối xử nhằm làm đối trọng với những trợ cấp này, gọi là thuế quan bù trừ.
1.2. Kết quả hoạt động của GATT
Từ năm 1947 đến năm 1994, đã có 8 vòng đàm phán thương mại đa phương được tiến hành trong khuôn khổ GATT 1947. Nội dung của các vòng đàm phán đã được mở rộng dần từ cắt giảm thuế quan và biện pháp phi thuế quan đến cải cách hệ thống pháp lý, cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. Kết quả chính đạt được qua 8 vòng đàm phán có thể được tóm tắt như sau:
Năm vòng đàm phán đầu tiên trong khuôn khổ GATT có nội dung về cắt giảm thuế quan đối với các sản phẩm chế biến và sử dụng phương pháp cắt giảm song phương. Theo phương pháp này, các bên ký kết có liên quan sẽ đàm phán song phương với nhau để cắt giảm thuế quan đối với từng sản phẩm cụ thể. Tổng cộng qua 5 vòng đàm phán đã có gần 60.000 sản phẩm được cắt giảm thuế quan.
Vòng Kennedy đã đưa đến việc cắt giảm trung bình 35% đối với hơn 30.000 hạng mục thuế, đồng thời cũng đạt được thành công đầu tiên trong lĩnh vực giảm thiểu các hàng rào phi thuế quan trong lĩnh vực giảm thiểu các hàng rào phi thuế quan với việc thông qua những quy định đầu tiên về chống phá giá và trị giá hải quan.
Về thuế quan, vòng Tokyo đã đạt được những kết quả rất lớn: mức thuế quan của các nước phát triển đối với các sản phẩm công nghiệp giảm trung bình 30%, dẫn đến mức thuế quan trung bình của các nước này chỉ còn 6%. Trong lĩnh vực phi thuế quan, vòng Tokyo đã thông qua được 5 “bộ luật” (code) về các biện pháp phi thuế quan: trợ cấp; trị giá hải quan; mua sắm chính phủ; tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục cấp phép nhập khẩu và hai thoả thuận về nông nghiệp và một thoả thuận về công nghiệp hàng không.
Vòng đàm phán tổng thể Uruguay (1986 - 1993, 123 nước): vòng Tokyo vừa kết thúc, Mỹ đã đưa ra một đề nghị mở tiếp một vòng đàm phán mới. Đề nghị này của Mỹ nhằm 3 mục tiêu chiến lược: đối phó với những thế lực bảo hộ tại Mỹ vốn rất bực tức về việc Mỹ thường xuyên bị nhập siêu lớn trong thương mại với Nhật Bản, Tây Âu và một số nước và nền kinh tế công nghiệp hoá mới; áp đặt những tư tưởng của chủ nghĩa tự do kinh tế của Reagan đối với Tây Âu, Nhật Bản và các nước đang phát triển; giải quyết dứt điểm các hồ sơ tranh chấp về nông nghiệp, dịch vụ và văn hoá với Tây Âu và các nước khác.
1.3. Những hạn chế của GATT
Do bản thân nó còn tồn tại nhiều bất cập rất khó khắc phục nên GATT ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế trước trào lưu toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra ngày càng nhanh, mạnh và sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này chủ yếu được biểu hiện ở những điểm sau:
Về vị trí, GATT chỉ là một “bản hiệp định quân tử” mang tính tạm thời chứ không phải là một tổ chức quốc tế chính thức, không có tư cách chủ thể luật quốc tế. Vị trí không chính thức này của GATT đã gây trở ngại cho nó trong việc tiến hành các hoạt động thông thường, hạn chế nó trong việc phát huy chức năng của mình, làm giảm bớt quyền lực của nó với tư cách là một tổ chức quản lý và điều hoà các hoạt động mậu dịch quốc tế.
Phạm vi quản lý của GATT quá nhỏ hẹp vì chỉ hạn chế ở lĩnh vực mậu dịch hàng hoá. Nhưng trong quá trình phát triển mậu dịch và kinh tế, mậu dịch dịch vụ phát triển hết sức nhanh chóng, ngày càng đóng vai trò quan trọng. Hơn nữa sự phát triển của nền kinh tế thế giới ngày càng mang đặc trưng của nền kinh tế tri thức, làm thế nào để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động thương mại quốc tế đã trở thành một chủ đề quan trọng. Rõ ràng là thể chế GATT hiện nay rất khó có thể đáp ứng nhu cầu phát triển mậu dịch và kinh tế quốc tế.
Quy tắc của GATT rất không chặt chẽ, còn nhiều kẽ hở. Điều này chủ yếu thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, nội dung của rất nhiều quy tắc trong GATT còn mơ hồ, thiếu những tiêu chuẩn rõ ràng. Thứ hai, còn nhiều khoản ngoại lệ. Thứ ba, còn tràn lan nhiều biện pháp “Khu vực xám” như hạn chế xuất khẩu tự nguyện, sắp xếp có trật tự... Những hạn chế trên đây trong các quy tắc của GATT đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính quyền uy và tính hiệu quả của thể chế mậu dịch đa phương, nếu kéo dài sẽ gây biến động trong toàn bộ thể chế của GATT.
Trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT còn tồn tại nhiều hạn chế nghiêm trọng. Biểu hiện chủ yếu: quyền lực tổ, nhóm chuyên gia rất nhỏ, quá trình giải quyết tranh chấp quá dài sau khi kiểm tra, giám sát, không có hiệu lực. Đặc biệt là nguyên tắc “toàn thể nhất trí đồng ý” mà GATT sử dụng để giải quyết tranh chấp, nguyên tắc khắt khe này đã dẫn đến hiện tượng kết quả giải quyết tranh chấp của GATT không thể thực thi có hiệu quả. Như vậy, khi nước thành viên, nhất là những nước thành viên có quy mô mậu dịch và thực lực kinh tế hùng hậu vi phạm các nguyên tắc mậu dịch đa phương đã không bị trừng phạt một cách đích đáng, do vậy thường xuyên đặt toàn bộ thể chế mậu dịch đa phương trước nguy cơ tan vỡ
2. Mục tiêu, chức năng và nguyên tắc pháp lý của WTO
2.1. Sự hình thành Tổ chức Thương mại thế giới - WTO
Đứng trước những hạn chế nội tại không thể giải quyết của GATT và để đáp ứng nhu cầu phát triển toàn cầu hoá mậu dịch và kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, các bên tham gia vòng đàm phán Urugoay đã quyết định thiết lập một thể chế mậu dịch đa phương mới - Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Orgnization - WTO) vào ngày 1/1/1995.
WTO có trụ sở tại Geneva ngày 31/12/1994, các nước và khu vực tham gia GATT trước đây sau khi đồng loạt tiếp nhận bản hiệp định đàm phán Urugoay đã trở thành các bên đầu tiên tham gia ký kết điều ước của WTO. WTO là tổ chức quốc tế lớn nhất và đầu tiên trong việc thiết lập các thoả thuận và cam kết chung trên quy mô toàn cầu trong lĩnh vực thương mại và phát triển kinh tế nói chung. WTO ra đời đã đánh dấu sự ra đời của một thể chế mậu dịch đa phương mới, từ đó, mậu dịch quốc tế đã bước vào một thời đại mới - thời đại của WTO.
Với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới, WTO thực hiện những mục tiêu đã được nêu trong Lời nói đầu của Hiệp định GATT 1947 là nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành viên, đảm bảo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới.
