Tổ chức kế toán tiền lương và các khoản trích theo tiền lương tại xí nghiệp may xuất khẩu Giáp Bát

Lời nói đầu Từ khi chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nước ta đã có những đổi mới sâu sắc và toàn diện, tạo ra những chuyển biến tích cực cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Các mục tiêu phát triển đã được điều chỉnh cho phù hợp từng giai đoạn, từng thời kỳ. Do đó các chính sách quản lý kinh tế tài chính đã được đổi mới và ngày càng hoàn thiện, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước. Trong qúa trình phát triển kinh tế, lao động luôn giữ m

doc51 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1137 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tổ chức kế toán tiền lương và các khoản trích theo tiền lương tại xí nghiệp may xuất khẩu Giáp Bát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột vị thế hết sức quan trọng, nó là điều kiện tất yếu sáng tạo ra của cải vật chất và làm giàu cho xã hội. Một doanh nghiệp chỉ có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh tổ chức tốt nguồn nhân lực chính họ sẽ tạo ra một guồng máy sản xuất trong doang nghiệp và để bù đắp những gì họ đã đóng góp, họ sẽ nhận được tiền lương và khoản thu nhập khác kèm theo. Tiền lương hợp lý không những đảm bảo tái sản xuất sức lao động mà còn thúc đẩy người lao động không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh nhận thức được vai trò của tiền lương, các doanh nghiệp cần phải tăng cường các biện pháp quản lý lao động, thực hiện tốt công tác kế toán tiền lương và các khoản tính theo tiền lương, nhờ đó sẽ vừa tạo điều kiện tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí nhân công, đẩy mạnh sản xuất và hạ giá thành sản phẩm, vừa đảm bảo quyền lợi người lao động, tăng tích luỹ cho xã hội. Tuy nhiên, mỗi loại hình doanh nghiệp có sự khác nhau về đặc điểm sản xuất, cách thức tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh nên chính sách tiền lương cũng được vận dụng linh hoạt. Xí nghiệp may xuất khẩu Giáp Bát thuộc Công ty vải sợi may mặc miền bắc là loại hình doanh nghiệp nhà nước nên việc xây dựng một chính sách lao động, tiền lương hợp lý, thực hiện đúng mọi quy chế về hạch toán và thanh toán tiền lương là một việc làm hết sức cần thiết, mang ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế và xã hội. Từ những hiểu biết và những kiến thức đã học ở nhà trường đồng thời qua thời gian đi sâu tìm hiêủ thực tế tại xí nghiệp may xuất khẩu Giáp Bát, em đã chọn đề tài "Tổ chức kế toán tiền lương và các khoản trích theo tiền lương tại xí nghiệp maý xuất khẩu Giáp Bát". Báo cáo gồm: Phần I: Đánh giá thức trạng công tác kế toán của đơn vị. I:Đặc điểm, tình hình của đơn vị. II:Thực trạng công tác kế toán đơn vị. Phần II: Nội dung chính của báo cáo. Phần III: Kết luận. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Hồng Thìn, cùng toàn thể cán bộ, công nhân viên của Xí nghiệp, đặc biệt là phòng kế toán và phòng lao động tiền lương đã giúp đỡ, hướng dẫn em trong suốt thời gian thực tập tại xí nghiệp và tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Phần I: Thực trạng công tác tổ chức hạch toán lao động tiền lương và các khoản trích theo lương tại XNSX hàng may xuất khẩu Giáp Bát. I. Đặc điểm tình hình của XNSX hàng may xk giáp bát. 1. Quá trình hình thành và phát triển của xí nghiệp. XNSX hàng may xuất khẩu Giáp Bát. là đơn vị trực thuộc Công ty vải sợi may mặc Miền Bắc- Bộ TM, được thành lập theo quyết định số 0521/TM-TCCB ngày 21/07/1997 của Bộ TM cho phép chuyển CH vải sợi may mặc Giáp Bát thành XNSX hàng may xuất khẩu Giáp Bát. Trụ sở đóng tại Km6 đường Giải phóng- Phường phương liệt- Quận thanh xuân- Hà nội. XNSX hàng may xuất khẩu Giáp Bát là 1 doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân thực hiện chế độ hạch toán kế toán phụ thuộc vào cồng ty chủ quản là Công ty vải sợi Miền Bắc, có tài khoản, con dấu riêng để giao dịch theo quy định