LờI NóI ĐầU
Trong nền kinh tế thị trường tiêu thụ sản phẩm là nhân tố cực kỳ quan trọng quyết định hoạt động sản xuất hoặc chuẩn bị hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp. Có thể nói rằng sản xuất không quyết định tiêu thụ mà ngược lại, tiêu thụ quyết định sản xuất bởi vì mọi quyết định sản xuất của doanh nghiệp nếu muốn có hiệu quả thì phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường: sản xuất những gì thị trường cần chứ không sản xuất ra những gì mình có. Vấn đề quan trọng là sản xuất ra có được thị trườ
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tổ chức Kế toán tiêu thụ thành phẩm ở Công ty VIDAMO Hà Nội trong điều kiện nền Kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng chấp nhận hay không, có tiêu thụ được hay không? Sản phẩm dù có chất lượng, có hình thức đẹp đến mức nào đi chăng nữa mà không phù hợp với nhu cầu thị trường thì cũng chẵng ích gì.Vậy làm thế nào để sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ hết, thu hồi được vốn đầu tư và một khoản lợi nhuận. Từ nhận thức này, công ty VIDAMO đặc biệt quan tâm tới vấn đề tiêu thụ thành phẩm. Trong điều kiện nền kinh tế thị trưòng hiện nay, việc tiêu thụ hết sản phẩm, khỏi tồn hàng và làm ứ đọng vốn, thúc đẩy việc tăng nhanh vòng quay của vốn, từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của công ty. Đây cũng là một trong những thành công khiến công ty VIDAMO ngày càng lớn mạnh và phát triển.
Trong thời gian tìm hiểu tình hình thực tế, tôi đã thực hiện đề tài: “Tổ chức kế toán tiêu thụ thành phẩm ở công ty VIDAMO Hà nội trong điều kiện nền kinh tế thị trường ” thuộc tổng công ty dầu mỏ và khí đốt Việt nam.
Toàn bộ đề tài được trình bày với 3 phần chính:
Phần I: Lý luận chung về kế toán tiêu thụ thành phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp.
Phần II: Tình hình thực tế về kế toán tiêu thụ thành phẩm tại công ty VIDAMO.
Phần III: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán tiêu thụ thành phẩm ở công ty VIDAMO
Phần I
Cơ sở lý luận về kế toán tiêu thụ thành phẩm, hàng hóa xác định kết quả các hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp
I. Những vấn đề chung về tiêu thụ thành phẩm, hàng hoá xác định kết quả
1.Tiêu thụ thành phẩm:
a)Khái niệm và yêu cầu quản lý:
Mục đích sản xuất của doanh nghiệp là sản xuất ra những sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của thị trường. Do vậy sản phẩm sản xuất ra phải đuợc tiêu thụ nhanh trên cơ sở đó mới đảm bảo thu hồi vốn, có thu nhập tăng tích luỹ cho doanh nghiệp, đồng thời cải thiện đời sống của người lao động trong doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất, là quá trình thực hiện giá trị của thành phẩm thông qua quan hệ trao đổi mua bán. đồng thời, tiêu thụ thành phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ sản xuất cho các doanh nghiệp khác. quá trình tiêu thụ được coi là hoàn thành và kết thúc khi đảm bảo hai điều kiện sau:
- Gửi sản phẩm cho người mua
- Người mua trả tiền hay chấp nhận trả tiền
Trong thực tế hai điều kiện này chỉ diễn ra đồng thời cùng lúc, cùng một thời điểm ở nghiệp vụ bán lẻ còn phần lớn việc giao thành phẩm và nhận tiền tách rời nhau. Hàng có thể giao trước nhận tiền sau hoặc nhận tiền trước giao hàng sau từ đó dẫn đến doanh thu bán hàng và tiền bán hàng nhập quỹ có sự khác biệt:
- Doanh thu bán hàng phản ánh toàn bộ số tiền thu về từ hàng đã được xác định là tiêu thụ hết
- Tiền bán hàng nhập quỹ phản ánh toàn bộ số tiền bán hàng mà người mua đã trả cho doanh nghiệp .
Phân biệt doanh thu bán hàng và tiền nhập quỹ giúp cho doanh nghiệp xác định chính xác thời điểm kết thúc tiêu thụ giúp cho bộ phận quản lý tìm ra phương pháp tính toán có hiệu quả và thúc đẩy việc thực hiện đúng kế hoạch đúng hợp đồng đã kí, đồng thời chủ động sử dụng vốn tiền mặt trong quỹ .
Những thành phẩm mà doanh nghiệp gửi cho đơn vị mua xét về phương diện pháp lý vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, chỉ đến khi đơn vị mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền về số thành phẩm đã gửi đi đến lúc đó toàn bộ số thành phẩm thuộc quyền sở hữu của đơn vị mua và được coi là tiêu thụ nhưng thời điểm thu tiền tùy thuộc vào phương thức thanh toán được áp dụng trong doanh nghiệp, ứng với mỗi phương thức thanh toán khác nhau thì sản phẩm hàng hoá được gửi đi được xác định là tiêu thụ cũng khác nhau, cụ thể là:
Trường hợp 1. Sản phẩm hàng hoá gửi đi đã thu tiền (tiền mặt, tiền séc, ngân phiếu, ..) thì được coi là tiêu thụ ngay theo phương thức thanh toán trực tiếp.
