Lời nói đầu
Sau hơn hai tháng làm việc khẩn trương, nghiêm túc, khoá luận tốt nghiệp ngành Xã hội học với đề tài: “Tổ chức hoạt động của LĐLĐ tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay. Thực trạng, phương hướng và giải pháp” đã được hoàn thành với sự cố gắng của bản thân và sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô, bạn bè.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình đến PGS. TS Nguyễn Văn Thủ, người đã dành thời gian quý báu tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi trong suốt thời gian nghiê
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tổ chức hoạt động của Liên đoàn lao động tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay. Thực trạng, phương hướng và giải pháp (100tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n cứu thực hiện đề tài. Đồng thời tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Xã hội học. Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến các phòng ban trong LĐLĐ Lạng Sơn đã đón tiếp, cung cấp đầy đủ những thông tin cũng như tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tận tình cho việc thực hiện và hoàn thành đề tài.
Song do thời gian và trình độ còn hạn chế, chắc chắn trong quá trình thực hiện khoá luận không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và chỉ bảo của thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà nội, ngày 25 tháng 4 năm 2004.
Sinh viên thực hiện
Tô Thị ái
Phần 1 : mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh thế giới diễn ra những chuyển biến nhanh và mạnh như hiện nay, đặc biệt là dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, sự tác động của nền kinh tế thị trường. Điều kiện kinh tế – xã hội nước ta có nhiều thay đổi.
Mục tiêu CNH – HĐH Đất nước là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ “ Đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh và hiệu quả bền vững.”
Để thực hiện CNH – HĐH đất nước, chúng ta phải cấu trúc lại kinh tế, phải phát huy năng lực nội sinh để đủ năng lực cạnh tranh đảm bảo sự tồn tại và phát triển của đất nước. Quá trình này đòi hỏi phải phân công lại lao động và từ đó sẽ dẫn đến những biến đổi về cơ cấu tổ chức và hoạt động của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay với nền kinh tế thị trường có nhiều vấn đề phức tạp xảy ra, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, trách nhiệm của Công đoàn là phải bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVC – LĐ.
Tổ chức Công đoàn ra đời vào ngày 28/7/1929, tồn tại và hoạt động hoà trong quá trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Công đoàn Việt Nam trải qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng luôn là tổ chức chính trị – xã hội do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Công đoàn là thành viên trong hệ thống chính trị, là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng, là người cộng tác đắc lực của Nhà nước và cùng với Nhà nước xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, công nhân viên chức lao động được cải thiện hơn trước, tình hình chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được tăng cường và có chuyển biến tốt, quan hệ đối ngoại tiếp tục được đẩy mạnh .... Những thành tựu đó có phần đóng góp quan trọng của giai cấp công nhân lao động và tổ chức Công đoàn Việt Nam. Những thành tựu quan trọng đó đáp ứng yêu cầu, lợi ích của dân tộc, của giai cấp, của người lao động, với mục tiêu là : Xây dựng giai cấp công nhân thời kỳ CNH – HĐH, phát triển cả về số lượng và chất lượng, làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh vững chắc trong các thành phần kinh tế, tiếp tục xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, nâng cao trình độ cán bộ Công đoàn tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân viên chức lao động.
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đã đạt được, tổ chức và hoạt động Công đoàn còn nhiều hạn chế và có những khó khăn nhất định. ở nhiều nơi bệnh hành chính quan liêu vẫn còn tồn tại, tiến trình đổi mới chậm, đội ngũ công nhân lao động và tổ chức Công đoàn còn yếu kém về nhiều mặt, hoạt động của Công đoàn chưa thực sự thu hút được đoàn viên .... Vì vậy, nhiều đoàn viên, CNVC – LĐ không thiết tha, gắn bó với tổ chức và hoạt động Công Đoàn.
Chính vì vậy, tổ chức Công đoàn cần phải phát huy hết vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, thực hiện thành công công cuộc CNH – HĐH đất nước. Muốn vậy tổ chức Công đoàn phải có cách thức tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp.
Là sinh viên khoa Xã hội học Trường Đại học Công đoàn, xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, xuất phát từ hoạt động của Công đoàn, trong thời gian thực tập tốt nghiệp tôi xin được đề cập đề tài khoá luận của mình là : “ Tổ chức hoạt động của LĐLĐ Tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay. Thực trạng, phương hướng và giải pháp.”
Đây cũng là cơ hội để tôi có thể tiếp cận với những vấn đề của thực tiễn khách quan cũng như nhận thức khoa học về các sự kiện xã hội. Từ đó có những khuyến nghị, giải pháp góp phần xây dựng khuynh hướng phát triển phù hợp với đội ngũ CNVC – LĐ trong giai đoạn hiện nay.
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1.ý nghĩa khoa học
Bằng việc vận dụng những kiến thức tổng quát và những kiến thức chuyên ngành Xã hội học để nghiên cứu đề tài này, giúp chúng ta hình thành nên quan niệm đúng đắn và khoa học về lý luận và nghiệp vụ Công đoàn. Đặc biệt đề tài còn chỉ ra những đặc trưng cơ bản cũng như vị trí, vị thế, vai trò và chức năng của tổ chức Công đoàn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
LĐLĐ Lạng Sơn là một nhóm xã hội, vậy nên cách thức tổ chức, hoạt động, tồn tại và phát triển chịu sự chi phối của nhiều nhân tố như : điều kiện kinh tế – xã hội, môi trường lao động .... từ đó tạo ra sự biến đổi của cơ cấu tổ chức, sự biến đổi của cơ cấu lao động, việc làm. Đây là một trong những vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển.
Nhận thức đúng đắn về vấn đề này đòi hỏi LĐLĐ Lạng Sơn phải có những chủ trương, biện pháp đúng đắn trong quá trình tổ chức và hoạt động của mình. Quá trình tổ chức và hoạt động của LĐLĐ Lạng Sơn có mối liên hệ chặt chẽ với các cấp Công đoàn cơ sở, mối liên hệ này có tính chất hai chiều, sự qua lại tương tác lẫn nhau trong quá trình tổ chức và hoạt động. Do đó dẫn đến những biến đổi về cơ cấu tổ chức và hoạt động của LĐLĐ Lạng Sơn.
Chính vì vậy cho phép tác giả nghiên cứu một cách khoa học về thực trạng tổ chức và hoạt động của LĐLĐ Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay. Thông qua đề tài nghiên cứu đã làm sáng tỏ hệ thống các khái niệm, các lý thuyết, các phương pháp nghiên cứu Xã hội học từ đó ta có thể vận dụng một cách khoa học vào nghiên cứu đời sống thực tế.
2.2.ý nghĩa thực tiễn
Đề tài nghiên cứu không chỉ mô tả những dữ liệu về tổ chức hoạt động của LĐLĐ Tỉnh Lạng Sơn, mà còn đánh giá thực chất về vai trò của LĐLĐ trong giai đoạn hiện nay. Qua đó giúp người cán bộ Công đoàn nhận thức đúng đắn cũng như hiểu bết sâu sắc về vai trò quan trọng của Công đoàn, từ đó xác định phải làm gì, làm như thế nào để các hoạt động Công đoàn đạt hiệu quả cao, phải có những phương pháp hoạt động, phương thức tổ chức và lãnh đạo như thế nào để hoạt động của Công đoàn các cấp có hiệu quả.
Mặt khác, nghiên cứu đề tài này cũng giúp cho LĐLĐ Tỉnh cũng như các Công đoàn cơ sở trực thuộc thấy được sự hợp lí hay không hợp lí về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động Công đoàn trong quá trình đổ mới. Từ đó, các cấp Công đoàn sẽ tìm cách khắc phục những bất hợp lý ấy để tổ chức Công đoàn là điểm tựa vững chắc cho CNVC – LĐ trong giai đoạn hiện nay.
3. mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ “ Thực trạng tổ chức hoạt động của LĐLĐ Tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay". Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của LĐLĐ Tỉnh Lạng Sơn trong các giai đoạn tiếp theo.
3.2. Đối tượng nghiên cứu.
Tổ chức hoạt động của LĐLĐ Tỉnh Lạng Sơn. Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của LĐLĐ Tỉnh Lạng Sơn trong các giai đoạn tiếp theo.
3.3. Phạm vi nghiên cứu.
- Địa điểm : LĐLĐ Tỉnh Lạng Sơn
Số 04 Đường Hùng Vương - Thành phố Lạng Sơn - Tỉnh Lạng Sơn
- Thời gian : Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2004
4. phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận chung.
Đề tài nghiên cứu lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin làm phương pháp luận chung, đồng thời sử dụng nguyên lý cơ bản của xã hội học Mác xít làm cơ sở nhận thức luận. Trong khi nghiên cứu, tác giả dựa trên những nguyên lý cơ bản sau :
4.1.1. Nguyên lý về sự phát triển.
Nguyên lý này khẳng định sự biến đổi và phát triển của xã hội, có nguyên nhân sâu xa là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nghĩa là, lực lượng sản xuất phát triển đến một giai đoạn nhất định, đòi hỏi quan hệ sản xuất cũ lỗi thời, lạc hậu phải thay đổi để thiết lập nên một nên một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất mới. Đó là quá trình tiến hoá phù hợp với quy luật khách quan. Do vậy mà nguyên lý này đã chỉ rõ bản chất sự tồn tại và phát triển của xã hội.
4.1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Nguyên lý này chỉ ra rằng tất cả các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người luôn có mối quan hệ tác động qua lại, ví dụ khi đi phân tích xã hội phải coi xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh và xem xét xã hội ấy như một hệ thống tự vận hành và phát triển.
Vì là một hệ thống nên nó có một cơ cấu cụ thể, trong đó các yếu tố cấu thành nên xã hội có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau. Đó là tổng hợp những hình thức hoạt động khác nhau của con người, các quan hệ xã hội, các hình thức hoạt động của con người với tính ổn định, tính hoàn chỉnh và tính quy luật.
Hơn nữa, ta cũng thấy rằng, trong phép biện chứng khẳng định mọi sự vật hiện tượng điều vận động, biến đổi và được chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác. Nếu như vận động chỉ phản ánh sự biến đổi nói chung thì không kể tính chất, khuynh hướng đi lên của sự biến đổi ấy thì sự phát triển lại có đặc tính là đi lên, có tính kế thừa và có sự lặp lại của cái cũ trên cơ sở ở mức độ cao hơn và tất yếu có sự ra đời của cái mới.
Vận dụng các nguyên lý trên để nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của LĐLĐ Tỉnh Lạng Sơn, tức là phải xem xét hoạt động của công đoàn được đặt trong mối quan hệ chỉnh thể, theo từng giai đoạn lịch sử và phát triển cụ thể phù hợp với quy luật khách quan. Sự biến đổi này bị tri phối bởi các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Đó cũng là kết quả của quá trình đấu tranh giữa những quan điểm cũ với những quan điểm mới trong sự sắp xếp tổ chức và hoạt động Công đoàn để phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của tình hình thực tiễn đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Việt Nam đang ở chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, giai cấp công nhân Việt Nam vẫn là giai cấp trung tâm lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng của dân tộc Việt Nam, giai cấp công nhân cùng với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức tạo thành một liên minh chính trị, một đội quân chủ lực trong cách mạng dân tộc. Công đoàn với tư cách là một tổ chức chính trị - xã hội tập hợp quần chúng và công nhân lao động, là thành viên trong hệ thống chính trị ở nước ta. Với điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước trong giai đoạn hiện nay, tổ chức và hoạt động Công đoàn cần có sự đổi mới. Về tổ chức, Công đoàn là một trong những thiết chế thuộc kiến trúc thượng tầng, nó phản ánh mối quan hệ kinh tế trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Bởi khi Nhà nước XHCN là công cụ để giai cấp công nhân điều tiết, kiểm soát, quản lý xã hội thì Công đoàn là phương tiện dể tập trung tuyên truyền, giáo dục CNVC – LĐ thực hiện đường lối chính trị của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, vì lợi ích của đông đảo đoàn viên. Về hoạt động, Công đoàn là sự cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn vào thực tiễn. Chính vì thế mà trong tình hình đổi mới thì tổ chức và hoạt động Công đoàn tất yếu cũng có sự đổi mới để đáp ứng.
Như vậy, phương pháp luận chung cho phép chúng ta có một quan điểm toàn diện , lịch sử và cụ thể, đúng đắn để nhìn nhận, đánh giá vấn đề trong quá trình nghiên cứu đề tài.
