Lời nói đầu
Xã hội loài người tồn tại và phát triển phải tiến hành sản xuất. Mục đích của nền sản xuất là nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của xã hội. Mục đích đó đòi hỏi chúng ta phải làm sao tạo ra được nhiều sản phẩm với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng và đặc biệt là phải có giá thành hạ. Vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất với vai trò là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất luôn phấn đấu để tạo ra mọi biện pháp tiết kiệm ch
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1048 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tổ chức Kế toán chi phí sản Xuất và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây lắp điện (67tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i phí sản xuất, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp sản xuất thực hiện nhiều biện pháp khác nhau. Một trong những biện pháp được các nhà sản xuất quan tâm đặc biệt đó là công tác kế toán nói chung và kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành nói riêng. Các doanh nghiệp sản xuất luôn xác định hạch toán chi phí sản xuất và tính giá nói riêng.
Các doanh nghiệp sản xuất luôn xác định hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành là khâu trung tâm trong công tác kế toán của doanh nghiệp. Thực chất chi phí sản xuất là đầu vào của quá trình sản xuất, vì vậy tiết kiệm chi phí sản xuất là tiền đề để hạ giá thành sản phẩm, đảm bảo cho đầu ra của quá trình sản xuất - sản phẩm được xã hội chấp nhận và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trong công cuộc đổi mới ở đất nước ta hiện nay, với nền kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi sản phẩm sản xuất ra phải có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp và có giá thành hạ, phù hợp với sức mua của đại đa số nhân dân lao động thu nhập còn thấp. Hạ giá thành sản phẩm đã trở thành nhân tố quyết định sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt trong ngành xây lắp cơ bản hạ giá thành sản phẩm đã được đặt ra như một yêu cầu bức thiết, khách quan nhằm tạo cho các ngành khác trong nền kinh tế.
Xuất phát từ những vấn đề trên, sau khi thực tập và khảo sát tại Xí nghiệp Xây lắp điện em đã mạnh dạn chọn đề tài “Tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây lắp điện” để viết chuyên đề tốt nghiệp.
Bố cục chuyên đề bao gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm XDCB trong doanh nghiệp xây lắp.
Phần II: Tình hình thực hiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Xí nghiệp Xây lắp điện.
Phần III: Một số ý kiến đề xuất nhằm tổ chức hợp lý quá trình kế toán chi phí và tính giá thành Xây lắp tại Xí nghiệp Xây lắp điện
Phần I
Lý luận chung về quản lý kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm XDCB trong doanh nghiệp xâp lắp
I. Những vấn đề chung về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong hoạt động Xây lắp
1.Đặc điểm của hoạt động xây lắp
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất mang tính chất công nghiệp và có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, nó tạo ra trang bị TSCĐ cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, góp phần quan trọng trong việc xây lắp cơ sở hạ tầng và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN.
Ngành xây dựng cơ bản có những đặc điểm riêng biệt, khác với những ngành sản xuất khác như chu kỳ sản xuất dài, sản phẩm có tính chất đơn chiếc, đó là những công trình, vật kiến trúc có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời gian xây lắp và lắp đặt dài, sản phẩm không đem ra thị trường tiêu thụ, hầu hết có người đặt hàng trước khi xây lắp và nơi sản xuất cũng đồng thời là nơi tiêu thụ. Chính những sự khác nhau đó đã ảnh hưởng rất lớn tới công tác quản lý và hạch toán trong XDCB. Đặc điểm này làm công tác quản lý sử dụng và hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp vì chịu ảnh hưởng lớn của thiên nhiên, thời tiết dễ mất mát hư hỏng... Đối với sản phẩm xây lắp phải lập dự toán và quá trình sản xuất phải so sánh với dự toán.
Những đặc điểm trên của ngành XDCB có ảnh hưởng rất lớn tới công tác tổ chức hạch toán kế toán làm cho phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành cũng có đặc điểm thích hợp riêng biệt. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là từng hạng mục công trình hoặc từng đơn vị thi công. Đối tượng tính giá thành xây lắp và các hạng mục công trình hoàn thành, các khối lượng công tác xây lắp có dự toán riêng đã hoàn thành.
Việc xác định đối tượng tính giá thành phải chi tiết phù hợp với chế độ thanh toán sản phẩm xây lắp hoàn thành nhưng cuối cùng vẫn phải là từng hạng mục công trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng. Vì vậy, phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp chủ yếu là phương pháp tính trực tiếp hoặc phương pháp tính tổng cộng chi phí.
Phương pháp lập dự toán trong XDCB là phương pháp lập theo từng hạng mục công trình và được phân tích theo các khoản mục chi phí. Do vậy, việc phân loại theo chi phí sản xuất và cơ cấu giá thành sản phẩm xây lắp cũng chủ yếu được phân loại theo khoản mục (theo công dụng kinh tế). Theo quy định của chế độ kế toán áp dụng từ trước tháng 10/1994 chi phí sản xuất trong các xí nghiệp xây lắp được xếp thành 6 khoản mục:
- Chi phí nguyên vật liệu
- Chi phí nhân công
- Chi phí sử dụng máy
- Chi phí trực tiếp khác
- Phí tổn gián tiếp
- Chi phí thiệt hại trong sản xuất (Chi phí này không được tính trong dự toán)
Theo chế độ kế toán mới thì một phần khoản mục phí tổn gián tiếp được kết chuyển trực tiếp vào TK 911 "xác định kết quả" và khoản chi phí này không được coi là khoản mục giá thành.
2. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất
Trong các xí nghiệp xây lắp, quá trình sản xuất cũng xảy ra theo đúng chức năng chủ yếu của quá trình sản xuất nói chung. Đó là quá trình kết hợp giữa tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động để tạo thành sản phẩm. Trong quá trình này sẽ phát sinh những chi phí bao gồm: một phần hao phí lao động sống và lao động quá khứ được vật hoá trong tư liệu sản xuất.
Lao động sống và lao động vật hoá mà xí nghiệp xây lắp phải bỏ ra trong quá trình sản xuất thi công được biểu hiện ra ở sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong sản xuất xây lắp đòi hỏi xí nghiệp phải kết hợp chặt chẽ 3 yếu tố trên để tạo ra sản phẩm tốt, giá thành hạ, đáp ứng yêu cầu thiết kế.
Trong điều kiện xã hội còn tồn tại quan hệ hàng hoá - tiền tệ thì những chi phí bỏ ra trong quá tình sản xuất xây lắp được biểu hiện dưới hình thành giá trị. Ba yếu tố chi phí cơ bản trong sản xuất xây lắp tham gia vào quá trình sản xuất xây lắp với mức độ khác nhau hình thành nên các yếu tố chi phí tương ứng đó là: chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí về nguyên vật liệu và chi phí về nhân công. Những yếu tố chi phí này chính là chi phí sản xuất trong xí nghiệp xây lắp. Vậy chi phí sản xuất trong xí nghiệp xây lắp là toàn bộ những chi phí lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm của xí nghiệp. Bao gồm chi phí sản xuất xây lắp và chi phí sản xuất ngoài xây lắp
Trong xí nghiệp xây lắp, chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại có tính chất kinh tế khác nhau có công dụng kinh tế khác nhau và yêu cầu quản lý đối với từng loại chi phí cũng khác nhau. Việc quản lý sản xuất, quản lý chi phí sản xuất không thể chỉ dựa vào số liệu phản ánh tổng hợp chi phí sản xuất, mà còn phải căn cứ vào số liệu cụ thể của từng loại chi phí riêng biệt, để phục vụ cho yêu cầu kiểm tra và phân tích toàn bộ các chi phí sản xuất, hoặc từng yếu tố kinh tế ban đầu của chúng theo từng hạng mục công trình, từng công trình, theo từng nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Do đó, đòi hỏi phải có sự phân loại chi phí và đó là một yêu cầu tất yếu để hạch toán chính xác chi phí sản xuất phấn đấu hạ giá thành.
Phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học và thống nhất không những có ý nghĩa quan trọng đối với hạch toán mà còn là tiền đề rất quan trọng của kế hoạch hoá, kiểm tra và phân tích chi phí sản xuất của toàn xí nghiệp, thúc đẩy không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành, phát huy hơn nữa vai trò của công cụ kế toán đối với sự nghiệp phát triển của xí nghiệp.
Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm xây lắp và yêu cầu quản lý của XDCB làm cho việc phân loại chi phí sản xuất có những nét không giống với những ngành sản xuất khác. Thông thường chi phí sản xuất được phân loại theo hai phương pháp chủ yếu sau:
a. Phân loại chi phí sản xuất theo tính chất kinh tế
Theo phương pháp này chi phí sản xuất được phân thành:
- Nguyên vật liệu chính mua ngoài
- Vật liệu phụ mua ngoài (gồm vật liệu phụ, phụ tùng và công cụ lao động nhỏ)
- Nhiên liệu mua ngoài
- Năng lượng, động lực mua ngoài
- Tiền lương công nhân viên
- Bảo hiểm xã hội của công nhân viên
- Khấu hao tài sản cố định
- Chi phí khác bằng tiền
Phân loại chi phí sản xuất theo cách này giúp ta biết được các chi phí nào đã dùng vào quá trình sản xuất. Đồng thời cũng cho ta biết tỷ trọng của từng loại chi phí sản xuất của xí nghiệp xây lắp. Từ đó giúp cho đơn vị xác định được định mức lao động, vật tư, định mức vốn lưu động, kiểm tra việc thực hiện dự toán trong quá trình sản xuất. Nó là tài liệu quan trọng dùng làm căn cứ để xác định mức tiêu hao vật chất vào thu nhập quốc dân, cân đối vĩ mô toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
b. Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế:
Trong các xí nghiệp xây lắp hiện nay do yêu cầu hạch toán kinh tế nên chi phí sản xuất phân loại theo công dụng kinh tế, gồm nhiều khoản mục thể hiện điều kiện khác nhau của chi phí sản xuất, đồng thời cũng thể hiện nơi phát sinh chi phí và đối tượng chi phí. Cụ thể như sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là các chi phí nguyên vật liệu phát sinh thực tế để sản xuất sản phẩm xây lắp hay lắp đặt công trình. Chi phí này được hạch toán chi tiết theo từng công trình xây lắp, lắp đặt (công trình, hạng mục công trình, các giai đoạn công việc, khối lượng xây lắp có dự toán riêng).
- Chi phí nhân công trực tiếp: là các khoản thù lao lao động phải trả cho công nhân trực tiếp xây, lắp các công trình và các khoản phụ cấp, các khoản trích cho các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. Chi phí này cũng được hạch toán chi tiết theo từng công trình, hạng mục công trình, giai đoạn công việc...
- Chi phí sử dụng máy: chi phí này được đưa vào dành cho máy móc xây lắp khi máy hư hao trong quá trình sử dụng.
- Chi phí trực tiếp khác: Đây là những chi phí phục vụ sản xuất xây lắp trong quá trình tiến hành xây dựng cơ bản tại các công trường, các đội và các bộ phận sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp xây dựng cơ bản ngoài các chi phí trên. Chi phí này hạch toán chi tiết cho từng công trình, từng đội, từng bộ phận.
Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế cho thấy mức độ ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau đến giá thành sản phẩm, xác định mục đích chi tiêu, giám sát quá trình thực hiện kế hoạch giá thành và hạ giá thành sản phẩm. Ngoài ra dựa vào cách phân loại chi phí này để giúp cho công tác lập kế hoạch giá thành, xác định giá thành thực tế và phân tích giá thành theo khoản mục có cơ sở vững chắc.
c. Phân loại theo sản phẩm:
- Chi phí xây dựng: là toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình xây dựng như chi phí nhân công, nguyên vật liệu, sử dụng máy thi công, chi phí phục vụ quá trình xây lắp.
- Chi phí lắp đặt: là những chi phí phát sinh sau khi công trình được hoàn thành. Bao gồm những chi phí như nghiệm thu, lắp đặt, chạy thử...
Trên đây là ba cách phân loại chi phí sản xuất trong các xí nghiệp xây lắp. Ngoài hai cách phân loại trên còn có các cách phân loại khác như phân loại theo địa điểm phát sinh chi phí, phân loại theo mối quan hệ với sản lượng... Mỗi cách phân loại có một ý nghĩa riêng nhưng chúng lại bổ xung cho nhau nhằm quản lý tốt chi phí sản xuất, cho phép kiểm tra toàn bộ chi phí phát sinh trong phạm vi xí nghiệp theo từng yếu tốt riêng biệt của chúng, đồng thời có tác dụng kiểm tra việc sử dụng chi phí theo từng khoản mục của giá thành sản phẩm.
3. Giá thành sản phẩm và các loại giá thành sản phẩm:
a. Giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm là toàn bộ chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất tính theo số lượng và loại sản phẩm đã hoàn thành.
Giá thành là một phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá. Nó là một phạm trù kinh tế khách quan đồng thời có đặc tính chủ quan trong một giới hạn nhất định. Giá thành là một bộ phận giá trị biểu hiện bằng tiền.
Nó cũng là một bộ phận của chi phí sản xuất xã hội bao gồm toàn bộ hao phí về lao động vật hoá và một phần lao động sống để sản xuất hàng hoá. ở góc độ này, giá thành là một phạm trù kinh tế khách quan bởi vì sự chuyển dịch giá trị tư liệu sản xuất và lao động sống đã hao phí vào sản xuất là một sự cần thiết tất yếu.
Đối với xí nghiệp, giá thành là một đại lượng tính toán, là chỉ tiêu có sự biến tướng nhất định. Bởi vậy ở phương diện này, giá thành có đặt điểm chủ quan nhất định (biểu hiện mặt hạn chế của chỉ tiêu giá thành). Đặc điểm chủ quan của chỉ tiêu giá thành thể hiện ở hai khía cạnh:
Tính vào giá thành một số chi phí và về thực chất là thu nhập thuần tuý của XH như: BHXH, các khoản nộp cho cơ quan cấp trên, thuế tài nguyên, tiền sử dụng vốn...
Việc áp dụng nguyên tắc đánh giá khi biểu hiện hao phí bằng hình thức tiền tệ, giá thành là một chỉ tiêu tính toán.
Bên cạnh đó, giá thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế tài chính của xí nghiệp (để xem xét quản lý giá thành, người ta căn cứ vào chỉ tiêu mức hạ và tỷ lệ hạ giá thành). Thông qua chỉ tiêu hạ giá thành có thể thấy trình độ xử lý và tiết kiệm chi phí vật liệu, nhân công, sử dụng máy thi công, khả năng tận dụng công suất máy móc thiết bị sản xuất và mức độ trang bị kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kết quả của việc sử dụng hợp ký sức lao động, tăng năng suất lao động và trình độ quản lý kinh tế tài chính, trình độ hạch toán của xí nghiệp.
Mặc dù giá thành sản phẩm xây lắp là một bộ phận của giá trị xấy lắp nhưng nó không đồng nhất với giá trị sản phẩm xây lắp. Giá trị sản phẩm lớn hay nhỏ hoàn toàn phụ thuộc vào lượng lao động xã hội cần thiết bỏ ra, còn giá thành sản phẩm xây lắp chịu ảnh hưởng của giá cả, cước phí vận chuyển, tiền lương... Giá thành sản phẩm xây lắp cao hay thấp còn phản ánh mọi mặt cố gắng của xí nghiệp xây lắp như trình độ kỹ thuật thi công trình độ tổ chức sản xuất thi công, tình hình sử dụng lao động, vật tư, thiết bị... có nghĩa là giá thành sản phẩm xây lắp phản ánh trình độ kỹ thuật, trình độ kinh tế, trình độ tổ chức, quản lý của xí nghiệp xây lắp. Như vậy, tất cả các mặt hoạt động, các biện pháp chi tiêu, quản lý xí nghiệp xây lắp đem lại hiệu quả cao hay thấp đều thể hiện ở chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp. Thông qua chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp, người ta có thể xác định được kết quả quá trình sản xuất kinh doanh mức độ tích luỹ của xí nghiệp xây lắp.
Hạ giá thành sản phẩm xây lắp là một nhiệm vụ quan trọng trong sản xuất xây lắp. Việc hạ giá thành sản phẩm xây lắp một cách hệ thống là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của sản xuất kinh doanh, nó là nhiệm vụ hàng đầu của doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng quản lý kinh tế và cũng trên sơ sở hạ giá thành xây lắp có hệ thống thì mới nâng cao tích luỹ một cách vững chắc và bảo đảm các phương tiện cần thiết để tái sản xuất mở rộng xã hội và nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên.
Tóm lại, trong điều kiện hạch toán kinh doanh XHCN, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là điều kiện quan trọng để sản phẩm được thị trường chấp nhận, đảm bảo tăng tốc độ và quy mô phát triển sản xuất, tăng tích luỹ và cải thiện đời sống cho người lao động - là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của công tác quản lý kinh tế ở các doanh nghiệp sản xuất.
b. Các loại giá thành xây lắp:
Sản phẩm của hoạt động xây lắp có giá trị lớn, thời gian thi công dài và mang tính chất đơn chiếc, có kết cấu phức tạp, khối lượng lớn. Do đó, mỗi công trình có thiết kế dự toán riêng, giá trị từng hạng mục của công trình được biểu hiện trong dự toán.
Giá trị dự toán hạng = Giá thành dự toán + Lãi định mức
mục công trình hạng mục công trình
Tác dụng của giá thành dự toán:
- Dự toán trước được nguyên vật liệu, chi phí xây lắp thì ước lượng được giá trị công trình giúp cho nhà thầu dễ dàng thắng thầu.
