mục lục
Kết luận: 74
Tài liệu tham khảo
mở đầu
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vấn đề tổ chức lao động là một công tác không thể thiếu được của quá trình quản lý và sản xuất tại một doanh nghiệp.
Việc tổ chức lao động cho phù hợp với những khả năng của người lao động, phù hợp với trình độ lao động làm cho người lao động an tâm công tác và công tác đạt năng suất chất lượng cao đem lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp là việc hết sức rất cần thiết. Vì vậy trong quá trình ho
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1511 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tổ chức lao động tại điểm thông tin Bưu cục Nguyễn Trãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạt động sản xuất cần phải tổ chức lao động có khoa học, để góp phần nâng cao tích luỹ và phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho người lao động tái sản xuất sức lao động.
Việc sắp xếp lao động hợp lý là một trong những vấn đề chủ yếu của tổ chức quản lý nói chung và tổ chức lao động nói riêng có quan hệ mật thiết với các hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp và phải tuân theo chính sách, chế độ đãi ngộ đối với người lao động, luôn đặt con người vào vị trí cao nhất, tạo điều kiện để người lao động phát triển toàn diện về thể chất lẫn tinh thần nhằm khơi dậy tiềm năng của người lao động.
Trong những năm gần đây, ngành Bưu Điện đã và đang từng bước hiện đại hoá mạng lưới Bưu chính - Viễn thống, nâng cao chất lượng phụ vụ, triển khai dịch vụ thông tin liên lạc mới phục vụ đắc lực cho chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Về cơ chế quản lý, Ngành Bưu Điện đã chuyển từ bao cấp sang hạch toán kinh doanh toàn ngành, bảo đảm và phát triển vốn, thực hiện phân cấp rộng rãi cho các Bưu điện tỉnh thành tạo điều kiện chủ động sản xuất kinh doanh cho các cơ sở thích ứng với cơ chế thị trường.
Trong điều kiện đó, công tác tổ chức lao động đồi hỏi phải được cải tiến và sắp xếp cho phù hợp với yêu cầu và tình hình phát triển mạng lưới. Từ đó năng suất lao động tăng - chất lương tố - giá thành hạ là hiệu quả đem lại của việc tổ chức lao động khoa học, đồng thời cũng là nhân tố quyết định cải thiện đời sống tăng thu nhập cho người lao động.
Tôi được nhà trường giao nhiệm vụ viết thiết kế tốt nghiệp với đề tài “Tổ chức lao động tại một điểm thông tin” (Bưu cụ thực hành Nguyễn Trãi). Bằng những kiến thức tiếp thu được trong quá trình học tập và thực tiễn tại cơ sở, tôi cố gắng thu thập số liệu và thực hiện đề tài này.
Để hoàn thành được đề tài này là có sự giúp đỡ chân thành của thầy Bùi Xuân Phong trong suốt thời gian thiết kế tốt nghiệp. Qua đây tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thày Bùi Xuân Phong đã giúp đỡ tôi trong thời gian tôi thực hiện song đề tài này.
Với thời gian ngắn mà nội dung đề tài lại phức tạp nên nội dung thiết kế đề tài khó tránh khỏi những thiếu xót nhất định. Qua việc thiết kế đề tài này tôi chỉ mong muốn được đón góp một phần rất nhỏ vào việc hoàn thiện công tác tổ chức lao động tại điểm thông tin.
Chương I những vấn đề chung về tổ chức lao động tại một điểm thông tin (Bưu cục)
1.1 Công tác tổ chức lao động:
1.1.1. Khái niệm tổ chức lao động:
a. Khái niệm về lao động:
Là hoạt động có mục đích của con người, là quá trình sức lao động tác động lên đối tượng lao động thông qua tư liệu sản xuất nhằm tạo nên những vật phẩm, những sản phẩm theo ý muốn. Vì vậy lao động là điều kiện cơ bản và quan trọng nhất trong sự sinh tồn và phát triển của xã hội loài người.
Quá trình lao động là quá trình kết hợp giữa 3 yếu tố của sản xuất; Đó là : Sức lao động - Tư liệu lao động - Đối tượng lao động, mà trước hết là cong người với tư liệu lao động. Trong lao động một người có thể sử dụng một hay nhiều công cụ lao động, có thể vận hành điều khiển một hay nhiều thiết bị mà mỗi loại thiết bị có một mức độ hiện đại khác nhau.
* Mối quan hệ giữa tư liệu lao động và sức lao động bao gồm:
- Yêu cầu của máy móc thiết bị với trình độ kỹ năng của người lao động.
- Yêu cầu điều khiển và công suất thiết bị với thể lực con người.
- Tính chất đặc điểm cần thiết tác động về tâm sinh lý của người lao động.
- Số lượng công cụ thiết bị so với số lượng lao động các loại:
* Mối quan hệ giữa người với người trong lao động gồm:
- Quan hệ giữa lao động quản lý và lao động sản xuất.
- Quan hệ giữa lao động công nghệ và lao động phụ trợ.
- Kết cầu từng loại lao động và số lượng lao động trong kết cầu đó.
* Mối quan hệ giữa còn người lao động với môi trường xung quanh:
Mọi quá trình lao động điều khiển diễn ra trong một không gian nhất định vì thế con người có mối quan hệ mật thiết với môi trường xung quanh như sức gió, nhiệt độ, thời tiết, địa hình, khí hậu.
Nghiên cứu, nắm được và hiểu rõ các mối quan hệ trên để đánh giá một cách chính xác là vấn đề rất quan trọng làm cho quá trình sản xuất đạt được hiệu quả tối ưu đồng thời đem lại cho con người những lợi ích ngày càng tăng về vật chất và tinh thần, con người ngày càng phát triển toàn diện và có phúc lợi ngày càng cao.
b. Tổ chức lao động:
Là quá trình sắp xếp một cách hợp lý. Các mối quan hệ giữa 3 yếu tố của sản xuất nhằm tạo ra một khối lượng sản phẩm nhất định và chất lượng sản phẩm cần thiết theo ý muốn:
c. Tầm quan trọng của tổ chức lao động :
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa lao động là nguồn chủ yếu để nâng cao tích luỹ, phát triển kinh tế và củng cố chế độ. Quá trình sản xuất đồng thời là quá trình lao động để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, quá trình sản xuất chỉ xảy ra khi có sự kết hợp giữa 3 yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động của con người, thiếu một trong 3 yếu tố đó quá trình sản xuất không thể tiến hành được. Tư liệu lao động và đối tượng lao động chỉ tác dụng được với nhau và biến đổi thành sản phẩm khi có sức lao động của con người tác động vào. Vì vậy lao động của con người luôn là yếu tố chính của quá trình sản xuất, từ đó chúng ta có thể rút ra được tầm quan trọng của lao động trong việc phát triển sản xuất như sau:
+ Phát triển sản xuất nghĩa là phát triển 3 yếu tố của quá trình sản xuất cả về qui mô, chất lượng và trình độ sản xuất, do đó tất yếu phải phát triển lao động phát triển lao động không có nghĩa là đơn thuần là tăng số lượng lao động mà phải phát triển hợp lý về cơ cấu ngành nghề, về số lượng và chất lượng lao động cho phù hợp với sự phát triển của sản xuất, tức là phát triển lao động phải tiến hành đồng thời với cách mạng kỹ thuật:
+ Cách mạng khoa học kỹ thuật là những thành tựu của khoa học, kỹ thuật hiện đại, tiên tiến xác lập được những hình thức lao động hợp lý hơn trên quan điểm giảm nhẹ sức lao động, cải thiện đối với sức khoẻ con người, điều kiện vệ sinh, môi trường, bảo vệ, tâm sinh lý và thẩm mỹ trong lao động.
+ Lao động là nguồn chủ yếu để nâng cao tích luỹ phát triển kinh tế, cải thiện vật chất và tinh thần của toàn xã hội loài người. Vì vậy tổ chức lao động hợp lý hay không sẽ ảnh hưởng đến các vấn đề sau:
ã Quyết định trực tiếp đến năng suất lao động cao hay thấp.
ãảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và giá thành sản phẩm.
ã Đảm bảo thực hiện tốt hay xấu đến các chỉ tiêu nhiệm vụ kế hoạch và công tác khác.
ã Quan hệ sản xuất trong xí nghiệp có được hoàn thiện hay không, có ảnh hưởng đến việc thúc đẩy sản xuất phát triển
d. Khái niệm tổ chức lao động.
Kết quả hoạt động của con người trong quá trình sản xuất chỉ đạt được cao nhất khi công việc của họ được tổ chức trên cơ sở khoa học, tổ chức lao động chỉ thực sự là khoa học khi nó được xem xét ứng dụng những thành tựu khoa học khi nó được xem xét ứng dụng những thành tựu khoa học và những kinh nghiệm tiên tiến cho việc thiết lập quá trình lao động và làm tốt hệ tống con người, tư liệu lao động và môi trường lao động. Cần gạt bỏ ngăn ngừa những tác động không tốt của máy móc kỹ thuật và môi trường lên người lao động.
Vì vậy trong điều kiện hiện nay tổ chức lao động khoa học cần được coi là việc tổ chức lao động dựa trên những thành tựu khoa học và kinh nghiệm tiến tiến. Việc ứng dụng chúng một cách có hệ thống vào quá trình sản xuất cho phép liên kết một cách tốt nhất kỹ thuật và con người trong quá trình sản xuất nhằm sử dụng có hiệu quả nhất những tiềm năng kỹ thuật và con người, tăng năng suất lao động và dần dần biến lao động thành nhu cầu sống đầu tiên. Nếu trước kia chúng ta hiểu việc hoàn thiện hoá tổ chức lao động như là loại bỏ những chỗ chật hẹp trong sản xuất thì tổ chức lao động khoa học là nâng cao trình độ tổ chức lao động chung mà không thể đạt được nếu tiến hành những biện pháp riêng lẻ tản mạn. Khi giải quyết các vấn đề của tổ chức lao động khoa học cần dựa vào những nghiên cứu khoa học thực nghiệm và tính toán những tác động của môi trường sản xuất lên tâm sinh lý của người lao động.