4.2. Phương pháp cụ thể
Để nghiên cứu đề tài một cách khách quan, khoa học và mang tính đặc thù của ngành Xã hội học, ngoài việc sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tác giả còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể của ngành Xã hội học.
4.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Tác giả dựa trên các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, văn kiện Đại hội Công đoàn, các báo cáo Đại hội, báo cáo tổng kết của LĐLĐ Tỉnh Lạng Sơn, đồng thời kết hợp với các văn bản pháp quy, các số liệu thống kê về Công đoàn Việt Nam và LĐLĐ Tỉnh Lạng Sơn. Ngoài ra tác giả cũng đã kế thừa có chọn lọc những tác phẩm sách báo, những công trình, đề tài nghiên cứu về xã hội học của một số tác giả đi trước. Thông qua những tư liệu thu thập được, tác giả tiến hành phân tích, đánh giá vấn đề phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
4.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu .
Phỏng vấn sâu với các đối tượng là chủ tịch Công đoàn các cấp và một số đoàn viên Công đoàn nhằm thu thập thông tin liên quan đến những vấn đề thực trạng tổ chức và hạt động của LĐLĐ Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay.
4.2.3. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi ( An két )
Đây là phương pháp chủ đạo trong việc thu thập thông tin Xã hội học. Đặc trưng của phương pháp này là những thông tin cần thiết để phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
ứng dụng phương pháp này vào đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng 50 bảng hỏi, điều tra 50 mẫu ngẫu nhiên trên cơ sở xác định đối tượng là cán bộ Công đoàn và CNVC – LĐ, đoàn viên Công đoàn trong các Công đoàn cơ sở trực thuộc LĐLĐ Tỉnh Lạng Sơn. Nội dung các câu hỏi sẽ nêu rõ thực trạng hoạt động, tổ chức và vai trò của LĐLĐ Tỉnh và của Công đoàn cơ sở, đồng thời phản ánh sự biến đổi về tổ chức và hoạt động công đoàn trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài những phương pháp nêu trên, tác giả còn sử dụng một số phương pháp liên ngành như : phương pháp quan sát, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê Xã hội học, .... Để khẳng định, đánh giá cũng như làm sáng tỏ giả thuyết nghiên cứu và mục đích, yêu cầu của đề tài.
5. giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết.
5.1. Giả thuyết nghiên cứu.
- Giả thuyết 1: Sự biến đổi về kinh tế - xã hội của Việt Nam dẫn đến sự biến đổi về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Công đoàn tỉnh Lạng Sơn.
- Giả thuyết 2: Sự biến đổi về cơ cấu tổ chức và hoạt động của LĐLĐ tỉnh Lạng Sơn làm cho vị trí vai trò của LĐLĐ ngày càng được khẳng định và nâng cao trong quá trình CNH – HĐH đất nước.
5.2. Khung lý thuyết (Xem trang bên).
Điều kiện
Kinh tế – Xã hội
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam
Liên đoàn lao động tỉnh Lạng Sơn
Thực trạng tổ chức Liên đoàn lao động tỉnh
Lạng Sơn
Thực trạng hoạt động của Liên đoàn lao động tỉnh Lạng Sơn
Hoạt động tuyên truyền giáo dục
Hoạt động bảo vệ lợi ích cho người lao động
Hoạt động tham gia quản lý
Hiệu quả tổ chức hoạt động của Liên đoàn lao động
Giải pháp
Phần 2 : nội dung
Chương 1. cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1.1. Những yêu cầu mới của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước
Ngày nay chúng ta đang sống trong những năm đầu thế kỷ XXI, trước sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức và tốc độ phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Hệ quả của nó là đem lại những biến đổi nhanh chóng về cơ cấu xã hội của giai cấp đối với mọi quốc gia, dân tộc. Sự biến đổi này làm nảy sinh nhiều yêu cầu khác nhau về vị trí, vai trò của từng giai cấp, từng tầng lớp đối với quá trình phát triển của xã hội hiện đại.
Nước ta thực hiện quá trình CNH – HĐH trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới tiếp tục phát triển nhanh với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đưa nền sản xuất xã hội từng bước chuyển từ sản xuất công nghiệp dựa chủ yếu vào máy móc, tài nguyên thiên nhiên sang nền sản xuất chủ yếu dựa vào trí lực và thông tin. Điều kiện đó cho phép chúng ta đi thẳng vào khoa học hiện đại, tranh thủ những công nghệ tiên tiến của thế giới, đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước.
Ngay trong văn kiện hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII), Đảng ta đã khẳng định “ CNH phải đi đôi với HĐH, kết hợp những bước tuần tự về công nghệ với sự tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới.”[1]
Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng đề ra mục tiêu của thời kỳ CNH – HĐH đất nước là “ Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.” Để đạt được mục tiêu này, Đại hội Đảng lần thứ IX cũng chỉ rõ “ Con đường CNH – HĐH ở nước ta cần phải rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt, phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.”[2]
Sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã và đang dặt ra những đòi hỏi mới về số lượng và chất lượng nguồn lực có thể đáp ứng được yêu cầu của quy trình khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Để đáp ứng được những đòi hỏi đó. Thứ nhất, cần có một đội ngũ quản lý vững vàng, có trình độ chuyên môn cao. Thứ hai, cần có một đội ngũ kỹ sư giỏi, nắm vững quy trình khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang và sẽ áp dụng. Thứ ba, cần có một đội ngũ tri thức về khoa học kỹ thuật, công nghệ có khả năng nghiên cứu, cải tiến và hoàn thiện các quy trình khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Thứ tư, cần có một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, có tác phong công nghiệp, có tính kỷ luật cao, có khả năng làm việc với hiệu quả cao trong các quy trình khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại tại các khu công nghiệp và có sức khoẻ.
Đây là một trong những yêu cầu quan trọng của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Do vậy có thể khẳng định rằng : Không có đội ngũ cán bộ công nhân giỏi thì sự nghiệp CNH – HĐH đất nước không thể thành công và nước ta sẽ tụt hậu ngày càng xa so với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới.
1.2. Sự chuyển biến của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay.
Dưới tác động của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế Việt Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ theo thành phần kinh tế, theo ngành, vùng lãnh thổ, đồng thời với những nấc thang công nghệ khác nhau, lợi ích khác nhau đang tác động vào giai cấp công nhân làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu, chất lượng đội ngũ giai cấp công nhân Việt Nam.
Cơ cấu đội ngũ công nhân nước ta phong phú, đa dạng và không thuần nhất. Ngày nay, công nhân không đơn thuần là những người sản xuất trong các doanh nghiệp nhà nước và trong các hợp tác xã nữa, mà còn bao gồm những người công nhân lao động thuộc khu vực tư nhân và các cá thể hợp tác liên doanh với nước ngoài.
Trong những năm tới, giai cấp công nhân nước ta sẽ tiếp tục phát triển về số lượng và tiếp tục có những biến đổi về cơ cấu ngành nghề và cơ cấu xã hội. Tình trạng lao động dôi dư, mất việc làm, thất nghiệp từ các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã, đang và sẽ là những vấn đề bức xúc.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã và đang tạo ra những điều kiện thuận lợi để nước ta thực hiện dân chủ hoá về mặt xã hội nói chung và trong đời sống của người lao động nói riêng. Đó cũng là môi trường đào luyện con người, rèn rũa giai cấp công nhân trong lao động sản xuất và phát triển xã hội. Các yếu tố thị trường, cạnh tranh, nhu cầu chất lượng giá trị và giá cả hàng hoá trên thị trường cũng như những yếu tố mới xuất hiện trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ quảng cáo, thái độ đối với người tiêu dùng, các tác động tâm lý xã hội nhằm hướng dẫn và kích thích nhu cầu, đã góp phần làm sống động nền kinh tế - xã hội, nó tạo nên tính năng động, nhịp độ khẩn trương, tính tháo vát trong hoạt động của các chủ thể kinh tế.
Trong xu thế dân chủ hoá kinh tế – xã hội, giai cấp công nhân đang là nòng cốt để phát triển các quan hệ liên minh vững chắc về kinh tế và chính trị đối với nông dân, thúc đẩy giao lưu hàng hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp, thành thị và nông thôn, CNH – HĐH nông nghiệp và nông thôn, mở rộng thành phần công nhân trong lao động nông nghiệp. Giai cấp công nhân vươn lên làm chủ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới, đồng thời có chính sách đoàn kết và động viên đội ngũ VNVC – LĐ đem hết tâm huyết, tài năng phục vụ sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Một nhân tố quan trọng sẽ được thiết lập trong thời gian tới, đó là sức đấu tranh của công nhân tăng lên. Đây là sự phản kháng tự nhiên trong quan hệ chủ - thợ. Những năm vừa qua đã có nhiều cuộc phản ứng tập thể, đình công của công nhân chống lại giới chủ vi phạm hợp đồng lao động, vi phạm các thoả ước lao động tập thể (thường xảy ra ở các công ty liên doanh với nước ngoài).
Bên cạnh đó sự cạnh tranh về việc làm sẽ gay gắt hơn trong nội bộ giai cấp công nhân, giữa các thế hệ công nhân đã được rèn luyện trong lịch sử, khác nhau về trình độ tay nghề, phong cách, năng lực, những nhu cầu về đời sống thậm chí cả về lối sống.
Từ sự phân tích trên cho thấy, trước tác động của CNH - HĐH và cơ chế thị trường, giai cấp công nhân hiện lên với cơ cấu đa dạng, sinh động, nhưng rất phức tạp. Song nhìn tổng thể, xét bản chất giai cấp công nhân Việt Nam vẫn là một khối thống nhất. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải có được hệ thống chính sách kinh tế - xã hội phù hợp để xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, đảm bảo cho họ có đủ năng lực, bản lĩnh để đảm nhận sứ mệnh lịch sử của mình.
1.3. Vị trí, vai trò của Công đoàn và phương hướng đổi mới, phát triển của Công đoàn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1.3.1.Vị trí của Công đoàn Việt Nam.
Khi nói đến vị trí của Công đoàn là muốn nói đến địa vị của Công đoàn giữa các tổ chức khác trong hệ thống chính trị - xã hội và mối quan hệ của Công đoàn với các tổ chức đó.
Vị trí của Công đoàn Việt Nam được xác định dựa trên căn cứ lý luận và thực tiễn là : Quan hệ sản xuất, vai trò làm chủ của nhân dân lao động và người lao động, vị trí vai trò của giai cấp công nhân lao động và người lao động. Dưới CNTB và CNXH vị trí của Công đoàn Việt Nam có sự khác nhau căn bản.
Dưới CNTB :
Trong xã hội TBCN có hệ thống chính trị tư sản, trong đó không có chỗ
đứng của gai cấp công nhân. Với đặc điểm là quan hệ sản xuất TBCN, Công đoàn là nơi tập hợp, đoàn kết của giai cấp công nhân và người lao động đấu tranh chống áp bức bóc lột của giai cấp tư sản. Do đó, Công đoàn có vị trí đối lập với giai cấp thống trị và Nhà nước tư sản.
- Dưới CNXH :
Quan hệ sản xuất XHCN được xác lập với đặc điểm sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân là giai cấp cầm quyền thống trị, Công đoàn là một tổ chức chính trị xã hội, là thành viên của hệ thống chính trị XHCN.
Khi nói đến vị trí của Công đoàn trong hệ thống chính trị - xã hội của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội trong hệ thống chuyên chính vô sản, Lênin đã chỉ rõ “ Công đoàn đứng giữa Đảng và chính quyền Nhà nước”. Đứng “ giữa” có nghĩa là Công đoàn không phải là tổ chức mang tính chất đảng phái mà Công đoàn là một tổ chức độc lập, Công đoàn không tách biệt với Đảng và Nhà nước mà có mối quan hệ chặt chẽ với Đảng và Nhà nước.
Vị trí của Công đoàn Việt Nam trong thời kỳ đầu quá độ lên Chủ nghĩa xã hội đã được xác định qua các thời kỳ Đại hội Đảng, được làm rõ và khẳng định trong điều lệ Công đoàn Việt Nam ( nay là Tổng LĐLĐ Việt Nam) “ Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, tầng lớp trí thức và những người lao động trong các thành phần kinh tế, các đơn vị sự nghiệp, cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ và giàu mạnh theo con đường XHCN, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt, đại diện chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động”.