2.2. Mục tiêu của WTO
Cụ thể, WTO có 3 mục tiêu sau
Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới, phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường;
Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; đảm bảo cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới;
Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
2.3. Các nguyên tắc pháp lý của WTO
Về phương diện pháp lý, định ước cuối cùng của vòng đàm phán Uruguay ký ngày 15/4/1999 tại Marrakesh là một văn kiện pháp lý có phạm vi điều chỉnh rộng lớn nhất và có tính chất kỹ thuật pháp lý phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao và luật pháp quốc tế.
Tổ chức Thương mại thế giới được xây dựng trên 4 nguyên tắc pháp lý nền tảng là: tối huệ quốc; đãi ngộ quốc gia, mở cửa thị trường và cạnh tranh công bằng.
2.3.1. Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN)(Most Favoured Nation),
Đây là nguyên tắc pháp lý quan trọng của WTO. Tầm quan trọng đặc biệt của MFN được thể hiện ngay tại Điều I của Hiệp định GATT. Nguyên tắc MFN được hiểu là nếu một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác. Thông thường nguyên tắc MFN được quy định trong các Hiệp định thương mại song phương. Khi nguyên tắc MFN được áp dụng đa phương đối với tất cả các nước thành viên WTO thì cũng đồng nghĩa với nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử vì tất cả các nước sẽ dành cho nhau sự “đối xử ưu đãi nhất”.
Mặc dù được coi là “hòn đá tảng” trong hệ thống thương mại đa phương. Hiệp định GATT 1947 và WTO vẫn quy định một số ngoại lệ và miễn trừ quan trọng đối với nguyên tắc MFN. Ví dụ như điều XXIV của GATT quy định các nước thành viên trong các hiệp định thương mại khu vực có thể dành cho nhau sự đối xử ưu đãi hơn mang tính chất phân biệt đối xử với các nước thứ ba, trái với nguyên tắc MFN. GATT 1947 cũng có hai miễn trừ về đối xử đặc biệt và ưu đãi hơn với các nước đang phát triển. Miễn trừ thứ nhất là quyết định ngày 25/6/1971 của Đại hội đồng GATT về việc thiết lập “Hệ thống ưu đãi phổ cập” (GSP - Global System of Trade Prefrences among Developing Countries) chỉ áp dụng cho hàng hoá xuất xứ từ các nước đang phát triển và chậm phát triển. Trong khuôn khổ GSP, các nước phát triển có thể thiết lập một số mức thuế ưu đãi hoặc miễn thuế quan cho một số nhóm mặt hàng có xuất xứ từ các nước đang phát triển và chậm phát triển và không có nghĩa vụ phải áp dụng những mức thuế quan ưu đãi đó cho các nước phát triển khác theo nguyên tắc MFN. Miễn trừ thứ hai là quyết định ngày 26/11/1971 của Đại hội đồng GATT về “Đàm phán thương mại giữa các nước đang phát triển”, cho phép các nước này có quyền đàm phán, ký kết những hiệp định thương mại dành cho nhau những ưu đãi hơn về thuế quan và không có nghĩa vụ phải áp dụng cho hàng hoá đến từ các nước phát triển. Trên cơ sở quyết định này, Hiệp định về “Hệ thống ưu đãi thương mại toàn cầu giữa các nước đang phát triển” đã được ký kết năm 1989.
2.3.2. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (National Treatment - NT),
Quy định tại Điều III hiệp định GATT, Điều 17 GATS và Điều 3 TRIPS. Nguyên tắc NT được hiểu là hàng hoá nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng hoá cùng loại trong nước. Trong khuôn khổ WTO, nguyên tắc NT chỉ áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ, các quyền sở hữu trí tuệ, chưa áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân. Phạm vi áp dụng của nguyên tắc NT đối với hàng hoá, dịch vụ và sở hữu trí tuệ, việc áp dụng nguyên tắc NT là một nghĩa vụ chung, có nghĩa là hàng hoá và quyền sở hữu trí.
2.3.3. Nguyên tắc mở cửa thị trường
Nguyên tắc mở cửa thị trường thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và dầu tư nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa
Về mặt chính trị, “tiếp cận thị trường” thể hiện nguyên tắc tự hoá thương mại của WTO. Về mặt pháp lý, “tiếp cận thị trường” thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường mà nước này chấp nhận khi đàm phán gia nhập WTO.
2.3.4. Nguyên tắc cạnh tranh công bằng
Cạnh tranh công bằng (fair competition) thể hiện nguyên tắc “tự do cạnh tranh trong những điều kiện bình đẳng như nhau” và được công nhận trong án lệ của Urugoay kiện 15 nước phát triển (1962) về việc áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau đối với cùng một lượng hàng nhập khẩu. Do tính chất nghiêm trọng của vụ kiện, Đại hội đông GATT đã phải thành lập một Nhóm Công tác (Working Group) để xem xét vụ này. Nhóm Công tác đã cho kết luận rằng, việc áp đặt các mức thuế khác nhau này đã làm đảo lộn những “điều kiện cạnh tranh công bằng” mà Urugoay có quyền “mong đợi”từ phía những nước phát triển và đã gây thiệt hại lợi ích thương mại của Urugoay. Từ nay các nước phát triển có thể bị kiện ngay cả về mặt pháp lý không vi phạm các điều khoản nào trong hiệp định GATT nếu các nước này có những hành vi trái với “nguyên tắc cạnh tranh công bằng”.
Nói tóm lại, theo quy định trong hiệp định thành lập, WTO đã khắc phục được những hạn chế của GATT trước đây:
Thứ nhất, WTO là một tổ chức pháp nhân có tư cách chủ thể luật quốc tế. Tổ chức này có điều lệ hẳn hoi chứ không phải chỉ mang tính chất cộng đồng như GATT, các thành viên của nó có khả năng pháp định tất yếu khi WTO thực hiện chức năng của mình;
Thứ hai, WTO có phạm vi hoạt động rộng hơn GATT. Sự ra đời của WTO giúp tạo ra cơ chế pháp lý điều chỉnh thương mại thế giới trong các lĩnh vực mới là dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ, đồng thời đưa vào khuôn khổ thương mại đa phương hai lĩnh vực là dệt may và hàng nông sản;
Thứ ba, WTO có chức năng giải quyết tranh chấp hiệu lực hơn GATT, bởi vì thoả ước khó có thể thực thi nếu không đạt được sự nhất trí. WTO đã khắc phục được những hạn chế nội tại của GATT đồng thời cũng mang lại cho các nước phát triển những quyền lực lớn hơn, có thể xóa bỏ được hiện tượng các nước phát triển lợi dụng cơ chế giải quyết tranh chấp lỏng lẻo của GATT để chèn ép các nước đang phát triển ở một mức độ tương đối;
Nói chung, so với GATT, WTO lớn mạnh hơn cả về lượng và chất. Phạm vi hoạt động của WTO bao trùm lên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế ra quyết định cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp đã được bổ xung cho phù hợp với tình hình mới. Cho dù có sự khác biệt như thế, WTO vẫn theo đường lối của GATT để nhằm hạn chế những thiệt hại trong thương mại, cũng tương tự như IMF nhằm hạn chế những thiệt hại trong giao dịch về tài chính, làm giảm sút tính cạnh tranh.
Sự ra đời của WTO vào ngày 1/1/1995 là bước dạo đầu cho triển vọng nhất thể hoá về ngoại thương ở tầm toàn thế giới trong tương lai. Có lẽ sẽ còn xa để tiến tới khả năng hợp nhất về đơn vị thanh toán, nhưng với những bước phát triển như kiểu WTO, thế giới sẽ tiến dần đến tầm vóc quy mô về hợp tác- liên kết - và thống nhất về kinh tế cho nhân loại trong thiên niên kỷ tới.