Trường hợp 2: Sản phẩm hàng hoá đã gửi đi cho người mua, người mua chấp nhận thanh toán nhưng đến thời hạn thanh toán doanh nghiệp chưa nhận được tiền hay giấy báo của ngân hàng cũng được coi là tiêu thụ.
Trường hợp 3: Giữa doanh nghiệp và người mua áp dụng phương thức thanh toán theo kế hoạch, khi doanh nghiệp gửi cho người mua thì số hàng đó được coi là tiêu thụ
Trường hợp 4: Người mua ứng trước tiền hàng cho doanh nghiệp thì khi giao hàng cho người mua cũng được coi là tiêu thụ.
Từ những vấn đề nêu trên, trong công tác quản lý tiêu thụ cần đảm bảo các yêu cầu sau: Quá trình tiêu thụ phải được theo dõi chặt chẽ từ khi kí kết hợp đồng tới khi gửi hàng đi, thanh toán tiền hàng, tính các khoản thuế phải nộp cho Nhà nước, đồng thời xác định kết quả tiêu thụ. Ngoài ra, phải thường xuyên kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ hoặc hợp đồng tiêu thụ và tình hình thực hiện các chế độ chính sách liên quan đến tiêu thụ sản phẩm.
b). Vai trò của tiêu thụ sản phẩm.
Tiêu thụ thành phẩm là điều kiện để tiến hành tái sản xuất xã hội. Quá trình tái sản xuất xã hội gồm 4 khâu: sản xuất - trao đổi - phân phối - tiêu dùng. Sau khi kết thúc khâu sản xuất, sản phẩm của doanh nghiệp được đem ra tiêu thụ ( tức là thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm đó). Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là một tất yếư khách quan, sản xuất ra mà không tiêu thụ được sẻ ảnh hưởng rất lớn tới quá trình sản của doanh nghiệp, có thể dẩn tới phá sản. Qúa trình tiêu thụ phụ thuộc vào thị trường, sản phẩm sản xuất ra phải được thị trường chấp nhận. Mặt khác nó cũng đòi hỏi sự nổ lực của doanh nghiệp, đặc biệt là chiến lược Marketing. Ngược lại, sản xuất lại là tiền đề của tiêu thụ. Có sản xuất ra sản phẩm khối lượng lớn chất lượng cao , giá thành hạ mới tạo điều kiện cho tiêu thụ sản phẩm dễ dàng, đồng thời đáp ứng các nhu cầu khác nhau của xã hội. Hơn nữa, thông qua tiêu thụ sản phẩm mới thực hiện được giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm . Trên cơ sở đó doanh nghiệp mới bù đắp được toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Khi sản phẩm của doanh nghiệp tiêu thụ hết chứng tỏ rằng sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra phù hợp với nhu cầu thị trường, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Như vậy việc tiêu thụ sản phẩm khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường cũng như vị trí của sản phẩm trong sản xuất và đời sống xã hội.
Tiêu thụ sản phẩm không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp mà còn đối với nền kinh tế quốc dân.
+ Đối với doanh nghiệp : Tiêu thụ sản phẩm nhanh đảm bảo thu hồi vốn nhanh tăng vòng quay của vốn, tiết kiệm vốn lưu động và tạo điều kiện cho quá trình sản xuất tiến hành bình thường. Về phương diện luân chuyển vốn, tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển hoá giá trị của vốn. Do vậy, tiêu thụ sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại, phát triển hay phá sản của một doanh nghiệp.
+ Đối với nền kinh tế quốc dân: thực hiện tiêu thụ sản phẩm là tiền đề cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, cân đối giữa tiền và hàng trong lưu thông mà chủ yếu là cân đối giữa các ngành, các khu vực trong nền kinh tế quốc dân. Các đơn vị trong nền kinh tế thị trường không thể tồn tại và phát triển một cách độc lập mà giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, doanh nghiệp này là tiền đề cho doanh nghiệp kia phát triển trong sự ràng buộc của hệ thống phân công xã hội. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp không chỉ ảnh hưởng tới bản thân nó mà còn ảnh hưởng tới nhiều doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp có ảnh hưởng tới quan hệ cân đối sản xuất giũa các ngành và các doanh nghiệp sản xuất trong từng ngành, đồng thời tiêu thụ sản phẩm cũng có tác động lên quan hệ cung cầu trên thị trường.
2. Xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp(KQ):
Kết quả hoạt động sản xuốt kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm kết quả hoạt động sản xuốt kinh doanh chính và hoạt động kinh doanh phụ của doanh nghiệp. Đó là kết quả tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ. Kết qủa đó được tính bằng cách so sánh giữa một bên là doanh thu thuần với một bên là giá vốn hàng tiêu thụ và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp phù hợp. Nó được biểu thị bằng chỉ tiêu lợi nhuận (hoặc lỗ) về tiêu thụ.