Vậy trong hệ thống chính trị, Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị, là trung tâm tập hợp đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ công nhân, lao động. Công đoàn Việt nam là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng, là người cộng tác đắc lực của Nhà nước. Mối quan hệ của Công đoàn với các thành viên khác trong hệ thống chính trị là mối quan hệ độc lập, tự chủ, phối hợp trên cơ sở các định hướng chính trị do Đảng vạch ra và trên cơ sở quy chế phối hợp dựa theo các nguyên tắc Mác xít của giai cấp công nhân.
Mối quan hệ giữa Công đoàn với Đảng cộng sản trong thời kỳ đầu quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay thể hiện ở vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn, mặt khác thể hiện ở trách nhiệm của Công đoàn trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, trong việc xây dựng Đảng. Công đoàn không thể thiếu sự lãnh đạo của Đảng, vì Đảng tập hợp bộ phận tiên phong nhất, tích cực nhất. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn không phải ngẫu nhiên, áp đặt mà nó được hình thành trong lịch sử đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam luôn tôn trọng và luôn xác định vị trí độc lập của Công đoàn về phương diện tổ chức và hoạt động. Vị trí độc lập tương đối đó giúp cho Công đoàn không chệch hướng và cũng không ỷ lại, trông chờ. Độc lập về mặt tổ chức là độc lập về mặt kết nạp đoàn viên, xây dựng bộ máy, tuyển chọn cán bộ theo điều lệ của mình. Độc lập về mặt hoạt động là chủ động đề ra các nội dung, phương pháp hoạt động đúng với pháp luật đã định.
Mối quan hệ giữa Công đoàn với Nhà nước là sự thống nhất, cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau. Nhà nước không can thiệp vào công việc nội bộ của Công đoàn. Nhà nước luôn tạo cho Công đoàn về điều kiện vật chất, ban hành các văn bản pháp quy đảm bảo về mặt pháp lý cho Công đoàn hoạt động. Giữa Công đoàn với Nhà nước không công nhận sự đối lập. Công đoàn là người cộng tác đắc lực của Nhà nước, góp phần xây dựng chính quyền Nhà nước vì mục đích của Nhà nước, của giai cấp công nhân, của cộng đồng là thống nhất. Công đoàn tổ chức giáo dục và thay mặt công nhân, lao động tham gia quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước, giúp đỡ cơ quan Nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình, chống quan liêu, hành chính trong hoạt động của Nhà nước.
Với vị trí của Công đoàn như vậy thì Công đoàn không phải là người “ăn theo nói leo”, “không theo đuôi” và lại càng không lệ thuộc vào Nhà nước. Tuy nhiên, việc thừa nhận vị trí Công đoàn trong thực tiễn hoạt động cũng chưa thực sự đúng với tầm của nó. Một mặt, do bản thân Công đoàn chưa tự khẳng định mình một cách đầy đủ. Mặt khác, do nhận thức chưa đúng, chưa đủ hoặc còn ngộ nhận về Công đoàn. Thực tế hiện nay của nước ta, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các xí nghiệp tư nhân, liên doanh, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài công nhân lao động làm việc trong sự quản lý của chủ xí nghiệp đã xuất hiện quan hệ chủ - thợ, tình trạng bóc lột, ức hiếp người lao động diễn ra hàng ngày và có xu hướng phát triển.
Vì vậy, việc xác định đúng và giữ vững được vị trí của Công đoàn lại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
1.3.2. Vai trò của Công đoàn Việt Nam .
Lênin nói “ Công đoàn có vai trò là trường học quản lý, trường học kinh tế, trường học chủ nghĩa cộng sản”.
Nói đến vai trò của một tổ chức là nói đến sự tác động của tổ chức đó đến tiến trình phát triển của lịch sử và cách mạng, được phản ánh trên lĩnh vực lịch sử và cách mạng, được phản ánh trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng mà xã hội đó tồn tại và phát triển.
ở Việt Nam, vai trò của Công đoàn được ghi nhận và phát huy có hiệu quả qua các giai đoạn lịch sử, từ thời kỳ chống giặc ngoại xâm và bước đầu xây dựng Chủ nghĩa xã hội (1945 – 1985). Trong quyết định tặng thưởng huân chương Hồ Chí Minh hạng nhất cho Công đoàn Việt Nam ngày 17/10/1984, Quốc hội và Hội đồng Nhà nước Việt Nam ghi nhận: “ Công đoàn Việt Nam đã có nhiều thành tích xuất sắc trong việc đoàn kết, giáo dục và động viên công nhân viên chức tham gia cách mạng, thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc”.[3]
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, chương 1, điều 10 đã ghi rõ: “ Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và người lao động, cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo bảo vệ quyền lợi của cán bộ. Công nhân viên chức và những người lao động khác, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục công nhân viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.[4]
Luật Công đoàn được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ( tại kỳ họp thứ 7 khoá 8, ngày 30/6/1990 ) đã khẳng định “ Công đoàn là tổ chức Chính trị –Xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, là trường học Chủ nghĩa xã hội của người lao động”.[5]
Thực tế những năm qua trong các chặng đường lịch sử của đất nước, Công đoàn Việt Nam đã trưởng thành nhanh chóng, thể hiện vai trò của mình đối với xã hội, Công đoàn đã thu hút, vận động, giáo dục, tổ chức công nhân viên chức và lao động tham gia tích cực vào công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Ngày nay, trong sự nghiệp cách mạng mới, nhất là trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước thì vai trò của Công đoàn ngày càng được mở rộng. Sự mở rộng vai trò Công đoàn là phù hợp với tính tất yếu, khách quan, tính quy luật vận động và sự phát triển của tổ chức Công đoàn, nó phù hợp với quy luật chung của quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội, nó là bộ phận cấu thành của quá trình nâng cao vai trò của tất cả các tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu vai trò của Công đoàn trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn.
._.
1.3.3. Mục tiêu và phương hướng tổng quát của tổ chức Công đoàn trong giai đoạn hiện nay.
Sang thế kỷ XXI, sự nghiệp CNH - HĐH đất nước được đẩy mạnh hơn một bước. Cơ chế thị trường đang tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội làm thay đổi môi trường hoạt động, đối tượng vận động, phương thức hoạt động Công đoàn. Nếu như đầu những năm 80 của thế kỷ XX trở về trước, Công đoàn hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, đối tượng tập hợp chủ yếu là CNVC - LĐ trong khu vực kinh tế Nhà nước, thì từ khi thực hiện đổi mới, đối tượng vận động của Công đoàn trở nên đa dạng, phức tạp hơn, trình độ dân trí nói chung và trình độ của CNVC - LĐ nói riêng đã được nâng cao, đòi hỏi nội dung và phương pháp hoạt động Công đoàn phải đổi mới. Qua hơn mười năm năm hoạt động trong môi trường mới, Công đoàn Việt Nam đã quen dần với cơ chế thị trường, tự đổi mới và trưởng thành, góp phần tích cực vào quá trình CNH - HĐH đất nước, xây dựng giai cấp công nhân.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng trong thời gian qua Công đoàn hoạt động vẫn đang trong tình trạng lúng túng, bất cập trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là công tác vận động, tập hợp quần chúng ở khu cực kinh tế ngoài quốc doanh, công tác tuyên truyền giáo dục và tổ chức thi đua, việc vận dụng, thực hiện các chức năng của Công đoàn trong từng thành phần kinh tế. Các cấp Công đoàn tuy đã cố gắng phát huy vai trò và chức năng của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVC - LĐ , song hiệu quả chưa cao, chưa thực hiện tốt chức năng kiểm tra, giám sát thực hiện chế độ chính sách có liên quan đến người lao động. Công tác tuyên truyền giáo dục mới tập trung ở khu vực Nhà nước, còn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chưa được đầu tư đúng mức. Phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, chống các biểu hiện sách nhiễu, phiền hà, làm trái pháp luật, chống tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa thực sự đi vào cuộc sống. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa đáp ứng được nhu cầu của tình hình mới.
Trong giai đoạn hiện nay đang đòi hỏi tính năng động, sáng tạo sủa mỗi người và toàn xã hội, đối mặt với những tiến bộ của cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi cá nhân, mỗi tổ chức kinh tế - xã hội phải cố gắng để vượt qua những ghềnh thác của quá trình cạnh tranh, hoạt động của Công đoàn không nên theo lối mòn kinh nghiệm chủ nghĩa và xơ cứng.
Vì vậy, tổ chức Công đoàn phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung và phương pháp hoạt động của mình. Trong văn kiện Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IX đã xác định mục tiêu và phương hướng tổng quát của tổ chức Công đoàn trong nhiệm kỳ 2003 – 2008 như sau “ Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới; củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, rộng khắp, thiết thực và có hiệu quả trong CNVC – LĐ; tham gia quản lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVC – LĐ; đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức Công đoàn trong các thành phần kinh tế; nâng cao năng lực và trình độ cán bộ công đoàn, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội , xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt nam XHCN.”[6]
Thế kỷ XXI, khoa học công nghệ đang có những bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức đang có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình sản xuất. “ Hoà bình, hợp tác, hữu nghị” là mục tiêu chính trong nhịp sống của các dân tộc, quá trình toàn cầu hoá hiện nay đang chứa đựng nhiều mâu thuẫn, có mặt tích cực nhưng cũng có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh, vừa làm nảy sinh những cơ hội vừa có những thách thức lớn. Trong bối cảnh đó, tổ chức Công đoàn phải không ngừng đổi mới về nội dung và phương pháp hoạt động, đổi mới mọi ngành, mọi cấp, mọi lúc, mọi nơi nhằm xây dựng tổ chức Công đoàn có đủ năng lực, bản lĩnh lãnh đạo CNVC - LĐ, góp phần đáp ứng những yêu cầu, lợi ích của dân tộc, của giai cấp và của người lao động trong xu hướng phát triển của những năm đầu thế kỷ này. Chính vì thế mà tổ chức Công đoàn cần phát huy tốt các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình để xứng đáng với lời nhận định của Lênin khi nói về tổ chức Công đoàn : “ Công đoàn cần phải là người hợp nhất, cần thiết của chính quyền Nhà nước, do đội tiên phong giác ngộ của giai cấp công nhân, tức là Đảng cộng sản lãnh đạo toàn bộ sự hoạt động về chính trị và kinh tế. Công đoàn nói chung là trường học của chủ nghĩa cộng sản thì nói riêng phải là trường học quản lý công nghiệp XHCN cho tất cả quần chúng, CNVC - LĐ”.
Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, tháng 4/2001 đã khẳng định: Đối với giai cấp công nhân, coi trọng và phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện tri thức hoá công nhân, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao.
Để đạt được những điều đó, LĐLĐ tỉnh Lạng Sơn cần phải có những phương thức hoạt động cho phù hợp để chỉ đạo, hướng dẫn các cấp Công đoàn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho CNVC - LĐ, nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất và tinh thần của người lao động....
1.4. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Công cuộc đổi mới của Đảng ta đề ra đã và đang đi vào cuộc sống, với kết quả đạt được là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quyết định đưa đất nước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế thế giới, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong và ngoài nước, đồng thời phải có phương hướng đổi mới phương thức hoạt động và cách thức tổ chức cho phù hợp với cơ chế sản xuất mới. Sự vận động này là cơ sở cho sự biến đổi về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Công đoàn Việt Nam nói chung và LĐLĐ các tỉnh nói riêng, vì mục tiêu đẩy mạnh sản xuất, nâng cao chất lượng đời sống CNVC - LĐ, từ đó góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, vững bước trên con đường CNH - HĐH.
Xoay quanh vấn đề này có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị cả về lý luận và thực tiễn, đã chỉ ra được xu hướng vận động và biến đổi của đối tượng, từ đó có những dự báo kịp thời, chính xác, khoa học về kết quả của quá trình nghiên cứu. Những công trình nghiên cứu của các tác giả khác nhau đã và đang tiếp tục góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận cũng như phát huy được hiệu quả trong thực tiễn của đời sống xã hội.
Để hiểu rõ được cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Công đoàn Việt Nam, cùng với vai trò của giai cấp công nhân đã có nhiều tác giả nghiên cứu với các đề tài như:
“Thực trạng giai cấp công nhân và giải pháp Công đoàn” của tác giả Xuân Giang – NXB Lao động. Nội dung nói về hoạt động tổ chức Công đoàn để nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của tổ chức Công đoàn trong giai đoạn cách mạng mới.
“ Hoạt động Công đoàn trong giai đoạn mới”, tác giả Hoàng Thị Khánh, NXB Lao động năm 1992. Với nội dung là nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của tổ chức Công đoàn trong giai đoạn mới.