- Từ giá thành dự toán xác định được khối lượng, loại vật liệu cần mua tránh hiện tượng mua vật liệu tràn lan, lãng phí...
Về giá thành sản phẩm xây lắp hiện nay còn tồn tại 3 loại giá thành công tác xây lắp sau:
* Giá thành dự toán công tác xây lắp:
Là một bộ phận của giá trị dự toán công tác xây lắp hoàn thành bàn giao, hay nói cách khác giá thành dự toán công tác xây lắp là tổng số các chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình. Giá thành này được xác định trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật quy định của Nhà nước và khung giá của từng vùng lãnh thổ.
Thông qua tổng dự án công tác xây lắp (giá thành dự toán công tác xây lắp) chúng ta có thể đánh giá được thành tích của xí nghiệp, nó là hạn mức chi phí cao nhất mà xí nghiệp có thể chi ra để đảm bảo có lãi, là tiêu chuẩn để phấn đấu hạ định mức thực tế.
* Giá thành kế hoạch công tác xây lắp:
Là giá thành được xác định xuất phát từ những điều kiện cụ thể của xí nghiệp xây lắp trong giai đoạn kế hoạch hoá nhất định, nó là cơ sở để phấn đấu hạ giá thành công tác xây lắp trong giai đoạn kế hoạch. Giá thành kế hoạch được xác định trên cơ sở biện pháp thi công, các định mức nội bộ tiên tiến và đơn giá áp dụng trong nội bộ xí nghiệp.
Công thức xác định:
Giá thành kế hoạch = Giá thành dự toán - Mức hạ giá thành
công tác xây lắp công tác xây lắp kế hoạch
Giá thành kế hoạch công tác xây lắp là mục tiêu cơ bản trong việc hạ giá thành công tác xây lắp của các xí nghiệp xây lắp.
* Giá thành thực tế công tác xây lắp:
Là biểu hiện bằng tiền của tất cả các chi phí thực tế của xí nghiệp xây lắp để hoàn thành một khối lượng xây lắp nhất định và giá thành thực tế được xác định theo số liệu của kế toán cung cấp. Giá thành thực tế công tác xây lắp bao gồm cả chi phí trong định mức, chi phí vượt định mức, chi phí trong dự toán và chi phí ngoài dự toán của xí nghiệp được phép tính vào giá thành.
Giá thành dự toán mang tính chất xã hội, do đó việc so sánh giá thành thực tế với giá thành dự toán cho phép ta đánh giá trình độ quản lý của xí nghiệp xây lắp trong mối quan hệ chung với các xí nghiệp xây lắp khác. Còn việc so sánh giá thành dự toán với giá thành kế hoạch cho phép ta đánh giá trình độ quản lý của xí nghiệp xây lắp trong mối quan hệ chung với các xí nghiệp xây lắp khác. Còn việc so sánh giá thành dự toán với giá thành kế hoạch cho phép ta đánh giá sự tiến bộ hay yếu kém của xí nghiệp xây lắp trong điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ quản lý của bản thân xí nghiệp.
Giữa 3 loại giá thành này có quan hệ chặt chẽ với nhau và yêu cầu các xí nghiệp xây lắp phải phấn đấu đạt được, cụ thể là:
Giá thành dự toán > Giá thành kế hoạch > Giá thành thực tế
Giá thành kế hoạch = Giá thành dự toán - Mức lãi giá thành dự toán
Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm xây lắp cơ bản là có giá trị lớn, thời gian xây lắp dài, do vậy để đáp ứng nhu cầu quản lý nói chung và quản lý giá thành nói riêng thì giá thành sản phẩm xây lắp còn được chia thành hai chỉ tiêu là giá thành khối lượng hoàn chỉnh và giá thành khối lượng hoàn thành quy ước.
Giá thành khối lượng hoàn chỉnh là giá thành của những đối tượng huy động vào sản xuất, sử dụng và có đủ khả năng phát huy tác dụng tương đối độc lập. Giá thành khối lượng xây lắp hoàn chỉnh là giá thành hạng mục công trình, công trình đã thi công đến giai đoạn cuối cùng, phù hợp với tiêu chuẩn thiết kế quy định đã được bên A và bên B kiểm nhận, thanh toán và bàn giao cho đơn vị sản xuất sử dụng. Chỉ tiêu này cho phép tính toán, đánh giá một cách tổng quát hiệu quả kinh tế vốn đầu tư cho một công trình, nhưng lại không đáp ứng được kịp thời cho việc phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành. Do đó, để đáp ứng yêu cầu quản lý và đảm bảo chỉ đạo sản xuất kịp thời đòi hỏi xác định giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước.
Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước là giá thành của các khối lượng xây lắp, mà khối lượng đó phải thoả mãn các điều kiện sau:
- Phải nằm trong thiết kế và đảm bảo chất lượng thiết kế quy định
- Phải đo đếm được và được chủ đầu tư (bên A) chấp nhận thanh toán
- Phải đạt điểm dùng kỹ thuật hợp lý
Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước phản ánh kịp thời chi phí cho đối tượng xây lắp trong quá trình thi công xây lắp, giúp cho xí nghiệp phân tích kịp thời các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh để có những biện pháp uốn nắn những sai lệch để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành, song chỉ tiêu này lại phản ánh không toàn diện và không chính xác, do vậy việc quản lý giá thành đòi hỏi phải sử dụng cả hai chỉ tiêu để đảm bảo quản lý giá thành được toàn diện và chính xác.
4. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:
* Giống nhau:
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động sản xuất.
Chi phí là sự biểu hiện về mặt hao phí, giá thành là biểu hiện về mặt kết quả của quá trình vì vậy chúng giống nhau về bản chất và là hai mặt thống nhất của một quá trình.
Chi phí sản xuất trong kỳ là cơ sở, căn cứ để tính giá thành sản phẩm, công việc lao vụ hoàn thành, sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí đều ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Quản lý giá thành luôn gắn liền với quản lý chi phí sản xuất.
* Khác nhau:
Chi phí sản xuất luôn gắn liền với từng thời kì phát sinh chi phí còn giá thành lại gắn với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ hoàn thành.
Chi phí sản xuất trong kỳ bao gồm cả những chi phí sản xuất đã trả trước trong kỳ chưa phân bổ trong kỳ này và những chi phí phải trả kỳ trước nhưng kỳ này mới phát sinh nhưng không bao gồm chi phí trả trước của kỳ trước phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ này chưa thực tế phát sinh. Còn giá thành sản phẩm thì ngược lại, nó chỉ liên quan đến chi phí phải trả trong kỳ và chi phí trả trước được phân bổ trong kỳ.
Chi phí sản xuất không chỉ liên quan những sản phẩm hoàn thành mà còn liên uan đến cả sản phẩm hỏng và sản phẩm dở dang, còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản phẩm dở dang và sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang.
Sự khác nhau trên càng thể hiện rõ trong công thức sau:
Tổng giá thành sản phẩm
=
Chi phí SX dở dang đầu kỳ
+
Chi phí SX phát sinh trong kỳ
-
Chi phí dở dang cuối kỳ
Vì vậy, khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau thì tổng giá thành sản phẩm bằng chi phí sản xuấtMối quan hệ giữa chi phí sản xuất và
*.Yêu cầu quản lý và nhiệm vụ kế toán tập chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp
- Yêu cầu quản lý
Yêu cầu quản lý chi phí:
- Nắm rõ được mức độ của mỗi loại chi phí từ đó xây dựng kế hoạch tiết kiệm chi phí nhằm giảm giá thành sản phẩm.
- Thường xuyên có sự kiểm tra đôn đốc để tránh hiện tượng tập hợp chi phí nhầm lẫn và sai lệch.
Yêu cầu quản lý giá thành:
- Kiểm tra lại những hoá đơn chứng từ do kế toán chi phí chuyển lên để kế toán tổng hợp xác định chính xác giá thành của từng công trình, hạ mục công trình.
- Kiểm tra lại việc xác định giá thành của kế toán tổng hợp, sau đó mới đưa ra mức giá thành thực tế trước khi bàn giao công trình.
- Nhiệm vụ kế toán
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành có nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất ở từng bộ phận sản xuất của xí nghiệp.
- Ghi chép, tính toán, phản ánh đầy đủ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của hoạt động xây lắp, xác định hiệu quả từng phần và toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
- Kiểm tra việc thực hiện các định mức tiêu hao vật tư lao động, sử dụng máy thi công và các dự toán chi phí phục vụ quản lý sản xuất nhằm thúc đẩy việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm mọi chi phí trong quá trình sản xuất.
- Tính toán chính xác và kịp thời giá thành sản xuất xây lắp, các sản phẩm và lao vụ của xí nghiệp theo kế hoạch giá thành.