3. Sự cần thiết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới - WTO
Ngày 1/1/1995, tại Urugoay, tổ chức thương mại thế giới – WTO ra đời đã đánh dấu một sự chuyển đổi lớn lao trong nền kinh tế thế giới. WTO ra đời đã thay thế tổ chức tiền nhiệm GATT, tiến hành thúc đẩy tự do hoá thương mại quốc tế giữa các nước thành viên. Đến nay, WTO đã có 144 thành viên và còn nhiều quốc gia khác đang trong quá trình đàm phán gia nhập. Việc ngày càng có nhiều quốc gia muốn gia nhập WTO đã cho thấy tầm quan trọng của tổ chức này. Thêm vào đó, hội nhập kinh tế quốc tế đang là một xu hướng hiện nay và không có một quốc gia nào muốn ở ngoài cuộc. Do đó, dù muốn hay không thì mỗi một quốc gia đều phải hoà nhập vào quá trình này. Việc tham gia quá trình hội nhập càng chủ động thì càng có hiệu quả và tránh được nhiều rủi ro. Có thể nhận thấy tính tất yếu khách quan của xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và gia nhập WTO ở một số khía cạnh sau:
Trên toàn thế giới và trong mỗi quốc gia đều đã có sẵn đến một mức nào đó các điều kiện vật chất - kỹ thuật như tiềm lực kinh tế kỹ thuật, sức mạnh quân sự chính trị, nền tảng văn hoá - xã hội...và khi các tiềm lực này phát triển mạnh mẽ, đạt đến một điểm mà tại đó bản thân các tiềm lực này đòi hỏi một môi trường rộng lớn hơn để phát triển. Khi đó, các nguồn lực sẽ di chuyển từ quốc gia này sang các quốc gia bên cạnh và ngược lại. Bất cứ một nền kinh tế nào không thể không tham gia vào quá trình này. Đây chính là nhưng điều kiện cơ bản để các quốc gia tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế;
Nhìn nhận một cách khách quan, toàn bộ quá trình Toàn cầu hoá là một tất yếu vì lợi ích thu được từ quá trình trên đối với mỗi quốc gia là xu hướng chủ đạo. Nếu quốc gia nào không theo xu hướng đó thì chắc chắn sẽ phải chịu tổn thất phát triển to lớn hơn nhiều; là tự chặn con đường tiến lên của mình trong thời đại ngày nay. Vấn đề đặt ra ở đây không còn là cân nhắc xem nên tham gia vào quá trình hội nhập hay không mà là hội nhập như thế nào, theo lộ trình nào để lợi ích thu được từ đó là lớn nhất và hậu quả rủi ro là nhỏ nhất.
Chương II:
Tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới của Việt Nam
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986 đánh dấu mốc son, đánh dấu sự chuyển đổi cơ chế quản lý, mở cửa nền kinh tế và hội nhập với thế giới. Cũng từ đó cho đến nay nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng tự hào như tổng sản phẩm trong nước năm 2002 đã tăng hơn 2 lần so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế Việt Nam đã có khả năng đứng vững và phát triển như mức tích luỹ nội bộ của nền kinh tế tăng nên đáng kể, sản xuất trong nước đã đáp ứng được mức tiêu dùng và có phần tích luỹ. Tiết kiệm trong nước so với GDP từ mức không đáng kể (khoảng 3% năm 1990) đã được nâng lên 18.2% năm 1995 và 25% năm 2000. Đây thực sự là bước tiến đáng kể về năng lực cả nền kinh tế, cải thiện mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, đồng thời tạo ra sự ổn định trong phát triển kinh tế xã hội nói chung. Các công cụ quan trọng để quản lý và điều tiết của nhà nước đã có những tiến bộ và đổi mới, chỉ tiêu kế hoạch ngày càng sát thực và có tính khoa học hơn, khả thi hơn và hiệu quả hơn. Nền kinh tế Việt Nam từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế; từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN; tù chỗ có 2 thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể) đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống nhân dân được cải thiện, đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, vượt qua cơn chấn động chính trị và sự hụt hẫng về thị trường do những biến động ở Liên xô và Đông âu gây ra, phá được thế bao vây cấm vận, mửo rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế như hoạt động xuất nhập khẩu có những chuyển biến rõ rệt, tốc tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nên 6 lần, nhanh gấp 3 lần so với tăng GDP. Tình trạng nhập siêu đã được cải thiện dần. Cơ cấu xuất khẩu cũng đã có nhiều thay đổi lớn. Có nhiều mặt hàng đã có kim ngạch xuất khẩu đạt giá trị trên 100 triệu USD và đến nay đã có 5 nhóm mặt hàng đạt trên 1tỷ USD. Trong cơ cấu nhập khẩu cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Hiện nay, Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là trang thiết bị máy móc. Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài liên tục tăng qua các năm, trung bình chiếm gần 30% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Bên cạnh các kết quả đáng tự hào về hoạt động kinh tế đối ngoại thì hiện nay vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Việc ký kết hiệp định thương mại Việt Nam - hoa Kỳ gần đây đã đưa ra tín hiệu rõ ràng về quyết tâm của Đảng và Chính phủ đi theo con đường hội nhập kinh tế.
Tóm lại, những thành tựu mà chúng ta đạt được trong giai đoạn này ghi nhận sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân ta. Đồng thời, những khó khăn và tồn tại mà chúng ta đang và sẽ gặp phải cũng hết sức to lớn đòi hỏi chúng ta phải cố gắng để vượt qua, thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đứng vững đi lên CHXH.
1 Thủ tục gia nhập WTO
1.1 Các điều kiện gia nhập WTO
Phần lớn các thành viên của WTO là các thành viên của GATT đã ký hiệp định cuối cùng của vòng Uruguay và cam kết thương lượng về sự xâm nhập của các hàng hoá và dịch vụ vào thị trường của mình theo quyết định của cuộc họp tại Marrakesh năm 1994. Một số nước gia nhập vào cuối năm 1994 cũng đã hiệp định cuối cùng, cam kết thương lượng về những chương trình tự do hoá và dịch vụ đã trở thành thành viên của WTO. Các nước khác cũng tham gia các cuộc thương lượng tại vòng đàm phán Uruqoay, cam kết chỉ trong năm 1995 sẽ thực hiện các thủ tục phê chuẩn trong nước và đã trở thành viên ban đầu của WTO, bất kỳ một quốc gia nào muốn trở thành thành viên của WTO đều phải có ba điều kiện bắt buộc sau:
Một là: Phải là quốc gia có nền kinh tế thị trường (cho dù phát triển theo mô hình nào). Cần khẳng định rõ ràng WTO không chấp nhận bất cứ nước nào là thành viên mà giá của họ không phải là giá thị trường, cho dù nước này có có thể đạt kim ngạch thưong mại lớn. Chính vì vậy mà Việt Nam đã đặt ra các giải phải đẩy nhanh quá trình chuyển sang cơ chế thị trường bằng cách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần: Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thực hiện đường lối đổi mới tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986): xoá bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, chuyển sang cơ chế thị trường, thừa nhận và khuyến khích sự phát triển của mọi thành phần kinh tế nhằm xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý, kinh tế xã hội thuận lợi tạo nên động lực thúc đẩy tất cả các thành phần kinh tế, các công dân tham gia xây dựng kinh tế xã hội.