1.1.2. Cơ sở và nguyên tắc:
Cơ sở để tiến hành nghiên cứu qui định và thực hiện các nội dung của tổ chức lao động bao gồm các qui luật tăng năng suất lao đông, qui luật phát triển các kế hoạch nền kinh tế quốc dân. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa mục đích của sản xuất là thoả mãn nhu cầu ngày càng cao về vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. Do đó những nguyên tắc tổ chức lao động khoa học ngoài những nguyên tắc chung về quản lý kinh tế như nguyên tắc tập chung dân chủ, nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc kế hoạch, nguyên tắc quan tâm và trách nhiệm bằng kích thích vật chất, nguyên tắc tiết kiệm cần phải chú ý đến các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc mức đồng đều.
Quy định tối ưu chế độ phục vụ nơi làm việc.
Nguyên tắc tiết kiệm không có tác động thừa.
Làm việc kiên cử động và tác động lao động.
Làm việc theo một trình tự hợp lý trên cơ sở qui hoạch hợp lý nơi làm việc và hoàn thiện trang bị công nghệ.
Phù hợp giữa tính chất các cử động và động tác lao động và các đặc điểm giải phẫu và sinh lý của cơ thể người lao động.
Phù hợp giữa trình độ người lao động với tính chất của công việc thực hiện.
Định mức lao động có căn cứ kỹ thuật và tâm sinh lý lao động.
Phù hợp giữa mức lao động và các điều kiện kỹ thuật tổ chức sản xuất.
Vận dụng đồng thời các nguyên tắc trên và luôn luôn quan tâm đảm bảo các nguyên tắc đó trong quá trình phát triển sản xuất là mọt yêu cầu không thể thiếu được của nội dung lãnh đạo sản xuất.
1.1.3. Nhiệm vụ và nội dung:
a. Nhiệm vụ:
Trong điều kiện xã hội phát triển thì việc tổ chức lao động nói chung và tổ chức lao động tại 1 Bưu cục nói riêng thực hiện 3 nhiệm vụ chính sau: Kinh tế - Tâm sinh lý - Xã hội.
- Kinh tế: Phải kết hợp một cách tốt nhất giữa con người và kỹ thuật trong quá trình sản xuất để ứng dụng có hiệu quả nhất những tiềm năng lao động và vật chất với mục đích không ngừng tăng lao động, nâng cao chất lượng lao động, giảm giá thành sản phẩm.
- Tâm sinh lý: Tạo điều kiện lao động một cách bình thường, nâng cao sức hấp dẫn trong lao động, với nội dung phong phú nhằm mục đích đem lại khả năng lao động cao của con người và giữ gìn sức khoẻ của họ.
- Xã hội: Tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, biến lao động thành nhu cầu sống đầu tiên trên cơ sở dung hoà giáo dục chính trị với giáo dục lao động.
b. Nội dung:
Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trên, tổ chức lao động có những nội dung sau:
- Hoàn thiện các hình thức phân công và hiệp tác lao động, cụ thể là phải đạt được yêu cầu sao cho nội dung và hình thức của tổ chức phân công lao động phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phù hợp với những yêu cầu cụ thể của kỹ thuật.
- Cải tiến việc tổ chức và phục vụ nơi làm việc, tổ chức nơi làm việc với các biện pháp nhằm tạo ra điều kiện vật chất kỹ thuật để tiến hành quá trình sản xuất với hiệu suất cao, bảo đảm sức khoẻ và khả năng làm việc lâu dài của người lao động.
- Hợp lý hoá các thao tác và phương pháp lao động. Bố trí nơi làm việc soa cho hợp lý nhất về mặt không gian khi sắp xếp các yếu tố vật chất của sản xuất và các đối tượng lao động nhằm thực hiện lao động với năng suất cao.
- Hoàn thiện các phương pháp định mức lao động, mở rộng định mức có căn cứ khoa học. Nghiên cứu thời gian lao động, kết cấu mức thời gian, phương pháp định mức lao động, phân tích khảo sát xây dựng định mức mới nếu có thời gian.
- Quyết định và không ngừng hoàn thiện các hình thức kích thích vật chất và tinh thần đối với người lao động. Phát động tinh thần thi đua xã hội chủ nghĩa, có sơ kết tổng kết, khen thưởng kịp thời, đề cao kỷ luật lao động, bồi dưỡng nghiệp vụ...
+ Đào tạo và nâng cao trình độ kỹ thuật chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động.
+ Đảm bảo an toàn lao động và không ngừng cải thiện điều kiện lao động, hợp lý hoá các trình độ lao động và nghỉ ngơi.
+ Tổ chức ca kíp làm việc và thời gian làm việc.
+ Xác định cấp bậc công việc.
+ Kỹ thuật lao động và phát huy tính sáng tạo của người lao động.
1.1.4. áp dụng tổ chức lao động khoa học trong ngành Bưu điện
Trong các đơn vị sản xuất ở nước ta, tình trạng nghèo nàn về trang thiết bị, dụng cụ lạc hậu vẫn còn là phổ biến. Hiện nay chúng ta đang dần dần nâng cấp cải thiện thiết bị thì việc tận dụng hiểu quả trang thiết bị trong điều kiện sẵn có là xu hướng chúng. Chính vì thế công tác tổ chức lao động khoa học trở thành rất cần thiết. Thực hiện đúng đắn tổ chức lao động sẽ đem lại sự tăng lên không ngừng khả năng sản xuất của người lao động. Bên cạnh đó, ta thấy trong nhiều trường hợp việc tổ chức lao động không hợp lý, thiếu khoa học đã gây ra lãng phí về thời gian, sức khoẻ, trí tuệ cũng như của cải vật chất cho xã hộ và người lao động.
Tổ chức lao động khoa học trong ngành Bưu điện có nội dung như các ngành dịch vụ nói chung nhưng khác về phương pháp và cách thức giải quyết vấn đề trên cơ sở phân tích khoa học và vận dụng những thành tưu tiến bộ khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất tiên tiến.
Những nội dung chủ yếu của tổ chức lao động khoa học gồm có:
- Phân công và hiệp tác lao động.
* Phân công lao động:
Là quá trình tách riêng các hình thức khác nhau trong hoạt động lao động, tức là đem quá trình lao động căn cứ vào những điều kiện nhất định mà phân chia ra các loại công việc khác nhau.
Ta có các hình thức phân công lao động sau:
+ Phân công lao động chung:
Là quá trình tách riêng các hình thức hoạt động khác nhau trong phạm vi toàn xã hội, hình thức các ngành kinh tế hoá chất, xây dựng, luyện kim, Bưu điện...
+ Phân công lao động đặc thù:
Là quá trình tách riêng các hoạt động lao động khác nhau trong phạm vi một ngành kinh tế hình thành các nghề. Trong ngành Bưu điện có phân công lao động đặc thù như khai thác Bưu, khai thác điện, bảo đảm sửa chữa dây máy...
+ Phân công lao động cá biệt.
Là quá trình tách riêng các hoạt động lao động khác nhau trong phạm vi một xí nghiệp, yêu cầu của phân công lao động cá biệt là tỷ trọng thời gian tác nghiệp thực tế trong tổng quĩ thời gian làm việc phải cao và thời gian kéo dài của chu kỳ sản xuất phải giảm. Đối với ngành Bưu điện, do đặc điểm của ngành (lượng tải đi - đến - quá giang không đồng đều, sản phẩm Bưu điện không có thư phẩm, mang thông tin trải rộng...) nên phân công lao động cá biệt có các hình thức sau:
1. Phân công lao động toàn năng:
Tức là kiêm nhiệm chức năng của một nghề và một số chức năng của nghề khác được ứng dụng ở những nơi lượng tải nhỏ như các Bưu cục khu vực, luyện, thị trần và đối với những lao động làm nhiệm vụ thay thế, nghỉ bù, nghỉ phép... thì người công nhân đó phải làm việc toàn năng mới có thể thay thế được.
ở hình thức phân công lao động này thì có các hình thức lao động sau:
+ Công nhân khai thác Bưu điện:
Làm toàn bộ chức năng của nghề khai thác Bưu điện (khai thác báo, thoại, bưu chính - phát hành báo chí) và đảm bảo việc sử dụng bảo quản sử lý các hư hỏng thông thường cho các thiết bị khai thác nhằm đảm bảo cho qui trình thông tin liên tục có chất lượng chức danh này bố trí ở các bưu điện khu vực, Bưu điện huyện thị trấn và làm nhiệm vụ thay thế lao động nghỉ bù, nghỉ phép.
+ Công nhân dây máy:
Làm toàn bộ chức năng của nghề dây trần, cáp âm tần, máy tổng đài, thuê bao nhằm sử dụng hợp lý sức lao động đảm bảo chất lượng các thiết bị thuê bao.
+ Công nhân nguồn và điều hoà khí hậu
Làm các chức năng của thợ dẫn phát điện, máy nổ, ắc qui, điều hoà khí hậu đảm bảo việc cung cấp nguồn cho các thiết bị thông tin bằng mọi nguồn năng lượng được thường xuyên, kịp thời.