KQ= DTT-GVHB-CF( 641,642) phù hợp.
II. Phương pháp hạch toán:
A-Các khái niệm cơ bản để tổ chức hạch toán.
+ Tổng doanh thu trong kỳ là số tiền bán của những hàng hoá, thành phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp thực sự bán được trong kỳ đó. Nó được ghi trên hoá đơn bán hàng, trên hợp đồng cung cấp lao vụ, dịch vụ (511).
+Các khoản giảm trừ doanh thu gồm:
-Chiết khấu hàng bán ( 521) là số tiền thưởng tính trên tổng doanh thu trả cho khách hàng do đả trả tiền hàng trước thời hạn quy định.
-Giảm giá hàng bán (532) là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp lao vụ, dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách, giao hàng không đúng thời hạn, địa điểm trong hợp đồng....hoặc là số tiền thưởng cho khách hàng do mua khối lượng lớn.
-Doanh thu hàng bán bị trả lại (531) là số hàng đã được coi là tiêu thụ nhưng bị người mua trả lại do người bán không tôn trọng hợp đồng kinh tế đã ký kết như không phù hợp với yêu cẩu, tiêu chuẩn, quy cách kỷ thuật, hàng kém phẩm chất...
-Thuế tiêu thụ đặc biệt (3332,3333).
+Doanh thu thuần = Tổng doanh thu- Các khoản giảm trừ doanh thu.
+Giá vốn hàng bán là giá mua +chi phí mua thực tế xuất của hàng hoá và là giá thành công xưỡng thực tế xuất của hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp thực sự bán được trong kỳ đó (632).
+ Lải gộp =Doanh thu thuần – Gía vốn hàng bán
+Kết quả hoạt động sản xuất trong kỳ( 641,642) để xác định kết quả trong kỳ đó là phần phù hợp với doanh thu trong kỳ.
+Kết qủa hoạt động sản xuất, thương mại= lãi gộp- chi phí thời kỳ phù hợp.
+ Kế toán tiêu thụ cần theo dõi chi tiết cho từng loại mặt hàng mà doanh nghiệp tiêu thụ trong kỳ.
Các nghiệp vụ cần được hạch toán ở giai đoạn này là xuất thành phẩm để bán và thanh toán với người mua, tính chính xác các khoản doanh thu bán hàng, trừ các khoản chiết khấu, giảm giá và hàng bán bị trả lại, các khoản thuế phải nộp để xác định doanh thu thuần và cuối cùng là xác định lãi lỗ về tiêu thụ sản phẩm.
Cần phải lưu ý là tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế VAT, nội dung của các chỉ tiêu liên quan đến chi phí, doanh thu và kết quả có sự khác nhau. Nếu tính theo phương pháp khấu trừ, trong chi phí, doang thu bán hàng, thu nhập hoạt động tài chính, thu nhập bất thường cũng như các khoản chiết khấu giảm gía, hàng bán bị trả lại không bao gồm sô thuế VAT đầu vào. Còn đối với những doanh nghiệp nào tính theo phương pháp trực tiếp thì ngược lại.
Qua quá trình tìm hiểu thực tế ở doanh nghiệp VIDAMO trong những năm trước đây và năm 1999 cho thấy doanh nghiệp tính thuế VAT theo phương pháp khấu trừ và hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên vì vậy về phương diện lý luận cũng như thực tiễn bài viết này chỉ đề cập đến các nội dung hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên và tính thuế theo phương pháp khấu trừ.
B-Các tài khoản sử dụng.
+ TK 511 “Doanh thu bán hàng” phản ánh tổng doanh thu bán hàng và các khoản giảm doanh thu thực tế của doanh nghiệp trong kỳ hạn thanh toán.
Kết cấu TK 511
Bên nợ: Số thuế doanh thu phải nộp trên doanh số bán hàng trong kỳ. Toàn bộ số doanh thu bị triết khấu, giảm giá và hàng bán trả lại. Kết chuyển thành doanh thu thuần vào TK 911 để xác định kết quả
Bên có: Tổng doanh thu bán hàng hoá, sản phẩm trong kỳ.
TK này cuối kỳ không có số dư và được chi tiết thành 4 tiểu khoản:
-5111. Doanh thu bán hàng hoá.
-5112. Doanh thu bán các thành phẩm.
-5113. Doanh thu cung cấp dịch vụ.
-5114. Doanh thu trợ cấp, trợ giá.
+ TK 157 “Hàng gửi đi bán” phản ánh trị giá vốn của hàng hoá, thành phẩm đã gửi đi cho khách hàng, hàng hoá sản phẩm nhờ bán đại lý, ký gửi nhưng chưa được chấp nhận thanh toán.
Kết cấu TK 157
Bên nợ: Trị giá hàng hoá, thành phẩm gửi đi bán hoặc nhờ bán đại lý.