“ Vai trò, nhiệm vụ Công đoàn Việt Nam” của tác giả Nguyễn Công Hoà. Nói về vai trò của Công đoàn trước và sau khi giành chính quyền và chỉ rõ nhiệm vụ của Công đoàn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho CNVC - LĐ, vận động họ thi đua sản xuất, xây dựng kinh tế, tham gia quản lý xí nghiệp, quản lý Nhà nước, chăm lo đời sống vật chất cho CNVC - LĐ và xây dựng tổ Công đoàn vững mạnh.
“ Nhiệm vụ của Công đoàn trong giai đoạn hiện nay”, NXB Lao động, năm 1996. Nội dung nêu rõ nhiệm vụ có tính chiến lược lâu dài và chỉ ra những nhiệm vụ cụ thể trước mắt của Công đoàn.
Đề tài “ Vị trí, tính chất Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã hội trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội”, chủ biên của PGS – TS Nguyễn Viết Vượng. Đề tài đề cập đến vị trí, tính chất của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Vũ Oanh, NXB Lao động, năm 1997. Nội dung chủ yếu đề cập đến phương hướng, nội dung và phương pháp đổi mới của Công đoàn.
“ Giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới” của tác giả Nguyễn Văn Tư, NXB Sự thật, năm 1992.
“Giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”, chủ biên của tác giả PGS – TS Nguyễn Viết Vượng, NXB Lao động năm 2003.
Như vậy có thể nói rằng trong giai đoạn hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu với nhiều nội dung và quy mô khác nhau, đề cập đến nhiều khía cạnh của xã hội trong tiến trình đổi mới ở nước ta.
1.5. Các lý thuyết liên quan.
Để có kết quả nghiên cứu một cách khách quan và khoa học thì mỗi đề tài nghiên cứu phải tìm ra được những lý thuyết có liên quan cần được áp dụng trong đề tài.
Với đề tài là tìm hiểu về thực trạng tổ chức và hoạt động của Công đoàn, tác giả chú trọng đến một số lý thuyết theo hướng tiếp cận của chuyên ngành xã hội học như sau:
1.5.1. Lý thuyết cấu trúc - chức năng:
Lịch sử của lý thuyết này gắn với tên tuổi của các nhà xã hội học Talcott Parsons (1902 – 1979) – nhà xã hội học người Mỹ và Robert Merton sinh năm 1910, người do thái di cư sang Mỹ (Trong Xã hội học đại cương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2003 do Tiến sĩ Vũ Quang Hà chủ biên và Thạc sĩ Nguyễn Thi Hồng Xoan, ở mục II. 2, trang 120).
Trong lý thuyết của mình, T. Parsons đưa ra một lược đồ lý thuyết nổi tiếng đó là AGIL.
Lý thuyết này khẳng định: Một chức năng là “ một phức hợp các hoạt động trực tiếp hướng tới sự gặp gỡ một nhu cầu hay những nhu cầu của hệ thống” [7]. Dùng định nghĩa này, Parsons tin rằng có bốn yêu cầu tất yếu đối với mọi hệ thống – Sự thích nghi (A), Sự đạt mục tiêu (G), Sự hoà hợp ( I ), và Sự tiềm tàng(L) hoặc sự duy trì khuôn mẫu. Tất cả bốn yếu tố này kết hợp với cái tên lược đồ AGIL và ông khẳng định muốn tồn tại một hệ thống phải thực hiện bốn chức năng trên.
Như vậy, qua cách tiếp cận của T. Parsons thì mỗi chức năng là một phức hợp các hoạt động trực tiếp hướng tới sự gặp gỡ một nhu cầu hay những nhu cầu của hệ thống. Ông khẳng định : Bất kỳ một hệ thống hành động nào cũng đều có những nét nổi bật chung và phải nằm trong một hệ thống nhất định. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng phân tích cấu trúc, điều tra chức năng tức là xem xét đóng góp hay chưa, mà cấu trúc được giữ ổn định hay thay đổi khi ta xem xét nó vào một thời điểm nhất định. Sau đó sẽ gắn vào từng quá trình nhất định giữa hai thời điểm mà chúng được ghép vào cấu trúc con và tác dụng của chúng sẽ thay đổi khi so sánh cấu trúc ở hai thời điểm.
Hay, ở một luận điểm khác, Parsons cho rằng : Giữa cấu trúc và chức năng có một mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cấu trúc giữ vai trò quyết định . Sự thay đổi về mặt chức năng sẽ làm hoàn thiện hơn về mặt cấu trúc của một sự vật hiện tượng. Sự biến đổi của cấu trúc tuân theo quy luật tiến hoá, thích nghi khi môi trường thay đổi, sự biến đổi của cấu trúc luôn thiết lập trạng thái cân bằng, ổn định. ở đây có nghĩa là cấu trúc đảm bảo tính cân bằng cho xã hội về mặt chức năng.
Qua đó ta thấy rằng : Thuyết chức năng hướng vào giải quyết bản chất của cấu trúc xã hội và hệ quả của cấu trúc xã hội. Từ đó ta khẳng định, đối với bất kỳ sự kiện, hiện tượng xã hội nào, tác giả lý thuyết đều hướng vào việc phân tích các thành phần cấu tạo nên cấu trúc của chúng, xem các thành phần đó có mối liên hệ với nhau như thế nào và đặc biệt xét mối quan hệ của chúng với nhu cầu chung của sự tồn tại và phát triển sự vật hiện tượng đó. Mặt khác, lý thuyết này đòi hỏi nhà nghiên cứu phải tìm hiểu cơ chế hoạt động của từng thành phần để biết chúng có chức năng, tác dụng gì đối với sự tồn tại một cách cân bằng, ổn định của cấu trúc xã hội.
Trong một đề tài nghiên cứu khoa học khi đã đưa ra lý thuyết liên quan thì cần phải xem xét lý thuyết đó sẽ vận dụng trong đề tài nghiên cứu của mình thế nào. Trong phạm vi một khoá luận, tác giả xin chỉ ra rằng : Vận dụng lý thuyết cấu trúc – chức năng vào đề tài “ Thực trạng tổ chức hoạt động của LĐLĐ tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay.” Thì phải thấy rằng hoạt động của Công đoàn Việt Nam nói chung và của LĐLĐ Tỉnh Lạng Sơn nói riêng đều nằm trong một hệ thống nhất định : ở LĐLĐ Tỉnh thì mỗi phòng, ban, mỗi bộ phận đều có chức năng riêng. Khi khẳng định sự biến đổi của cấu trúc tuân theo quy luật tiến hoá. Vậy nên trong mỗi thời điểm lịch sử cụ thể, về mặt cơ cấu tổ chức cũng như hoạt động của LĐLĐ Lạng Sơn cũng cần phải có sự thay đổi để phù hợp vì thế chức năng cũng thay đổi theo.
Một thực tế đã chứng minh là : trước khi Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, chức năng bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng cho CNVC - LĐ của Công đoàn chưa được coi trọng, thì trong giai đoạn hiện nay chức năng này được xem là quan trọng nhất, so với chức năng quản lý và chức năng giáo dục. Bởi lẽ, hiện nay Công đoàn đã nhận thấy rằng để đảm bảo và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho CNVC - LĐ phải coi trọng lợi ích của họ là trước hết. Và khẳng định rằng : Chỉ có giải quyết tốt chức năng ấy thì cuộc sống của CNVC - LĐ mới ổn định. Từ sự ổn định trong cuộc sống của người lao động sẽ kéo theo sự ổn định chung cho xã hội và tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế – xã hội của toàn quốc gia.
1.5.2. Lý thuyết biến đổi xã hội.
Khái niệm biến đổi xã hội được hiểu là sự thay đổi xã hội từ một ngưỡng phát triển này sang một ngưỡng phát triển khác (cao hơn hoạc thấp hơn) vế chất, xét dưới góc độ tổng thể các thiết chế và cấu trúc xã hội [8].
Theo từ điển Xã hội học thì “ Biến đổi xã hội là một quá trình xã hội về những thay đổi trong cơ cấu của một hệ thống xã hội, những thay đổi này liên quan đến những đặc trưng của nó.”
Căn cứ vào mức độ ảnh hưởng của biến đổi xã hội, người ta chia biến đổi xã hội thành hai cấp độ sau :
+ Biến đổi vĩ mô : Đó là những biến đổi diễn ra trong một thời gian dài trên phạm vi rộng lớn.
+ Biến đổi vi mô : Đó là những biến đổi diễn ra trong phạm vi nhỏ và thời gian ngắn, có thể tạo nên những quyết định không thấy hết được mối quan hệ qua lại lẫn nhau cũng như các quan hệ của chúng.
Trong khái niệm biến đổi xã hội của từ điển Xã hội học thì biến đổi xã hội là một quá trình xã hội về những thay đổi trong cơ cấu của một hệ thống xã hội. Vậy cơ cấu xã hội là gì ? Theo từ điển Bách khoa Việt Nam “ Cơ cấu xã hội là tổng hoà những mối quan hệ ổn định giữa các yếu tố cấu thành hệ thống xã hội.”
Đại biểu của lý thuyết Biến đổi xã hội gồm Aguste Comte (1798 – 1857) – Nhà Xã hội học người Pháp và Hebert Spencer (1820 – 1883) – Nhà Xã hội học người Anh.
Các ông cho rằng, biến đổi xã hội là sự tăng trưởng và phát triển của cải vật chất xã hội (vật chất và trí tuệ), cùng năng xuất lao động xã hội, đó là quá trình tiến hoá tất yếu của mọi xã hội cùng với quá trình tích luỹ tri thức và khoa học công nghệ của con người.
Theo A. Comte, Xã hội sẽ tuần tự biến đổi từ trạng thái thần học đến trạng thái siêu hình rồi đến trạng thái thực chứng.
Theo H. Spencer, Xã hội học sẽ phát triển từ một xã hội có cấu trúc và trình độ đơn giản tiến dần lên các mức phát triển phức tạp, trong quá trình này các cá thể, phân hệ, sắc tộc, dân tộc yếu kém không thích nghi được với tiến trình phát triển xã hội sẽ bị diệt vong.
Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội thực chất là sự kế thừa của các phương thức sản xuất, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ thấp đến cao. Khi bàn luận về nguyên lý này Các Mác đã khẳng định: Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, động lực quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội là đời sống sản xuất vật chất. Trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, lực lượng sản xuất luôn vận động và phát triển không ngừng, đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Ông đã nhấn mạnh rằng: Một khi quan hệ sản xuất trở nên chật hẹp và lỗi thời sẽ dẫn đến kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, lúc ấy tất yếu dẫn đến một cuộc cách mạng xã hội, làm thay đổi quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Qua đây ta có thể xem xét về đặc điểm của biến đổi xã hội, biến đổi xã hội là một hiện tượng phổ biến, nhưng nó diễn ra không giống nhau giữa các xã hội, do những điều kiện chủ quan và khách quan của từng quốc gia, từng xã hội khác nhau.
Biến đổi xã hội khác biệt về thời gian và hiệu quả, có những biến đổi diễn ra trong thời gian ngắn nhưng ảnh hưởng đến lâu dài và ngược lại.
Vận dụng những quan điểm của lý thuyết biến đổi xã hội vào phân tích đề tài nghiên cứu, chúng ta phải thấy được sự thay đổi về tổ chức, hoạt động của Công đoàn là một tất yếu khách quan, nó bị quy định bởi những điều kiện xã hội lịch sử cụ thể.
Giờ đây, nước ta đang ở giai đoạn đầu của quá trình CNH - HĐH đất nước và trong quá trình này tạo nên sự biến đổi về cách thức tổ chức và hoạt động, sự biến đổi về cơ cấu sản xuất, vật chất xã hội. Từ những yếu tố này đã đặt ra yêu cầu đổi mới đối với nhiều tổ chức cũng như các thiết chế xã hội, trong đó có sự biến đổi của tổ chức Công đoàn.