2. Phân công lao động chuyển nghề:
Là kiêm các chức năng trong sản xuất từng nghề như trong sản xuất Bưu chính - phát hành báo chí hoặc sản xuất điện chính (kiêm khai thác điện thoại, điện báo). Hình thức phân công này áp dụng ở các bưu cục, các đài có khối lượng tương đối lớn nhưng chưa đủ sức để phân công chuyên sau: Trong hình thức này có các chức danh sau:
+ Công nhân khai thác Bưu chính:
Làm các chức năng của khai thác Bưu chính - phát hành báo chí bảo dưỡng và xử lý các hư hỏng thông thường của các thiết bị Bưu chính - Phát hành báo chí (trừ các loại máy tự động ).
+ Công nhân khai thác điện chính:
Làm các công tác khai thác điện thoại, điện báo bằng mọi phương thức bảo quản, xử lý các hư hỏng thông thường của các thiết bị điện báo.
3. Phân công lao động chuyên sâu:
Là làm các công việc theo loại sản phẩm hoặc loại thiết bị hình thức phân công này áp dụng ở những nơi có khối lượng sản phẩm thông tin lớn và liên tục.
Tóm lại phân công lao động trong ngành Bưu điện do khối lương công việc không đồng đều nên còn bao hàm khái niệm điều độ lao động trong ca ( giờ nhiều việc nhiều người, tí việc ít người), điều độ lao động trong tháng (thay nghỉ phép, lễ, chủ nhật) và điều độ lao động trong năm. Phân công lao động phải gắn liền với sự thay đổi về tổ chức sản xuất và tổ chức lao động, đó là công việc phải được xem xét để có kế hoạch tiến hành đồng thời với kế hoạch sản xuất hàng năm.
* Hiệp tác lao động:
Là sự phối hợp các dạng lao động trong một dây chuyền sản xuất. Quá trình hiệp tác lao động luôn gắn liền với sự phân công lao động, phân công lao động càng hợp lý thì hiệp tác lao động càng chặt chẽ và điều này góp phần củng cố sự phân công lao động; phân công lao động càng sâu thì hiệp tác lại động càng rộng. Nhiệm vụ của hiệp tác lao động là qui định một cách có kế hoạch và duy trì một cách tự giác tỷ lệ hợp lý giữa các hình thức lao động chuyên môn hoá xác định các mối quan hệ sản xuất hợp lý giữa các bộ phận cấu thành của xí nghiệp và từng người lao động.
Do đặc điểm sản xuất cua ngành Bưu điện đòi hỏi phải có sự hợp tác lao động cao trên toàn mạng lưới. Vì vậy hình thức hiệp tác cơ bản trong sản xuất thông tin bưu điện là chế độ điều khiển nghiệp vụ, chế độ điều độ thông tin, các qui trình qui phạm kỹ thuật, các chế độ thủ tục khai thác. Các qui định về tổ chức lao động như tổ chức ca làm việc quy định nội dung về tổ chức lao động như tổ chức ca làm việc quy định nội dung kỹ thuật và tổ chức sản xuất, đó là các hình thức hiệp tác nhiều người, nhiều nghề, nhiều chức danh trên toàn bộ dây truyền sản xuất trong phạm vi một đơn vị. Ngoài ra còn có hình thức hiệp tác có bảo đảm cho quá trình sản xuất có đủ điều kiện tiến hành liên tục.
- Tổ chức và phục vụ nơi làm việc:
Nới làm việc là khu vực hoạt động của một hay nhiều nhóm công nhân được trang bị những phương tiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ sản xuất được phân công.
Mọi hoạt động đều diễn ra tại nơi làm việc, hiệu quả lao động đạt được trong quá trình sản xuất có một phầm đóng góp của việc tổ chức và phụ vụ tốt nơi làm việc. Vì vậy việc cải tiến tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc. Vì vây việc cải tiến tổ chức và phục vụ nơi làm việc đã trở thành một nhiệm vụ thường xuyên của tổ chức lao động nhằm đạt các yêu cầu trang thiết bị đầy đủ những phương tiện vật chất kỹ thật cần thiết, sắp xếp hợp lý các loại máy móc thiết bị và đồ dùng trong diện tích hiện có, tạo ra tư thế làm việc thoả mái trong môi trường thuận lợi sau sẽ ánh sáng đầy đủ, màu sắc thích hợp, không khí phải thoáng mát không được ô nhiễm... Cung cấp các phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết cho sản xuất được kịp thời chủ động có kế hoạch đồng bộ và đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn lao động.
Tổ chức nơi làm việc phải quan tâm đến việc bố trí nơi làm việc soa cho hợp lý tiết kiệm các động tác tới mức cao nhất, bảo đảm quỹ đạo chuyển động ngắn nhất. Trong tổ chức phục vụ nơi làm việc cần lưu ý thực hiện chế độ phụ vụ theo tiêu chuẩn định mức theo kế hoạch và có tính đến dự phòng nhằm đảm bảo tính cân đối nhịp nhàng và đồng bộ trong sản xuất hạn chế đến mức tối đa giờ ngừng việc, ngừng việc do ách tắc bởi thiếu sót của công tác phục vụ nơi làm việc gây nên.
- Hoàn thiện công tác định mức lao động:
Công tác định mức lao động là cơ sở và nội dung của công tác tổ chức lao động khoa học, là lĩnh vực hoạt động, xây dựng và thực hiện các mức lao động trong tất cả các dạng lao động, định mức lao động là xác định những hao phí lao động cần thiết cho việc thực hiện những thao tác hoặc những công việc cụ thể trong điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định, cường độ lao động bình thường và tổ chức lao động hợp lý để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hay hoàn thành một công việc nhất đinh, việc xác định mức lao động cho phép xác định mức tiến bộ của những hình thức tổ chức lao động trên cơ sở đối chiếu những hao phí lao động khi thực hiện những công việc trong những phương án tổ chức lao động khác nhau.
Mức lao động có các dạng như: Mức thời gian, mức sản lượng, mức phục vụ, mức quản lý... Để hoàn thiện hoá định mức lao động cần thiết dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
+ Mức lao động đề ra phải có luận chứng khoa học có xét tới các yếu tố kỹ thuật, tâm sinh lý, xã hội và kinh tế.
+ Khi xây dựng định mức người ta thường vận dụng các mức lao động tiên tiến, trung bình tiên tiến để tiến bộ kịp thời với sự phát triển của sản xuất có tính đến điều kiên lao động và trình độ cảu công nhân đòi hỏi người công nhân phải có mức độ cố gắn vươn lên.
+ Định mức lao động đề ra phải tạo điều kiện cho người công nhân phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức một cách hợp lý, tránh tình trạng mức đề ra quá thập hoặc quá cao không phù hợp với thực tế.
1.2 Đặc điểm sản xuất BCVT và tổ chức lao động cho một điểm thông tin.
1.2.1 Đặc điểm sản xuất BCVT:
a. Tính chất, đặc điểm cơ bản của ngành Bưu điện:
Bưu điện là một ngành sản xuất vật chất trong nền kinh tế quốc dân và cũng là một ngành công nghiệp nên có đầy đủ các đặc điểm chung như các ngành sản xuất vật chất khác, nhưng đồng thời Bưu điện còn có những đặc điểm mang tính chất đặc thù riêng mà các ngành sản xuất vật chất khác không có. Những đặc điểm riêng này có ảnh hưởng lớn về mặt kinh tế đến việc tổ chức lao động.
Ngành Bưu điện là ngành truyền đưa tin tức theo các phương thức khác nhau: Thư từ, điện báo, điện thoại, truyền thanh, truyền hình và truyền đưa số liệu. Ngoài ra còn có những hoạt động mang tính hỗ trợ cung cấp trang thiết bị cho sản xuất kinh doanh như: Các xí nghiệp, cung ứng vật tư, xây lắp...sử dụng thiết bị lao động như: dịch vụ thư chuyển từ, điện chuyển tiền, phát hành báo chí...
* Đặc điểm 1:
Sản phẩm của ngành Bưu điện khác sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác: Nó không phải là vật thể mới, không phải là hàng hoá mà là hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức. Đối tượng lao động trong quá trình sản xuất của ngành là tin tức nên trong quá trình sản xuất ra sản phẩm Bưu điện không dùng đến nguyền vật liệu cơ bản.
* Đặc điểm 2:
Quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Bưu điện luôn gắn liền với nhau. Trong quá trình truyền đưa sản phẩm Bưu điện đến người tiêu dùng đòi hỏi phải chính xác chất lượng đạt 100% không cho phép có thứ phẩm và phế phẩm.
* Đặc điểm 3:
Sản phẩm Bưu điện không có sự biến đổi nào khác ngoài sự biến đổi không đồng đều theo thời gian, việc rút ngắn thời gian và không gian là một đặc điểm quan trọng của quá trình truyền đưa tin tức. Điều đó có nghĩa là sản phẩm Bưu điện đòi hỏi tốc độ thông tin nhanh chóng, nếu không thì sẽ mất hoàn toàn hiệu quả có ích của sản phẩm hay mật một phần giá trị của nói, mọi sự thay đổi khác về hình thức, nội dung của đối tượng lao động đều ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
* Đặc điểm 4:
Để sản xuất ra một sản phẩm Bưu điện hoàn chỉnh phải có ít nhất từ 2 cơ sở bưu cục tham gia tử lên. Như vậy phải xây dựng mạng lới thông tin thống nhất, con người làm công tác truyền đưa tin tức phải có sự phối hợp chặt chẽ trên mạng lưới.
Những đặc điểm kinh tế đặc thù trên đây làm cho sản phẩm Bưu điện mang tính toàn ngành, sản phẩm của ngành Bưu điện là toàn bộ hiệu quả có ích của những giai đoạn sản xuất riêng lẻ trong quá trình sản xuất hoàn chỉnh - quá trình truyền đưa tin tức.