hiện hành của nhà nước. Ra đời trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh dần lên, XN phải đương đầu với rất nhiều khó khăn đó là sự cạnh tranh khốc liệt giữa các đơn vị cùng ngành nghề, đó là nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước do xu hướng hội nhập ngày càng gia tăng. Để đáp ứng được điều này XN đã ngày càng mở rộng lĩnh vực kinh doanh bao gồm XNK và kinh doanh hàng dệt may, gia công hàng may XK, kinh doanh dịch vụ và sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước, trong đó chủ yếu là hàng gia công hàng may XK. Mục đích của XN là trên cơ sở định hướng của công ty XN chủ động tổ chức nghiên cứu thị trường, nhu cầu của khách hàng và năng lực sản xuất của mình để xây dựng kế hoạch gia công rrồi trình công ty duyệt và tổ chức thực hiện. Do đó từ chỗ còn gặp nhiều khó khăn khi mới thành lập,đến nay XN đã tạo được công ăn việc làm ổn định và đảm bảo đời sống cho công nhân viên. Đồng thời XN còn thực hiện đầy đủ việc nộp thuế và bảo toàn vốn nên đã tạo cho mình một chỗ đứng vững vàng trên thương trường. Đặc điểm tình hình của XN - Chức năng XN thực hiện chế độ hạch toán phụ thuộc vào công ty chủ quản là công ty vải sợi may mặc Miền Bắc, có tài khoản, con dấu riêng để giao dịch theo quy định hiện hành của Nhà nước. Chức năng kinh doanh hàng dệt may, may gia công hàng XK, kinh doanh dịch vụ và sản xuất nhưng chủ yếu là gia công hàng may XK - Nhiệm vụ + Tổ chức sản xuất gia công hàng may xuất khẩu theo hợp đồng đã ký + Tổ chức khai thác các loại vật tư nguyên phụ liệu để phục vụ sản xuất gia công của đơn vị. + Tổ chức sản xuất, hợp tác SXKD, liên doanh, liên kết với nước ngoài theo phương án được công ty duyệt. + Tổ chức SXKD cho các đại lý ký gửi hàng hoá cho các đơn vị - Phương hướng hoạt động + Tăng cường khai thác năng lực sản xuất hàng hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật đổi mới mặt hàng, hạ giá thành sản phẩm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. + Trong giai đoạn hiện nay XN phải nâng cấp các thiết bị máy móc đơn vị, cơ sở hạ tầng phải được xây dựng tốt. 2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý XN. Giám đốc PGĐ phụ trách tổ chức hành chính PGĐ phụ trách sản xuất Phòng kế hoạch nghiệp vụ Phòng tổ chức hành chính Phòng kế toán PXI PXII Sơ đồ tổ chức bộ máy xủa XNSX hàng may XK Giáp Bát Mỗi bộ phận trong bộ máy đều có những chức năng nhất định cụ thể như sau: - Đứng đầu XN là ban GĐ gồm: + Một GĐ: Do Giám đốc Công ty chủ quản bổ nhiệm, có nhiệm vụ thay một Giám đốc công ty. Tham gia đàm phán, trực tiếp đàm phán chuẩn bị ký kết hợp đồng khách hàng rồi báo cáo với Giám đốc công ty ký kết. Ký hợp đồng gia công tiêu thụ với các thành phần kinh tế trong nước và quốc tế. Ký hợp đồng với người lao động. Điều hành hoạt động của xí nghiệp. + Giúp việc Giám đốc là 2 phó Giám đốc công ty chủ quản bổ nhiệm. Một phó Giám đốc phụ trách tổ chức hành chính. Một phó Giám đốc phụ trách việc sản xuất. -Các phòng kế hoạch- kinh doanh: Giữ chức năng thực hiện công tác kinh doanh, tự tìm bạn hàng, nguồn hàng thực hiện các hoạt động mua bán, tổ chức quản lý quá trình sản xuất gia công. - Phòng tổ chức hành chính: Giữ chức năng thực hiện công tác tổ chức và hành chính trong XN, chịu trách nhiệm quản lý nhân sự, công tác văn thư đánh máy. Nhìn chung bộ phận có nhiệm vụ phục vụ cho việc quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của XN. - Phòng kế toán: Có chức năng quản lý chặt chẽ và cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin và tình hình biến động của các loại TS, vật tư, tiền vốn hạch toán kế toán, cùng với các bộ phận kinh doanh thảo luận kế hoạch kinh doanh, sản xuất, tính toán các phương án sản xuất, kinh doanh, xác định giá cả bán ra, xác định kết quả các hoạt động. - Bộ phận sản xuất, kinh doanh: phân xưởng, các kho hàng của hàng. Nhiệm vụ quyền hạn biên chế lao động, mối quan hệ công tác giữa các phòng, phân xưởng, được giám đốc