Như vậy, hiện nay tổ chức Công đoàn cần phải có phương pháp tổ chức và hoạt động cho phù hợp với thực tiễn của nước ta. Tuy nhiên sự đổi mới đó không phải là một cuộc cách mạng xã hội làm thay đổi vai trò, vị trí, chức năng của Công đoàn, làm thay đổi mối quan hệ giữa con người với con người, và cụ thể là làm thay đổi mối quan hệ giữa Công đoàn - người lao động - người sử dụng lao động, mà mục tiêu của sự đổi mới ấy là phải củng cố bộ máy tổ chức, tăng cường hiệu quả hoạt động Công đoàn cũng như làm cho mối quan hệ giữa người lao động - Công đoàn - người sử dụng lao động được hài hoà, tôn trọng nhau và đảm bảo lợi ích cho nhau. Từ đó Công đoàn có thể điều chỉnh hoạt động phù hợp với hoàn cảnh tình hình thực tiễn ở nước ta.
1.5.3. Lý thuyết vai trò.
Căn cứ theo từ điển xã hội học thì với vai trò người ta tìm cách mô tả, giải thích và dự báo sự trung chuyển của cá thể và xã hội cũng như của cá nhân và hệ thống một cách thấu đáo và phù hợp vào việc xây dựng lý luận. Người ta hiểu vai trò là “ tập hợp những kỳ vọng ở trong xã hội gắn với hành vi của những người mang địa vị.... ở mức độ này thì mỗi vai trò riêng là một tổ hợp hay nhóm kỳ vọng hành vi”.[9]
ở đây ta thấy khái niệm vai trò mang tính nguyên lý cơ bản và thích hợp cho việc minh hoạ tư duy và lập luận xã hội học, bởi vì vai trò như địa vị, về nguyên tắc được giả thuyết là độc lập với cá thể, quan niệm con người ( người hành động ) như là một thực thể xã hội, như xét hành vi như được quy định bởi các chuẩn mực và chịu ảnh hưởng của hình thức thưởng phạt. Mặt khác, vai trò cũng được tạo ra bởi con người và theo đó cũng được xác định ở nhiều chiều hướng khác nhau.
Lý thuyết vai trò được “phát triển từ hai hướng tiếp cận của một quan sát xã hội học vi mô và của một quan sát xã hội học vĩ mô”. Xét về mặt khoa học thì lý thuyết này được hình thành như là một bộ phận của một cách tiếp cận “ Lý thuyết hành động - tương tác” và của một tiếp cận “ Lý thuyết hệ thống - chức năng”. ( Theo từ điển XHH, NXB Thế giới năm2002, tr 536 - 538 ).
Vậy nên có thể hiểu vai trò là một mô hình hành vi gần như chức năng xã hội được xác định một cách khách quan thông qua quan hệ của cá nhân hoặc một nhóm cá nhân hay hệ thống các quan hệ cá nhân.
Vai trò bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, đó chính là chức năng phải được thực hiện mà xã hội mong chờ ở mỗi chủ thể hành động. Nếu như vị thế xã hội là quá trình lựa chọn của cá nhân được tiếp nhận thì vai trò là thực hiện những điều mà xã hội mong đợi, tức là vai trò xã hội thể hiện những đòi hỏi xã hội đối với vị thế xã hội. Những đòi hỏi này được xác định căn cứ vào các chuẩn mực giá trị xã hội trong các xã hội khác nhau, thực tiễn xã hội cho thấy, các chuẩn mực xã hội và giá trị xã hội là không đồng nhất, vì thế vai trò xã hội cũng không đồng nhất.
Vai trò là những đòi hỏi với những vai trò điều khiển hoạt động xã hội và tạo ra điều kiện quan trọng đối với tính quy luật và bền vững của hoạt động xã hội. Đó chính là khuôn mẫu định hướng chung được tạo ra giữa xã hội và những cái cụ thể; hoặc nói cách khác, những đòi hỏi của xã hội được chuyển tới cá nhân thông qua vai trò và mỗi một vai trò đều chứa đựng một khuôn mẫu, những chuẩn mực chủ chốt đối với một vị trí cụ thể trong xã hội cụ thể.
áp dụng lý thuyết này khi xem xét “Thực trạng tổ chức hoạt động của LĐLĐ tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay” chúng ta có thể xem xét LĐLĐ tỉnh như một hệ thống xã hội, bao gồm một tập hợp các bộ phận được sắp xếp theo trật tự nhất định và giữa các bộ phận đó có mối liên hệ, ở đây là mối liên hệ giữa LĐLĐ tỉnh với các Công đoàn ngành, Công đoàn cơ sở trực thuộc và với đoàn viên, mỗi bộ phận đều phải thực hiện những chức năng, nhiệm vụ riêng, và mục tiêu hoạt động của các bộ phận đều hướng tới sự ổn định, cân bằng và phát triển của cả hệ thống Công đoàn tỉnh Lạng Sơn.
Do vậy, LĐLĐ tỉnh Lạng sơn là một bộ phận trong hệ thống tổ chức của Tổng LĐLĐ Việt Nam, cho nên cơ cấu tổ chức và hoạt động của LĐLĐ Lạng Sơn cũng nhằm thực hiện những chức năng mà sứ mệnh lịch sử đã giao phó, chức năng đó là chức năng bảo vệ lợi ích, chức năng tuyên truyền giáo dục và tham gia quản lý.
1.6. Khái niệm công cụ.
1.6.1. Khái niệm tổ chức.
Theo từ điển xã hội học thì “ Tổ chức” có nguồn gốc từ Pháp, nhanh chóng được thực hiện hoá ở Đức. Lúc đầu chỉ vận dụng cho cơ cấu các đoàn thể có tính tổ chức, sau đó được mở rộng cho các hình thể xã hội như là cơ quan quản lý, trường học, hiệp hội....Nghiên cứu đầu tiên về tổ hợp mà người ta có thể gọi là “ có tính lý luận tổ chức” được tiến hành trong khuôn khổ thực hiện tự do liên kết ở mức loại hình kiểu lý luận Nhà nước ( Muller Dann, 1984).
Người ta có thể sử dụng khái niệm “tổ chức” theo ba cách hiểu:
Tổ chức như là hoạt động ( việc tổ chức ).
Tổ chức như là tính chất của hình thể xã hội ( Tính tổ chức ).
Tổ chức như là kết quả của việc tổ chức, tức là một loại hình thể nhất định ( Tổ chức ).
Cả ba khái niệm này đều tìm thấy trong lý luận, trong đó phần lớn người ta sử dụng về bên ngoài theo nghĩa thứ ba, nhưng tìm đủ thì hai nghĩa kia đóng vai trò chủ đạo mà đầu tiên là nghĩa thứ hai tức là đặc tính tổ chức có vị trí trung tâm trong lý thuyết.
Theo quan điểm của các nhà xã hội học: “ Tổ chức là dấu hiệu đặc trưng và là yếu tố cấu thành một xã hội công nghiệp và dịch vụ hiện đại”. Đây là định nghĩa được rất nhiều nhà xã hội học nhất trí.
Nhưng theo ngôn ngữ thông thường thì nhiều người lại cho rằng “ Tổ chức là hoạt động của những người hoặc sự liên kết của nhiều người, nhiều nhóm người khác nhau nhằm đạt được các lợi ích nhất định của họ”[10] Hay trong cuốn giáo trình “ Lý luận và nghiệp vụ Công đoàn” thì “tổ chức là một đơn vị xã hội được liên kết phối hợp có ý thức, có ranh giới hoạt động tương đối xác định, hoạt động tương đối thường xuyên nhằm đạt một mục tiêu hoặc một số mục tiêu nhất định”.[11]
Theo ý nghĩa khoa học “ Tổ chức” được định nghĩa là sự kết hợp của cá
nhân có cùng ba đặc điểm ngang nhau:
+ Chúng được tạo ra nhằm thực hiện các mục tiêu đặc biệt và chúng không đồng thời phục vụ cho bất kỳ mục tiêu nào.
+ Chúng có cấu trúc phân công lao động.
+ Chúng được hình thành với một ban quản lý. Ban quản lý có bổn phận đại diện cho khối thống nhất đó với công việc nội bộ và bên ngoài.
ở các góc độ khác nhau, tổ chức được đề cập ở hai khái niệm, một khái niệm mang tính động và một khái niệm mang tính tĩnh:
+ Tổ chức mang tính động: Là quá trình tổ chức, tức là việc tạo ra một cách có kế hoạch, một trật tự, một cơ cấu hoặc một hệ thống.
+ Tổ chức mang tính tĩnh: Là thành quả của một sự tổ chức, trật tự đã được tạo dựng, mang tính tổ chức, các mối liên quan, cơ cấu, hệ thống.
Dù ở góc độ nào, các nhà xã hội học đều nhất trí với nhau khi đề cập đến khái niệm : “Tổ chức là những thực thể xã hội, phối hợp với nhau có mục đích, là những hệ thống xã hội được cơ cấu theo mục tiêu, là những công cụ hoặc hiệp hội với mục đích liên kết xã hội”.
Những nét đặc trưng để xác định một tổ chức:
Tổ chức là một đơn vị xã hội, tập hợp từ hai người trở lên cùng hoạt động, sự tập hợp này có thể ít nhất là hai, nhưng cũng có thể nhiều, điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là mục tiêu đặt ra cho tổ chức.
Tổ chức là sự liên kết, phối hợp có ý thức, có ý nghĩa là đề cập đến hoạt động quản lý, ranh giới hoạt động tương đối xác định, đề cập đến một khía cạnh quan trọng đó là một phạm vi hoạt động rõ ràng. Điều này rất quan trọng vì khi muốn thành lập một tổ chức cần xem xét tổ chức mới lập ra có chồng chéo nhiệm vụ với các tổ chức hiện có hay không. Mục tiêu của tổ chức là đề cập đến vấn đề tổ chức đó phải đạt được bằng hoạt động của mình.
Tổ chức phản ánh lại hình ảnh xã hội. Nó làm cho con người gắn bó với nhau nhưng cũng làm cho con người tách biệt lẫn nhau.
Tổ chức nối từng thành viên trong xã hội với toàn xã hội, cũng như giữa các hệ thống đang tồn tại trong xã hội đó. Tổ chức gắn liền với các hệ thống kinh tế - xã hội mà nó bao hàm, mục đích hoặc mục tiêu của tổ có thực hiện được hay không phụ thuộc vào hệ thống đó.
Chúng ta có thể tiếp cận được cơ cấu tổ chức, điều lệ của tổ chức, các chương trình tổ chức trong ý tưởng của các thành viên, trong hành động và thái độ của các thành viên, trong các văn bản cũng như trong hoạt động của tổ chức.
Từ cách tìm hiểu về tổ chức như trên, các tác giả đều thống nhất rằng “công đoàn là một tổ chức đại diện cho giai cấp công nhân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho giai cấp công nhân và người lao động. Tổ chức Công đoàn hoạt động bởi sự liên kết giữa các thành viên nhằm bảo vệ lợi ích cho người lao động”.
Từ các cách hiểu về tổ chức như trên, chúng ta tiếp cận với cơ cấu tổ chức công đoàn thông qua một số chỉ tiêu sau đây:
“Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động. Cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo, bảo vệ quyền lợi cho cán bộ, công nhân viên chức và những người lao động khác,tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ tổ quốc”[12].
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh thì “tổ chức công đoàn ra đời, trước hết là để công nhân đi lại với nhau cho có tình cảm, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân, năm là giúp đỡ cho quốc dân, giúp cho thế giới.”[13]
Trong công đoàn đã được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp lần thứ 7, khoá VIII, ngày 30/6/1990 khẳng định “Công đoàn là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, là trường học xã hội chủ nghĩa của người lao động”.
Ngày nay, trên thế giới đang diễn ra xu thế hội nhập hoá,toàn cầu hoá. Nước ta đang trong giai đoạn CNH - HĐH, đòi hỏi các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó có tổ chức công đoàn phải có những cách thức tổ chức và phương thức hoạt động sao cho phù hợp với thực tiễn đặt ra.
LĐLĐ Lạng Sơn là một tổ chức nằm trong hệ thống Công đoàn Việt Nam, là tổ chức chính trị - xã hội hoạt động nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động, chỉ đạo các Công đoàn cơ sở hoạt động có hiệu quả và thực hiện tốt các chức năng của mình. Để có được kết quả tốt thì LĐLĐ Lạng Sơn phải có cách thức tổ chức và phương pháp hoạt động phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của tỉnh và của Đất nước.
1.6.2. Khái niệm hoạt động Công đoàn
Hoạt động Công đoàn là sự cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn vào trong thực tiễn. Do vậy, sự biến đổi về tổ chức và hoạt động của Công đoàn tất yếu dẫn đến sự biến đổi trong hình thức và hiệu quả hoạt động của Công đoàn, đồng thời nêu cao vai trò, chức năng, nhiệm vụ của giai cấp công nhân. Là người chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp cho người lao động, Công đoàn phối hợp cùng các tổ chức chuyên môn để tổ chức các phong trào, động viên công nhân, lao động thi đua sản xuất kinh doanh, phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ được giao, xứng đáng với xứ mệnh lịch sử.