Bên có: Trị giá hàng hoá, thành phẩm đã chuyển quyền sở hữu, đã được thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
Trị giá hàng hoá, thành phẩm gửi đi bán bị trả lại.
Dư nợ: Trị giá hàng hoá, thành phẩm gửi đi chưa bán được.
+ TK 521 “Chiết khấu bán hàng” phản ánh số doanh thu bị chiết khấu của việc bán hàng hoá, thành phẩm trong kỳ hạch toán.
Kết cấu của TK 521
Bên nợ: Số tiền chiết khấu đã chấp nhận cho khách.
Bên có: Kết chuyển toàn bộ số chiết khấu ghi giảm doanh thu, TK này cuối kỳ không có số dư và được chi tiết thành 3 tiểu khoản:
-5211. Chiết khấu hàng hoá.
-5212. Chiết khấu thành phẩm.
-5213. Chiết khấu dịch vụ.
+TK 512. Doanh thu bán hàng nội bộ, phản ánh doanh thu của số hàng hoá, lao vụ, dịch vụ, sản phẩm tiêu thụ nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty, tổng công ty, tập đoàn...hạch toán toàn ngành. Nó còn sử dụng để theo dõi các khoản được cọi là tiêu thụ nội bộ khác như sử dụng sản phẩm, hàng hoá vào hoạt động sản xuất kinh doanh, trả lương, thưởng cho công nhân....Tài khoản này cuối kì không có số dư và được chi tiết thành 3 tiểu khoản:
-5121. Doanh thu bán hàng hoá.
-5122. Doanh thu bán sản phẩm.
-5123. Doanh thu cung cấp dịch vụ.
+ TK 531 “Hàng bán bị trả lại” phản ánh doanh thu của số hàng bán bị trả lại trong kỳ do vi phạm hợp đồng, không phù hợp với yêu cầu của người mua...
Kết cấu TK 531
Bên nợ: Doanh thu bán hàng bị trả lại trong kỳ
Bên có: Kết chuyển toàn bộ doanh thu về hàng trả lại ghi giảm giá doanh thu.
TK này cuối kỳ không có số dư
+ TK 532 “Giảm giá hàng bán ” phản ánh khoản giảm trừ chấp nhận cách đặc biệt trên giá thoả thuận do hàng kém quy cách, phẩm chất nhưng chưa đến mức bị trả lại.
Kết cấu TK 532
Bên nợ: Tập hợp các khoản giảm giá hàng bán chấp nhận cho người mua trong kỳ.
Bên có: Kết chuyển toàn bộ số giảm giá hàng bán.
TK này cuối kỳ không có số dư.
+ TK 632. Gía vốn hàng bán: Dùng để theo dõi trị giá vốn của hàng hoá, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ xuất bán trong kỳ. Gía vốn hàng bán có thể là giá thành công xưỡng thực tế của sản phẩm hay giá thành thực tế lao vụ.
Bên nợ: Trị giá vốn của thành phẩm, lao vụ, dịch vụ đã cung cấp
Bên có: Kết chuyển giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ.
TK này cuối kỳ không có số dư.
+ TK 911. Xác định kết quả:
Kết cấu TK 911
Bên nợ: Trị giá vốn hàng hoá, thành phẩm đã bán.
Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Chi phí hoạt động tài chính.
Chi phí bất thường.
Kết chuyển thực lãi
Bên có: Doanh thu thuần trong kỳ.
Thu nhập hoạt động tài chính.
Thu nhập bất thường.
Kết chuyển thực lãi.
TK này cuối kỳ không có số dư, ngoài ra còn sử dụng các TK sau:
TK 111 “Tiền mặt”; TK 112 “Tiền gửi ngân hàng”; TK 155 “Thành phẩm”; TK 333 “Phải nộp ngân sách”; TK 642 “Chi phí quản lý doanh nghiệp ”, 334, 421...
C. Hạch toán thành phẩm hàng hoá.
a) Tính giá thành sản phẩm.
Giá thành công xưởng thực tế, đối với sản phẩm, hàng hoá còn gọi là giá vốn hàng bán, được tính là toàn bộ hao phí của các yếu tố trực tiếp tạo ra sản phẩm, gồm: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công và chi phí sản xuất chung tính cho sản phẩm hoàn thành. Giá vốn hàng bán được tính riêng cho từng loại sản phẩm hoàn thành. ý nghĩa của giá vốn hàng bán được sử dụng khi nhập xuất kho thành phẩm và tiêu thụ sản phẩm. Khi hàng đã được tiêu thụ và được phép xác định doanh thu thì đồng thời trị giá vốn hàng bán của số hàng đã tiêu thụ cũng được phản ánh để xác định kết quả. Vì vậy, xác định đúng trị giá vốn hàng bán là rất cần thiết, nhờ đó doanh nghiệp xác định đúng kết quả, đồng thời đánh giá hiệu quả của khâu sản xuất và có biện pháp để tiết kiệm chi phí sản xuất và tăng lợi nhuận.