XN đề nghị Giám đốc công ty duyệt- Điều hành hoạt động các phòng, phân xưởng là trưởng phòng, quản đốc phân xưởng, giúp việc cho cấp trưởng có 1 đến 2 cấp phó. Nói chung, XN đã xây dựng được 1 bộ máy quản lý chặt chẽ. 3. Tổ chức kế toán của đơn vị, hình thức kế toán áp dụng Bộ máy kế toán của XN gọn nhẹ và được chuyên môn hoá theo từng thành phần kế toán tạo điều kiện cho việc kiểm soát. Hàng tháng, bộ phận kế toán vẫn đảm bảo được việc tổng hợp các phát sinh trong tháng và dựa vào các sổ kế toán liên quan, cung cấp những thông tin, số liệu cần thiết cho lãnh đạo xí nghiệp. XN sản xuất hàng may XK áp dụng hình thức tổ chức công tác kế toán tập trung. Toàn bộ công tác kế toán sẽ được thực hiện ở phòng kế toán của xí nghiệp bao gồm hạch toán ban đầu, đối chiếu ghi sổ, lập báo cáo tài chính. Hiện nay biên chế phòng kế toán tài chính của XN có 3 người phụ trách chung là kế toán trưởng đồng thời là trưởng phòng: Kế toán trưởng có nhiệm vụ phụ trách chúng cùng với việc hướng dẫn chuyên môn và kiểm tra toàn bộ các nhiệm vụ trong phòng kế toán, chịu trách nhiệm trước Giám đốc về toàn bộ hoạt động của phòng tài chính - kế toán, quy mô hoạt động nên Kế toán trưởng kiêm luôn nhiệm vụ kế toán tổng hợp. Với nhiệm vụ thực hiện việc kế toán đối chiếu và lập báo cáo tài chính định (theo tháng, quý, năm). - Bộ phận kế toán TSCĐ: có nhiệm vụ theo dõi phản ánh với GĐ tình hình biến động tăng giảm TSCĐ và tình hình CF KH TSCĐ. - Bộ phận KTTM,TGNH và quỹ: có nhiệm vụ theo dõi phản ánh với Giám đốc tình hình nhập xuất và các số dư các nghiệp vụ có liên quan đến tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và quỹ. Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán của xí nghiệp. Kế toán trưởng (Trưởng phòng kế toán hành chính ) KT công nợ KT tiền mặt Thủ quỹ KTTSCĐ Hình thức KT XN áp dụng là hình thức NKCT để tiện cho việc quản lý. 4. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởg đến công tác hạch toán của Xí nghiệp may xuất khẩu Giáp Bát. a. Thuận lợi: - Việc tính toán và hạch toán tiền lương của công nhân viên trong xí nghiệp luôn được phản ánh kịp thời, nhanh chóng, được thực hiện theo hình thức tập trung tức là mọi công việc về tính lương đều thực hiện tại phòng lao động tiền lương- hệ thống sổ sách kế toán nói chung và kế toán tiền lương nói riêng khá đầy đủ. - Việc sử dụng hình thức kế toán NKCT có nhiều ưu điểm: số liệu phục vụ báo cáo nhanh, số liệu thông tin kế toán cung cấp kịp thời, giảm nhẹ khối lượng ghi chép và dễ phân công công tác kế toán. b. Khó khăn: Để theo dõi tình hình trích nộp BHXH, BHYT hiện nay xí nghiệp sử dụng sổ cái TK338 và mở các trang để chi tiết chó các TK cấp 2. Hệ thống sổ này có ưu điểm rõ ràng tuy nhiên lại khá phức tạp trong cách vào sổ và không cung cấp thông tin một cách nhanh nhất. Vì vậy theo em xí nghiệp có thể chỉ cần dùng một sổ cái TK338 và mở các cột chi tiết cho các TK cấp 2 như sau: Số dư đầu kỳ Nợ Có Sổ cái tK338 Ghi có TK đối ứng với Nợ TK này Tháng 1 Tháng 2 Tháng.. Cộng 338(2) 338(3) 338(4) TK111 TK112 Cộng PS Nợ Cộng PS Có Số dư cuối tháng Nợ Có II. Thực trạng công tác kế toán tiền lương và các khoản trích lương phải trả trong xí nghiệp. 1. Hình thức kế toán. Tổ chức công tác kế toán ở xí nghiệp sản xuất hàng mày xuất khẩu Giáp Bát, căn cứ theo quy định số 1141TC-QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 và quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính về ban hành và công bố 4 chuẩn mực kế toán Việt Nam. Kế toán hàng tồn kho của xí nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên. Niên độ kế toán của xí nghiệp bắt đầu từ 01/01 và kết thúc vào 31/12 năm dương lịch. Hình thức kế toán áp dụng tại xí nghiệp là hình thức nhật ký chứng từ để tiện cho việc quản lý. Hàng ngày, kế toán căn cứ vào các chứng từ gốc đã được kiểm tra lấy số liệu ghi trực tiếp vào các nhật ký chứng từ và sổ theo dõi các tài khoản, đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ- (Tại