Tổ chức Công đoàn là một trong những thiết chế thuộc kiến trúc thượng tầng. Nó phản ánh mối quan hệ kinh tế trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nếu Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ của giai cấp công nhân điều tiết, kiểm soát quản lý xã hội thì Công đoàn tập trung, tuyên truyền giáo dục công nhân viên chức lao động thực hiện đường lối chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nước vì lợi ích của đông đảo đoàn viên Công đoàn.
Từ cách hiểu về hoạt động Công đoàn ở trên, ta thấy được mục đích của hoạt động Công đoàn như sau:
+ Là sự tồn tại của bản thân hệ thống tổ chức Công đoàn.
+ Đáp ứng nhu cầu, lợi ích của CNVC - LĐ là đoàn viên Công đoàn.
+ Thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng thông qua quần chúng và người lao động.
+ Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức chính trị – xã hội, cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Như vậy, cũng như mọi tổ chức xã hội khác, hoạt động của Công đoàn cũng nằm trong khuôn khổ, phạm vi, quyền hạn được hiến pháp và pháp luật quy định. Đồng thời những hoạt động này phải đảm bảo những nguyên tắc cụ thể, có như thế mới nâng cao được tính hiệu quả và đáp ứng được yêu cầu mới của thực tiễn đất nước.
Hiện nay nước ta đang ở chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt N._.ng viên phải thể hiện trách nhiệm cao khi được phân công hoạt động trong tổ chức Công đoàn.
Nghị quyết 3b của Tổng LĐLĐ Việt Nam đưa ra tiêu chuẩn của một cán bộ Công đoàn như sau: “ Có bản lĩnh chính trị vững vàng, nhiệt tình công tác Công đoàn, có kiến thức về quản lý kinh tế – xã hội, luật pháp, hiểu biết về chuyên môn ngành nghề, nắm vững lý luận, kỷ cương và nghiệp vụ công tác Công đoàn có năng lực hoạt động thực tiễn, trung thực, được quần chúng tín nhiệm.”
Như vậy, về tiêu chuẩn cho thấy cán bộ Công đoàn là con người rất hoàn thiện về năng lực trí tuệ, đạo đức và phẩm chất cách mạng. Người Đảng viên nếu câu nệ về vấn đề phân công, bố trí của tổ chức Đảng, không muốn làm cán bộ Công đoàn phải chăng là chưa hội đủ những yếu tố trên.
Trách nhiệm của Đảng viên không chỉ đối với đảng viên trực tiếp làm cán bộ Công đoàn mà cả đối với những đảng viên là đoàn viên công đoàn tham gia sinh hoạt trong tổ chức Công đoàn như ở Công đoàn cơ sở, Công đoàn bộ phận hay tổ Công đoàn.
3.2.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của Công đoàn từ tỉnh đến cơ sở.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy : “ Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém.” Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá 8) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước đã xác định “ Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ.”
Đối với tổ chức Công đoàn công tác cán bộ là yếu tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng tổ chức Công đoàn. Hoạt động của Công đoàn thành công đến đâu tuỳ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ của mình, “cán bộ như thế nào, phong trào như thế đó”. Trong thực tiễn tiêu chuẩn đặt ra cho người cán bộ Công đoàn rất cao, vì ngoài khả năng chuyên môn trong lĩnh vực, ngành nghề của mình, cán bộ Công đoàn còn phải có những khả năng khác để hướng các hoạt động đi vào lòng người, mà hoạt động của Công đoàn rất đa dạng, phức tạp, phong phú.
Trước hết tôi xin đề cập đến đội ngũ cán bộ chuyên trách. Lực lượng này phần lớn bố trí tại cơ quan thường trực LĐLĐ tỉnh, cán bộ lãnh đạo chủ chốt của LĐLĐ huyện, Công đoàn ngành và một số ít Công đoàn cơ sở trực thuộc tỉnh. Trong đội ngũ này hiện nay chỉ có 42% trình độ từ cao đẳng đến đại học. Với đội ngũ cán bộ chưa đến 70 người trong đó cả những cán bộ nhân viên làm công việc chuyên môn khác như văn thư, tạp vụ, lái xe.... có trình độ khác nhau thì Công đoàn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động của mình. Vì vậy, tôi xin nêu lên một vài biện pháp cho vấn đề cán bộ như sau:
+ Đối với cơ quan LĐLĐ tỉnh cần hạn chế đến mức thấp nhất việc sử dụng cán bộ, nhân viên làm những công việc chuyên môn khác vào hoạt động Công đoàn, tăng cường cán bộ, chuyên viên cho các ban giúp việc cho Ban thường vụ. Số chuyên viên đó tốt nhất là điều động những cán bộ có phẩm chất, năng lực tốt từ các cấp Công đoàn cơ sở có trình độ và kinh nghiệm công tác Công đoàn. Có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ này và yêu cầu các chuyên viên phải đi sâu vào từng lĩnh vực của mình, làm sao cho mỗi cán bộ Công đoàn hiểu biết nhiều vấn đề nhưng chuyên sâu lĩnh vực mình làm, tránh tình trạng cái gì cán bộ Công đoàn cũng biết, cũng tham gia nhưng thiếu sâu sắc cuối cùng lại không biết gì, không tham gia được gì.
+ Đối với cán bộ chủ chốt lãnh đạo Công đoàn ngành, LĐLĐ tỉnh cần quan tâm trong việc quyết định nhân sự, tránh tình trạng ngành giới thiệu người sang làm chủ tịch Công đoàn ngành để chuẩn bị nghỉ hưu hoặc không thể bố trí chuyên môn gì khác cho đồng chí đó được.
+ Một yêu cầu không thể thiếu với tất cả cán bộ Công đoàn là phải xây dựng phong cách làm việc thực tế, đi sát cơ sở, tránh bàn giấy. Nhất thiết từ lãnh đạo Công đoàn cao nhất của tỉnh đến chuyên viên đều phải có lịch làm việc với cơ sở, đi sát cơ sở không chỉ làm việc với chủ tịch Công đoàn hay Ban chấp hành Công đoàn cơ sở mà phải tham gia vào những đợt sinh hoạt của tất cả đoàn viên Công đoàn ở cơ sở đó. Chỉ như vậy mới có thể nắm bắt được một cách trung thực nhất tâm tư nguyện vọng và thái độ chính trị của đoàn viên. Đồng thời rút ra những mặt được và chưa được của Công đoàn cơ sở đó mà có biện pháp giúp đỡ kịp thời.
Đội ngũ cán bộ Công đoàn cơ sở cũng cần phải được quan tâm, đây là đội ngũ không chuyên trách, không hưởng lương Công đoàn, đội ngũ này do đoàn viên cơ sở giới thiệu và bầu ra, họ làm việc vì lòng nhiệt tình, vì trách nhiệm đối với tập thể. Song đây chính là nơi thực hiện các Nghị quyết của Công đoàn cấp trên đưa ra. Vì vậy đội ngũ cán bộ này có vai trò hết sức quan trọng. Đối với họ, cấp trên không thể dùng những quy định buộc phải làm như cán bộ chuyên trách, mà chủ yếu là thường xuyên đôn đốc nhắc nhở, giúp họ về một số phương pháp hoạt động. Chính vì vậy mà đội ngũ cán bộ Công đoàn chuyên trách phải thường xuyên đến với cơ sở để nhắc nhở và giúp đỡ chủ tịch Công đoàn cơ sở hoạt động.
Vấn đề nâng cao trình độ cán bộ lãnh đạo Công đoàn các cấp, chuyên môn hoá trình độ đội ngũ chuyên viên là một yêu cầu bức thiết. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và đời sống kinh tế không ngừng được tăng lên thì trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, đặc biệt là đội ngũ công nhân lao động luôn tiếp cận với những cái mới. Người cán bộ Công đoàn phải luôn đặt đối tượng của mình trong trạng thái vận động không ngừng phát triển đi lên trong cơ chế thị trường, có như vậy Công đoàn mới có thể thích nghi với môi trường mới trong hoạt động, mới có thể trở thành thủ lĩnh đáng tin cậy của người lao động. Ngoài nâng cao trình độ nghề nghiệp, cán bộ Công đoàn còn phải nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và phải có lập trường chính trị vững vàng.
Chính sách tiền lương là một chính sách lớn đối với cán bộ mà Đảng, Nhà nước và tổ chức Công đoàn luôn quan tâm, bàn bạc để đưa ra giải pháp tốt nhất cho vấn đề này để cán bộ Công đoàn các cấp yên tâm công tác, hoạt động thì cần phải có chế độ tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp phù hợp. Để đảm bảo cho sinh hoạt của cán bộ Công đoàn cần phải có chính sách tiền lương cụ thể cho từng cấp , đặc biệt là đối với cán bộ Công đoàn không chuyên trách ở cấp cơ sở, Công đoàn phải thực hiện chính sách trả công cho họ vì điều lệ Công đoàn Việt Nam khẳng định “Tổ chức cơ sở của Công đoàn là nền tảng của tổ chức, nơi trực tiếp với người lao động, nơi quyết định hiệu quả hoạt động của hệ thông Công đoàn”.
3.2.3. Củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức Công đoàn.
Việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức là nhiệm vụ luôn được đặt ra khi nhiệm vụ công tác của tổ chức thay đổi hoặc gia tăng. Tổ chức không phải là một phạm trù bất biến, nếu cứ giữ nguyên không thay đổi thì nó sẽ không đủ điều kiện thực hiện hoặc sẽ làm cản trở quá trình thực hiện nhiệm vụ mới. Nhưng nếu tổ chức bị thay đổi liên tục, không ổn định một cách tương đối theo từng thời kỳ thì cũng không thể hoàn thành được mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra.
Đổi mới hệ thống tổ chức Công đoàn trong cơ chế mới hiện nay là nhằm đa dạng hoá các hình thức tập hợp công nhân lao động vào tổ chức Công đoàn. Xây dựng Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn vững mạnh bằng các biện pháp mở rộng các hình thức coi trọng, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động, thu hút đông đảo công nhân lao động tự nguyện gia nhập tổ chức Công đoàn.
Muốn củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức Công đoàn cần phải củng cố và hoàn thiện từ Công đoàn cấp cơ sở đến cấp tỉnh.
Để phát triển đoàn viên Công đoàn và xây dựng tổ chức Công đoàn cấp cơ sở, theo tôi có thể thực hiện một số giải pháp sau đây:
+ Hiện nay bộ phận Công đoàn ngoài quốc doanh đang nằm trong ban tổ chức của LĐLĐ tỉnh và có một đồng chí chuyên viên phụ trách trực tiếp vấn đề này. nhưng theo tôi đề đẩy mạnh sự phát triển của tổ chức Công đoàn trong khu vực này thì phải có ít nhất 2 đồng chí chuyên trách cán bộ Công đoàn trực tiếp đảm đương nhiệm vụ, trong đó một đồng chí là phó ban tổ chức và uỷ viên ban chấp hành LĐLĐ tỉnh. Ngoài ra, đối với các Công đoàn ngành, địa phương, LĐLĐ huyện phải có biện pháp chủ động phát triển các Công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh do ngành mình quản lý. LĐLĐ tỉnh hàng quý hoặc 6 tháng tổ chức những cuộc hội thảo về công tác này làm sao cho tất cả cán bộ Công đoàn, đặc biệt là cán bộ Công đoàn chuyên trách nhận thức được sự lớn mạnh của lực lượng là điều kiện tồn tại của tổ chức Công đoàn, mà sự lớn mạnh đó phần lớn là lực lượng đoàn viên nằm ở khu cực các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương cần có sự chỉ đạo và biện pháp bắt buộc các chủ doanh nghiệp phải tiến hành việc thành lập Công đoàn cơ sở ở doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
+ Muốn nâng cao khả năng tự nguyện để người lao động xin gia nhập hoặc tự kiến nghị với chủ doanh nghiệp cho thành lập tổ chức Công đoàn thì người cán bộ Công đoàn phải là người tuyên truyền, vận động người lao động hiểu về tổ chức Công đoàn và hoạt động Công đoàn, ý nghĩa của việc hình thành tổ chức, ý thức nghề nghiệp, tinh thần tương thân tương ái, nhờ có tập thể đoàn kết mà có sức mạnh để xây dựng và bảo vệ quyền lợi không chỉ cho một cá nhân mà cho mọi người về các mặt kinh tế, vật chất, tinh thần....