Doanh nghiệp xác định giá vốn hàng bán để làm căn cứ ghi sổ kế toán. Nhưng cần lưu ý rằng giá vốn hàng bán được phản ánh trên sổ của doanh nghiệp không phải lúc nào cũng hoàn toàn đồng nhất. Vì lượng hàng sản xuất và nhập kho trong một kỳ là lớn và thường xuyên, do vậy, khi xuất hàng đi tiêu thụ thì khó phản ánh chính xác giá vốn từng mặt hàng, từng chủng loại theo từng lô sản phẩm nhập kho (hoặc nếu làm được thì cũng rất phức tạp, mất thời gian và tốn kém về chi phí). Để cho việc hoạch toán giá vốn hàng bán vừa đảm bảo độ chính xác, tin cậy, vừa tiết kiệm được chi phí lại phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kế toán hàng hoá có thể xác định giá vốn hàng xuất bán theo hai phương pháp:
+ Phương pháp tính theo giá đích danh: Theo phương pháp này trị giá vốn hàng hoá được xác định đơn chiếc hoặc từng lô hàng làm trị giá vốn hàng xuất bán. áp dụng phương pháp này vừa đơn giản, dễ làm vừa cho kết quả chính xác. Nhưng phương pháp này không phù hợp với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều mặt hàng và nhập xuất hàng thường xuyên.
+ Nhà máy sử dụng giá thực tế: hệ thống kế toán nhà máy có sử dụng hệ thống máy tính vào phục vụ cho công tác kế toán do đó việc tính giá để áp dụng giá thực tế nhà máy không sử dụng giá hạch toán. Như chúng ta đã biết giá cả luôn biến động do đó việc không áp dụng này là bất hợp lý. Đối với thành phẩm do các bộ phận sản xuất kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ hoàn thành nhập kho, giá thành thực tế chính là giá thành công xưởng thực tế. Trường hợp thuê ngoài gia công, giá thành thực tế bao gồm toàn bộ các chi phí kiên quan đến việc gia công như chi phí nguyên vật liệu, chi phí thuê gia công, vận chuyển, bốc dỡ.....
+Đối với giá thành thực tế thành phẩm xuất kho, có thể sử dụng một trong các phương pháp hạch toán như giá đơn vị bình quan, nhập trước xuất trước, nhập sau xuất trước, LIFO, FIFO....Tuy nhiên, do việc tính giá thành thực tế của thành phẩm nhập kho thường thực hiện vào cuối kỳ hạch toán nên để theo dõi chi tiết tình hình biến động thành phẩm trong kỳ, kế toán sử dụng giá hạch toán. Giá hạch toán là giá thành kế hoạch hoặc là giá nhập kho thống nhất quy định, cuối kỳ kế toán sẻ tiến hành điều chỉnh giá hạch toán theo giá thực tế.
Gía thực tế thành phẩm Gía hạch toán thành phẩm Hệ số
xuất bán trong kỳ = xuất bán trong kỳ x giá
hoặc tồn kho cuối kỳ) ( hoặc tồn kho cuối kỳ) TP
Trong đó:
Hệ số giá thành phẩm = (Gía thực tế thành phẩm tồn kho đầu kỳ và nhập kho trong kỳ) : ( Gía hạch toán thành phẩm tồn kho đầu kỳ và nhập kho trong kỳ)
b) Phương pháp hạch toán biến động tổng hợp:
+ Hạch toán biến động tổng hợp thành phẩm.
- Khi phát sinh các nghiệp vụ nhập kho thành phẩm từ các bộ phận sản xuất kinh doanh chính, phụ hoặc thuê ngoài gia công, chế biến, kế toán ghi theo giá thành thực tế:
Nợ TK 155
Có TK 154
-Trường hợp hàng gửi bán bị từ chối, hàng ký gửi, giao đại lý không bán được nhận lại đem nhập kho theo giá thành thực tế:
Nợ TK 155
Có TK 157
-Trường hợp hàng đã tiêu thụ bị trả lại, đem nhập kho:
Nợ TK 155
Có TK 632
-Trường hợp đánh giá tăng thành phẩm (ghi phần chênh lệch tăng)
Nợ TK 155
Có TK 412
-Trường hợp phát hiện thừa khi kiểm kê.
Nợ TK 155: giá trị thừa.
Có TK 642: giá trị thừa trong định mức
Có TK 3388 (3381) ; giá trị thừa chưa rõ nguyên nhân.
-Đối với sản phẩm xuất kho đem tiêu thụ trực tiếp:
Nợ TK 632
Có TK 155
-Nếu xuất kho tiêu thụ theo phương thức chuyển hàng( gửi bán) hoặc xuất kho cho các cơ sở nhận bán hàng đại lý, ký gửi:
Nợ TK 157
Có TK 155
-Trường hợp xuất sản phẩm để đổi vật tư, hàng hoá, phản ánh trị giá vốn sản phẩm xuất kho:
Nợ TK 632: Trao đổi trực tiếp tại kho
Nợ TK 157: Giá trị trao đổi
Có TK 155
-Trường hợp xuất thành phẩm để biếu, tặng, thanh toán tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên, kế toán ghi trị giá vốn sản phẩm xuất kho:
Nợ TK 632
Có TK 155
-Trường hợp phát hiện thiếu khi kiểm kê kho sản phẩm:
Nợ TK 632:Thiếu trong định mức
Nợ TK 138(1381): Thiếu chưa rõ nguyên nhân, chờ sử lý.