các xí nghiệp các sổ theo dõi các tài khoản được sử dụng như là các NKCT của các tài khoản đó ). Trường hợp khi chi phí liên quan đến nhiều đối tượng, kế toán tiến hành tổng hợp và phân bổ. Cuối tháng, kế toán lấy số liệu từ nhật ký chứng từ và sổ theo dõi các tài khoản để ghi vào sổ cái. Căn cứ vào sổ cái và một sổ chi tiêu chi tiết trong NKCT, bảng kê và bảng tổng hợp chi tiết để lập báo cáo tài chính. Xí nghiệp may xuất khẩu Giáp Bát áp dụng những chứng từ sổ sách sau: Chứng từ: - Phiếu nhập kho kiêm hoá đơn - Bảng chấm công - Bảng thanh toán tiền lương - Phiếu nghỉ lương BHXH - Bảng thanh toán BHXH - Phiếu chi, giấy báo Nợ, Có liên quan đến tiền lương và các khoản trích theo lương. Sổ sách: NKCT số 1,2,7 Sổ chi tiết TK 131, 334, 338, 622, 627, 142… Sổ cái TK 334, 338 Hình thức hạch toán nhật ký- chứng từ. Chứng từ gốc và bảng phân bổ chi phí Sổ chi tiết và sổ chi tiết khác Bảng kê Nhật ký - chứng từ Sổ cái Bảng tổng hợp chi tiết Báo cáo kế toán (1) (1) (2) (1) (3) (3) (4) (4) (6) (6) (6) Ghi chú: : Ghi chứng từ và bảng phân bổ hàng ngày : Ghi ngày cuối kỳ : Đối chiếu sổ chi tiết và tổng hợp Trình tự ghi sổ kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương Bảng chấm công Bảng thanh toán lương Bảng phân bổ tiền lương Sổ theo dõi TK 334,338 Phiếu chi NKCT Số1 NKCT Số 7 Sổ cái TK 334 Sổ cái TK 338 Phần II: Nội dung chính của báo cáo tiền lương, KPCĐ, BHXH, BHYT. I. Khái niệm, nhiệm vụ kế toán tiền lương 1. Khái niệm Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của một bộ phận sản phẩm xã hội mà người lao động được sử dụng để bù đắp hao phí lao động của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh. 2. Nhiệm vụ - Ghi chép, phản ánh kịp thời, chính xác số lượng và chất lượng của mỗi người lao động. - Tính toán chính xác và công bằng, hợp lý, số tiền lương phải trả công nhân viên giám sát và đôn đốc việc chấp hành sử dụng quỹ tiền lương. - Phân bổ chính xác tiền lương vào chi phí có liên quan. Đôn đốc việc thanh toán kịp thời tiền lương và các khoản thanh toán khác cho công nhân viên đảm bảo tính đúng, tính đủ và chi trả tiền lương kịp thời cho người lao động. 3. Bản chất tiền lương Về bản chất, tiền lương chính là giá cả sức lao động nghĩa là người lao động bỏ sức ra để hoàn thành một sản phẩm hàng hoá nào đó và được trả một số tiền nhất định Trong cơ chế thị trường bản chất của tiền lương chính là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động thông qua sự thoả thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động đồng thời chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật cung cầu. Tiền lương là một nhân tố thúc đẩy năng suất lao động. Bởi tiền lương khuyến khích tinh thần hăng hái lao động, kích thích và tạo mối quan tâm của người lao động đến kết quả công việc của họ. 4. Chức năng của tiền lương. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường để phát huy hiệu quả kinh tế của tiền lương tác động lên người lao động thì tiền lương phải đảm bảo các chức năng sau: - Chức năng tái sản xuất sức lao động: lao động là một trong ba yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Sức lao động là một dạng công năng tồn tại trong cơ chế con người. Trong quá trình tạo ra sản phẩm con người phải háo phí sức lao động của mình. Do vậy tiền lương phải đảm bảo đủ để nuối sống người lao động và gia đình họ mới đảm tái sản xuất ra sức lao động. - Vai trò kích thích sản xuất. Nhu cầu của con người tạo ra động cơ thúc đẩy họ tham gia lao động xong chính lợi ích của họ mới là động lực trực tiếp thúc đẩy họ làm việc với hiệu quả cao. Do đó chính sách tiền lương đúng đắn sẽ là động lực to lớn phát huy sức mạnh của nhân tố con người trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Việc trả lương phải nhằm mục đích thúc đẩy và khuyến khích người lao động nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động. 5. Nguyên tắc trả lương. Để tiền lương phát huy tác dụng