Hai là: Phải là nước muốn xin gia nhập, đã sẵn sàng và có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ của các nước thành viên. Khi được trở thành thành viên WTO, tất cả các nước đều phải thi hành hàng loạt các nghĩa vụ do tổ chức quy định. Vì vậy, ngay từ khi xem xét đơn xin gia nhập, nhóm làm việc sẽ phải cân nhắc kỹ lưỡng xem nước đệ đơn đã sẵn sàng và có đủ điều kiện để đáp ứng các yêu cầu, nghĩa vụ hay không. Những nghĩa vụ cụ thể đó có thể là:
Muốn là thành viên WTO, nước đệ trình phải có nghĩa vụ xoá bỏ phân biệt đối xử, các hạn chế số lượng và các hình thức bảo hộ không phù hợp với thoả thuận chung của WTO, cũng như phải sẵng sàng chấp nhận những nhân nhượng về thuế quan khi cần thiết. Không được đưa ra những luật lệ hoặc những thủ tục hành chính không phù hợp với những quy định của WTO. Điều này ngày nay càng được yêu cầu chặt chẽ hơn vì các thành viên không chỉ đến với WTO như là một diễn đàn đa phương về thương mại mà còn đến với WTO như một tổ chức kinh tế chuyên về thương mại và đầu tư.
Ngoài ra, Chính phủ các nước đệ đơn phải cung cấp cho WTO bản ghi nhớ bao gồm tất cả các khía cạnh của chính sách thương mại và kinh tế có liên quan đến các hiệp định của WTO. Bản ghi nhớ này sẽ là cơ sở cho cuộc điều tra chi tiết về thủ tục gia nhập do một nhóm làm việc thực hiện. Bên cạnh những nỗ lực của nhóm làm việc, Chính phủ nước đệ đơn phải tiến hành các cuộc thương lượng tay đôi với các nước thành viên quan tâm về thị trường. Khi đã hoàn thành, nhóm làm việc sẽ soạn thảo những điều kiện cơ bản của sự gia nhập.
Ba là: Báo cáo các kết quả của nhóm làm việc, bản dự thoả biên bản gia nhập và các chưng trình đã được nhất trí từ các cuộc thương lượng song phương sẽ được đệ trình lên hội đồng chung của hội nghị Bộ trưởng phê chuẩn. Nếu được sự tán thành của 2/3 các nước thành viên WTO thông qua việc bỏ phiếu thì nước đẹ đơn sẽ gia nhập WTO.
Trên đây là 3 điều kiện bắt buộc đối với Việt Nam cũng như bất cứ quốc gia nào muốn là thành viên WTO. Nếu thoả mãn đầy đủ ba điều kiện đó, Việt Nam sẽ nhanh chóng trở thành thành viên WTO.
1.2 Tiến trình gia nhập của Việt Nam
Một nước muốn gia nhập WTO không nhất thiết phải trải qua thời kỳ là quan sát viên. Tuy nhiên các nước xin gia nhập thường xin chấp nhận quy chế quan sát viên khi bắt đầu đàm phán, với mục đích là có thời kỳ trung chuyển để tiếp cận và hiểu rõ hơn về nguyên tắc, quy chế hoạt động của WTO, thông qua đó thiết lập mối quan hệ gần gũi và gắn bó hơn với các nước thành viên nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình gi._.a nhập WTO, Tháng 6/1994 Việt Nam đã được công nhận là quan sát viên của WTO. Tuy nhiên, để trở thành thành viên của WTO, Việt Nam phải trải qua các bước sau:
Bước một: nộp đơn gia nhập WTO
Bất kỳ nước nào không phải là thành viên hoặc là liên minh thuế quan độc lập đều có thể nộp đơn xin gia nhập WTO. Nộp đơn xin gia nhập là bước đầu tiên của quá trình đàm phán gia nhập WTO. Ngày 4/1/1995 Ban thư ký WTO đã nhận được đơn gia nhập WTO do Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Hợp Quốc đã thay mặt Chính phủ Việt Nam gửi tới. Điều này khẳng định rằng, Việt Nam đã thực hiện xong bước đầu tiên trong tiến trình gia nhập vào WTO.
Bước hai: thành lập nhóm làm việc:
Sau khi tổng giám đốc WTO nhận đơn, hội đồng chung của WTO quyết định thành lập nhóm làm việc vào ngày 30/1/1995 nhằm kiểm tra yêu cầu của Việt Nam. Nhóm làm việc này bao gồm Chủ tịch và các đại diện của các quốc gia thương mại chính như Mỹ, Canada, Nhật bản, EU và các quốc gia có lợi ích liên quan đến việc gai nhập của Việt Nam gia nhập WTO. Nhóm làm việc chịu trách nhiệm tổ chức các thương lượng về việc gia nhập WTO và chuẩn bị nghị định thư gia nhập. Đồng thời, nhóm làm việc cũng chịu trách nhiệm kiểm tra các chính sách và thực tiễn thương mại của Việt Nam.
Bước ba: Đệ trình bản ghi nhớ về cơ chế ngoại thương.
Sau khi đệ đơn xin gia nhập WTO, nước xin gia nhập phải chuẩn bị ngay bản ghi nhớ về cơ chế ngoại thương và đệ trình lên WTO để kiểm tra bản ghi nhớ phải bao gồm các chương trình quốc gia như thuế, các hạn chế phi thuế quan, các quy định về xuất nhập khẩu, kiểm soát ngoại hối,các quy định và chính sách đầu tư, các quy định liên quan đến lĩnh vực dịch vụ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và các bước tự do hoá thương mại trong tương lai được thể hiện trong các quy định và cac bộ luật của quốc gia. Cơ chế ngoại thương rõ ràng, nước đệ đơn càng có cơ hội tốt hơn trong việc thúc đẩy các cuộc thưong lượng đàm phán gia nhập. Ngày 26/8/1996 Việt Nam đã đệ trình bản ghi nhớ về cơ chế ngoại thương của mình lên WTO. Hiện nay, bản ghi nhớ của Việt Nam đang được nhóm làm việc và các thành viên thẩm định.
Bước bốn: Trả lời những câu hỏi về bản ghi nhớ.
Sau khi nhóm làm việc nhận được bản ghi nhớ về cơ chế ngoại thương sẽ chuyển tới tất cả các thành viên của WTO với mục đích để họ chuẩn bị các câu hỏi liên quan đến bản ghi nhớ của nuớc xin gia nhập. Cho đến nay, nhóm làm việc về Việt Nam gia nhập WTO đã họp đến bốn phiên và Việt Nam đã phải trả lời rất nhiều câu hỏi trong số 2000 câu hỏi của các thành viên WTO về hệ thống chính sách thưong mại của Việt Nam. Do mới chuyển sang cơ chế thị trường hệ thống luật pháp và cơ chế ngoại thương của Việt Nam chưa hoàn thiện và ổn định nên gặp nhiều khó khăn trong việc trả lời đầy đủ những câu hỏi đó. Tuy nhiên, đây cũng là dịp rất tốt để Việt Nam kiểm điểm lại một cách đồng bộ và nghiêm túc, trên cơ sở đó sửa đổi, bổ xung, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp và cơ chế ngoại thưong của mình.
Bước năm: Tổ chức các cuộc đánh giá của nhóm làm việc.
Sau khi kiểm tra nội dung của bản ghi nhớ, nhất là bản kiểm tra các vấn đề được đặt ra trong các câu hỏi của các nước thành viên WTO xung quanh bản ghi nhớ, Chủ tịch nhóm làm việc sẽ tổ chức các cuộc họp theo thông lệ hoặc theo yêu cầu của các thành viên WTO (trung bình một năm có khoảng hai cuộc họp) để dánh giá cụ thể các khía cạnh của cơ chế ngoại thuơng của các nuớc xin gia nhập WTO. Đầu năm 1998, nhóm làm việc về Việt Nam gia nhập WTO đã họp phiên đầu tiên và tính đến nay đã họp tất cả bốn phiên.
Bước sáu: Đàm phán về ba chương trình nhượng bộ.