Nợ TK 138(1388): Thiếu cá nhân phải bồi thường.
Nợ TK 334: Thiếu cá nhân bồi thường(trừ vào lương)
Có TK 155: Giá trị sản phẩm thiếu tại kho.
-Trường hợp đánh giá giảm: Ghi ngược với giá tăng.
-Trường hợp xuất thành phẩm đi góp vốn liên doanh:
Nợ TK 128: Giá trị góp vốn liên doanh ngắn hạn.
Nợ TK 222: Giá trị vốn góp liên doanh dài hạn.
Nợ (hoặc có) TK 412: Phần chênh lệch giá
Có TK 155: Giá thành thực tế thành phẩm.
+ Hạch toán hàng hoá.
Đối với các doanh nghiệp thương mại, hoặc xuất nhập khẩu mới phải hạch toán hàng hoá. Vì doanh nghiệp VIDAMO là doanh nghiệp sản xuất do đó trong khuôn khổ bài viết này không đề cập đến.
D. Hạch toán tiêu thụ hàng hóa, thành phẩm, dịch vụ.
Các phương thức tiêu thụ chủ yếu bao gồm: Các phương thức bán buôn và các phương thức bán lẻ.
1. Các phương thức bán buôn.
Bán buôn là việc bán hàng cho các đơn vị thương nghiệp để tiếp tục chuyển bán, hoặc bán cho các đơn vị sản xuất, hoặc bán cho các tổ chức để thoả mãn nhu cầu kinh tế khác. Hàng bán buôn sau khi tiêu thụ vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông.
Phương thức bán buôn chuyển hàng: doanh nghiệp căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã kí với người mua để gửi hàng cho họ bằng phương tiện vận chuyển tự có hoặc thuê ngoài. Khi hàng xuất kho chuyển đi, phòng kinh doanh lập phiếu xuất kho kiêm phiếu chuyển thành 5 liên, lưu 1 liên, chuyển cho kho 4 liên, sau khi xuất hàng thủ kho lưu 1 liên, 1 liên kèm theo hàng hoá, chuyển cho phòng kế toán 2 liên . Hàng chưa tiêu thụ nên được theo dõi như hàng gửi đi bán và vẫn thuộc quyền sở hữu của đơn vị. Khi giao hàng tại kho của người mua, được người mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho số hàng đó thì lập hoá đơn bán hàng 3 liên, giao cho bên mua một liên, phòng kinh doanh lưu 1 liên, gửi cho phòng kế toán 1 liên , lúc đó hàng được coi là đã tiêu thụ.
Phương thức bán buôn giao hàng trực tiếp tại kho cho bên mua căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã kí uỷ nhiệm cho cán bộ của mình đến nhận hàng tại kho của bên đơn vị bán và chịu trách nhiệm áp tải hàng về bằng phương tiện vận chuyển tự có hoặc thuê ngoài. Khi hàng xuất kho giao cho người mua được coi là đã tiêu thụ ngay, phòng kinh doanh lập hoá đơn kiểm phiếu xuất kho thành 4 liên, lưu 1 liên, chuyển cho thủ kho 3 liên, sau khi xuất hàng thủ kho lưu 1 liên, chuyển 1 liên cho người mua, còn 1 liên chuyển cho phòng kế toán để ghi sổ.
2. Các phương thức bán lẻ.
Bán lẻ là việc bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt của cá nhân và một bộ phận nhu cầu kinh tế của tập thể. Hàng bán lẻ ra khỏi lĩnh vực lưu thông, đi vào lĩnh vực tiêu dùng và số lượng từng lần bán thưòng là nhỏ.
2.1 Bán lẻ thu tiền tập trung.
Là phương thức tách rời việc thu tiền và giao hàng cho khách nhằm chuyên môn hoá công tác bán hàng. Mỗi quầy có một nhân viên thu tiền và viết hoá đơn hoặc tích kê mua hàng cho khách hàng, các mậu dịch viên khác nhận hoá đơn hoặc tích kê đã thu tiền rồi giao cho khách hàng. Cuối ngày hoặc cuối ca, nhân viên thu ngân kiểm tiền, lập giấy nộp tiền bán hàng (đó chính là doanh thu của hàng đã bán) còn các mậu dịch viên khác nhận hoá đơn hoặc tích kê đã thu tiền rồi giao hàng cho khách. Cuối ngày hoặc cuối ca, nhân viên thu ngân kiểm tiền, lập giấy nộp tiền bán hàng (đó chính là doanh thu của hàng đã bán), còn các mậu dịch viên tập hợp hoá đơn và tích kê để tiến hành kiểm kê hàng hoá, xác định hàng đã bán và lập báo cáo bán hàng. Đối chiếu 2 chứng từ này với nhau để kế toán làm căn cứ ghi sổ.