của mình thì việc trả lương phải đảm bảo các nguyên tắc sau: - Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Bởi vậy độ lớn của tiền lương không những phải đảm bảo tái sản xuất mở rộng về số lượng mà phải đảm bảo tái sản xuất cả về mặt chất lượng lao động. Mặt khác tiền lương còn phải đảm bảo cho nuôi sống gia đình họ. - Tiền lương phải dựa trên cơ sở thảo thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động. Nguyên tắc này bắt nguồn từ pháp lệnh hợp đồng lao động nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Song mức độ tiền lương phải luôn luôn lớn hơn hoặc bằng mức lương tối thiểu (tức là số tiền trả cho loại lao động giản đơn nhất trong xã hội và diễn ra trong môi trường lao động bình thường ). Và số tiền đó đảm bảo cho người lao động có thể mua được những tư liệu sinh hoạt tất yếu để tái sản xuất sức lao động của bản thân và giành một phần để chăm sóc con, cũng như bảo hiểm hết tuổi lao động. - Tiền lương phải trả cho người lao động phải phụ thuộc vào hiệu quả lao động của người lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nguyên tắc này bắt nguồn từ mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng trong đó sản xuất đóng vai trò quan trọng. - Tiền lương phải đảm bảo tính hợp pháp. Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Tiền lương cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như thị trường, trình độ người lao động, tính chất công việc. - Tiền lương có tác động tạo động lực làm việc. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển, ngoài việc đổi mới công nghệ còn phải quan tâm đến việc khuyến khích người lao động hăng hái làm việc. Bởi nếu công nghệ có hiện đại đến đâu nhưng người lao động không nhiệt tình với công việc thì năng suất lao động cũng không cao. Do vậy để nâng cao năng suất lao động, phương pháp hữu hiệu nhất là tiền lương phải hấp dẫn được người lao động. - Tiền lương phải công bằng Tiền lương gắn với công việc, gắn với kết quả làm việc, thành tích và cống hiến của người lao động. Do đó phải quán triệt nguyên tắc trả theo lao động. Tức là ai làm đến đâu thì hưởng lương đến đó. - Tiền lương phải có tính đảm bảo. Tức là những khoản dự tính để chi trả cho người lao động phải nằm trong khả năng thanh toán của doanh nghiệp, tránh tình trạng quỹ tiền lương quá lớn sẽ làm cho lãi để lại để tái đầu tư không đủ sẽ ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. 6. Các chính sách tiền lương của nhà nước ta hiện nay. Để tiền lương phát huy tác dụng làm đòn bẩy kinh tế và để nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN thì Đảng và Nhà nước đã nghiên cứu xây dựng và nhiều lần sửa đổi chế độ tiền lương, thu nhập của cán bộ công nhân viên sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế XH cơ chế quản lý của từng thời kỳ. Từ sau đại hội VI của Đảng, nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN thì chế độ tiền lương cũng thay đổi cụ thể như sau: * Mức lương tối thiểu Năm 1994 quy định mức lương tối thiểu ở nước ta là 120.000 đồng/tháng. Năm 1997 là 144.000 đồng/tháng. Năm 2000 là 180.000 đồng/tháng, các mức lương tối thiểu này có đặc trưng sau: Tương ứng với trình độ lao động giản đơn nhất, cường độ lao động nhẹ nhàng nhất trong điều kiện bình thường nhu cầu tiêu dùng ở mức lương tối thiểu nhất. Tương ứng với giá cả, các tư liệu sinh hoạt chủ yếu ở vùng có mức giá cả trung bình hiện nay ở nước ta. Mức lương tối thiểu ở các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay điều chỉnh theo vùng, ngành. Nhưng phần phát triển thêm không vượt quá tối đa 1,5 lần so với mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định. ( Nghị định số 77/200/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2000 quy định mức lương tối thiểu là 210.000 đồng/người/tháng). Nghị định số 03/2003/CP ngày 15 tháng 1 năm 2003 quy định mức lương tối thiểu là 290.000 đồng/tháng và kèm theo thông tư số 04/2003 TTBLĐTBXH ngày 17/2/2003 hướng dẫn