Trong quá trình hoàn thành một sản phẩm, truyền đưa một tin tức có những Bưu điện, xí nghiệp đóng vai trò bắt đầu chấp nhận, xử lý, vận chuyển đến Bưu điện hoặc công ty, xí nghiệp từ đó giao cho nhận, như vậy đã hoàn thành một sản phẩm với một dây truyền khép kín. Khi sản phẩm bắt đầu hoặc tới điểm đến, có những Bưu điện hoặc xí nghiệp là nơi quá giang. Nói chung quá trình này là sản phẩm đi - đến - quá giang, do đó có những xí nghiệp Bưu điện thu được doanh thu nhiều hay ít.
Để nghiên cứu những tính chất đặc biệt trên ta cần xác định xem ngành Bưu điện thuộc lĩnh vực lao động nào. Trong quá trình sản xuất ngành Bưu điện không tạo ra vật phẩm cụ thể nào hay nói cách khác sản phẩm Bưu điện không thể hiện dưới dạng vật thể mà ngành Bưu điện cung cấp dịch vụ hay tạo ra một giá trị sử dụng. Đó là hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức từ người đưa đến người nhận như vận chuyển thư từ, báo chí, chuyển phát điện báo, điện thoại. Chương trình truyền thành truyền hình, truyền số liệu. Hiệu quả có ích này cần thiết cho tất cả các sinh hoạt và hoạt động của con người kể cả trong lĩnh vực sản xuất ra sản phẩm và dịch vụ, trong lĩnh vực tiêu dùng xã hội và tiêu dùng cá nhân.
Trong việc sản xuất ra sản phẩm. Ngành Bưu điện có sự tham gia của người lao động, của đối tượng lao động và của công cụ sản xuất. Do lao động của công nhân viên mà ngành Bưu điện đã tạo ra những sản phẩm được đưa vào tổng sản phẩm xã hội mà một phần giá trị của nó là do lao động. Cần thiết và lao động thặng dư tạo ra và hình thành thu nhập quốc dân.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh sản phẩm Bưu điên, quá trình sản xuất và quá trình tiêu thụ không tách rời nhau. Trong quá trình tiêu thụ, sản phẩm bưu điện không có gì khác biệt với sản phẩm khác. Nếu sản phẩm được tiêu dùng trong sản xuất ra những hàng hoá khác thì giá trị của nó sẽ chuyển sang giá trị của hàng hoá này. Nếu nó được dùng cho nhu cầu cá nhân thì nó sẽ mất đi cùng với sự tiêu dung.
Khi sản xuất sản phẩm Bưu điện tức là việc chuyển đưa tin tức (thực hiện dịch vụ ) thì tin tức là đối tượng lao động mà lao động của công nhân viên bưu điện có sự tham gia của tư liệu sản xuất tác động trực tiếp vào. Muốn trở thành giáo trị sử dụng (thoả mãn nhu cầu), đối tượng lao động trong ngành Bưu điện là tin tức chỉ thị biến đổi theo thời gian, tức là sự chuyển dời vị trí, song đó là sự chuyển dời phi vật chất.
b. Chức năng nhiệm vụ của ngành Bưu điện:
Ngành Bưu điện là một ngành thuộc kết cấu hạ tầng của nền kinh tế quốc dân. Kết cầu hạ tầng của nền kinh tế quốc dân bao gồm những ngành có nhiệm vụ tạo ra các điều kiện cần thiết chung cho nền sản xuất xã hội, bảo đảm tính liên tục cho tái sản xuất mở rộng, ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả sản xuất xã hội. Ngành Bưu điện là ngành thuộc kết cấu hạ tầng là bởi vì:
- Ngành Bưu điện tạo ra những điều kiên cần thiết cho tất cả các hoạt động khác, có chức năn phụ vụ cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, thoả mãn nhu cầu về truyền tin tức của xã hội. Vai trò của ngành Bưu điện như một chất xúc tác làm tăng năng suất lao động của xã hội, tăng thu nhập quốc dân thúc đẩy kinh tế phát triển, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư ở nước ta.
- Sự đóng góp của ngành Bưu điện không chỉ đơn thuần ở phần doanh thu hay thu nhập vào tổng sản phẩm xã hội và thu thập doanh thu quốc dân, và điều chủ yếu là lợi ích mà ngành mang lại cho xã hội và cho các nền kinh tế khác.
- Ngành Bưu điện luân là một hệ thống có tác động bao trùm lên toàn bộ lãnh thổ quốc gia đối với mọi hoạt động sản xuất xã hội. Dưới một hệ thống lại có những phân hệ mức độ và phạm vi ảnh hưởng thấp nhỏ hơn, như tất cả đều liên quan gắn bố với nhau mà sự trục trặc ở khâu này sẽ ảnh hưởng qua khâu khác. Điều này lưu ý chúng ta đến sự quản lý tập trung thống nhất cả về tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý từ một trung tâm điều hành trên phạm vi cả nước.
Các bộ phân cầu thành hệ thống thông tin liên lạc phải có cơ cấu thích đáng với những tỷ lệ cân đối kết hợp với nhau thành một tổng thể hài hoà đồng bộ. Khập khiễng trong phát triển một ngành kết cầu hạ tầng sẽ không tránh khỏi việc có thể làm tê liệt cả hệ thống hay từng phân hệ của cấu trúc. Đặc điểm này có liên quan đến vấn đề cần một chiến lược tổng thể phát triển hài hoà nhịp nhàng có cơ cấu đầu tư thích đáng cho từng vùng, từng phân ngành Bưu chính viễn thông và trong từng phân ngành cho từng loại sản phẩm dịch vụ phù hợp với trình tự phát triển kinh tế xã hội cho đất nước, nhu cầu của từng vùng, từng đối tượng người sử dụng các dịch vụ Bưu điện.
Là một ngành kết cấu hạ tầng, Bưu điện phải luôn phát triển đi trước một bước so với hoạt động kinh tế xã hội khác, tăng trưởng kinh tế không thể duy trì được nếu không có đầu tư mạnh vào kết cấu hạ tầng Bưu chính - Viễn thông. Coi nhẹ hoặc chậm trễ trong phát triển các ngành thuộc kết cầu hạ tầng sẽ không tránh khỏi làm tắc nghẽn, trí tuệ các hoạt động sản xuất xã hội từ đó đòi hỏi nhà nước cần có chính sách ưu tiên đầu tư với tỷ lệ thích đáng cho việc phát triển ngành Bưu chính viễn thông.
c. Nhu cầu xã hội đối với việc sử dụng Bưu điện:
Ngành Bưu điện thuộc kết cấu hạ tầng nền kinh tế quốc dân, tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu về thông tin liên lạc của xã hội, cần lưu ý rằng trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ này không thể lấy doanh lợi nhuận của xí nghiệp làm đầu mà còn phải coi trọng tính phụ vụ và ý nghĩa phúc lợi của các hoạt động. Vì vậy đối với một số sản phẩm chính thuộc ngành Bưu chính - Viễn thống mang tính chất phục vụ nhu cầu tối thiểu của người dân, việc định khung giá cước chuẩn trực tiếp do Quốc hội hoặc cơ quan vật giá Chính phủ quyết định, đảm bảo nhu cầu phụ vụ dan cư, còn những sản phẩm còn lại trực tiếp do các doanh nghiệp Bưu chính Viễn thông xây dựng đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
Tính phục vụ xã hội của ngành Bưu điện thể hiện rất rõ. Nhìn vào mạng lưới Bưu điện của một nước, một vùng ta có thể thấy trình độ phát triển sức sản xuất, mức sống vật chất của người dân, mà còn thấy cả trình độ văn hoá, sinh hoạt tinh thần và mối quan hệ giữa người với người trong cộng đồng. Phát triển ngành này luôn luôn đòi hỏi vốn đầu tư lớn lâu thu hồi, lãi suất thấp, thậm chí không lời và phải chấp nhận bù lỗ trợ giá đối với một số sản phẩm mang tính phục vụ cao.
d. Các yếu tố trong tổ chức lao động ở ngành Bưu điện.
Do các đ._.ặc điểm sản xuất của ngành Bưu điện nên tổ chức lao động của ngành Bưu điện có một số nét riêng đặc trưng cho tính đặc biệt của ngành. Ngành Bưu điện tiến hành phân công lao động và hiệp tác lao động theo nội dung phù hợp với yêu cầu đảm bảo tuyệt đối chất lượng thông tin Bưu chính viễn thông, phù hợp với đặc điểm lượng tải đến không đều từng thời điểm, mạng thông tin trải rộng khắp đất nước nên lượng tải ở địa phương khác, thành thị và ở thành thị khác nông thôn tuy theo điều kiện tổ chức cụ thể, tuy theo trình độ và năng lực nghiệp vụ phân công theo năng suất lao động, phân công chuyên nghề.
Trong quá trình sản xuất các xí nghiệp thông tin Bưu điện phải hợp tác lao động chặt chẽ với nhau thì đảm bảo chất lượng thông tin. Ngoài các hình thức hiệp tác phổ biến trên trong tổ chức sản xuất ở đơn vị cần có sự hiệp tác lao động cao và phân phối chặt chẽ trên toàn mạng lưới. Hình thức hiệp tác cơ bản trong sản xuất thông tin Bưu điện là chế độ điều khiển nghiệp vụ và các chế độ điều độ thông tin, các qui trình quy phạm kỹ thuật. Các thể lệ thủ tục khai thác, hợp đồng kinh tế, các qui định về tổ chức ca làm việc, quy định nội dung kỹ thuật lao động sản xuất.