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch giá thành của xí nghiệp theo từng khoản mục chi phí, từng hạng mục công trình, từng loại sản phẩm và lao vụ, vạch ra khả năng tiềm tàng hạ giá thành sản phẩm xây lắp.
- Xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng sản phẩm xây lắp đã hoàn thành. Thực hiện kiểm kê, đánh giá hàng tháng khối lượng xây lắp dở dang theo đúng quy định.
- Kiểm tra tình hình thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành sản phẩm xây lắp.
* Yêu cầu tổ chức hợp lý kế toán chi phí và tính giá thành:
Phải tập hợp các chi phí một cách chính xác, hợp lý để từ đó xác định đúng giá trị của công trình xây lắp.
Mỗi nghiệp vụ phát sinh phải hạch toán chi tiết tránh nhẫm lẫn trong việc tổng hợp chi phí cuối kỳ.
Xây dựng đội ngũ nhân viên kế toán có kinh nghiệm và có khả năng nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành.
II. Phương pháp kế toán chi phí xây lắp:
1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là xác định một giới hạn nhất định các loại chi phí được tập hợp.
Thực chất của việc xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định nơi phát sinh chi phí và đối tượng chịu chi phí. Trước hết phải căn cứ vào mục đích sử dụng của chi phí (sản xuất chính hay sản xuất phụ) sau đó căn cứ vào địa điểm phát sinh của chi phí trong quá trình sản xuất (trực tiếp sản xuất hay gián tiếp sản xuất) để xác định đối tượng tập hợp chi phí thích hợp. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí nhằm giúp cho việc quản lý sản xuất, phục vụ cho việc tính giá thành thuận lợi chính xác.
Đối tượng tập hợp chi phí ở từng doanh nghiệp cụ thể cần căn cứ vào yêu cầu của cơ cấu tổ chức sản xuất, trình độ quản lý kinh tế. Cụ thể là:
- Tính chất sản xuất và đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm:
Nếu xí nghiệp có quy trình sản xuất giản đơn thì đối tượng hay giới hạn tập hợp chi phí toàn bộ quy trình sản xuất. Còn các xí nghiệp có quy trình công nghệ phức tạp kiểu chế biến liên tục thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là sản phẩm cuối cùng hoặc từng giai đoạn công nghệ.
Nếu xí nghiệp có quy trình công nghệ phức tạp kiểu song song thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hoặc từng bộ phận chi tiết sản phẩm. Nếu sản phẩm có quá nhiều chi tiết thì có thể hạch toán cho từng nhóm chi tiết sản phẩm cùng loại.
- Căn cứ vào loại hình sản xuất các xí nghiệp thuộc loại hình sản xuất đơn chiếc thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là từng sản phẩm, từng công trình, từng hạng mục, công trình như trong XDCB. Còn các xí nghiệp thuộc loại hình sản xuất hàng loạt thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là từng đơn đặt hàng.
- Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất: Nếu xí nghiệp tổ chức sản xuất theo phân xưởng thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất theo phân xưởng hoặc tổng hợp chi phí sản xuất theo sản phẩm.
- Căn cứ theo yêu cầu quản lý, khả năng trình độ quản lý, trình độ hạch toán của xí nghiệp để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất cho thích hợp. Nếu trình độ quản lý, hạch toán của xí nghiệp càng cao thì đối tượng tập hợp chi phí càng cụ thể và chi tiết hơn.
Do đặc điểm ngành XDCB là sản phẩm đơn chiếc, thời gian xây lắp dài, mỗi công trình, mỗi hạng mục công trình có dự toán, thiết kế riêng, có đặc điểm riêng biệt... Vì vậy, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trong xí nghiệp xây lắp thường là hạng mục công trình, các giai đoạn công việc của hạng mục công trình, hoặc nhóm hạng mục công trình cùng loại hoặc theo đơn đặt hàng (theo từng hợp đồng), hoặc theo công trình, tổ đội thi công.
Ví dụ: tổ đội thi công: toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình xây lắp có liên quan đến tổ đội thi công thì tập hợp riêng cho từng tổ đội. Hay theo công trình thì toàn bộ chi phí phát sinh cho công trình đó thì tập hợp để tính giá thành công trình...
2.Trình tự hạch toán chi phí sản xuất:
Có thể khái quát thông qua 04 bước sau (Tuy nhiên tuỳ theo cách hạch toán hàng tồn kho mà doanh nghiệp áp dụng):
Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản liên quan trực tiếp với đối tượng sử dụng.
Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất kinh doanh phụ có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ.
Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loại sản phẩm có liên quan.
Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ.
3. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp
a. Hạch toán chi phí vật liệu trực tiếp
Trong xí nghiệp xây lắp, vật liệu là tài sản dự trữ thuộc loại tài sản lưu động là một trong 3 yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, là cơ sở vật chất hình thành nên sản phẩm mới. Nội dung khoản mục vật liệu trong giá thành sản phẩm xây lắp bao gồm:
- Giá trị của vật liệu xây lắp: cột diện, cáp ngầm...
- Giá trị của các vật liệu khác: cát,xi măng xây dựng trạm biến áp và chôn cột điện...
- Chi phí tiền lương công nhân làm nhiệm vụ đào tuyến cáp ngầm...
Như vậy, chi phí vật liệu cho công trình bao gồm giá trị thực tế của vật liệu chính, vật liệu phụ, vật liệu khác... sử dụng cấu tạo công trình hoặc giúp cấu tạo công trình. Kế toán vật liệu phải đáp ứng được yêu cầu sau:
- Vật liệu sử dụng để sản xuất cho sản phẩm, hạng mục công trình nào phải tính cho sản phẩm, hạng mục công trình đó trên cơ sở chứng từ gốc, theo giá thực tế của vật liệu và theo số lượng vật liệu thực tế đã sử dụng.
- Cuối kỳ hạch toán và khi hoàn thành hạng mục công trình phải kiểm kê vật liệu còn lại tại nơi sản xuất để ghi giảm trừ chi phí vật liệu đã tính cho từng đối tượng hạch toán chi phí.
- Thông qua kết quả hạch toán chi phí vật liệu tiêu hao thực tế theo từng nơi phát sinh cho từng đối tượng hạch toán chi phí thường xuyên kiểm tra, đối chiếu với định mức dự toán để phát hiện kịp thời những lãng phí, mất mát hoặc khả năng tiết kiệm chi phí vật liệu.
- Tài khoản sử dụng: TK 621
Trình tự hạch toán khoản mục vật liệu như sau:
Khi xuất kho vật liệu cho sản xuất thi công, căn cứ vào khối lượng sản xuất, định mức tiêu hao vật liệu... các đơn vị thi công xin lĩnh vật tư sử dụng. Các phòng có liên quan xét duyệt và lập phiếu xuất kho cho từng đơn vị sử dụng. Thông thường sử dụng hai loại chứng từ sau:
+ Phiếu lĩnh vật tư: Phiếu được sử dụng đẻ lĩnh vật liệu một lần, sau khi lĩnh thủ kho sẽ thu hồi phiếu.
+ Phiếu lĩnh vật tư theo hạn mức: Phiếu được sử dụng để lĩnh vật liệu nhiều lần trong hạn mức được cấp, mỗi lần lĩnh thủ kho ghi khối lượng vào phiếu, khi đã lĩnh hết hạn mức thủ kho sẽ thu hồi phiếu.
Trường hợp xuất vật liệu đi chuyển nội bộ xí nghiệp, kế toán sử dụng phiếu xuất kho di chuyển nội bộ.
Trên phiếu xuất kho phải ghi rõ đơn vị sử dụng, đối tượng sử dụng tên vật liệu, số lượng xin lĩnh, số lượng thực xuất và có đầy đủ chữ ký của người chịu trách nhiệm.
Thủ kho căn cứ vào các chứng từ xuất vật liệu để gh._.i vào thẻ kho. Hàng tuần hoặc cuối tháng, bàn giao lại cho kế toán để đối chiếu số liệu hạch toán nghiệp vụ tại kho với số liệu hạch toán chi tiết tại phòng kế toán. Kế toán vật tư tiến hành đối chiếu với các chứng từ khác có liên quan ghi giá vật liệu xuất vào các chứng từ và định khoản ngay trên chứng từ đó.
Hiện nay vật liệu hầu như được mua theo nhu cầu thi công và đưa thẳng với công trường thông qua nhập kho dự trữ bởi vì nguồn cung cấp vật liệu chủ yếu là ở thị trường tự do và vốn để mua vật liệu chủ yếu là vốn vay ngân hàng nên việc mua vật liệu dự trữ là điều khó chấp nhận trong nền kinh tế thị trường.
Trong thực tế những vật liệu khó cân đo để có khối lượng xuất cho công nhân khi sử dụng (vì mặt bằng không cho phép) như: cát, đá, vôi..., việc tính vật liệu xuất dùng bằng cách phân bổ vật liệu theo định mức tiêu hao được áp dụng phổ biến để việc tính toán được đơn giản, thuận tiện. Khi tính chi phí vật liệu phải loại ra khỏi chi phí sản xuất trong kỳ giá trị vật liệu chưa dùng hết và giá trị phế liệu thu hồi.