2.2 Bán lẻ và thu tiền trực tiếp.
Theo phương thức này, mậu dịch viên trực tiếp giao hàng và thu tiền của khách. Cuối ngày hoặc cuối ca mậu dịch viên nộp giấy nộp tiền bán hàng, đồng thời kiểm kê hàng còn lại ghi vào “thẻ quầy hàng” và xác định lượng bán ra từng mặt hàng, và lập báo cáo bán hàng:
Tổng doanh số = Tổng lượng bán x Đơn giá
Chứng từ là giấy nộp tiền và báo cáo bán hàng do mậu dịch viên lập.
3.Giao hàng cho đại lý ( ký gửi hàng bán):
Đây chính là biến tướng của phương thức bán buôn chuyển hàng và khá phổ biến ở các doanh nghiệp hiện nay. Hàng ký gửi được coi là “ hàng gửi đi bán” và vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp cho đến khi chính thức tiêu thụ. Căn cứ vào hợp đồng đã ký, phòng kinh doanh lập “Phiếu xuất kho” hay “biên bản giao hàng cho đại lý “. Khi kết thúc hợp đồng ký gửi hoặc đến thời hạn thanh toán hợp đồng, đại lý bán sẽ lập quyết toán và gửi cho doanh nghiệp về số hàng đã bán, số tiền bán hàng và hoa hồng đại lý. Khi đó, hàng được coi là đã tiêu thụ, kế toán căn cứ vào “biên bản giao hàng cho đại lý” và quyết toán đã lập để ghi sổ. Phương thức này giúp doanh nghiệp tiếp cận và khai thác tốt thị trường, mở rộng phạm vi sản xuất kinh doanh mà không phải đầu tư thêm vốn.
4. Bán hàng trả góp:
Các phương thức thanh toán tiền bán hàng bao gồm bán hàng thu tiền trực tiếp và bán hàng trả chậm (bán chịu). Bán trả góp là một biến tướng của phương thức bán trả chậm. Khi giao hàng cho người mua thì hàng được coi là tiêu thụ ngay và doanh nghiệp mất quyền sở hữu. Doanh nghiệp lập “hoá đơn bán hàng” và hợp đồng thanh toán để làm căn cứ giao hàng và nhận tiền lần đầu, phần còn lại người mua chấp nhận trả dần ở kỳ tiếp theo và phải chịu lãi suất nhất định. Vì vậy phương thức này giúp doanh nghiệp khai thác được thị trường tiềm năng triệt để mà hầu như không phaỉ đầu tư thêm (lãi suất thu tiền hàng bù đắp chi phí vốn tăng trong khâu thanh toán và dự phòng rủi ro có thể xảy ra).
Các phương thức tiêu thụ trên có phương pháp hạch toán khác nhau như sau:
1) Tiêu thu theo phương pháp bán hàng trực tiếp.
(bán buôn, bán lẻ)
a) Khi doanh nghiệp xuất hàng cho người mua khỏi kho, khỏi phân xưởng, khỏi quầy thì đã ghi nhận là đã tiêu thụ:
BT1: phản ánh tổng tiền thanh toán, doanh thu, thuế VAT đầu ra của hàng bán đó.
Nợ TK: 111, 112, 131,(334,1368): tổng tiền thanh toán.
Có TK: 3331 : VAT đầu ra
Có TK: 511, 512 : Doanh thu theo giá bán.
-Nếu bán hàng đổi lấy hàng thì:
Nợ TK152 : Số vật tư đổi.
Nợ TK 133: Thuế VAT đầu vào của vật tư trên.
Có TK 511: Doanh thu
Có TK 3331: VAT đầu ra của hàng bán trên.
Chú ý là không được ghi bút toán VAT riêng như:
Nợ TK 133
Có TK 3331
BT2: phản ánh giá vốn của hàng bán đó:
Nợ TK 632: Giá vốn hàng bán.
Có TK 154: Giá thành phẩm, dịch vụ sản xuất xong bán ngay.
Có TK 155: Giá thành công xưởng thực tế xuất của thành phẩm
Có TK 156: Giá vốn thực tế xuất của hàng hoá xuất bán.
Ghi chú:
1)Nếu hàng bán không chịu thuế VAT thì trong doanh thu đả trùng tổng tiền thanh toán.
2)Nếu hàng bán là hàng thuộc nhóm đặc biệt do doanh nghiệp chế biến ra và người bán là xuất khẩu thì đó trùng tổng tiền thành toán, kế toán phải xác định và phản ánh số thuế tiêu thu đặc biệt, thuế xuất khẩu phải nộp:
Nợ TK 511,512: ghi giảm doanh thu
Có TK 3332, 3333: số thuế phải nộp
b) Nếu trong kỳ doanh ngiệp có thực hiện các giảm trừ cho người mua:
b.1) Thực hiện chiết khấu, giảm giá hàng bán.
Nợ TK 521: số chiết khấu theo giá bán đả thực hiện.
Nợ TK 532: số giảm giá đả thực hiện.