Do khối lượng tin tức đến - đi không đều nên ở các xí nghiệp thông tin Bưu điện có lượng tải không lớn. Vì vậy nên kết hợp phân công chuyên nghề với phân công toàn năng, riêng ở nơi có lượng tải tương đối lớn thì kết hợp phân công chuyên nghề với phân công chuyên sâu và chuyên việc...
Việc tổ chức bố trí ca kíp trong xí nghiệp thông tin Bưu điện rất phong phú và đặc biệt hơn các xí nghiệp công nghiệp khác. Bên cạnh qui định giờ bắt đầu, giờ kết thúc khối lượng trong ca, chế độ trách nhiệm của ca, tổ chức ca trong xí nghiệp thông tin Bưu điện còn phải bảo đảm những nguyên tắc của ngành như giờ nhiều việc nhiều, người ít việc ít, không có việc cũng phải có người sẵn sàng phục vụ nhu cầu thông tin, đảm bảo lưu thoát hết khối lượng tin tức theo thời gian kiểm tra định trước đảm bảo chất lượng thông tin.
Lượng tải thông tin dao động theo giờ trong ngày, thao ngày trong tuần, theo tuần trong tháng, theo tháng trong năm dựa vào định mức lao động của ngành và căn cứ vào sự dao động của tải mà xác định lương lao động cần thiết trong ca, trong ngày, trong tuần, trong và trong năm. Từ đó xây dựng phương án điều độ lao động, tính toán và phân bố lao động chế độ một ngày nghỉ trong tuần, ở chế độ nghỉ phép trong năm và tính toán số lao động trong biên chế hợp lý.
1.2.2 Tổ chức lao động khoa học cho một điểm thông tin.
Do những đặc điểm trên, đối với điểm thông tin nói chúng và Bưu cục Nguyễn Trãi nói riêng trong quá trình sản xuất cần có sự hiệp tác lao động chặt chẽ để đảm bảo chất lượng thông tin. Hình thức hiệp tác cơ bản là chế độ điều khiển nghiệp và các chế độ điều độ thông tin, các quy trình, thể lệ thủ tục khai thác, các qui định về tổ chức ca làm việc....
Do khối lượng tin tức đi; đến không đều nên lượng tải không lớn. Vì vậy nên kết hợp phân công chuyên nghề với phân công toàn năng.
Việc bố trí ca kíp phong phú: Bên cạnh qui định giờ bắt đầu, giờ kết thúc, khối lượng trong ca, chế độ trách nhiệm của ca, tổ chức ca còn phải đảm bảo những nguyên tắc của ngành như giờ nhiều việc việc nhiều người, giờ ít việc ít người, không có việc cũng phải có người sẵn sàng phụ vụ nhu cầu thông tin, đảm bảo lưu thoát hết khối lương tin tức theo thời gian kiểm tra định trước, đảm bảo chất lượng thông tin.
Lượng tải thông tin dao động theo giờ trong ngày, theo ngày trong tuần, theo tuần trong tháng, theo tháng trong năm, dựa vào định mức lao động của ngành và căn cứu vào sự dao động của tải mà ta xác định lượng lao động cần thiết trong ca, trong ngày, trong tuần, trong tháng và trong năm. Từ đó xây dựng phương án điều động lao động, tính toán và phân bổ lao động chế độ 1 ngày nghỉ trong tuần, chế độ nghỉ phép trong năm và tính toán số lao động trong biên chế hợp lý. Đồng thời ứng các phương pháp thống kế toán nghiên cưu sản lượng và đề xuất tổ chức lao động khoa học.
1.3. Các phương pháp tính toán và lựa chọn phương pháp tính sản lượng.
1.3.1. Một số phương pháp thường dùng để xác định sản lượng.
I. Một số phân phối lý thuyết:
1. Phân phối nhị thức:
a) Công thức:
Giả sử thực hiện m phép thử độc lập. Trong mỗi phép thử biến cố A xuất hiện với xác suất P(A)= p. Khi đó xác suất để biến cố A xuất hiện đúng x lần trong m phép thử được xác định bằng công thức :
P(x) = px (1-p)m-x (1-1)
Trong đó: x: Các đại lượng ngẫu nhiên có thể nhận các giá trị 0, 1, 2, 3, ... m
(1-p): Xác suất không xuất hiện biến cố A trong mỗi phép thử (1-p) = q
: Các hệ số của phân phối nhị thức (tổ hợp chập x của tập hợp gồm m phần tử) nó được xác định:
Như vậy: P(x) = . px (1-p)m-x
b) Tính chất (không chứng minh):
Tổng các xác suất tính từ mọi giá trị có thể của x bằng 1.
- Nếu p = q = 0,5 có phân phối nhị thức đối xứng. Nếu p ạ q có phân phối nhị thức không đối xứng.
- Các giá trị của hệ số nhị thức luôn có tính chất đối xứng và có thể biểu diễn dưới dạng “tam giác” Pascal.
c) Các tham số đặc trưng:
- Số bình quân: = mp
- Phương sai : d2 = mpq
- Độ lệch chuẩn: dx =
2. Phân phối Poatson.
Trong phân phối nhị thức khi m lớn, việc xác định các giá trị P(x) rất tốn kém thời gian. Để khắc phục tình trạng đó, có thể sử dụng phân phối Poatson thay thế. Điều kiện thay thế một cách hợp lý là xác suất p hoặc q khá bé và m tương đối lớn.
a) Công thức:
Đặt l = mp và lúc đó xác suất để biến cố A nào đó xuất hiện đúng x lần có thể xác định bằng công thức:
P(x) = (1-2)
Trong đó: e = 2,718 ... Cơ số của lôgarit
x = 0, 1, 2 ... Đại lượng ngẫu nhiên rời rạc
b) Tính chất:
Tổng các xác suất tính từ mọi giá trị có thể của x bằng 1
Việc xác định các giá trị P(x) đã được ghi sẵn trong bảng...
c) Các tham số đặc trưng:
- Số bình quân:
- Phương sai :
- Độ lệch chuẩn :
3. Phân phối chuẩn.
Phân phối chuẩn sử dụng để xét các đại lượng ngẫu nhiên liên tục.
a) Phương trình đường cong phân phối chuẩn:
- Phân phối chuẩn là 1 phân phối liên tục trên đồ thị các tung độ của đường cong được xác định:
f(x) = (1-3)
Trong đó: p = 3,14159, e = 2,718
x: Đại lượng ngẫu nhiên liên tục có thể lấy mọi giá trị từ - Ơ đến + Ơ
: Số bình quân, dx : Độ lệch chuẩn
Đường cong f(x) có dạng hình chuông đối xứng. Tại giá trị x = tung độ đạt giá trị cực đại.
f(x) = f() =
Đỉnh của hình chuông là P ứng với tung độ cực đại. ở hai bên của P tung độ giảm dần, lúc đầu giảm ít, sau giảm nhiều, đối 2 điểm đối xứng ứng với hoành độ = dx và + dx là 2 điểm uốn đường cong. Sau đó tung độ giảm chậm và cuối cùng bên trái cũng như bên phải đường cong tiệm cận với trục hoành
b) Các tham số đặc trưng:
- Số bình quân : =
- Phương sai :
- Độ lệch chuẩn:
Số bình quân xác định vị trí đường cong trên trục x, còn độ lệch chuẩn xác định hình dáng nhọn hay dẹt của đường cong.
- Vì đường cong đối xứng qua nên số bình quân vừa là mốt vừa là trung vị.
= M0 = Me
Hàm f(x) là hàm mật độ xác suất nên có thể chứng minh được :
II. So sánh phân phối thực nghiệm với phân phối lý thuyết:
1. So sánh bằng tiêu chuẩn l2.
Khi so sánh phân phối thực nghiệm với một phân phối lý thuyết bằng tiêu chuẩn l2 tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Vẽ đồ thị tần số thực nghiệm qua đó phán đoán dạng phân phối lý thuyết. Do có nhiều dạng phân phối lý thuyết, trong đó thường chỉ chọn ra 1 dạng để đem so sánh. Vì vậy để đỡ tốn thời gian phải chọn nhiều lần, ngay từ đầu cần có sự phán đoán tương đối chính xác dạng phân phối lý thuyết. Mỗi dạng phân phối lý thuyết có một đồ thị biểu diễn nhất định. Thông qua đồ thị tần số thực nghiệm sẽ có sự liên hệ và căn cứ hợp lý để phán đoán. Tuy nhiên điều phán đoán được vẫn không thể thay thế được kết luận cuối cùng.
Bước 2: Tính các tham số cần thiết của phân phối thực nghiệm.
- Xác suất p, q (đối với phân phối lý thuyết là phân phối nhị thức)
- Số bình quân
- Độ lệch chuẩn
- Xác suất P(x)
- Tần số lý thuyết n’i
Bước 3: Tính giá trị tiêu chuẩn l2 và so sánh kết luận.
Giá trị tiêu chuẩn l2 được tính theo công thức:
l2 = (1-4)
Trong đó: ni - Tần số thực nghiệm
n’i - Tần số lý thuyết
i = 1, 2, ... k - Thứ tự các tổ.
Chú ý: Khi áp dụng công thức (1-4) cần thoả mãn điều kiện trong tất cả các tổ tần số lý thuyết cũng như tần số thực nghiệm đều phải lớn hơn hoặc bằng 5. Nếu chưa thoả mãn cần phải tiến hành ghép tổ.
Sau khi tính được l2 đem so sánh với giá trị (tra được từ bảng tính sẵn với độ tự do T và hệ số sai lầm cho phép Ps) .
- Nếu l2 < kết luận phân phối thực nghiệm phù hợp với phân phối lý thuyết với hệ số sai lầm Ps.