việc thực hiện nghị định 03. Nhà nước khống chế mức lương tối thiểu nhưng không khống chế mức lương tối đa mà điều tiết bằng thếu thu nhập. Việc khống chế mức lương tối thiểu có nghĩa là Nhà nước buộc các doanh nghiệp phải đảm bảo lợi ích tối thiểu cho người lao động, nếu doanh nghiệp nào sản xuất kinh doanh thua lỗ để người lao động có thu nhập dưới mức lương tối thiểu thì Nhà nước can thiệp, kiểm tra xem xét thay đổi cán bộ lãnh đạo giúp đỡ doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất, sát nhập với xí nghiệp khác hoặc thậm chí cho phá sản. Đối với người lao động có thu nhập quá cao sẽ được điều tiết bằng thuế thu nhập. * Chế độ phụ cấp thực chất là phần tiền lương bổ xung cho lương cơ bản mà trong khi xác định tiền lương cơ bản có những yếu tố người ta chưa tính đến hoặc đã tính đến nhưng chưa đầy đủ. Các chế độ phụ cấp nhằm đãi ngộ điều kiện lao động và sinh hoạt không ổn định thường xuyên của người lao động và quán triệt hơn theo nguyên tắc trả lương theo lao động. Tổng khoản phụ cấp chỉ được tính bằng 18% lương cơ bản. Tiền phụ cấp = Lương cơ bản* Mức % phụ cấp Hiện nay ở nước ta áp dụng một số hình thức phụ cấp sau: + Phụ cấp khu vực: là phụ cấp nhằm đãi ngộ hợp lý và khuyến khích cán bộ công nhân viên công tác ở các vùng được hưởng chế độ phụ cấp khu vực: hải đảo, vùng sâu, vùng xa…Đông thời góp phần điều chỉnh lao động giữa các vùng trong xã hội lẫn nhau. Chế độ phụ cấp khu vực có 5 cấp độ 5%, 10%, 15%, 20%, 25% + Phụ cấp độc hại: là số tiền trả thêm cho những người làm việc trong môi trường độc hại vượt qua mức cho phép. Tiền phụ cấp = Lương cơ bản * Phụ cấp * Thời gian phụ cấp + Phụ cấp làm thêm, làm đêm: đây là số tiền dùng để bồi dưỡng động viên cán bộ, công nhân viên khi cần thiết là thêm giờ, làm đêm. Nếu làm ngoài giờ được trợ cấp 150% lương cơ bản. Ngày chủ nhật làm thêm hưởng 200% lương cơ bản. Nếu làm vào ngày lễ hưởng 300% lương cơ bản. Còn nếu làm đêm thì tiền lương ngoài giờ còn được cộng thêm 30% lương cơ bản trong ngày. Riêng trong lực lượng vũ trang, ngoài các khoản phụ cấp trên còn được hưởng phụ cấp thâm niên, phụ cấp ưu đãi. * Chế độ tiền thưởng Tiền thưởng là một khoản tiền lương bổ xung nhằm quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc phân phối theo lao động. Đồng thời nó cũng là đòn bẩy kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Hiện nay theo quy định của Nhà nước quỹ tiền thưởng không quá 50% tổng quỹ tiền lương thực hiện của đơn vị (Trích điều 3 Quyết định 317-CP ngày 1/9/1990 của CTHĐBT). Quỹ tiền thưởng hiện nay được hình thành từ hai nguồn thuộc quỹ tiền lương và khuyến khích vật chất. Nói chung quỹ tiền thưởng phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Cũng như tiền lương, tiền thưởng được sử dụng dưới hình thức khác nhau. Các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay thường áp dụng một số hình thức thưởng như sau: Thưởng hoàn thành vượt mức nhiệm vụ sản xuất, công tác. Thưởng tăng năng suất lao động. Thưởng nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm. Thưởng tiết kiệm nguyên vật liệu chi phí sản phâm. Thưởng sáng chế, sáng kiến. Thưởng cuối năm. II. Hình thức trả lương và nội dung quỹ lương 1. Các hình thức tiền lương. Hiện nay có 2 hình thức trả lương cơ bản sau: * Hình thức trả lương thời gian. Tiền lương trả theo thời gian chủ yếu áp dụng đối với những người làm công tác quản lý, còn đối với công nhân sản xuất chỉ áp dụng ở các bộ phận không thể tiến hành định mức một cách chặt chẽ và chính xác. Hoặc vì tính chất của sản xuất hạn chế nên thực hiện trả công theo sản phẩm thì sẽ không đảm bảo được chất lượng sản phẩm, không đem lại hiệu quả thiết thực. Hình thức trả công này có nhiều nhược điểm hơn so với hình thức tiền lương sản phẩm bởi vì nó chưa gắn thu nhập của mỗi người với kết quả lao động mà họ đã đạt được trong thời gian làm việc. Hình thức trả công này gồm 2 chế độ. - Chế độ trả lương theo thời gian đơn giản: chế độ này là chế độ trả lương mà tiền lương nhận được của mỗi người lao động do mức lương cấp bậc cao hay thấp và thời gian làm việc thực tế nhiều hay ít quyết định. Chế độ trả lương này chỉ áp dụng ở những nới khó định mức lao động chính xác, khó đánh giá công việc thật chính xác. Lương tháng = Mức lương tối thiểu *Hệ số lương + Phụ cấp (Nếu có) - Chế độ trả lương theo thời gian có thưởng: là tiền lương trả cho công nhân viên chức căn cứ vào mức lương và thời gian làm việc có kết hợp với khen thưởng khi đạt và vượt các chỉ tiêu quy định như tiết kiệm thời gian lao động, nguyên vật liệu, tăng năng suất lao động, đảm bảo nhu cầu sản xuất. Hình thức trả lương này có nhiều ưu điểm hơn so với hình thức trả lương theo thời gian giản đơn. Nó vừa phản ánh trình độ thành thạo và thời gian làm việc thực tế vừa khuyến khích người lao động có trách nhiệm với công việc. * Hình thức trả lương theo sản phẩm Hiện nay trong các đơn vị kinh tế cơ sở thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đang áp dụng rộng rãi các hình thức trả lương theo sản phâm với nhiều chế độ linh hoạt. Chế độ trả lương theo sản phẩm gồm 6 loại. - Chế độ lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân: áp dụng đối với đối tượng làm việc độc lập, công việc có thể định mức kiểm tra nghiệm thu sản phẩm trực tiếp. Đơn giá = Lương cấp bậc công việc * Định mức thời gian Tính lương cho công nhân theo công thức Lương thực tế công nhân nhận được trong ngày hoặc tháng = Đơn giá * Số lượng sản phẩm. - Chế độ trả lương tính theo sản phẩm tập thể: áp dụng đối với những công việc cần một tập thể công nhận cùng được thực hiện như: lắp ráp thiết bị, sản xuất dây chuyền. - Chế độ trả theo sản phẩm gián tiếp: áp dụng những công nhân phụ mà công việc của họ có ảnh hưởng nhiều đến kết quả lao động của công nhân chính. Hưởng lương theo sản phẩm cụ thể là công nhân phục vụ máy, sửa chữa … Tiền lương của công nhân phụ tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất của công nhân chính. - Chế độ trả lương khoán áp dụng cho những công việc yêu cầu phải hoàn chỉnh trong thời gian nhất định, chủ yếu trong xây dựng có bản và một số công việc trong nông nghiệp có thể thực hiện khoán cho tập thể hoặc cho cá nhân. Đơn giá khoán có thể tính theo đơn vị công việc (1m2 tường xây hoặc cả công trình toàn bộ ngôi nhà ). Tính đơn giá khoán vẫn thực hiện theo nguyên tắc chia tổng tiền lương theo cấp bậc công việc, cho từng công việc và cho tổng các mức sản lượng. - Chế độ trả lương theo sản phẩm có thưởng: chế độ này nhằm mục đích khuyến khích công nhân sản xuất vượt kế hoạch. Những sản phẩm vượt mức được trả lương cao hơn những sản phẩm bình thường. - Chế độ trả lương theo sản phẩm luỹ tiến: thực chất của chế độ trả lương này là trả lương theo sản phẩm có thưởng. Nhưng những sản phẩm vượt mức về sau được tính đơn giá cao hơn những sản phẩm vượt mức trước. 2. Một số chế độ khác nhau khi tính lương. + Chế độ khi ngừng việc Theo điều 62 Bộ luật lao động quy định như sau: Nếu do lỗi của người lao động thì người đó không được trả lương, những người lao động khác trong cùng một đơn vị ngừng việc được trả lương theo mức độ thoả thuận giữa 2 bên nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu. Nếu vì sự cố mất điện, nước mà không do lỗi của người sử dụng lao động hoặc vì những nguyên nhân bất khả kháng (thiên tai, bão lụt …) thì tiền lương do 2 bên thảo thuận nhưng cũng không thấp hơn mức lương tối thiểu. + Theo điều 63 Bộ luật lao động. Các chế độ phụ cấp tiền lương nâng bậc lương và các chế độ khuyến khích khác có thể được thoả thuận trong hợp đồng lao động, thoả ước tập thể hoặc quy định trong quy chế của doanh nghiệp. 