Trong khi nhóm làm việc kiểm tra về chính sách và thực tiễn thương mại của các nuớc xin gia nhập, các nước thành viên WTO quan tâm có thể tham gia vào các cuộc thương với nước xin gia nhập trên cơ sở đa phương hoặc song phương về thuế quan hay các nhượng bộ khác như một tiêu chuẩn của việc kết nạp. Nước xin gia nhập sẽ chuẩn bị ba chương trình nhượng bộ được kèm trong nghị định thư gia nhập đó là: chương trình về hàng hoá công nghiệp, về nông sản và dịch vụ.
Sau khi nước xin gia nhập đàm phán xong với các nước thành viên WTO, nhóm làm việc sẽ có báo cáo tổng kết các kết quả của qua trình đàm phán trong đó nói rõ nước xin gia nhập có đủ điều kiện gia nhập gia nhập và tuyên bố hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Hiện nay,Việt Nam đã thực hiện đàm phán song phưong với Mỹ và đang trong quá trình đàm phán với EU là những quốc gia thương mại chính của WTO. Đây là một bước quan trọng trong tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. Nếu đàm phán thành công Việt Nam sẽ nhanh chóng là thành viên WTO.
Bước bảy: Phê chuẩn việc gia nhập WTO.
Sau khi nhóm làm việc hoàn thiện nghĩa vụ kiểm tra các chính sách và thực tiễn thương mại của nước xin gia nhập và có kết luận lcủa các cuộc thương lượng và ba chương trình nhượng bộ, WTO quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận sự gia nhập của nước đệ đơn. Quyết định này được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng bao gồm các thành viên của các nước thành viên WTO. Hội nghị Bộ trưởng phải phê chuẩn sự gia nhập nếu có sự nhất trí của 2/3 số nước thành viên. Đối với Việt Nam, phải có ít nhất 96 quốc gia thành viên, tức là 2/3 trong số 144 nước trí tán thành thì Việt Nam mới được kết nạp.
Bước tám: Chuẩn bị nghị định thư gia nhập.
`Nếu sự gia nhập của nước đệ đơn được chấp nhận sẽ được đàm phán. Nghị định thư này chứa đựng nhiều điều khoản điều kiện về tư cách thành viên của nước xin gia nhập. Trong một vài trường hợp, nghị định thư còn có cả các điều kiện đặc biệt khác để giải quyết những vấn đề cụ thể phát sinh từ khả năng trong tương lai của nước đệ đơn về việc tuân thủ các nghĩa vụ WTO. Nghị định thư gia nhập do nước gia nhập và các thành viên WTO ký. Các chương trình nhượng bộ đã được thượng lượng của nước xin gia nhập sẽ được kèm vào hiệp định WTO. Sau khi các văn kiện nêu trên trong nghị định thư gia được Tổng giám đốc WTO ký. Chính phủ nước đệ đơn sẽ được coi là thành viên WTO ngay tại thời điểm đó.
2. AFTA, BTA - Việt Nam đã bước một chân vào WTO
WTO là sân chơi đầy khắc nghiệt, sân chơi của những đảng phái hùng mạnh, một mặt trận của những người giàu và những tập đoàn lớn. Chính vì thế, việc tham gia vào AFTA cũng như ký kết các hiệp định song phương và đa phương là những bước đệm cần thiết nhằm tích luỹ kinh nghiệm cũng như năng cao khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Bài học lớn Trung Quốc đã khẳng định con đường mở cửa thị trường theo từng bước cụ thể của Việt Nam là đúng đắn.
a) AFTA - những bước chân đầu tiên trong tiến trình hội nhập kinh tế Quốc tế của Việt Nam
Năm 2006 là thời hạn cuối cùng để Việt Nam hoàn thành chương trình cắt giảm thuế quan để tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Mục tiêu của AFTA là loại bỏ hoàn toàn các rào cản thương mại đối với hầu hết hàng hóa trong nội bộ ASEAN, kể cả thuế quan và các loại hàng rào phi thuế quan, thông qua Chương trình ưu đãi thuế quan hiệu lực chung (CEPT). Về tiến trình thực hiện của Việt Nam, trên cơ sở các danh mục CEPT đã công bố với ASEAN và lịch trình giảm thuế tổng thể đã được thông qua, từ năm 1996 đến nay, Chính phủ đã ban hành các nghị định về Danh mục hàng hóa và thuế suất của Việt Nam để thực hiện Hiệp định CEPT. Đến nay, chúng ta đã cắt giảm thuế suất của trên 5.500 mặt hàng, chiếm gần 85% tổng số nhóm mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu hiện hành. Năm 2002 cũng là năm cuối cùng Việt Nam chuyển 760 mặt hàng còn lại từ danh mục loại trừ tạm thời (TEL) sang danh mục cắt giảm thuế ngay để áp dụng từ ngày 1/1/2003. Cũng kể từ thời điểm này, khoảng 96% tổng số hàng hóa của Việt Nam đã được cắt giảm thuế; đồng thời, thuế nhập khẩu của các mặt hàng hiện nay đang được bảo hộ cao với mức thuế suất 40% - 50% sẽ giảm xuống mức 15% - 20% và sẽ tiếp tục giảm xuống 0% - 5% vào năm 2006.
Đánh giá ban đầu về tác động của CEPT/AFTA đối với trao đổi thương mại giữa Việt Nam và ASEAN, xét về kim ngạch thương mại thực tế, giữa Việt Nam và ASEAN chưa chịu ảnh hưởng trực tiếp ngay của việc cắt giảm thuế nhập khẩu này. Đối với xuất khẩu, hàng hóa Việt Nam (chủ yếu là gạo, dầu thô, giày dép, hàng dệt may, cao su, hải sản...) được hưởng thuế suất ưu đãi CEPT chiếm gần 20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN và chiếm 3,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2001. Tuy nhiên, lợi ích rõ ràng nhất khi tham gia CEPT/AFTA là mở được thị trường tiêu thụ. Sau 6 năm thực hiện, ASEAN đã trở thành một trong các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam, bên cạnh EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ.. Đối với nhập khẩu, hiện nay thống kê hàng hóa nhập khẩu từ ASEAN đạt tiêu chuẩn hưởng thuế suất ưu đãi CEPT khi nhập khẩu vào Việt Nam vẫn chưa có số liệu chính xác về kim ngạch và số giảm thu từ thuế nhập khẩu của các nhóm hàng này. Tuy nhiên, cần lưu ý là từ năm 2002, các mặt hàng sản xuất trong nước được bảo hộ cao đã được đưa vào cắt giảm thuế nhập khẩu để thực hiện CEPT, nên sức ép đối với sản xuất trong nước sẽ càng lớn, doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
Các doanh nghiệp Việt Nam có nhược điểm nổi bật là “nước đến chân mới nhảy”. Đơn cử cụ thể như việc tìm hiểu các cam kết, các lộ trình thực hiện giảm thuế của Chính phủ trong quá trình hội nhập AFTA hầu như không được các doanh nghiệp quan tâm một cách thỏa đáng; khi việc giảm thuế có hiệu lực thực hiện thì lại kêu khó với Chính phủ. Đứng ở vai trò quản lý vĩ mô, Chính phủ có trách nhiệm cải cách hệ thống chính sách, luật pháp phù hợp với các cam kết Quốc tế và khuyến khích các ngành sản xuất trong nước phát triển. Bên cạnh đó, doanh nghiệp, với tư cách là người tham gia trực tiếp vào cuộc chơi cũng cần đối mặt với cạnh tranh để tìm ra hướng đi đúng cho sự tồn tại của mình
3. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
Ngày 13/7/2000, sau gần 4 năm đàm phán với những nỗ lực kiên trì của cả hai bên, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký kết hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Đây được coi là một hiệp định song phương toàn diện nhất được ký từ trước tới nay đối với cả hai bên Việt Nam và Hoa Kỳ: bao gồm toàn bộ các vấn đề về quan hệ thương mại và đầu tư cốt yếu giữa hai quốc gia. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi đã đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Để đi đến việc ký kết hiệp định thương mại song phương, quá trình thương lượng giữa hai quốc gia đã kéo dài từ tháng 9/1996 cho đến tháng 7/2000 bao gồm tất cả 11 vòng đàm phán. Đây là quá trình thương lượng đàm phán lâu nhất cho một hiệp định thương mại không những với Việt Nam mà còn đối với cả Hoa Kỳ. Nguyên nhân để giải thích cho sự kéo dài này là do quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã có một lịch sử quá phức tạp gắn liền với cuộc chiến tranh tại Việt Nam, hai là do Việt Nam và Hoa Kỳ có rất nhiều điểm khác biệt căn bản về định hướng và mức độ phát triển kinh tế và hệ thống luật pháp...ba là, Hoa Kỳ có những yêu cầu Việt Nam tham gia ký kết hiệp định thương mại song phương với tư cách là một nước đang phát triển, còn phía Việt Nam chỉ cấp nhận đàm phán với tư cách là một quốc gia nghèo và đang phát triển ở trình độ thấp. Và cuối cùng, phía Hoa Kỳ đã chấp nhận việc Việt Nam tham gia ký kết với tư cách là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế và đang tiến hành các bước hội nhập vào kinh tế khu vực và quốc tế. Đối với Việt Nam và Hoa Kỳ, việc ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ mang những mục đích và ý nghĩa nhất định và trong quá trình đàm phán, mỗi nước đã dần dần công khai bày tỏ quan điểm của mình về việc ký kết hiệp định này.