- Nếu l2 ³ không có cơ sở kết luận phù hợp của 2 phân phối. Lúc đó tạm thời coi phân phối thực nghiệm không phù hợp với phân phối lý thuyết với hệ số sai lầm Ps.
2. So sánh bằng tiêu chuẩn Romanosky:
ở đây các bước tiến hành cũng giống như khi sử dụng tiêu chuẩn l2. Nhưng để đánh giá kết quả và rút ra kết luận cuối cùng không sử dụng mà dùng chỉ tiêu R.
R = (1-5)
Trong đó: l2 - Tính theo công thức (1-4)
T - Độ tự do.
Căn cứ vào giá trị của R để kết luận:
- Nếu R < 3 phân phối thực nghiệm phù hợp với phân phối lý thuyết.
- Nếu R ³ 3 phân phối thực nghiệm không phù hợp với phân phối lý thuyết.
3. So sánh bằng tiêu chuẩn Kolmogorop:
Việc so sánh cũng được tiến hành theo ba bước, trong đó bước 1 và bước 2 giống như khi so sánh bằng tiêu chuẩn l2.
Bước 3: Tính giá trị tiêu chuẩn và so sánh. Tiêu chuẩn Kolmogorop D được xác định bằng công thức:
D = max | Ni - N’i | ( 1-6)
Trong đó: Ni - Tần số thực nghiệm cộng dồn.
N’i - Tần số lý thuyết cộng dồn.
n - Tổng các tần số.
n = ồni = ồn’i
Giá trị của D tính theo công thức (1-6) được so sánh với Dbảng
- Nếu D < Dbảng kết luận với hệ số sai lầm Ps phân phối thực nghiệm phù hợp với phân phối lý thuyết.
- Nếu D ³ Dbảng phân phối thực nghiệm không phù hợp với phân phối lý thuyết.
Khi sử dụng tiêu chuẩn Kolmogorop không cần phải ghép các tổ có tần số nhỏ hơn 5.
1.3.2 Các phương pháp xác định doanh thu
1. Phương pháp mở rộng khoảng cách thời gian.
Phương pháp này được sử dụng khi dãy số có khoảng cách thời gian tương đối ngắn và có quá nhiều mức độ nên không phản ánh được xu hướng phát triển của hiện tượng.
Chẳng hạn: Tổng cộng Doanh thu ngày thành Doanh thu tháng
Tổng cộng Doanh thu tháng thành Doanh thu quý
Tổng cộng quý thành Doanh thu năm.
2. Phương pháp số bình quân trượt (di động).
Số bình quân trượt là số bình quân cộng của 1 nhóm nhất định các mức độ của dãy số được tính bằng cách lần lượt loại trừ các mức độ đầu, đồng thời thêm vào các mức độ tiếp theo, sao cho số lượng các mức độ tham gia tính số bình quân không thay đổi.
Số bình quân trượt áp dụng để điều chỉnh các mức độ trong một dãy số có biến động tăng giảm thất thường nhằm loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố ngẫu nhiên, vạch rõ xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng.
Giả sử có dãy số thời gian: y1; ; y2 ; y3... yn-2 ; yn-1 ; yn
Nếu tính số bình quân trượt cho nhóm 3 mức độ có :
...
Từ đó có thể xây dựng dãy số thời gian gồm các số bình quân trượt
Khi tính số bình quân trượt, vấn đề quan trọng là xác định nhóm bao nhiêu mức độ để tính toán. Giải quyết vấn đề này tuỳ thuộc vào tính chất biến động của hiện tượng và số lượng mức độ của dãy số nhiều hay ít. Nếu các mức độ trong dãy số biến động theo chu kỳ thì số bình quân trượt nên tính với số lượng mức độ có khoảng cách thời gian bằng độ dài chu kỳ. Nếu sự biến động của hiện tượng không lớn và số lượng mức độ của dãy số không nhiều thì có thể tính số bình quân trượt từ 3 mức độ. Nếu sự biến động của hiện tượng lớn và dãy số có nhiều mức độ thì có thể tính số bình quân trượt từ 5 hoặc 7 mức độ. Số bình quân trượt càng được tính từ nhiều mức độ thì càng có tác dụng san bằng ảnh hưởng của các nhân tố ngẫu nhiên. Nhưng mặt khác càng làm giả các mức độ của dãy số bình quân trượt do đó làm giảm khả năng nói rõ xu hướng phát triển của hiện tượng trong suốt thời gian nghiên cứu.
3. Phương pháp hồi qui.
Trên cơ sở dãy số thời gian, tìm một hàm số phản ánh sự biến động của hiện tượng qua thời gian.
Lựa chọn đúng đắn dạng của hàm số phản ánh sự biến động của hiện tượng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải dựa vào việc phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian đồng thời kết hợp với một số phương pháp đơn giản khác.
Với biến là thời gian (t) dạng tổng quát của phương trình hồi qui có thể biểu diễn như sau :
= f(t, a0, a1... an)
Ta có: - Mức độ lý thuyết.
a0, a1... an - Các tham số.
Sau khi đã xác định dạng của phương trình hồi qui thì phải tìm giá trị cụ thể của các tham số a0, a1... an. Các tham số được xác định bằng phương pháp bình phương bé nhất.
ồ(y - )2 ị min
Một số dạng phương trình hồi qui đơn giản thường được sử dụng:
a) Phương trình đường thẳng:
= a0 + a1t
S = ồ(y - )2
= ồ(y - a0 - ait)2 ị min
Sau khi tính các đạo hàm riêng theo a0, a1 và cho chúng bằng O, ta có hệ phương trình chuẩn tắc xác định các tham số a0, a1.
Trong trường hợp này ta thấy t là thứ tự thời gian, cho nên có thể thay t bằng t’ sao cho ồt’ = 0, lúc đó việc tính toán sẽ đơn giản. Khi sử dụng phép biến đổi cần lưu ý:
- Nếu số lượng thời gian là 1 số lẻ thì lấy thời gian đứng ở giữa bằng 0, các thời gian đứng trước lần lượt là -1, -2, ... và thời gian đứng sau lần lượt là 1, 2...
- Nếu số lượng thời gian là 1 số chẵn thì lấy hai thời gian đứng giữa -1 và 1. Các thời gian đứng trước lần lượt là -3, -5... và đứng sau lần lượt là 3, 5.
- Với ồt’ = 0 hệ phương trình trên có dạng:
Từ hệ phương trình này, ta dễ dàng xác định được các tham số a0, a1.
b) Phương trình parabol:
= a0 + a1t + a2t2
S = (y - yt)2
= ồ(y - a0 - a1t - a2t2)2 ị min
Sau khi tính các đạo hàm riêng theo a0, a1 và a2 cho chúng bằng 0, ta có hệ phương trình chuẩn tắc xác định các tham số a0, a1, a2.
Giải hệ phương trình, xác định được các tham số a0,a1,a2 và thay vào phương trình hồi qui.
c) Phương trình hàm mũ:
= a0 .
Phương trình hàm mũ được sử dụng khi các tốc độ phát triển liên hoàn xấp xỉ bằng nhau.
áp dụng phương pháp bình phương bé nhất, ta có hệ phương trình xác định các tham số a1,a0.
4. Phương pháp biểu hiện biến động thời vụ.
Sự biến động của một số hiện tượng kinh tế - xã hội thường mang tính thời vụ, nghĩa là hàng năm, trong thời gian nhất định, sự biến động được lặp đi lặp lại.
Biến động thời vụ thường gây ra tình trạng ảnh hưởng đến hoạt động của ngành và các ngành liên quan. Nghiên cứu biến động thời vụ sẽ giúp cho việc sử dụng trong công tác quản lý kinh tế - xã hội, hạn chế những ảnh hưởng của biến động thời vụ với sản xuất và sinh hoạt xã hội.
Dựa vào số liệu của nhiều năm (ít nhất là 3 năm) xác định tính chất và mức độ biến động thời vụ. Phương pháp thường được sử dụng là tính các chỉ số thời vụ.
Đối với dãy số thời gian tương đối ổn định tức là dãy số trong đó mức độ của hiện tượng từ năm này qua năm khác không có biểu hiện tăng giảm rõ rệt.
Itv =
Trong đó: : số bình quân của các mức dộ các tháng cùng tên.
: số bình quân tất cả các mức độ trong dãy số.
5. Phương pháp nội suy và ngoại suy.
a) Phương pháp nội suy:
Được vận dụng khi cần xác định một mức độ nào đó còn thiếu trong dãy số thời gian, trên cơ sở các mức độ khác trong dãy số đó. Phương pháp này giả thiết các mức độ của hiện tượng biến động theo quy luật đã xác định.
- Nội suy thông qua lượng tăng tuyệt đối bình quân
yi = y1 + y (i - 1)
Trong đó: yi : Mức độ chưa biết ở vị trí thứ i
y1 : Mức độ đầu tiên
y : Lượng tăng tuyệt đối bình quân
(i-1) : Số khoảng cách thời gian giữa mức độ yi và y1
- Nội suy thông qua tốc độ phát triển bình quân.
yi = y1. ()i-1
Trong đó: : Tốc độ phát triển bình quân.
b) Phương pháp ngoại suy:
Đây là phương pháp dự đoán đơn giản các mức độ sẽ xảy ra trong tương lai. Nghĩa là các mức độ không nằm trong phạm vi dãy số đang nghiên cứu.
Cơ sở dự đoán là giả thiết xu hướng phát triển của hiện tượng nghiên cứu trong tương lai giống như xu hướng phát triển đã biểu hiện trong thời kỳ đang quan sát. Phương pháp ngoại suy thường sử dụng kết quả của phương pháp điều chỉnh bằng phương trình toán học, nghĩa là kéo dài đường thẳng hay đường cong lý thuyết về 2 phía để dự đoán xem trong tương lai mức độ của hiện tượng là bao nhiêu.