+ Để phát triển đoàn viên, LĐLĐ tỉnh phải có kế hoạch chỉ đạo các cấp Công đoàn lựa chọn các hình thức thích hợp để tập hợp người lao động vào tổ chức Công đoàn.
+ Trong quá trình vận động thành lập tổ chức Công đoàn cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng về đặc điểm của những người lao động để lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với điều kiện, nguyện vọng hoạt động Công đoàn của họ.
+ Xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh. Vì Công đoàn cơ sở là nền tảng của tổ chức Công đoàn, ở đó diễn ra mọi hoạt động trực tiếp của đoàn viên và của tổ chức Công đoàn. Công đoàn cơ sở có mạnh thì hệ thống tổ chức Công đoàn mới mạnh. Do vậy, việc xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh là nội dung trọng tâm, thường xuyên của công tác tổ chức Công đoàn.
LĐLĐ huyện, Công đoàn ngành địa phương có hình thức tổ chức phù hợp để chỉ đạo Công đoàn cơ sở thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của họ.
LĐLĐ Tỉnh cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng, ban và LĐLĐ các huyện để thực hiện những mục tiêu, kế hoạch hoạt động mà LĐLĐ tỉnh đã đề ra, đồng thời cần phải kiểm tra, đôn đốc Công đoàn các cấp thực hiện tốt các nhiệm vụ, chức năng của mình.
3.2.4. Nâng cao chất lượng nội dung hoạt động của các cấp Công đoàn thuộc LĐLĐ tỉnh Lạng Sơn.
3.2.4.1. Công đoàn coi trọng việc bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của CNVC - LĐ.
Để thực hiện được nội dung này trước hết LĐLĐ tỉnh Lạng Sơn phải có một đội ngũ chuyên viên giỏi, vừa có khả năng đề xuất với Ban thường vụ vừa có khả năng hướng dẫn Công đoàn cấp dưới thực hiện đầy đủ những chính sách có liên quan đến người lao động.
Muốn vậy thì ngay từ bây giờ LĐLĐ Lạng Sơn phải có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại bằng được đội ngũ chuyên viên giỏi trên các lĩnh vực có liên quan đến quyền lợi của người lao động như : Bảo hộ lao động, An toàn vệ sinh lao động, tiền lương, thiền thưởng, các lĩnh vực liên quan đến quy định của luật lao động kể cả tư vấn pháp luật và các lĩnh vực khác. Xây dựng được đội ngũ chuyên viên vững mạnh trên các lĩnh vực giúp cho Công đoàn các cấp bảo vệ được quyền lợi của người lao động.
Ngoài ra còn một hoạt động mang tính chất bảo vệ công nhân lao động khi quyền lợi của họ bị xâm phạm rất có hiệu quả đó là qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài. Ngoài việc tranh thủ tận dụng trang Công đoàn trên Báo Lạng Sơn và Đài phát thanh truyền hình Lạng Sơn, Công đoàn cần có chương trình phát thanh truyền hình của Công đoàn, để đưa các vụ việc tham ô, hối lộ, trù dập, những việc làm có tính chất vi phạm chính sách lớn hoặc những vụ việc tuy không lớn nhưng có tác động tiêu cực lên mặt báo đấu tranh công khai. Đây là hình thức đấu tranh trực diện, có lĩnh vực rộng, tác động nhanh và đông đảo công nhân lao động được thông tin để đồng tình. Song đây cũng chính là nơi phải thận trọng, chính xác, có trách nhiệm, bởi một thông tin sai lệch dù có đính chính cũng làm ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của người bị đưa lên báo, lên đài.
Ban thường vụ, ban chấp hành Công đoàn các cấp phải luôn quan tâm và thể hiện sự hiểu biết của minh một cách sâu sắc trong tham gia xây dựng các định mức kinh tế, kỹ thuật, tham gia các chủ trương và biện pháp thực hiện các chế độ chính sách có liên quan đến công nhân lao động, bảo đảm đúng chính sách, công bằng và hợp lý.
Để bảo vệ quyền lợi của công nhân lao động, các cấp Công đoàn chủ yếu là Công đoàn cơ sở phải chú ý đến người lao động ngay từ khi người lao động mới vào làm việc cho đến khi hết hợp đồng lao động. Công đoàn với tư cách là người đại diện, phải hướng dẫn cho người lao động hiểu rõ quyền và nghĩa vụ ghi trong hợp đồng, làm cho họ nắm được các mục, các điều ghi trong hợp đồng để họ thực hiện đúng, nhất là nội dung công việc họ phải làm, lương họ được trả có thoả đáng không. Những quyền lợi họ được hưởng với trách nhiệm họ được giao có phù hợp với họ và họ có khả năng hoàn thành không. Mặt khác, Công đoàn cũng phải đủ sáng suốt để phân tích đánh giá tay nghề kiến thức chung, năng xuất lao động, sức khoẻ và khả năng am hiểu pháp luật của anh chị em công nhân để hướng dẫn cho họ ngay từ khi ký hợp đồng lao động và cả trong quá trình lao động sản xuất theo hợp đồng và đúng hợp đồng.
Công đoàn cần phải bảo vệ quyền lợi của công nhân trong quá trình lao động sản xuất kinh doanh, đó là điều kiện lao động đối với công nhân nó rất quan trọng, có tính chất quyết định đến năng xuất lao động, thời gian lao động, sức khoẻ và tuổi thọ của người lao động. Với trách nhiệm và quyền hạn của mình, các cấp Công đoàn phải làm cho người sử dụng lao động và người lao động am hiểu những vấn đề thuộc quyền hạn nghĩa vụ về Bảo hộ lao động thuộc ngành nghề mà họ đảm nhận. Do đó, việc tổ chức hướng dẫn, bồi dưỡng và kể cả huấn luyện những kiến thức cơ bản, những thao tác bắt buộc của quy trình sản xuất, những điều cần tránh, cần làm ....
Công đoàn còn phải bảo vệ lợi ích của người đoàn viên công nhân lao động trong một quá trình tồn tại và các tình huống nảy sinh đối với người lao động khi có xảy ra tranh chấp về lao động, về tiền lương, tiền thưởng, khen thưởng, kỷ luật .... khi họ còn đang làm việc cũng như khi họ thất nghiệp, khi gia đình họ gặp khó khăn, bất trắc .... Bảo vệ chăm lo cho CNVC – LĐ cả trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, tình cảm và đời sống tinh thần của công nhân lao động, tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi, hướng mục tiêu vào năng xuất lao động, chất lượng và hiệu quả lao động.
Để bảo vệ quyền lợi cho công nhân lao động, LĐLĐ tỉnh chỉ đạo cho các cấp Công đoàn điều tra thống kê nhu cầu nhà ở của đoàn viên, công nhân lao động trong toàn tỉnh, từ đó LĐLĐ tỉnh có cơ sở tham gia ý kiến với uỷ ban nhân dân tỉnh có phương án bố trí sắp xếp chỗ ở cho CNVC - LĐ. Hiện nay, tỉnh Lạng Sơn đã xây dựng xong khu trung cư của tỉnh, vậy LĐLĐ tỉnh cần có tiếng nói tham gia với tỉnh về những đối tượng được ở, mức tiền phải trả cho từng căn hộ với giá cả phù hợp với mức thu nhập của người lao động hiện nay.
3.2.4.2. Tuyên truyền, giáo dục, tập hợp, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh.
LĐLĐ Lạng Sơn làm tốt nội dung này là góp phần làm cho đội ngũ công nhân lao động vững vàng về chính trị, giác ngộ về giai cấp, thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, làm chủ khoa học và công nghệ hiện đại, cơ sở tư duy sáng tạo và kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có sức khoẻ và lối sống văn hoá, giàu tình nghĩa, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng, giữ vai trò nòng cốt trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức và khối đại đoàn kết dân tộc.
Hơn nữa trong công cuộc đổi mới của đảng ta hiện nay, tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, song trước những biến động của thế giới ngày càng phức tạp, kẻ thù đang âm mưu phá hoại công cuộc đổi mới của chúng ta hòng làm suy yếu và đi đến gây mất ổn định chính trị, lật đổ chế độ. Vì vậy hơn bao giờ hết Công đoàn cần phải tăng cường công tác giáo dục cho công nhân lao động.
Để thực hiện tốt nội dung tuyên truyền, vận động giáo dục của Công đoàn hiện nay, Công đoàn các cấp trong tỉnh cần chú ý những vấn đề sau đây:
+ Công đoàn các cấp cần phải tăng cường nắm tình hình tư tưởng của đoàn viên, trên cơ sở uốn nắn những lệch lạc trong quá trình nhận thức và cũng thông qua công tác tư tưởng nắm được tâm trạng của công nhân lao động
+ Phải nhanh chóng tổ chức và kiện toàn đội ngũ cán bộ tuyên giáo, Công đoàn từ tỉnh đến cơ sở, chính đội ngũ này là những báo cáo viên của Công đoàn.
+ Tiếp tục mở chuyên mục Công đoàn trên báo Lạng Sơn, trên các chương trình phát thanh và truyền hình của tỉnh Lạng Sơn.
+ Tổ chức các chương trình nghệ thuật, các cuộc thi cho CNVC - LĐ đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao để tăng sự giao lưu tìm hiểu học tập lẫn nhau.
+ Ban chính sách - tư tưởng của LĐLĐ cần nắm bắt kịp thời những thông tin mới có liên quan đến nội dung giáo dục từ Công đoàn trung ương, từ ban tuyên giáo tỉnh uỷ để cung cấp cho mạng lưới tuyên truyền viên của Công đoàn.
+ Nghiên cứu tổ chức những cuộc toạ đàm trực tiếp giữa công nhân lao động và lãnh đạo để trao đổi ý kiến, chất vấn và trả lời chất vấn những vấn đề mà đa số công nhân lao động đều quan tâm.
+ Tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền giáo dục, kết hợp việc tuyên truyền vận động trực tiếp với từng tập thể, từng nhóm và cá nhân.
+ Tăng cường giáo dục truyền thống, giáo dục về giới trong nữ CNVC - LĐ vận động thực hiện mô hình gia đình ít con, đẩy mạnh tiến độ xã hội hoá công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình trong CNVC - LĐ, xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc, bình đẳng và tiến bộ.
Trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay, vấn đề cần lưu ý trong công tác vận động, giáo dục của Công đoàn là, Công đoàn hoạt động trong cơ chế thị trường phải gắn nó trong mối quan hệ tác động của cơ chế thị trường, có nghĩa là phải đánh giá đúng đối tượng giáo dục của mình về trình độ nhận thức, về giác ngộ lý tưởng, về khả năng nhạy cảm về chính trị, về thái độ của họ đối với chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước có liên quan đến lợi ích của họ. Người cán bộ Công đoàn nói chung nhất là cán bộ làm công tác tuyên truyền, giáo dục phải luôn nhớ rằng Công đoàn là một thành viên của hệ thống chính trị, vì vậy vừa bảo vệ lợi ích cho công nhân lao động vừă phải góp phần thực hiện mục đích cuối cùng của Đảng là xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản. Trong bất kỳ tình huống nào, khi đối thoại, tuyên truyền , trả lời chất vấn, giải quyết những bất đồng giữa người lao động và người quản lý sử dụng lao động đều phải xuất phát từ mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích nhà nước.
3.2.4.3. Công đoàn động viên CNVC - LĐ tham gia quản lý kinh tế.
Dưới chế độ XHCN công nhân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực, việc đẩy mạnh sản xuất, tham gia quản lý kinh tế, xây dựng và bảo vệ chính quyền vừa là nghĩa vụ vừa là lợi ích căn bản của CNVC - LĐ. Do đó việc CNVC - LĐ tham gia quản lý kinh tế ngày nay trở thành tất yếu khách quan.
Với tư cách là người đại diện cho CNVC - LĐ thực hiện quyền làm chủ của mình, Công đoàn có quyền tham gia quản lý kinh tế, quản lý cơ quan xí nghiệp, quản lý chính quyền địa phương. Để làm được những điều đó, Công đoàn phải:
+ Công đoàn chủ động tập hợp công nhân lao động tham gia vào quá trình sắp xếp lại sản xuất, tổ chức lại lao động, cùng chính quyền giữ vững vị trí và phát triển các doanh nghiệp nhà nước, tác động đến sản xuất. Công đoàn phải đặc biệt quan tâm đến yếu tố con người, khuyến khích tính năng lao động sáng tạo của công nhân lao động để tạo động lực thúc đẩy công nhân lao động quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cần quan tâm tham gia xây dựng bổ xung các quyết định đổi mới cơ chế quản lý, phát huy quyền và trách nhiệm của công nhân lao động ngay tại cơ sở, cùng với chính quyền chuyên môn xây dựng và thực hiện các quy chế, chính sách khuyến khích lợi ích vật chất như tiền lương, tiền thưởng.