Về phía Hoa Kỳ, bước tiếp theo trong chính sách bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trong các vấn đề quan trọng có liên quan đến quyền lợi của nước Mỹ là quyết định theo đuổi một hiệp định. Quyết định này được đề xuất sau khi Việt Nam đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận trong việc hợp tác giải quyết vấn đề POW - MIA, mối quan tâm hàng đầu của nước Mỹ trong quan hệ hợp tác giữa hai bên. Với việc ký kết hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ thị trường Việt Nam sẽ mở ra những cơ hội to lớn cho các công ty Mỹ trên hầu hết các lĩnh vực, hạn chế hầu như hoàn toàn các rào cản thương mại mở cửa thị trường dịch vụ và đầu tư nước ngoài, đưa ra một bảo đảm toàn diện cho các quyền sở hữu trí tuệ. Điều này đối với Mỹ là một cơ hội không nhỏ cho tăng trưởng kinh tế và tạo thêm công ăn việc làm. Theo quan điểm của Hoa Kỳ, chính sách bình thường hoá quan hệ thương mại với Việt Nam còn cho phép như: (1) củng cố sự hợp tác trong việc đánh giá một cách đầy đủ nhất những tổn thất của cả hai bên sau cuộc chiến tranh, nhất là làm rõ số phận của những quân nhân Mỹ mất tích trong thời gian chiến tranh tại Việt Nam, (2) cố gắng hoàn thành một phần trách nhiệm đối với quá khứ chiến tranh tại Việt Nam qua việc ổ định, cư trú cho hàng chục nghìn người tị nạn qua chương trình ODP và các chương trình khác có liên quan, (3) thúc đẩy sự hợp tác trong lĩnh vực chống tội phạm buôn lậu ma tuý, đề cao nhân quyền tự do tín ngưỡng, mở rộng các mối quan hệ kinh tế.
Còn đối với Việt Nam, trong tiến trình đổi mới nền kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì việc ký kết hiệp định thương mại song phương với Mỹ mang những ý nghĩa quan trọng vì:
Đây là hiệp định thương mại đầu tiên mà Việt Nam tiến hành đàm phán theo các tiêu chuẩn của tổ chức thương mại thế giới WTO. Có rất nhiều điểm giống nhau giữa nội dung của Hiệp định thương mại song phương với hiệp định mà Việt Nam đang đàm phán với WTO để gia nhập tổ chức này. Thành công trong việc ký kết một hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ là một bước thuận lợi quan trọng để đi đến gia nhập WTO.
Hoa Kỳ là một quốc gia có nền kinh tế hàng đầu trên thế giới. Mỹ có nhiều đóng góp to lớn và chi phối hoạt động của rất nhiều tổ kinh tế, thương mại và tài chính như WTO, WB, IMF, ADB...Ký kết hiệp định thương mại với nước này sẽ cho phép Việt Nam tiếp cận những tổ chức này và mang lại những cơ hội thuận lợi mới cho nhu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam.
Với điều kiện và tiềm năng kinh tế hùng hậu, thị trường Mỹ luôn là những hứa hẹn tích cực cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Với việc ký kết hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ, Việt Nam đã tạo ra được một môi trường đầu tư thuận lợi tại Việt Nam không những cho các Nhà đầu tư Hoa Kỳ mà còn đối với cả các Nhà đầu tư khác trên thế giới.
Để đạt được những mục tiêu đề ra, trong quá trình đàm phán để đi đến ký kết thành công, phía Việt Nam đã đề ra những nguyên tắc cơ bản sau:
Việt Nam và Mỹ hợp tác trên cơ sơ tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước, bình đẳng cùng có lợi.
Việc Việt Nam và Hoa Kỳ dành cho nhau quy chế tối huệ quốc MFN và ký kết hiệp định thương mại song phương là có lợi cho cả hai bên.
Việt Nam tuân thủ theo các pháp luật và thông lệ quốc tế, áp dụng chúng theo điều kiện của nước mình là một nước nghèo đang phát triển.
Việc đàm phán và đưa ra những cam kết hợp đồng là dựa trên cơ sở những quy định và luật lệ của GATT/WTO, Việt Nam sẽ dần dần đưa chúng vào thực hiện theo một lịch trình rõ ràng và cụ thể.
Việt Nam có quyền yêu cầu sự hỗ trợ trong phát triển kinh tế từ các quốc gia có nền kinh tế giàu mạnh trong đó có Mỹ.
Hiện nay, Mỹ là một thành viên của WTO nhưng Việt Nam thì không nên những quyền hạn và nghĩa vụ quy định trong hiệp định thương mại song phương này là rất đơn giản đối với Mỹ, nhưng lại vô cùng khó khăn cho Việt Nam. Hầu hết những nghĩa vụ của phía Mỹ nhìn chung đều tuân theo những thực tiễn áp dụng cho các nước thành viên, còn đối với Việt Nam đòi hỏi phải sắp xếp một lịch trình tuân theo luật định của WTO. Việt Nam hiện nay vẫn đang đàm phán để gia nhập WTO và có thể hưởng đầy đủ quy chế WTO và Mỹ chỉ khi nào trở thành thành viên chính thức của WTO.
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam Hoa Kỳ gồm 7 chương và 13 phụ lục. Trong đó đưa ra một loạt các cam kết toàn diện liên quan đến tiếp cận thị trường đối với các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ, tiếp cận thị trường đối với dịch vụ, quy định, kiểm soát đầu tư và tính minh bạch của các luật lệ chính sách và các quy trình có liên quan đén thương mại và đầu tư. Những đặc điểm chủ yếu của các cam kết này bao gồm:
Tiếp cận thị trường đối với các mặt hàng công nghiệp và nông nghiệp
Tất cả các công ty của Việt Nam, và dần dần là đến các công ty và các nhân Hoa Kỳ, sẽ được phép tự do nhập khẩu và xuất khẩu các sản phẩm không nằm trong các hạn chế được nêu rõ. Thuế quan đối với khoảng 250 sản phẩm, mà hầu hết trong số đó là nông sản, sẽ giảm từ 33 đến 50%. Hầu như toàn bộ các hàng rào phi thuế quan được đưa ra các hạn chế về xuất khẩu và nhập khẩu không phù hợp với GATT sẽ bị loại bỏ dần. Các tiêu chuẩn của WTO sẽ áp dụ với hải quan, cấp phép nhập khẩu, thương nghiệp quốc doanh, các itêu chuẩn kỹ thuật và các biện pháp vệ sinh dịch tễ.