Phương pháp nội suy và ngoại suy có tính chất giả thiết lớn nên kết quả dự đoán có thể sai lệch ít nhiều so với thực tế. Vì vậy cần phải phân tích lý luận và thực tế mới có giả thiết tương đối chính xác xu hướng phát triển của hiện tượng nghiên cứu. Mặt khác ở đây chỉ xét một yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến các mức độ của hiện tượng là thời gian. Trong khi thực tế còn nhiều yếu tố khác nữa. Chính vì vậy áp dụng phương pháp nội suy và ngoại suy phải hết sức thận trọng mới có kết quả đảm bảo chính xác và tin cậy được.
1.3.3. Lựa chọn phương pháp nghiên cứu.
Từ số liệu khảo sát tại Bưu cục Nguyễn Trãi, qua việc tính toán số liệu, so sánh các phương pháp nêu trên ta thấy sử dụng phương pháp so sánh phân phố thực hiện với phân phố lý thuyết bằng tiêu chuẩn để xác định dạng phân phố sản lượng, từ đó ta xác định sản lượng bình quân.
Sử dụng phương pháp hồi qui để xác định 1 hành số biểu hiện biến động doanh thu theo thời gian và dự báo doanh thu trong những năm tới.
Trên cơ sở đó đánh giá và đề suất phương án tổ chức lao động, tổ chức sản xuất, đầu tư trang thiết bị và chế độ hạch toán nội bộ tại bưu cục Nguyễn Trãi cho phù hợp và khoa học.
Chương 2 Thực trạng lao động bưu cục thực hành nguyễn trãi
2.1. Vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của bưu cục Nguyễn trãi:
Bưu Cục Nguyễn Trãi đặt tại địa điểm thuộc trung tâm đào tạo Bưu chính Viễn thông I nay là Học viện Công Bưu chính Viễn thông là Bưu Cục cấp III thuộc Bưu điện tỉnh Hà Tây, có nhiệm vụ phục vụ cho toàn bộ nhu cầu thông tin Bưu chính Viễn thông của cán bộ, học sinh, sinh viên, cơ quan học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông cũng như nhân dân có nhu cầu, đồng thời là cơ sở kinh doanh: Bên cạnh đó, Bưu cục Nguyễn Trãi còn là một cơ sở thực hành cho học sinh, sinh viên của khoa Quản trị kinh doanh I nói riêng, đồng thời cũng là nơi hướng dẫn thực hành cho học sinh, sinh viên trong Học Viện và học sinh, sinh viên của các trường đại học khác trực thuộc ngành Bưu chính Viễn thông, giúp cho học sinh, sinh viên trong ngành có điều kiện được tham gia thực tế công việc giao dịch và khai thác, nhằm gắn liền lý thuyết với thực hành, giúp cho học sinh, sinh viên ra trường có đủ khả năng trực tiếp tham gia sản xuất góp phần tạo nên sản phẩm hoàn chỉnh, mang lại giá trị sử dụng trong các dịch vụ Bưu chính Viễn thông. Thực hiện đầy đủ các điều lệ, chế độ thể lệ thủ tục, chỉ tiêu nghiệp vụ, phấn đấu nâng cao chất lượng thông tin, tăng năng suất lao động…
Bưu cục Nguyễn Trãi là Bưu cục cấp III thuộc Bưu điện tỉnh Hà Tây nhưng lại là Bưu cục nằm tiếp giáp với Quận Thanh Xuân Hà Nội cho nên nhu cầu thông tin rất đa dạng. Chính vì vậy Bưu cục đã mở ra một số loại hình dịch vụ để phục vụ cho khách hàng nhằm lưu thoát hết lưu thông trong ngày. như chuyển nhận đóng mở các chuyến thư đi, đến, quá giang, nhận gửi và phát bưu phẩm bưu kiện trong và ngoài nước, nhận phát thư, diện chuyển tiền, ngân phiếu chuyển tiền trong nước. Đặc biệt, Bưu cục phát triển thêm các dịch vụ mới như: Nhận gửi Bưu phẩm EMS. (Phát chuyển nhanh), điện báo, chuyển nhanh, nhận gửi và phát Bưu phẩm ghi số…
Ngoài ra Bưu cục luôn vận dụng chiến lược Marketting vào kinh doanh và phục vụ bằng nhiều hình thức để khách hàng tin tưởng vào Bưu điện và ngày càng sử dụng nhiều dịch vụ Bưu điện; luôn tạo ra bộ mặt nơi giao dịch khang trang, sạch sẽ. Và thuận tiện cho khách hàng đi đến Bưu cục, để khách hàng nhìn thấy được các thiết bị thông tin hiện đại như: Máy đếm tiền, cân điện tử, máy soi tiền giả, máy vi tính dùng cho tính Cước điện thoại… Bưu cục đã bố trí những người thường xuyên tiếp xúc với khách hàng (như giao dịch viên và được đào tạo bồi dưỡng các kiến thức cần thiết về nghề nghiệp và nghệ thuật kinh doanh.
Bưu cục Nguyễn Trãi còn được như Bưu cục điểm. Bởi là nơi thực hành của học sinh, sinh viên cho nên phải đảm bảo phải thực hiện đúng thể lệ thủ tục, đúng nghiệp vụ và gần nhất với cơ sở lý luận mà học sinh, sinh viên được trang bị trong nhà trường là phải luôn vận dụng chiến lược Marketing vào kinh doanh và phục vụ, thực hiện hoạt động bán hàng tại giao dịch theo những quan điểm hiện đại về Marketing: Khách hàng luôn luôn đúng, phải hiểu rõ sản phẩm của mình, hiểu rõ khách hàng của mình, phải phụng sự khách hàng trước mới thu nơi nhận sau… Nhằm tạo nên một bộ mặt mới. Cho những điểm giao dịch của Bưu điện. Cũng như cho ngành Bưu điện, nhằm mục đích giữ được khách hàng và tạo uy tín cho ngành Bưu điện.
Lãnh đạo Bưu cục luôn kết hợp với Đảng uỷ, Công đoàn và thanh niên giáo dục chính trị tư tưởng cho tất cả các cán bộ công nhân viên nâng cao ý thức làm chủ, phát động thi đua tạo ra khí thế phấn đấu trong sản xuất, thực hiện tốt kế hoạch sản xuất của Bưu cục, phát huy sáng kiến cải tiến trong lao động, sắp xếp hợp lý hoá dây truyền sản xuất sao cho phù hợp với một khả năng trình độ, sở trường của từng nhân viên nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế.
2.2. Cơ cấu tổ chức của Bưu cục thực hành Nguyễn Trãi:
Bưu cục Nguyễn Trãi là một Bưu cục cấp III, thuộc Bưu điện tỉnh Hà Tây, hoạt động kinh doanh và phục vụ dưới sự kiểm soát của Bưu điện tỉnh Hà Tây về chất lượng sản phẩm và chất lượng phục vụ cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiện nay Bưu cục có 2 bộ phận, tổng số cán bộ công nhân viên là 9 người, trong đó:
- Bộ phận quản lý gồm 2 lao động:
Trong đó: + 1 trưởng Bưu cục : Trình độ đại học.
+ 1 Kiểm soát viên: Trình độ cao đẳng.
- Bộ phận giao dịch và khai thác gồm có 7 lao động:
Trong đó: + 3 lao động có trình độ cao đẳng.
+ 2 lao động có trình độ trung cấp nghiệp vụ.
+ 2 lao động có trình độ sơ cấp công nhân.
Sơ đồ tổ chức của Bưu cục thực hành Nguyễn Trãi:
Bộ phận quản lý
Tổ quản lý
Tổ giáo dục
Tổ khai thác
Sau đây xin được tập trung nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn về tổ chức lao động của Bộ phận giao dịch và bộ phận quản lý, lấy cơ sở là bộ phận để xem xét cụ thể việc phân công bố trí ca kíp mặt bằng, cơ sở vật chất để đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của ngành.
2.3. khảo sát cụ thể tại bộ phận giao dịch:
Ngành Bưu điện từ cơ chế bao cấp chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh toàn ngành, tự bù đắp chi phí bảo tồn và phát triển vốn. Sự nghiệp phục vụ kinh doanh của ngành phụ thuộc vào việc khách hàng có đến với Bưu điện hay không, ngoài chất lượng sản phẩm, dịch vụ, giá cước… thì vai trò giao dịch là hết sức quan trọng với ngành.
Giao dịch là một khâu trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, là khâu đầu tiên trong quá trình sản xuất ra sản phẩm của ngành, trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, đến việc thu hút khách hàng sử dụng Bưu điện. Giao dịch viên là người đại diện cho Bưu điện giao tiếp trực tiếp với khách hàng. Vì vậy lãnh đạo Bưu điện tỉnh Hà Tây nói chung và Bưu cục Nguyễn Trãi nói riêng hết sức quan tâm đến việc bố trí sắp xếp lao động phù hợp với trình độ, khả năng giao tiếp với khách hàng, tập trung đầy đủ trang thiết bị hiện đại cho quầy giao dịch như: cân điện tử, máy vi tính, máy in cước thay tem, đồng hồ điện tử ghi giờ v.v…, bố trí ca kíp làm việc ăn khớp, tránh tình trạng để khách hàng chờ đợi lâu; giáo dục nhân viên luôn coi khách hàng là thượng đế, khách hàng luôn luôn đúng… Mặt khác giao dịch viên phải có trình độ, nghiệp vụ cao để xử lý các yêu cầu về nghiệp vụ, phải có phẩm chất đạo đức tốt, tác phong làm việc khẩn chương nghiêm túc, phục vụ nhanh chóng, có thái độ tiếp xúc với khách hàng văn minh, lịch sự, hoà nhã vui vẻ… tạo được lòng tin ở khách hàng đối với ngành.