Chi phí Vật liệu xuất Giá trị vật Giá trị vật Giá trị phế
vật liệu = dùng cho cho sx + liệu tồn - liệu tồn - phế liệu
trong kỳ trong kỳ đầu kỳ cuối kỳ thu hồi
* Phương pháp hạch toán chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp ( trường hợp doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên).
- Trong khi xuất nguyên liệu chính và vật liệu phụ sử dụng trực tiếp cho sản xuất, chế tạo sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ, lao vụ, căn cứ vào phiếu xuất kho nguyên liệu, vật liệu, ghi:
Nợ TK 621: Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp
Có TK 152: Nguyên liệu, vật liệu
Trường hợp nguyên liệu, vật liệu mua về không nhập kho mà dù ngay cho sảnn xuất sản phẩm hoặc thực hiện lao vụ, dịch vụ, căn cứ vào các chứng từ kế toán, ghi:
Nợ TK 621 : Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp
Có TK 111: Tiền mặt
Có TK 112: Tiền gửi ngân hàng
Có TK 331: Phải trả người bán.
Cuối kỳ , căn cứ vào tài liệu kiểm kê xác định giá trị nguyên liệu, vật liệu sử dụng không hết nhập lại kho, ghi:
Nợ TK 152: Nguyên liệu, vật liệu
Có TK 621: Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp
Cuối kỳ, kết chuyển chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp vào bên Nợ TK 154 – “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” theo từng ngành, từng nơi phát sinh chi phí, theo từng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ, ghi:
Nợ TK 154: Chi phí sản xuất dở dang
Có TK 621: Chi phí nguyên liệu, vật liệu.
Theo chế độ kế toán mới mà các xí nghiệp xây lắp áp dụng thì trình tự kế toán về chi phí vật liệu (áp dụng theo phương pháp kê khai thường xuyên) có thể tóm tắt theo sơ đồ như sau:
Giải thích:
Thanh toán tiền cho người bán
Vật tư vận chuyển thẳng vào công trình không qua kho
Nguyên vật liệu xuất kho
Xuất kho, mua vật liệu sử dụng dần
Kết chuyển sản phẩm dở dang
Vật liệu không sử dụng hết nhập kho
b. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công bao gồm tiền lương cơ bản, các khoản phụ cấp lương, lương phụ... có tính chất ổn định thực tế phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp.
Cụ thể gồm:
- Tiền lương chính của công nhân trực tiếp tham gia xây lắp và trực tiếp lắp đặt máy móc thiết bị.
- Tiền lương chính của công nhân vận chuyển vật liệu trong thi công, công nhân dọn dẹp vật liệu trên công trường, tiền lương chính của công nhân khuân vác từ kho tới chỗ lắp...
- Tiền thưởng từ quỹ lương của công nhân xây lắp trực tiếp, tiền thù lao nhân công, tiền công lao động phục vụ trực tiếp cho xây lắp công trình.
- Các khoản trên hiện nay được hạch toán vào TK 334 "phải trả công nhân viên". Để tập hợp chi phí nhân công trực tiếp kế toán sử dụng TK 622.
Nội dung của hạch toán lao động và tiền lương gồm hạch toán thời gian lao động, hạch toán công việc giao khoán, hạch toán tính lương, trả lương và việc tính toán phân bổ chi phí tiền lương vào giá thành sản phẩm công việc hoàn thành.
+ Hạch toán thời gian lao động được tiến hành theo từng loại công nhân viên chức, theo từng công việc được giao và theo từng hạng mục công trình (từng đối tượng hạch toán chi phí và tính giá thành). Việc hạch toán thời gian lao động của công nhân viên chức trong xí nghiệp được tiến hành trên bảng chấm công. Bảng chấm công thời gian và hợp đồng khoán là chứng từ ban đầu để hạch toán khoản mục chi phí công nhân, nó theo dõi cho từng tổ sản xuất, từng đội xây lắp, từng bộ phận sản xuất xây lắp. Bảng chấm công cho ta biết rõ ngày làm việc thực tế và số ngày nghỉ của từng người. Các chứng từ này sau khi được kiểm tra xác nhận ở các đội sản xuất, các chủ nhiệm công trình được chuyển về phòng lao động tiền lương ghi chép theo dõi, sau đó chuyển về phòng kế toán làm căn cứ tiền lương và phân bổ chi phí tiền lương vào các khoản chi phí có liên quan.
+ Hạch toán khối lượng công việc giao khoán và tiền lương: chứng từ ban đầu hạch toán khối lượng công việc giao khoán là "hợp đồng làm khoán".
Theo chế độ kế toán mới thì khi nhận được các chứng từ như: bảng chấm công, hợp đồng làm khoán... kế toán kiểm tra, tính toán, lập bảng thanh toán lương có đủ chữ ký của thủ trưởng, kế toán trưởng để chi trả tiền lương cho công nhân viên. Căn cứ vào chứng từ tính lương kế toán có thể ghi trực tiếp hoặc tổng hợp theo tổ, đội sản xuất và đối tượng hạch toán chi phí sản xuất tính giá thành để ghi vào các sổ kế toán chi tiết và tổng hợp.
* Phương pháp hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất trong kỳ hạch toán, ghi:
Nợ TK 622: Chi phí nhân công trực tiếp
Có TK 334: Phải trả công nhân viên
Tính, trích bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, bảo hiểmy tế của công nhân sản xuất hoặc thực hiện lao vụ, dịch vụ, ghi:
Nợ TK 622: Chi phí nhân công trực tiếp
Có TK 338: Phải trả, phải nộp khác.
( chi tiết TK 3382: Kinh phí công đoàn)
TK 3382: Bảo hiểm xã hội
TK 3384: Bảo hiểm y tế
Cuối kỳ kế toán, kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào bên Nợ TK 154 “ Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” theo từng ngành sản xuất, nơi phát sinh chi phí ( Phân xưởng, đội sản xuất...) theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, lao vụ, dị vụ, ghi.
Nợ TK 154: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có TK 622: Chi phí nhân công trực tiếp
Nếu đơn vị áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ thì chi phí nhân công trực tiếp được kết chuyển vào bên Nợ TK 631: Giá thành sản xuất, ghi:
Nợ TK 631: Giá thành sản xuất
Có TK 622: Chi phí nhân công trực tiếp
Trình tự hạch toán chi phí nhân công trực tiếp được thực hiện theo sơ đồ sau:
Giải thích:
1: Lương phải trả cho nhân công trực tiếp
2: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
c. Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công
- Trường hợp máy thi công thuê ngoài
Nợ TK 623
Nợ TK 133
Có TK 331, 111, 112
Cuối kỳ, kết chuyển vào TK 154 theo từng đối tượng
Nợ TK 154
Có TK 623
Trường hợp từng đội có máy thi công riêng
+ Kết chuyển và phân bổ theo từng đối tượng
Nợ TK 623
Có TK 152, 111, 112
+ Tập hợp chi phí tiền lương, tiền công của công nhân điều khiển và phục vụ máy thi công
Nợ TK 622
Có TK 3341, 3342, 111
+ Các chi phí khác có liên quan đến bộ phận máy thi công
Nợ TK 623
Nợ TK 133
Có TK 214, 111, 112
+ Tạm ứng chi phí để thực hiện giá trị khoán gọn
Nợ TK 623
Có TK 141
+ Kết chuyển hoặc phân bổ chi phí sử dụng máy thi công cho đối tượng
Nợ TK 154
Có TK 623
Trường hợp công ty có tổ chức đội máy thi công riêng
+ Nếu các bộ phận trong doanh nghiệp không tính toán kết quả riêng mà thực hiện phương thức bán lao vụ
Nợ TK 632
Có TK 154
Kế toán phản ánh bán nội bộ về chi phí sử dụng máy cung cấp lẫn nhau
Nợ TK 623
Nợ TK 133
Có TK 512
Có 3331
+ Phản ánh giá vốn dịch vụ bán ngoài
Nợ TK 632
Có TK 154
+ Phản ánh giá bán cho các đối tượng bên ngoài
Nợ TK 131, 111, 112
Có TK 511
Có TK 3331
d. Hạch toán chi phí sản xuất chung phục vụ xây lắp:
Những chi phí phục vụ trực tiếp cho hoạt động thi công xây lắp nhưng khó định mức và nhiều khoản không lường trước được nên người ta không tính trực tiếp vào đơn giá dự toán. Khoản mục này bao gồm:
- Chi phí vận chuyển vật liệu ngoài cự ly do mặt bằng thi công chật hẹp
- Chi phí điện nước dùng cho thi công kể cả dùng ban đêm
- Chi phí để chuẩn bị sân bãi để tập kết vật liệu
- Chi phí đào hố và tôi vôi...