Quyền sở hữu trí tuệ
Việt Nam sẽ thực hiện các điều khoản của hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại của WTO (TRIPS) và cũng sẽ tiến hành bảo hộ các tín hiệu vệ tinh.
Tiếp cận thị trường đối với các dịch vụ
Việt Nam sẽ tuân thủ các quy định của WTO như MFN, đối xử quốc gia và các kỷ luật đối với việc điều tiết trong nước và sẽ cho phép các công ty các nhân Hoa Kỳ tham gia vào thị trường trong dịch vụ khác nhau
Các quy định về đầu tư
Việt Nam bảo đảm MFN và đối xử quốc gia, tính minh bạch và bảo hộ chống lại việc xung công tài sản và sẽ loại bỏ dần chế độ cấp phép đầu tư trong nhiều lĩnh vực. Các Nhà đầu tư nước ngoài sẽ được hưởng các quyền chuyển lợi nhuận về nước giống như các doanh nghiệp Việt Nam, các yêu cầu về mức độ góp vốn cũng sẽ được loại bỏ và các biện pháp đầu tư không phù hợp với hiệp định về các biện pháp liên quan đến thương mại của WTO, kể cảc hàm lượng nội địa và cân đối ngoại tệ sẽ được loại bỏ.
Các quy định về tính minh bạch
Việt Nam sẽ thực hiện một chế độ hoàn toàn minh bạch dối với bốn lĩnh vực nêu trên. Điều này sẽ bao gồm việc công bố các dự luật, quy chế và các quy định khác để lấy ý kiến bình luận, bảo đảm rằng công chúng được thông báo trước về tất cả các luật lệ và quy định như vậy và các văn kiện thích hợp sẽ được xuất bản và sẵn có và cho phép các công dân Mỹ có quyền kháng cáo đối với các quyết định liên quan đến luật lệ và quy định này.
Với việc ký kết thành công hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập vào tổ chức thưong mại thế giới
4. Đánh giá những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO.
WTO một tổ chức thương mại toàn cầu và có qui mô lớn nhất từ trước tới nay, thương mại giữa các nước thành viên WTO chiếm khoảng 90% thương mại toàn cầu. Hơn nữa, WTO là tổ chức có chức năng giám sát các hoạt động và giải quyết tranh chấp thương mại trên phạm vi toàn thế giới nhằm tạo ra một trật tự buôn bán quốc tế hiệu quả, hợp lý và công bằng hơn. Gia nhập WTO là tiến trình thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Tiến trình này vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển kinh tế thương mại của đất nước, vừa đặt ra những thách thức lớn đối với Việt Nam
4.1Những cơ hội.
Việc gia nhập WTO sẽ mang lại cho Việt nam những cơ hội sau:
Một là: WTO có những điều khoản ưu đãi dành cho các nước đang phát triển, trước hết là quyền hưởng ưu đãi tối huệ quốc (MFN) đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam sang tất cả các nước thành viên WTO. Nhờ vậy, Việt Nam sẽ được đảm bảo không bị phân biệt đối xử. Ngoài ra, Việt Nam còn được hưởng mức thuế quan khống do WTO qui định. Về nguyên tắc mức thuế khống chế này không tăng, nhưng nếu bị nâng lên thì Việt Nam vẫn đựoc hưởng quyền đền bù thông qua những ưu đãi tương xứng trong quan hệ với các nước bạn hàng. Song song với những ưu đãi được hưởng, nếu là thành viên WTO, Việt Nam sẽ có nhiêu cơ hội thâm nhập vào thị trường nước tham gia ký kết nhờ cam kết cắt giảm hàng rào phi thuế quan và phi thuế quan.
Hai là: Việt Nam sẽ được hưởng những lợi ích về thương mại khi gia nhập WTO, bao gồm:
Việc bãi bỏ hiệp định thương mại đa sợi MFA sẽ tạo điều kiện cho việc xuất khẩu hàng dệt và sản phẩm may mặc của Việt Nam. Các nhà xuất khẩu hàng dệt và sản phẩm may mặc của Việt Nam sẽ được bảo đảm trong vòng 10 năm sau khi WTO đi vào hoạt động (2005), các nước nhập khẩu sẽ không thể đưa ra các hạn chế MFA đối với hàng dệt may mặc của Việt Nam.
Hơn nữa, với tiềm năng to lớn về xuất khẩu nông sản đặc biệt là gạo, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu hơn vì các hạn chế về số lượng đối với các mặt hàng này sẽ được chuyển thành thuế suất đối với mặt hàng sẽ được cắt giảm theo hiệp định về nông nghiệp của WTO.
Ba là: hiệp định những biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS) của WTO sẽ tạo thêm sự bảo đảm quốc tế, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Chỉ có thể mở cửa và hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng này mới thu hút được đầu tư nước ngoài vào và mới có thể tăng nhanh sản xuất trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu trên quy mô lớn.
Bốn là: tham gia vào WTO, Việt Nam sẽ có lợi trong việc giải quyết tranh chấp với các cường quốc thương mại. Mặc dù là một tổ chức, nhưng WTO vẫn là diễn đàn thương mại mà ở đó mọi thành viên có thể tự bảo vệ minh khi xảy ra tranh chấp thương mại. Tại đây, Việt Nam có quyền thương lượng với các bên đối tác và có quyền khiếu nại khi thương lượng không đem lại kết quả mong muốn. Những quy định của WTO cung cấp cho Việt Nam các công cụ để bảo vệ và đòi công bằng trong thương mại quốc tế.
Năm là: Gia nhập WTO Việt Nam sẽ có lợi gián tiếp từ những yêu cầu của tổ chức vì chúng sẽ nâng cao tính minh bạch trong chế độ ngoại thương và đảm bảo tính thống nhất các chính sách của cả nước. Điều này sẽ từng bước loại trừ những bất hợp lý trong thương mại, thúc đẩy cải cách hệ thống kinh tế và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi nền kinh tế, tạo dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh giúp cho các doanh nghiệp trong nước thích nghi nhanh với môi trường cạnh tranh quốc tế. Nhờ đó, kinh tế Việt Nam có khả năng vươn lên mạnh mẽ để cạnh tranh có hiệu quả và phát triển.
Sáu là: Tham gia vào hệ thống thương mại thế giới rộng lớn WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội để tăng nhanh nhờ phất huy các lợi thế của mình như lao động rẻ và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Chính các nguồn nội lực này có yếu tố quan trọng giúp cho chúng ta có vị trí thuận lợi trong quá trình phân công lao động quốc tế. Hơn nữa, chúng ta có thể tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ kỹ thuật tiên tiến, công nghệ hiện đại và vốn của nước ngoài để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân.
Cuối cùng: so với các nước đang phát triển khác, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi hơn từ các hiệp định của vòng Uruquay, bởi vì theo qui định của WTO hàng xuất khẩu dưới dạng sơ chế của các nước đang phát triển thưòng không phải chịu thuế hoặc chịu mức thuế thấp, mà Việt nam là một trong nước xuất khẩu nhiều hàng sơ chế nên sẽ có lợi từ quy định này. Hơn nữa nhiều nước đang phát triển đã được hưởng ưu đãi đặc biệt của hệ thống ưu đãi phổ cập chung của Mỹ hoặc ưu đãi về mức thếu tối huệ quốc của vòng Uruquay. Kết quả là hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ có lợi từ những chênh lệch ưu đãi này.