3. Nội dung quỹ lương của doanh nghiệp Quỹ lương (còn gọi là tổng mức tiền lương ) là tổng số tiền doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức dùng để trả lương và các khoản phụ cấp có tính tiền lương cho toàn công nhân viên chức( thường xuyên và tạm thời trong một thời kỳ nhất định. Quỹ lương của doanh nghiệp gồm các khoản sau: +Tiền lương tính theo thời gian, tiền lương tính theo sản phẩm và tiền lương khoán. +Tiền lương trả cho người lao động tạo sản phẩm hỏng trong phạm vi chế độ quy định. +Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng sản xuất do nguyên nhân khách quan, trong thời gian được điều động công tác, làm nghĩa vụ theo chế độ quy định, thời gian nghỉ phép, thời gian đi học . +Các khoản tiền lương có tính chất thường xuyên. Quỹ lương của doanh nghiệp được chia thành: Tiền lương chính là tiền trả cho người lao động trong thời gian là nhiệm vụ theo chế độ quy định cho họ gồm: tiền lương cấp bậc các khoản phụ cấp thường xuyên, và tiền lương trong sản xuất. Tiền lương phụ là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian không làm nhiệm vụ chính nhưng vẫn được hưởng lương theo chế độ quy định như tiền lương trong thời gian nghỉ phép, thời gian đi làm nhiệm vụ xã hội, hội họp, học tập … Việc phân chia này có ý nghĩa nhất định trong công tác hạch toán, phân bổ tiền lương theo đúng đối tượng và công tác phân tích chi phí tiền lương, trong giá thành sản phẩm. Quỹ lương được xác định bằng nhiều cách tuỳ theo cách tính của từng doanh nghiệp, nhưng phần lớn các doanh nghiệp sản xuất đều xác định đơn giá tiền lương của từng sản phẩm để từ đó suy ra tổng quỹ tiền lương của doanh nghiệp mình. Đơn giá tiền lương thường xuyên biến đổi nhưng phải xoay quanh giá trị sức lao động. Tiền lương trong cùng thời kỳ giữa các vùng trong nước có thể khác nhau. Sự khác nhau đó phụ thuộc vào cung cầu sức lao động trong cùng và giá cả tư liệu sinh hoạt. 4. Nội dung các khoản trích theo lương trong doanh nghiệp. Ngoài tiền lương theo chế độ tài chính hiện hành, doanh nghiệp còn phải tính vào chi phí sản xuất một bộ phận chi phí gồm các khoản BHYT, BHXH, KPCĐ. a. Quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ được hình thành từ các nguồn sau đây (theo điều 149 luật lao động ). - Người sử dụng lao động góp 15% tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi trả các chế độ ốm đau thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. - Người lao động góp 5% để chi trả các chế độ hưu trí và tử tuất. - Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện chế độ BHXH đối với người lao động. - Các nguồn khác… Việc sử dụng và chi quỹ BHXH dù ở cấp quản lý nào cũng phải thực hiện theo chế độ quy định. Bởi BHXH là một trong những chính sách kinh tế xã hội quan trọng của Nhà nước nó không xác định khía cạnh kinh tế mà còn phản ánh chế độ xã hội. b. Kinh phí công đoàn. Kinh phí công đoàn là quỹ tài trợ cho hoạt động công đoàn ở các cấp theo chế độ hiện hành. KPCĐ được tính theo tỷ lệ 2% trên tổng số tiền lương phải trả cho người lao động và người sử dụng lao động phải chịu (tính vào chi phí sản xuất kinh doanh). Kinh phí này do doanh nghiệp trích lập và chi tiêu theo chế đọ quy định: 1% nộp cho cấp trên, 1% Sử dụng cho công đoàn tại đơn vị. c. Bảo hiểm y tế Bảo hiểm y tế thực chất là sự bảo trợ cho người tham gia bảo hiểm y tế và các khoản như: khám chữa bệnh, tiền viện phí thuốc thang …người tham gia bảo hiểm sẽ được hỗ trợ một phần nào đó. Quỹ BHYT được hình thành bằng cách tính theo tỷ lệ phát sinh trong tháng tỷ lệ trích bảo hiểm y tế hiện hành là 3% trong đó 2% tính vào chi phí sản xuất kinh doanh và 1% tính vào thu nhập của người lao động. Quỹ này do cơ quan BHYT quản lý và trợ cấp cho người lao động qua mạng lưới y tế. Vì vậy các cơ quan doanh nghiệp phải nộp hết 3% cho cơ quan BHYT để phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho cán bộ công nhân viên. Tổ chức hạch toán lao động tiền lương và BHXH, BHYT, KPCĐ * Tổ chức hạch toán tiền lương - Hình thức tiền lương áp dụng và thủ tục tính lương Xí nghiệp sản xuất hàng may xuất khẩu Giáp Bát áp dụng cả hai hình thức t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28797.doc
Tài liệu liên quan