1. Nhiệm vụ của tổ giao dịch:
Là nơi trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, chịu trách nhiệm sản phẩm đầu ra và sản phẩm cuối cùng của dây truyền sản xuất, đồng thời là nơi hướng dẫn học sinh, sinh viên thực tập công việc của giao dịch và khai thác, bao gồm có các nghiệp vụ sau:
- Nhận và trả các loại ngân phiếu chuyển tiền trong nước.
- Nhận gửi và phát các loại bưu phẩm, bưu kiện, các nghiệp vụ đặc biệt.
- Nhận trả bưu phẩm phát nhanh (EMS) và điện báo.
- Nhận đặt mua báo chí các loại và bán lẻ báo chí, tem, phong bì.
- Thực hiện dịch vụ điện thoại.
- Giải đáp thắc mắc của khách hàng về thể lệ, thủ tục.
- Chấp nhận giải quyết các khiếu nại của khách hàng về bưu phẩm, bưu kiện, chuyển tiền, EMS.
2. Quy trình khai thác của bộ phận giao dịch.
Bao gồm các khâu sau:
1. Khâu nhận và trả ngân phiếu trong nước.
2. Khâu nhận gửi và phát bưu phẩm, bưu kiện.
3. Khâu nhận gửi và phát bưu phẩm ghi số.
4. Khâu nhận gửi và phát bưu phẩm EMS.
5. Khâu nhận đặt mua phát hành báo chí.
3. Trang thiết bị tại bộ phận giao dịch.
- 1 cân điện tử đến 50kg.
- 1 cân thư thường đến 200gr.
- 1 cân đồng hồ đến 12kg.
- 1 máy soi tiền giả.
- 5 buồng cac bin đều có gắn điện thoại và quạt.
- 2 quạt treo tường, đèn trần phục vụ ánh sáng các loại dấu nhật ấn và các loại dấu nghiệp vụ đặc biệt.
- 2 tủ tường đựng vật tư, ấn phẩm.
- 16 hộp thư bưu ký.
- 5 ghế đệm dùng cho khách hàng ngồi.
- 1 thùng thư, các bảng giá cước các loại về bưu chính và viễn thông (trang bị hai mặt).
- Một máy vi tính dùng cho tính bước điện thoại.
- 1 máy băng treo giới thiệu dịch vụ 171 trong nước và quốc tế.
ã Qua khảo sát thực tế tôi nhận thấy:
Số cac bin đàm thoại chưa đủ phục vụ cho nhu cầu khách hàng, đặc biệt trong những ngày lễ, thứ 7, chủ nhật, do lượng học sinh, sinh viên xa nhà nên nhu cầu gọi điện thoại rất lớn. Thường xuyên trong những ngày này và cả những giờ cao điểm: tối thứ 7, ngày 8/3, giờ tan học… khách hàng phải xếp hàng đợi được đàm thoại, gây tâm lý không tốt về phục vụ khách hàng của Bưu cục. Hơn nữa trong trường hợp một hay nhiều hơn cac bin bị hỏng không có cac bin thay thế, phải chờ đợi sửa chữa.
ã Nên cần trang bị thêm cac bin để phục vụ tốt hơn cho nhu cầu khách hàng, tránh gây tâm lý khó chịu. Sốt ruột khi phải chờ đợi lâu tại quầy giao dịch. Cho nên cần phải bố trí thêm:
- Cần bố trí thêm đèn chiếu sáng, quạt mát, bởi vì chưa đủ về điều kiện ánh sáng, không khí trong bưu cục, ảnh hưởng xấu đối với sức khoẻ người lao động.
- Cần trang bị thêm một máy vi tính cho nghiệp vụ chuyển tiền và EMS bởi yêu cầu độ chính xác cao và để tiết kiệm lao động, thời gian lao động.
4. Tổ chức lao động và bố trí ca làm việc hiện tại ở bộ phận giao dịch.
Giờ mở cửa của giao dịch bắt đầu từ 6h 30’ sáng và đóng cửa vào lúc 20h 30’. Số lao động gồm có 7 người (tất cả đều là nữ).
Trong đó:
Phạm tố Nga
Bậc
:
1/10
Hệ số lượng: 1,78
Nguyễn Thu Hiền
Bậc
:
2/10
Hệ số lượng: 1,86
Nguyễn Phương Dung.
Bậc
:
2/10
Hệ số lượng: 1,86
- 2 lao động có trình độ trung học:
Phạm tố Nga
Bậc
:
1/2
Hệ số lượng: 1,46
Nguyễn Thu Hiền
Bậc
:
2/2
Hệ số lượng: 1,58
- 2 lao động có trình độ sơ cấp:
Trần thị phương
Bậc
:
1/12
Hệ số lượng: 1,46
Tô thị ngọc Hà
Bậc
:
2/12
Hệ số lượng: 1,46
* Các bậc bình quân của bộ phận giao dịch là:
So với yêu cầu đưa ra về cấp bậc của tổng công ty Bưu chính Viễn thông là: 3,54 ta thấy cấp bậc bình quân của bộ phận giao dịch của bưu cục Nguyễn Trãi không đảm bảo so với yêu cầu đưa ra của tổng Công ty, số chênh lệch quá xa. Vậy bưu cục cần có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ và tay nghề cho nhân viên, sắp xếp bố trí cho nhân viên lần lượt đi học bồi dưỡng nghiệp vụ ở các lớp ngắn hạn, sắp xếp bố trí ca kíp xen lẫn công nhân ở bậc thấp với bậc cao để kèm cặp giúp đỡ nâng cao tay nghề.
Bên cạnh đó, cần có giải pháp để nâng cao trình độ đối với lao động có trình độ sơ cấp đang làm việc tại bưu cục, do nhiệm vụ của bưu cục là phục vụ hướng dẫn thực hành cho sinh viên và học sinh trung cấp trở lên. Như vậy không đảm bảo yêu cầu về trình độ hướng dẫn thực hành. Cụ thể cần cho đi học nâng cao trình độ và hiện tại chỉ nên bố trí làm công việc cụ thể (chuyên việc) mà không hướng dẫn thực tập cho học sinh, sinh viên.
- Về phân công lao động và bố trí ca kíp của bộ phận giao dịch:
Bộ phận giao dịch phân công lao động theo hình thức tổng hợp, không chuyên việc. Hình thức này giúp cho nhân viên nâng cao tay nghề, thuận lợi cho việc bố trí, sắp xếp nghỉ bù, nghỉ phép, tạo điều kiện cho các giao dịch viên tham gia các phong trào thi đua…
+ Bố trí ca làm việc: gồm 2 ca làm việc nối tiếp nhau liên tục trong suốt thời gian bưu cục mở cửa giao dịch.
ã Ca 1 từ 6h30’ 413h30’ : 2 người.
ã Ca 2 từ 13h30’4 20h30’: 2 người.
Còn lại: 2 người để xoay vòng giải quyết nghỉ bù, nghỉ phép trong năm, 1 người làm bộ phận hành chính: bán tem chơi, bán báo lẻ, và nhận đặt báo chí.
+ Bộ phận làm theo ca sản xuất:
Một người chuyên phụ trách điện thoại phục vụ nhu cầu đàm thoại của khách hàng, một người chuyên làm về Bưu chính như: nhận gửi và phát triển bưu phẩm, phong bì, báo chí…
Sau đây ta xem xét lượng tải dao động trong ngày theo bảng thống kê sản lượng lương để thấy được việc bố trí ca kíp làm việc có hợp lý hay không.
* Bảng thống kê sản lượng theo giờ trong ngày của bộ phận giao dịch.
ã Khảo sát ngày 4 tháng 4 năm 2002.
Ca
Thời gian
điện thoại (cuộc)
BPT gửi đi (cái)
gưỉ số (cái)
Bưu kiện (cái)
TCT+ĐCT (cái)
EMS (cái)
Bán tem phong bì (cái) báo lẻ
Đi
Đến
Đi
Đến
Đi
Đến
Đi
Đến
Ca 1
6 h -7h
2
5
0
0
0
0
0
0
0
0
4
7 h -8h
32
15
1
0
0
0
0
0
1
0
6
8 h -9h
41
35
2
6
1
3
0
12
2
3
12
9 h -10h
48
8
0
0
0
0
1
0
0
0
7
10 h -11h
48
4
0
0
0
0
0
0
0
0
9
11 h -12h
17
2
1
0
1
0
0
0
3
0
2
12 h -13h
11
3
0
0
0
0
1
0
0
0
1
Cộng ca 1
199
72
4
6
2
3
2
12
6
3
41
Ca 2
13h -14 h
25
6
0
0
0
0
0
0
1
0
2
14h -15 h
41
20
2
2
1
1
1
3
0
2
12
15h -16 h
53
12
1
0
0
0
0
0
0
0
6
16h -17 h
58
15
0
0
1
0
0
0
4
0
4
17h -18 h
55
25
1
0
0
0
0
0
2
0
3
18h -19 h
62
5
2
0
0
0
1
0
3
0
8
19h -20 h
54
4
0
0
0
0
0
0
0
0
4
Cộng ca 2
348
87
6
2
2
1
2
3
10
2
39
Cộng cả 2 ca
547
159
10
8
4
4
4
15
16
5
80
Căn cứ vào tiêu chuẩn định mức của tổng công ty tính số lao động cần thiết trong ca, trong ngày:
định mức nguyên công nhân và phát các sản phẩm Bưu chính Viễn thôn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29984.doc