Tóm lại: cơ hội thuận lợi đối với Việt Nam khi gia nhập WTO còn có thể kể ra nhiều hơn nữa, nhưng trước mắt nếu không vượt qua được những thách thức gay go trên con đưòng gia nhập thì sẽ không có cơ hội nào đến với Việt Nam
4.2 Những thách thức
Việc gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận những nguyên tắc cơ bản của hệ thống, có nhân nhượng và có chương trình triển khai các chính sách phù hợp với các quy tắc và chương trình chung. Bên cạnh những thuận lợi về cơ chế chính sách thương mại, cơ hội mở rộng thị trường, sự không phân biệt đối xử, Việt Nam phải đáp ứng những yêu cầu có tính nguyên tắc và phải đối mặt với những thách thức lớn sau:
Một là: điều kiện trước tiên và cần thiết đặt ra cho mỗi nước muốn gia nhập WTO là nước có nền kinh tế thị trường đã được hình thành tương đối đầy đủ ổn định. Chính vì lẽ đó mà trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và có sự quản lý của Nhà nước một mặt đẻ đảm bảo các yêu cầu: tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với những tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện mục tiêu mọi lợi ích đều vì dân, giải phóng con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Mặt khác, nhằm đáp ứng yêu cầu của WTO đặt ra đối với nước xin gia nhập. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường ở nước ta còn tồn tại các đặc điểm sau:
kinh tế thị trường ở nước ta gồm nhiều loại hình đan xen nhau, nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức tham gia vào nền kinh tế thị trường có những nét đặc thù về bản chất kinh tế xã hội và trình độ phát triển, nhưng chúng đều là những bộ phận khác nhau của nền kinh tế quốc dân thống nhất, hình thành và chịu sự chi phối của một thị trường xã hội thống nhất với các quan hệ cung cầu, giá cả chung, bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp.
kinh tế thị trường ở nước ta còn trình độ chưa phát triển đầy đủ, nhiều loại thị trường còn ở trình độ sơ khai hoặc đang trong quá trình hình thành như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản ... trên thị trường hàng hoá thì số lượng mặt hàng và chủng loại hàng hoá nghèo nàn, khối lượng hàng hoá lưu thông qua thị trường và kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá cao, chất lượng hàng hoá thấp, quy mô và dung lượng thị trường hạn hẹp, hơn nữa, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng hoá trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước còn rất yếu, đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp giỏi còn rất ít, thu nhập của người lao động thấp do sức mua còn hạn chế.
nền kinh tế thị trường ở nước ta vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Cơ chế thị trường là cơ chế nảy sinh một cách tất yếu từng sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cơ chế thị trường là guồng máy vận hành của nền kinh tế thị trường, là phương thức cơ bản phân phối và sử dụng nguồn vốn, tài nguyên, công nghệ, tư liệu sản xuất, sức lao động. Căn cứ vào thị trường, các doanh nghiệp sẽ quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Cơ chế thị trường chịu sự tác động mạnh của các quy luật sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước phải thích hợp với các yêu cầu đó. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, Chính phủ phải giữ một vai trò rất cụ thể, đó là tạo ra các dịch vụ mà khu vực tư nhân không cung cấp được như tạo khuôn khổ, thể chế cho hoạt động thị trường, cở sở vật chất hạ tầng và các dịch vụ xã hội. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam đã không tập trung vào vai trò cụ thể của mình mà can thiệp quá sâu vào một số lĩnh vực, có quá nhiều cơ chế hoặc can thiệp trực tiếp vào giá cả hàng hoá lưu thông trên thị trường. Hoạt động của nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn bị cản trở bởi xu hướng kiểm soát của Nhà nước.
Đối với nước ta,phát triển kinh tế thị trường có vai trò rất quan trọng, là phương tiện giúp Việt Nam nhanh chóng hội nhập thế giới. Tuy nhiên để có được nền kinh tế thị trường phát triển đầy đủ và ổn định là một thách thức lớn đối với chúng ta trong quá trình gia nhập WTO.
Hai là, các Hiệp định WTO đưa ra một loạt các quy tắc điều chỉnh thương mại hàng hoá và dịch vụ, điều chỉnh các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại. Các quy tắc này được áp dụng cho tất cả các nước thành viên WTO. Việt Nam sẽ tuân thủ toàn bộ các quy định thương mại, của WTO. đặc biệt, để thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử và áp dụng các quy chế tối huệ quốc, Việt Nam phải cam kết cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá và dịch vụ, thực hiện đối xử bình đẳng đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Điều này đòi hỏi phải loại bỏ những ưu đãi dành cho doanh nghiệp Nhà nước về quyền kinh doanh trong một số lĩnh vực như đất đai, tín dụng và đối xử bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp. Đây là một bước khó khăn cho ngành công nghiệp non trẻ của Việt Nam trước sự đối đầu với các doanh nghiệp của các nước phát triển và các nước có lợi thế so sánh cao hơn. Ngoài ra, việc tự do hoá thương mại và cắt giảm thuế quan không chỉ tác động đến công cụ truyền thống nhằm bảo hộ thị trường trong nước mà còn làm giảm ngân sách quốc gia.
Ba là, một trong các yêu cầu quan trọng đối với tư cách hội viên WTO là sự rõ ràng của cơ chế ngoại thương. Để đạt được mục tiêu này, WTO yêu cầu các thành viên cung cấp các thông tin cần thiết về thực tiễn và chính các tiêu chuẩn nhãn hiệu hàng hoá và xuất xứ, vệ sinh kiểm dịch, các chuẩn mực phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Những yêu cầu này Việt Nam mới đáp ứng được một phần vì Việt Nam vẫn thiếu các quy luật và các quy định điều chỉnh ngoại thương và đầu tư. Đặc biệt trong các lĩnh vực chuyên môn có hàm lượng trí tuệ cao thì việc tham gia vào WTO cũng là một thách thức đối với Việt Nam, vì năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong những ngành này đòi hỏi chúng ta không chỉ giải quyết vấn đề công nghệ mà trước hết là đào tạo, nâng cao trình dộ của đội ngũ cán bộ trong nước. Điều này không thể một sớm một chiều Việt Nam có thể đáp ứng được
Bốn là, nền sản xuất trong nước còn non yếu. Việc gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa nền kinh tế, khi đó hàng nhập khẩu sẽ ồ ạt tràn vào, hàng hoá Việt Nam phải chấp nhận sự cạnh tranh của hàng hoá ngoại nhập. Tuy nhiên, trên thị trường Việt Nam hiện nay, sức cạnh tranh của hàng hoá nội còn yếu kém so với hàng ngoại nhập. Có nhiều lý do song lý do cơ bản là do chất lượng hàng hoá chưa cao, mẫu mã, bao bì đẹp, chủng loại hàng hoá chưa phong phú. Đây là một vấn đề luôn có tính quyết định, vì nếu hàng hoá nội không chiến thắng được hàng ngoại ở chính thị trường của mình thì mới có hy vọng hàng Việt Nam chiến thắng hàng ngoại ở nơi “đất khách quê người hơn nữa theo quy định của thế giới là phái xuất khẩu để đổi lấy hàng nhập khẩu, Việt Nam phải xuất khẩu nhiều hơn, mà mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam trong thời gian dài chủ yếu vẫn là hàng nông sản chế biến đơn giản và các nguyên liệu thô. Thực tế này dẫn đến._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0115.doc