- Chi phí về vét bùn và tát nước khi có mưa và mạch ngầm
Chi phí đo đạc nhỏ phục vụ thi công...
Những khoản chi phí này khi phát sinh, kế toán căn cứ vào các chứng từ gốc liên quan đến các loại chi phí để hạch toán trực tiếp vào bên Nợ TK 154. Bởi đặc điểm của Xí nghiệp, các sản phẩm là các công trình, hạng mục công trình, khi nghiệm thu bàn giao, căn cứ vào hóa đơn, kế toán tập hợp trực tiếp vào bên Nợ TK 154.
* Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất chung
- Khi tính tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên phân xưởng bộ phận sản xuất, ghi:
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung (6271)
Có TK 334: Phải trả công nhân viên
- Tính, trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của nhân viên phân xưởng bộ phận sản xuất theo quy định, ghi:
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung (6271)
Có TK 338: Phải trả, phải nộp khác
( 3382: Kinh phí công đoàn
Có TK 3383: Bảo hiểm xã hội
Có TK 3384: Bảo hiểm y tế)
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu dùng chung cho phân xưởng, như để sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định (do đơn vị tự làm), dùng cho quản lý điều hành hoạt động của phân xưởng.
+ Trường hợp doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phưưong pháp kê khai thường xuyên, khi xuất dùng nguyên liệu, vật liệu, căn cứ phiếu xuất kho, ghi:
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung
(Chi tiết Nợ TK 6272: Chi phí vật liệu)
Có TK 152: Nguyên liệu, vật liệu
- Khi xuất dùng công cụ, dụng cụ sản xuất có giá trị nhỏ cho phân xưởng, bộ phận sản xuất ghi:
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung
(Chi tiết Nợ TK 6273: Chi phí dụng cụ sản xuất)
Có TK 153: Công cụ, dụng cụ (1531)
- Khi xuất dùng công cụ, dụng cụ sản xuất một lần có giá trị lớn, ghi:
Nợ TK 142: Chi phí trả trước
(Chi tiết Nợ TK 1421: Chi phí trả trước)
Có TK 153: Công cụ, dụng cụ
(Chi tiết Có TK 1531: Công cụ, dụng cụ)
- Khi phân bổ giá trị công cụ, dụng cụ vào chi phí sản xuất chung, ghi:
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung
(Chi tiết Nợ TK 6273: Chi phí dụng cụ sản xuất)
Có TK 142: Chi phí trả trước
(Chi tiết Có TK 1421: Chi phí trả trước)
- Trích khấu hao máy móc, thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải, nhà cửa, vật kiến trúc của phân xưởng, vườn cây lâu năm, súc vật làm việc, súc vật sinh sản và những tài sản cố định khác thuộc phân xưởng, bộ phận sản xuất ghi:
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung
(Chi tiết Nợ TK 6274: Chi phí khấu hao tài sản cố định)
Có TK 214: Hao mòn tài sản cố định
- Chi phí điện nước... chi phí sửa chữa tài sản cố định thuê ngoài có giá trị nhỏ thuộc phân xưởng, bộ phận sản xuất ghi:
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung
(Chi tiết Nợ TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài)
Có TK 331: Phải trả người bán
Có TK 111: Tiền mặt
Có TK 112: Tiền gửi ngân hàng
Có TK 334, 152...
- Trường hợp sửa chữa tài sản cố định một lần có giá trị lớn, kế toán có thể sử dụng phương pháp trích trước chi phí sửa chữa tài sản cố định tính vào chi phí sản xuất chung.
+ Khi trích trước chi phí sửa chữa, ghi:
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung
Có TK 335: Chi phí phải trả
+ Khi chi phí sửa chữa thực tế phát sinh, ghi:
Nợ TK 335: Chi phí phải trả
Có TK 111: Tiền mặt
Có TK 111: Tiền mặt
Có TK 112: Tiền gửi ngân hàng
Có TK 241: Xây dựng cơ bản dở dang
Có TK 331: Phải trả người bán
Có TK 334, 338
- Trường hợp sửa chữa tài sản cố định một lần có giá trị lớn, kế toán sử dụng phương pháp tính dần số đã chi phí sửa chữa tài sản cố định thuộc phân xưởng, bộ phận sản xuất, tính vào chi phí sản xuất chung.
+ Khi chi phí sửa chữa tài sản cố định thực tế phát sinh, ghi:
Nợ TK 142: Chi phí trả trước
(Chi tiết Nợ TK 1421: Chi phí trả trước)
Có TK 111: Tiền mặt
Có TK 112: Tiền gửi ngân hàng
Có TK 241: Xây dựng cơ bản dở dang
Có TK 331: Phải trả người bán
Có TK 334, 338...
+ Khi tính dần chi phí sửa chữa tài sản cố định vào chi phí sản xuất chung, ghi:
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung
Có TK 142: Chi phí trả trước
(Chi tiết Có TK 1421: Chi phí trả trước)
- Nếu phát sinh các khoản giảm trừ chi phí sản xuất chung, ghi:
Nợ TK 111: Tiền mặt
Nợ TK 112: Tiền gửi ngân hàng
Nợ TK 138: Phải thu khác (1388)
.....
Có TK TK 627: Chi phí sản xuất chung
- Cuối kỳ, tính và phân bổ chi phí sản xuất chung và kết chuyển vào các tài khoản liên quan (bên Nợ TK 154 hoặc bên Nợ TK 631) cho từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, lao vụ, dịch vụ... theo tiêu chuẩn phù hợp.
+ Nếu đơn vị áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên, ghi:
Nợ TK 154: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có TK TK 627: Chi phí sản xuất chung
+ Nếu đơn vị áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ, ghi:
Nợ TK 631: Ghi thành sản xuất
Có TK TK 627: Chi phí sản xuất chung
Những chi phí gián tiếp phục vụ cho hoạt động xây lắp là những chi phí có liên quan tới quá trình tổ chức phục vụ và quản lý thi công, do vậy nó ảnh hưởng lớn tới việc tổ chức và thực hiện kế hoạch thi công xây lắp.
Giải thích:
1: Khoản mục chi phí phục vụ công tác xây lắp
2: Kết chuyển chi phí sản xuất chung
e. Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất
Hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng: Sản phẩm hỏng làm sản phẩm không thỏa mãn các tiêu chuẩn chất lượng và đặc điểm kỹ thuật của sản xuất về màu sắc, kích cỡ, trọng lượng, cách thức lắp ráp... Tuỳ theo mức độ hư hỏng mà sản phẩm hỏng được chia làm 2 loại:
- Sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được (sản phẩm tái chế) là những sản phẩm hỏng mà về mặt kỹ thuật có thể sửa chữa được và việc sửa chữa đó có lợi về mặt kinh tế.
- Sản phẩm hỏng không sửa chữa được là những sản phẩm mà về mặt kỹ thuật không thể sửa chữa được hoặc có thể sửa chữa được nhưng không có lợi về mặt kinh tế.
Phương pháp hạch toán:
* Đối với sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được các chi phí về sửa chữa được tập hợp vào TK 142 - Chi phí trả trước, sau đó căn cứ vào nguyên nhân cụ thể xử lý số chi phí này. Có thể phản ánh qua sơ đồ sau:
* Đối với sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được, có thể phản ánh qua sơ đồ
Thiệt hại về ngừng sản xuất: Trong thời gian ngừng sản xuất vì những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan, các doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra một số khoản chi phí để duy trì hoạt động như tiền công lao động, khấu hao TSCĐ... Những khoản chi phí này được coi là thiệt hại về ngừng sản xuất theo kế hoạch dự kiến, kế toán đã theo dõi ở tài khoản 335 - Chi phí phải trả.
Phương pháp hạch toán
Thiệt hại về ngừng sản xuất trong kế hoạch
Thiệt hại về ngừng sản xuất ngoài kế hoạch
III.Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang:
1.Tổng hợp chi phí sản xuất:
a. Tài khoản sử dụng:
ở trên chúng ta đã nghiên cứu cách hạch toán và phân bổ các loại chi phí sản xuất. Các chi phí sản xuất kể trên cuối cùng phải được tổng hợp vào bên Nợ TK 154 “ Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” (Nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp KKTX), vào bên Nợ TK 631 “ GIá thành sản xuất” (Nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp KKĐK)
TK 154 được mở chi tiết theo từng ngành sản xuất, từng loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ..... của các bộ phận sản xuất kinh doanh chính, sản xuất kinh doanh phụ ( kể cả thuê ngoài gia công chế biến)
TK 631 được hạch toán chi tiết theo địa điểm phát sinh chi phí và theo loại, nhóm sản phẩm ...... tương tự TK 154
TK 631 cuối kỳ không có sổ dư.
b.Phương pháp hạch toán:
+ Trường hợp doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên (KKTX):
Sơ đồ 6: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất theo phương pháp KKTX:
TK 621 TK 154 TK 152,111
(1) (4)
TK 622 TK 155,152
(2) (5)
TK 157
(6)
TK 627
(3) TK 632
(7)
Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu theo từng đối tượng
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp theo từng đối tượng
Kết chuyển chi phí sản xuất chung theo từng đối tượng
Các khoản ghi giảm chi phí sản phẩm
Giá thành thực tế sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành bàn giao
Giá thành thực tế sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành đem gửi bán
Giá thành thực tế sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành tiêu thụ trực tiếp.