+ Cùng với chính quyền địa phương nghiên cứu, hướng dẫn làm thí điểm từng bước hình thức góp vốn, mua cổ phần, thực hiện cơ chế làm chủ thông qua quyền sở hữu thực hiện chế độ công khai về tài chính, tài sản khiến cho công nhân lao động gắn bó với xí nghiệp tìm cách để doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh.
+ Công đoàn trong các cơ quan hành chính, cùng với thủ trưởng thực hiện cải tiến một bước thủ tục hành chính, giảm bớt các giấy tờ, xây dựng chức trách nhiệm vụ tập trung phục vụ cho nhiệm vụ chính trị.
+ Trong cơ chế thị trường, trình độ học vấn nghề nghiệp là cơ sở để nâng cao giá trị sức lao động. Chính vì vậy, Công đoàn tích cực tham gia với nhà nước, chủ doanh nghiệp có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ, có chính sách bồi dưỡng quản lý phát triển đội ngũ công nhân, cán bộ khoa học kỹ thuật, nhà quản lý giỏi để từng bước thích ứng với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
+ Tham gia với chính quyền địa phương và các ngành chức năng nghiên cứu, xây dựng và phát triển các vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh trên cơ sở phù hợp với điều kiện, cơ sở thực hiện ở từng địa bàn.
+ Do phát triển kinh tế nhiều thành phần, Công đoàn chủ động tham gia với nhà nước và các cơ quan chức năng về những vấn đề có liên quan đến hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể. Trên cơ sở đó quan tâm đến lợi ích của người lao động.
Thực hiện nội dung hoạt động trong việc tham gia quản lý không có nghĩa là Công đoàn làm thay, không phải là sự can thiệp trắng trợn, thô bạo làm cản trở công việc của nhà nước, của chính quyền địa phương và chuyên môn của đơn vị. Công đoàn phải nhận thức đúng đắn rằng tham gia quản lý là thể hiện quyền của Công đoàn, của CNVC - LĐ. Đồng thời tham gia quản lý chính là thiết thực bảo vệ lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của CNVC - LĐ, của tập thể, của nhà nước một cách căn bản từ gốc và có hiệu quả, phát huy vai trò trường học quản lý của Công đoàn.
3.2.4.4. Vận dụng sáng tạo các phương pháp cơ bản của hoạt động Công đoàn.
+ Để sử dụng phương pháp thuyết phục đạt hiệu quả, trước hết cần liên hệ mật thiết với đối tượng, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, những bức xúc của đối tượng. Đồng thời bản thân người cán bộ Công đoàn cần gương mẫu có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực, kiến thức, kinh nghiệm cần thiết để thuyết phục các loại đội tượng khác nhau.
+ Tổ chức các phong trào hành động cách mạng sâu rộng trong CNVC - LĐ, phân công đoàn viên hoạt động, chú trọng các ban quần chúng, ban chuyên đề, đa dạng hoá loại hình, hình thức tập hợp khai thác trí tuệ của quần chúng đem lại kết quả hoạt động cho Công đoàn.
+ Thu nhận và xử lý thông tin một cách đầy đủ, chính xác thông qua báo cáo từ dưới lên, từ trên xuống, thông tin đại chúng, thông tin từ quần chúng. Trước khi xử lý các thông tin thu thập được cần kiểm tra độ tin cậy của thông tin, có phương hướng, biện pháp xử lý thông tin một cách chính xác, vô tư, khách quan, khoa học. Tránh chỉ tiếp nhận thông tin một chiều, xử lý thông tin nóng vội, cảm tính, cảm tình, định kiến cá nhân.
+ trong từng cấp Công đoàn trong tỉnh cần xây dựng quy chế hoạt động nội bộ căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của cấp mình trong mối quan hệ hoạt động phối hợp với các cấp chính quyền đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, căn cứ vào luật pháp, chính sách, chức năng của mỗi tổ chức để xây dựng quy chế phối hợp cho phù hợp.
+ Đổi mới lề lối làm việc và công tác chỉ đạo thực hiện của ban chấp hành LĐLĐ tỉnh:
- Phải hình thành bộ phận chuyên đề về kinh tế - xã hội bao gồm cả cán bộ chuyên trách và cán bộ quản lý kinh tế trong các ngành nhằm nghiên cứu hướng chỉ đạo phong trào, tham gia quản lý kinh tế. Cho nên số cán bộ này đòi hỏi phải có kiến thức chuyên môn và lý luận giỏi, giám làm giám chịu chịu trách nhiệm trước ban thường vụ.
- Phải biết phát huy họat động quần chúng của Công đoàn. Nếu chỉ có số cán bộ chuyên trách Công đoàn thì không thể hiểu và nắm bắt được thấu đáo tình hình, mà phải thông qua mạng lưới hoạt động của ban quần chúng của Công đoàn, cần phải tập hợp những cán bộ đầu ngành về kinh tế, khoa học kỹ thuật và xã hội vào các ban quần chúng Công đoàn. Thông qua các ban quần chúng này giúp cho ban thường vụ, ban chấp hành LĐLĐ tỉnh nắm bắt kịp thời những nhiệm vụ trọng tâm và các ý kiến đề xuất giải pháp cụ thể, để Công đoàn tham gia các cấp chính quyền sát thực và đạt hiệu quả.
+ Cần nghiên cứu nội dung sinh hoạt của ban chấp hành, ban thường vụ theo định kỳ, không nhất thiết cứ phải dàn trải các nội dung để bàn, mà cái gì nổi cộm trong thời điểm diễn ra ở địa phương thì tập trung giải quyết.
+ Hướng dẫn nội dung công tác phải có chương trình, kế hoạch, thời gian triển khai. Đồng thời muốn thực hiện có kết quả thì phải chỉ đạo cho các ban chuyên đề phân công cán bộ chỉ đạo theo khu vực, có như vậy mới hạn chế được bệnh quan liêu, hình thức trong công tác chỉ đạo.
+ Cần phải thực hiện bố trí cán bộ Công đoàn chuyên trách một cách khoa học và hiệu quả, khi cần thì có thể điều cán bộ từ trên cơ quan LĐLĐ tỉnh xuống cơ sở hoặc ngành và ngược lại. Ngay cả các ban chuyên đề cũng có thể thuyên chuyển từ ban này sang ban khác, có như thế cán bộ mới am hiểu thực tế và tránh được thói lười biếng trong tư duy của cán bộ Công đoàn hiện nay.
+ Chỉ đạo tổ chức làm kinh tế, đây là yêu cầu bức xúc và cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình đổi mới của tổ chức Công đoàn. Vì kinh phí do nhà nước cấp và đoàn phí do đoàn viên đóng góp chưa đáp ứng được sự đòi hỏi của phong trào ngày càng phát triển sâu rộng trong đoàn viên công nhân lao động. Ban chấp hành, ban thuờng vụ LĐLĐ tỉnh cần nghiên cứu đưa ra các phương án đầu tư vào sản xuất kinh doanh dịch vụ, nhất là hiện nay phải chỉ đạo trung tâm dịch vụ việc làm và nhà nghỉ du lịch Công đoàn tỉnh hoạt động theo đúng pháp luật và đạt hiệu quả nhằm bổ sung kinh phí cho hoạt động Công đoàn.
3.3. Kết luận và khuyến nghị.
3.3.1. Kết luận.
Với vị trí là một tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân Việt Nam, trong mọi giai đoạn cách mạng Công đoàn Việt Nam có nhiệm vụ xây dựng tổ chức mình lớn mạnh về mọi mặt, qua đó động viên, tập hợp, đoàn kết lực lượng để trở thành đội ngũ nòng cốt, thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, điều kiện làm việc, điều kiện sống và nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích của công nhân lao động trong các ngành kinh tế khác nhau cũng không giống nhau, nếu tổ chức Công đoàn không phù hợp với mỗi loại hình tổ chức và hoàn cảnh cụ thể thì hiệu quả sẽ rất hạn chế. Vì vậy, để thực hiện được nhiệm vụ của mình trong tình hình hiện nay, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, Công đoàn phải đổi mới về nội dung, hình thức và phương thức hoạt động, đổi mới về tổ chức cán bộ. Đặc biệt quan tâm xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh vì đó là nền tảng của tổ chức, là nơi tập trung đoàn kết đoàn viên, nơi thực hiện mọi chủ trương của tổ chức Công đoàn.
Nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của LĐLĐ tỉnh Lạng Sơn trong tình hình hiện nay, xây dựng củng cố LĐLĐ tỉnh Lạng Sơn ngang tầm với nhiệm vụ, tác động tích cực, hiệu quả của hoạt động Công đoàn phù hợp với mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh Lạng Sơn, góp phần thực hiện mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
3.3.2. Khuyến nghị.
Qua khảo sát thực tế về “ Thực trạng tổ chức hoạt động của LĐLĐ tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay” thu được một số kiến nghị của CNVC - LĐ như sau:
Bảng 3.2. Những kiến nghị của CNVC – LĐ về tổ chức và hoạt động Công đoàn trong giai đoạn hiện nay.
Những kiến nghị về tổ chức hoạt động của Công đoàn Lạng Sơn
Số ý kiến kiến nghị
Tỷ lệ %
Cần có nhiều hình thức hoạt động thiết thực hơn
42
84%
Mở các lớp tập huấn đào tạo ngắn và dài hạn cho cán bộ Công đoàn về chuyên môn, nghiệp vụ
28
56%
Quan tâm hơn đến lợi ích của CNVC – LĐ
30
60%
Cải thiện điều kiện sống và làm việc cho CNVC – LĐ
48
96%
ý kiến riêng
5
10%
(Nguồn: Điều tra xã hội học trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn)
Dựa trên kết quả nghiên cứu khảo sát thực tiễn như trên, tôi xin đưa ra một số ý khuyến nghị về tổ chức và hoạt động của LĐLĐ Lạng Sơn như sau :
+ Đề nghị Tổng LĐLĐ Việt Nam có kế hoạch hướng dẫn hoạt động cụ thể đối với các Công đoàn ngành địa phương, LĐLĐ huyện, nhất là vấn đề tổ chức và hoạt động tài chính Công đoàn.
+ Đề nghị Tổng LĐLĐ Việt Nam thành lập bảng lương riêng cho hệ thống Công đoàn, sắp xếp các mức lương cho từng chức danh cụ thể. Đồng thời quy định cụ thể chế độ phụ cấp đối với cán bộ Công đoàn chuyên trách, nhất là đối với đồng chí chủ tịch Công đoàn cơ sở.
+ Chính quyền địa phương cần tiếp tục dành các nguồn vốn ưu đãi, các nguồn vốn tài trợ nhất là vốn quốc gia giải quyết việc làm cho tổ chức Công đoàn và các đoàn thể xã hội khác chịu trách nhiệm xây dựng các dự án để công nhân lao động tham gia thiết thực hơn vào chương trình xoá đói – giảm nghèo.
+ Đề nghị tỉnh uỷ Lạng Sơn có nghị quyết về xây dựng giai cấp công nhân Lạng Sơn, giao cho LĐLĐ tỉnh cùng với một số cơ quan nhà nước tiến hành điều tra, khảo sát làm cơ sở để thực hiện nghị quyết này.
+ Đề nghị tỉnh uỷ chỉ đạo các cấp uỷ đảng trong tỉnh quan tâm đến công tác phát triển Công đoàn ngoài quốc doanh.
+ LĐLĐ Lạng Sơn cần tiếp tục củng cố kiện toàn về mặt tổ chức cũng như đổi mới hình thức, nội dung hoạt động Công đoàn cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Lạng Sơn trong nền kinh tế thị trường, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc CNH - HĐH.
+ LĐLĐ tỉnh Lạng Sơn cần có những chương trình, biện pháp hoạt động cụ thể đối với LĐLĐ huyện và Công đoàn cơ sở trực thuộc để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Công đoàn các cấp, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. Cần quan tâm hơn nữa đến điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt của người lao động, đặc biệt là vấn đề nhà ở.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT247.doc