Nợ TK 331: VAT giảm trừ (nếu có)
Có TK 111, 112, 131: tổng tiền thanh toán đả thực hiện bắng...
b.2) Nếu có hàng bán bị trả lại:
BT1: phản ánh giá vốn hàng nhận lại đó.
Nợ TK 154, 155, 156: sửa chửa, nhập kho
Có TK 632 : ghi giảm giá vốn
BT2: phản ánh doanh thu hàng bị trả lại, tổng tiền thanh toán cho người mua, thuế VAT
Nợ TK 531: doanh thu số hàng bị trả lại.
Nợ TK 3331: sô thuế VAT của số hàng bị trả lại.
Có TK 112,111, 131: tổng tiền thanh toán.
c) Cuối kỳ kế toán tiến hành khoá sổ cho các tài khoản trung gian thuộc phần này.
C.1) Kết chuyển các giảm trừ (521,531,532) về TK 511, 512 để xác định doanh thu thuần:
Nợ TK 511, 512: ghi giảm doanh thu
Có TK 521, 531, 532: kết chuyển các giảm trừ.
C.2). Kết chuyển doanh thu thuần (511, 512) về tài khoản 911 để xác định kết quả:
Nợ TK 511, 512: doanh thu thuần:
Có TK 911 : ------------------
C.3) Kết chuyển giá vốn của hàng hoá thực sự bán được trong kỳ(632) để chuẩn bị xác định kết quả:
Nợ TK 911: giá vốn hàng bán
Có TK 632: --------------------
2). Tiêu thụ theo phương thức gưởi hàng cho hợp đồng:
Nội dung: Doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp; xuất hàng theo đơn đặt trước của khách hàng. Hàng xuất khỏi phân xưởng, khỏi kho thì chưa được coi là tiêu thụ mà là hàng gưởi bán.
Phương pháp hạch toán
+ Khi hàng xuất theo phương thức này thì kế toán phản ánh giá vốn hàng gưởi đó:
Nợ TK 157: giá vốn hàng xuất.
Có TK 154,155,156: ...............
+ Khi hàng gưởi được bên mua chấp nhận và làm thủ tục thanh toán thì kế toán phản ánh:
BT1: Nợ TK 111, 112,131: tổng tiền thanh toán
Có TK 511, 512 : doanh thu
Có TK 3331 : thuế VAT.
BT2: Nợ TK 632: giá vốn hàng gưởi đả bán được
Có TK 157: ---------------------
Các nội dung còn lại được hạch toán tương tự như phương thức 1.
3) Tiêu thụ theo phương thức gưởi, nhận hàng đại lý.
Theo luật thuế giá trị gia tăng, nếu bên đại lý bán hàng theo đúng theo giá bên giao đại lý quy định và phần hoa hồng được hưởng tính theo tỷ lệ thoả thuận trên phần gia doanh thu chưa có VAT thì toàn bộ thuế VAT sẻ do chủ hàng chịu, bên đại lý không phải nộp thuế VAT trên phần hoa hồng được hưởng. Ngược lại, nếu bên đại lý hưởng hoa hồng tính theo tỷ lệ thoả thuận trên tổng giá thanh toán(gồm cả thuế VAT) hoặc bên đại lý hưởng khoản chênh lệch giá thì bên đại lý sẻ phải chịu thuế VAT trong phạm vi doanh thu của mình.
Giửa hai doanh nghiệp khi thực hiện giao dịch này thì cần thoả thuận hoặc bằng hợp đồng kinh tế với các nội dung sau:
+ Đem, nhận ký quỷ.
+ Gía bán, thuế VAT, tổng tiền thanh toán của hàng giao nhận.
+ Phần trăm hoa hồng trả nhận của hàng đả bán.
+ Thời gian quy định lập báo cáo bán hàng và thu tiền của hàng đó.
Hạch toán tại đơn vị gưởi hàng cho đại lý.
+ Nếu doanh nghiệp nhận ký quỷ:
Nợ TK 111, 112: số nhận ký quỷ ngắn hạn, dài hạn.
Có TK 3388, 334 (ct):---------
+ Khi doanh nghiệp xuất hàng giao cho đại lý, số hàng đó vẫn thuộc sở hữu của doanh nghiệp cho đến khi chính thức tiêu thụ, coi như hàng gưởi:
Nợ TK157: Gửi đại lý
Có TK 154,155, 156: Giá vốn hàng xuất.
+ Khi doanh nghiệp nhận được báo cáo của đại lý gưởi tới, căn cứ báo cáo để :
BT1: phản ánh số hàng gưởi đả bán được:
Nợ TK 632: giá vốn hàng gưởi.
Có TK 157:-----------------------
BT2: phản ánh số tiền phải thu, hoa hồng trả đại lý, doanh thu, VAT đầu ra của hàng giao đại lý đả bán được:
Nợ TK 131: số tiền phải thu
Nợ TK 6417: hoa hồng trả
Có TK 511: doanh thu
Có TK 3331: VAT....
Lưu ý: bút toán trên._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0638.doc