+ Trường hợp doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ (KKĐK)
Sơ đồ 7: Sơ đồ tập hợp chi phí sản xuất:
(1)
TK 621 TK 631 TK 154
(2) (5)
TK 622
(3)
TK 627 TK 632
(4) (6)
Kết chuyển giá trị sản phẩm, dịch vụ dở dang đầu kỳ
Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
Kết chuyển chi phí sản xuất chung
Kết chuyển giá trị sản phẩm, lao vụ dở dang cuối kỳ
Tổng giá trị sản phẩm, lao vụ hoàn thành bàn giao
2. Đánh giá sản phẩm dở dang:
Sản phẩm dở dang trong sản xuất xây dựng được xác định bằng phương pháp kiểm kê hàng tháng. Việc tính và đánh giá sản phẩm trở ra trong sản xuất xây lắp phụ thuộc vào phương thức thanh toán khối lượng sản phảm xây lắp hoàn thành giữa người nhận thầu và người giao thầu.
Nếu quy định thanh toán sản phẩm xây lắp sau khi hoàn thành toàn bộ thì sản phẩm dở dang là tổng số chi phí phát sinh từ lúc khởi công đến thời điểm kiểm kê cuối tháng. Nếu quy định thanh toán sản phẩm xây lắp theo điểm dừng kỹ thuật hợp lý (xác định được dự toán) thì sản phẩm dở dang là các khối lượng xây lắp chưa đạt tới điểm dừng kỹ thuật hợp lý đã quy định và được đánh giá theo chi phí thực tế của hạng mục công trình đó cho các gia đoạn, tổ hợp công việc đã hoàn thành và giai đoạn còn dở dang theo giá trị dự toán của chúng.
CFSX của giai CFSX thực tế
đoạn xây dựng + phát sinh giá dự toán của
dở dang đầu kỳ trong kỳ giai đoạn xây lắp
Giá trị SPDD = ----------------------------------------- x dở cuối kỳ theo
cuối kỳ tổng giá dự toán của các giai đoạn mức độ hoàn hành
xây lắp tính theo mức độ hoàn thành
IV. Tính giá thành sản phẩm:
1. Đối tượng tính giá thành:
Xuất phát từ đặc điểm của xây lắp là sản phẩm mang tính chất đơn chiếc, mỗi sản phẩm có một dự toán riêng và yêu cầu quản lý, chi phí theo dương toán. Do vậy đối tượng tính giá thành trong XDCB là các hạng mục công trình đã hoàn thành các giai đoạn công việc đã hoàn thành, các khối lượng xây lắp có dự toán thiết kế riêng đã hoàn thành.
Trong trường hợp các xí nghiệp xây lắp có tổ chức thêm phân xưởng sản xuất phụ (sản xuất vật liệu, cung cấp lao vụ...) thì đối tượng tính giá thành là một đơn vị sản phẩm, lao vụ cung cấp.
Khi xác định đơn vị tính giá thành cũng phải xem xét trong trường hợp cụ thể để có đơn vị tính giá thành đảm bảo cho đơn vị tính đó được thừa nhận phổ biến trong nền kinh tế quốc dân, phù hợp với các tính chất lý, hoá của sản phẩm sản xuất phụ.
Cần phân biệt đối tượng tính giá thành và đối tượng tập hợp chi phí. Đối tượng tính giá thành và tập hợp chi phí có sự khác nhau cơ bản, vì vậy phải có sự phân biệt hai khái niệm này. Nếu không có sự phân biệt giữa đối tượng tính giá thành và tập hợp chi phí sản xuất thì không thể xác định một cách đúng đắn mục đích và giới hạn của việc kiểm tra các chi phí sản xuất theo nơi phát sinh và theo công dụng của các chi phí, không cho phép thực hiện kiểm tra một cách sâu sắc nhiệm vụ hạ giá thành, phát hiện những khả năng tiềm tàng trong sản xuất và lập ra phương pháp phấn đấu giảm chi phí, hạ giá thành một cách liên tục.
Đối tượng tính giá thành có nội dung khác với đối tượng tập hợp chi phí. Đối tượng tập hợp chi phí là căn cứ để kế toán mở các tài khoản, sổ chi tiết, tổ chức công tác ghi chép ban đầu tập hợp số liệu chi phí sản xuất chi tiết theo từng đối tượng. Còn việc xác định đối tượng tính giá thành lại là căn cứ để kế toán lập các bảng biểu chi tiết giá thành và tổ chức công tác tính giá thành theo từng đối tượng.
Tuy nhiên giữa đối tượng tính giá thành và đối tượng tập hợp chi phí lại có mối quan hệ với nhau rất mật thiết. Về bản chất chúng đều là những phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí. Số liệu về chi phí sản xuất tập hợp được tròn kỳ là cơ sở và căn cứ để tính giá thành và giá thành đơn vị cho từng đối tượng tính giá thành.
Tương ứng với một đối tượng tính giá thành có thể là một hoặc nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là một hoặc nhiều đối tượng tính giá thành.
Chính vì có sự khác nhau và mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành mà trong kế toán có nhiều phương pháp tính giá thành khác nhau.
2. Kỳ tính giá thành:
Cùng với việc xác định tính giá thành, chúng ta cũng phải xác định kỳ tính giá thành sản phẩm xây lắp. Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành cần phải tiến hành công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành.
Để xác định kỳ tính giá thành cho thích hợp, kế toán phải căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm và chu kỳ sản xuất sản phẩm.
Trường hợp sản xuất khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn và xen kẽ liên tục kỳ tính giá thành thích hợp là hàng tháng vào thời điểm cuối tháng.
Trường hợp tổ chức sản xuất đơn chiếc hoặc bằng hàng loạt theo đơn đặt hàng: chu kỳ sản xuất dài, sản phẩm hoặc loạt sản phẩm chỉ hoàn thành khi kết thúc chu kỳ sản xuất sản phẩm hoặc loạt sản phẩm đó, thì kỳ tính giá thành thích hợp là thời điểm mà sản phẩm hoặc loạt sản phẩm đó đã hoàn thành. Như vây, trong trường hợp này kỳ tính giá thành không phù hợp với kỳ báo cáo.
Căn cứ vào đặc điểm riêng của ngành xây dựng là sản phẩm mang tính chất đơn chiếc, cố định tại một chỗ, nơi sản xuất cũng đồng thời là nơi sử dụng, thời gian xây lắp dài, một sản phẩm đều có thiết kế dự toán riêng, nên tính giá thành trong XDCB thường là:
- Đối với những loại sản phẩm, đơn đặt hàng có thời gian sản xuất thi công dài, công việc được coi là hoàn thành khi kết thúc mọi công việc trong đơn đặt hàng thì kỳ tính giá thành là thời gian thực hiện đơn đặt hàng đó.
- Với những công trình, hạng mục công tình thì tính giá thành là thời gian mà sản phẩm xây lắp được coi là hoàn thành và được nghiệm thu, bàn giao thanh toán cho bên A.
- Với những công trình lớn hơn, thời gian thi công dài hơn chỉ khi nào có một bộ phận công trình hoàn thành có giá trị sử dụng được nghiệm thu bàn giao thì lúc đó xí nghiệp tính giá thành thực tế của bộ phận đó. Với những công trình xây lắp, lắp đặt máy móc thiết bị có thời gian thi công nhiều năm mà không tách ra được nhiều bộ phận công trình nhỏ đưa vào sử dụng thì từng phần việc xây lắp lớn đạt tới điểm dừng kỹ thuật hợp lý, theo thiết kế kỹ thuật có ghi trong hợp đồng giao thầu thi công sẽ được bàn giao thanh toán và xí nghiệp xấy lắp tính giá thành thực tế cho khối lượng bàn giao.
3. Phương pháp tính giá thành:
Để tính giá thành sản phẩm xây lắp có thể áp dụng nhiều phương phá tính giá thành khác, áp dụng phương phá nào là phụ thuộc vào đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành. Thông thường các doanh nghiệp XDCB thường áp dụng những phương pháp sau:
a. Phương pháp tính giá thành trực tiếp (giản đơn):
Phương pháp này thường phù hợp với các xí nghiệp xây lắp vì trong các xí nghiệp xây lắp thông thường sản xuất các loại sản phẩm mang tính chất đơn chiếc. Khi áp dụng phương pháp này cần chú ý đến các điểm sau:
- Trường hợp đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành đều là hạng mục công tình thi tổng chi phí sản xuất từ khi khởi công đến khi hoàn thành đã tập hợp riêng cho từng hạn mục công trình chính là giá thành thực tế của hạng mục công trình đó.
- Trường hợp chi phí sản xuất tập hợp được cho cả nhóm công trình, để tính giá thành cho một hạng mục công trình nếu các hạng mục công trình đó có dự toán khác nhau nhưng cùng thi công trên một địa điểm do một công trường đảm nhận và không có điều kiện hạch toán theo dõi riêng thì việc tính chi phí về vật tư, xe máy, nhân công cho từng hạng mục công tình sẽ là chi phí thực tế chung cho cả công trường và phải tiến hành phân bổ theo những tiêu chuẩn thích hợp với hệ số kinh tế kỹ thuật quy định cho từng hạng mục công trình.
Giá thành thực tế của hạng mục công trình được tính theo công thức:
Ztti = Ti x H
Trong đó Ztti là giá thành thực tế của hạng mục công trình thứ i.
Như vậy, ta tính được giá trị thành thực tế của hạng mục công trình thông qua tổng chi phí sản xuất, giá thành dự toán và hệ số phân bổ. Muốn xác định được từng khoản mục giá thành, ta căn cứ vào từng khoản mục chi phí đã tập hợp được cho toàn đơn vị, tính ra tỷ trọng của nó trong tổng chi phí sản xuất đã tập hợp được, nhân tỷ trọng đó với giá thành thực tế từng hạng mục công tình, sẽ tính được từng khoản mục từng trong giá thành thực tế từng hạng mục công trình.
Trường hợp tồn tại sản phẩm dở dang thì kế toán tiến hành đánh giá sản phẩm dở dang theo phương pháp thích hợp và khi đó giá thành thực tế được xác định theo công thức:
Ztti = Ctk + Cđk - Cck
Trong đó:
Ctk: Chi phí sản xuất được trong kỳ
Cđk: Chi phí sản xuất dở đầu kỳ
Cck: Chi phí sản xuất dở cuối kỳ
Ztti: Giá thành thực tế của hạng mục công trình thứ i.
b. Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng:
Phương pháp này áp dụng phù hợp với xí nghiệp lắp máy và xí nghiệp xây lắp. Đối tượng tính giá thành là từng đơn đặt hàng sản xuất xong mới tính giá thành. Những đơn đặt hàng chưa sản xuất xong thì toàn bộ chi phí sản xuất đã tập hợp được theo đơn đặt hàng đó đều là chi phí sản xuất của sản phẩm làm dở.
Kế toán phải mở cho mỗi đơn đặt hàng một bảng tính giá thành. Hàng tháng, căn cứ vào chi phí sản xuất đã tập hợp được hi vào theo từng đơn đặt hàng trong sổ kế toán chi tiết để ghi sang bản ghi giá thành có liên quan. Khi nhận được chứng từ xác định đơn đặt hàng đã hoàn thành, kế toán chỉ cần cộng chi phí sản xuất đã tập hợp được ở bảng tính giá thành sẽ tính được tổng giá thành và giá thành đơn vị của sản phẩm thuộc đơn vị sửa chữa nhà cửa hoặc cho công tác xây lắp phụ cho bên ngoài.
c.Phương pháp tổng cộng chi phí:
Phương pháp này vận dụng thích hợp với các đối tượng tính giá thành là loại hình sản xuất phức tạp, quá trình sản xuất chia làm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có hạch toán riêng biệt. Đối tượng hạch toán chi phí có thể là từng khối lượng công việc ây lắp có dự toán thiết kế riêng có bộ phận riêng đảm nhận. Nhưng công việc tính giá thành sản phải là giá thành của sản phẩm khâu cuối cùng. Ta có công thức sau:
Ztt = Dđk + C1 + C2 + ... + Cn - Dck
Trong đó:
Ddk, Dck - là chi phí sản xuất dư đầu kỳ, cuối kỳ.
C1, C2..., Cn là chi phí sản xuất các khối lượng công việc ở các giai đoạn, các bộ phận.
Ngoài phương pháp trên, trong xí nghiệp xây lắp có sử dụng phương pháp tính giá thành theo hệ số, phương pháp định mức, phương pháp kết hợp...
Tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành là khâu trung tâm trong toàn bộ công tác kế toán của toàn bộ doanh nghiệp sản xuất. Đối với các doanh nghiệp xây lắp thì kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản pham lại là khâu hạch toán ngày càng được quan tâm đặc biệt, vì tính chất đặc thù của ngành xây lắp như chu kỳ sản xuất dài, giá trị sản phẩm lớn, điều kiện bảo quản vật tư, máy móc thi công phức tạp do phải thi công ở ngoài trời hay di chuyển...
Trong điều kiện thực hiện hạch toán kinh doanh XHCN, trước sự vận hành của cơ chế thị trường hiện nay đòi hỏi việc tập hợp chi phí sản xuất phải đầy đủ, chính xác, giá thành sản phẩm phải được tính đúng, tính đủ, hợp lý. Có như vậy mới nâng cao được vai trò nhiệm vụ của kế toán trước yêu cầu thực hiện chế độ tư chủ tài chính và tăng cường hạch toán kinh tế nội bộ của cí nghiệp, từ đó giúp cho doanh nghiệp đứng vững trước cạnh tranh của nền kinh tế thị trường hiện nay.
V. Hệ thống sổ sách sử dụng để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp
Đối với doanh nghiệp áp dụng hình thức kế toán Nhật ký chung
Đặc trưng cơ bản của hình thức kế toán Nhật ký chung là tất cả các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh đều phải được ghi vào sổ Nhật ký chung theo trình tự thời gian phát sinh và định khoản kế toán của nghiệp vụ đó. Sau đó, lấy số liệu từ Nhật ký chung để ghi vào sổ cái theo từng nghiệp vụ phát sinh.
Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính gia thành sản phẩm qua sơ đồ sau:
Ghi chú: Ghi hàng ngày
Ghi vào cuối tháng cuối kỳ
Đối chiếu kiểm tra
Đối với doanh nghiệp áp dụng hình thức kế toán Nhật ký - Sổ cái
Theo hình thức Nhật ký – Sổ cái, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được kết hợp ghi chép theo trình tự thời gian và theo nội dung kinh tế trên cơ sở Nhật ký – Sổ cái. Bởi vậy, việc hạch toán chi phí sản xuất có thể khái qua sơ đồ sau:
Ghi chú: Ghi hàng ngày
Ghi vào cuối tháng cuối kỳ
Đối chiếu kiểm tra
Đối với doanh nghiệp áp dụng hình thức chứng từ ghi sổ
Chứng từ ghi sổ là hình thức kế toán kết hợp giữa ghi sổ theo thời gian trên sổ đăng ký chứng từ ghi sổ với ghi sổ theo nội dung kinh tế trên sổ cái. Việc tập hợp chi phí sản xuất được thực hiện trên sổ kế toán chi tiết chi phí sản xuất theo từng phân xưởng và sổ cái tài khoản 154 – Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (hay tài khoản 631 – Giá thành sản xuất cùng các TK 621, 622, 627. Cơ sở để ghi vào sổ chi tiết chi phí sản xuất theo từng phân xưởng là các chứng từ gốc, các bảng phân bổ chi phí và các chứng từ ghi sổ liên quan, còn để tổng hợp chi phí sản xuất kinh doanh toàn doanh nghiệp, cần dựa vào các chứng từ ghi sổ. Có thể khái quát trình tự hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh qua sơ đồ sau:
Ghi chú: Ghi hàng ngày
Ghi vào cuối tháng cuối kỳ
Đối chiếu kiểm tra
Đối với DN áp dụng hình thức Nhật ký chứng từ
Nhật ký chứng từ là hình thức tổ chức sổ kế toán dùng để tập hợp và hệ thống hóa các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo bên Có của các tài khoản kết hợp với việc phân tích các nghiệp vụ đó theo bên Nợ của các tài khoản đối ứng. Đồng thời, việc ghi chép kết hợp chặt chẽ giữa ghi theo thời gian với hệ thống, giữa hạch toán tổng hợp với chi tiết trên cơ sở các mẫu sổ sách in sẵn thuận lợi cho việc lập báo cáo tài chính và rút ra các chỉ tiêu quản lý kinh tế.
Để theo dõi chi phí sản xuất kinh doanh, kế toán sử dụng bảng kê số 4, bảng kê số 5, 6 và Nhật ký chứng từ số 7. Bảng kê số 4 dùng để tập hợp chi phí sản xuất theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất và chi tiết cho từng sản phẩm, dịch vụ còn bảng kê số 5 được dùng để tập hợp chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí xây dựng cơ bản theo yếu tố chi phí. Riêng bảng kê số 6 l._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KT519.DOC