Lời nói đầu
Lao động của con người theo Mác là một trong ba yếu tố quan trọng, quyết định sự tồn tại của quá trình sản xuất, nó giữ vai trò chủ chốt trong việc tái tạo ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội. Góp phần cho sự phồn vinh của mỗi quốc gia nếu lao động có năng suất có chất lượng và đạt hiệu qủa cao.
Người lao động chỉ phát huy hết được khả năng của mình khi sức lao động mà họ bỏ ra được đền bù xứng đáng. Đó là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động, để họ có thể
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1163 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tổ chức hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Chỉnh hình và phục hồi chức năng Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tái sản xuất lao động, đồng thời có sự tích luỹ, được gọi là tiền lương.
Tiền lương là một bộ phận của sản phẩm xã hội, là nguồn khởi đầu của quá trình tái sản xuất tạo ra sản phẩm hàng hoá. Vì vậy việc hạch toán, phân bổ chính xác tiền lương vào giá thành sản phẩm, tính đủ và thanh toán tiền lương cho người lao động, góp phần hoàn thành kế hoạch sản xuất, hạ giá thành sản phẩm tăng năng suất lao động tăng tích luỹ và cải thiện đời sống của người lao động
Đi liền với tiền lương là các khoản trích theo lương gồm:BHXH, BHYT,KPCĐ. Đây là các quỹ xã hội thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với người lao động.
Chính sách tiền lương được vận dụng tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức quản lí, tổ chức kinh doanh và tính chất của công việc. Vì vậy việc xây dựng một cơ chế trả lương phù hợp, hạch toán đầy đủ và thanh toán kịp thời có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế, chính trị. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, cùng sự giúp đỡ tận tình của các cô chú, anh chị làm việc tại công ty và đặc biệt là thầy Toản em chọn đề tài: tổ chức hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty Chỉnh hình và phục hồi chức năng Hà Nội.
Mục lục
Chương I: Những vấn đề lí luận chung về tổ chức hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong các Doanh nghiệp nhà nước.
ChươngII: Tình hình thực hiện về tổ chức kế toán tiền lương và các khoản trích trích theo ở công ty Chỉnh hình và phục hồi chức năng Hà Nội.
Chương III: Một số ý kiến nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở công ty Chỉnh hình và phục hồi chức năng Hà Nội.
Chương I
Những vấn đề lý luận chung về tổ chức hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong các doanh nghiệp Nhà nước.
I. Khái niệm cơ bản về tiền lương và các khoản trích theo lương.
1. Khái niệm cơ bản về tiền lương.
Tiền lương được hiểu một cách thống nhất như sau: “về thực chất tiền lương dưới CNXH là một phần thu nhập quốc dân, biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được nhà nước phân phối có kế hoạch cho công nhân viên phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi người đã cống hiến”. Tiền lương phản ánh việc trả lương cho công nhân viên chức dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động. Bây giờ, tiền lương chỉ là một khái niệm thuộc phạm trù phân phối tuân thủ quy luật phân phối.ư
ở nước ta, quan niệm như vậy về tiền lương đã tồn tại trong một thời gian dài. Khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu tan rã, để tồn tại đất nước ta phải tiến hành cải cách toàn diện trên mọi lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh vực tư tưởng. Các quan niệm sai lệch, lìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đều dần dần bị xoá bỏ và thay vào đó là các quan niệm mới để phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và quốc tế. Quan niệm về tiền lương cũng được thay thế một cách căn bản. “Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động là giá cả của yếu tố sức lao động mà người sử dụng sức lao động ( Nhà nước hay chủ doanh nghiệp), phải trả cho người cung ứng sức lao động tuân theo các nguyên tắc cung cầu, giá cả thị trường và pháp luật hiện hành của nhà nước”.
Nói tóm lại, tiền lương là một phạm trù quan trọng. Nguồn gốc của tiền lương là do lao động. Tiền lương (hay tiền công) là số tiền thù lao lao động phải trả cho người lao động theo số lượng và chất lượng lao động mà họ đóng góp để tái sản xuất lao động bù đắp hao phí lao động của họ trong quá trình sản xuất kinh doanh nó được thể hiện bằng thước đo giá trị gọi là tiền lương.
Tiền lương có 5 chức năng cơ bản sau:
- Chức năng tái sản xuất sức lao động: Với chức năng này tiền lương đảm bảo duy trì năng lực làm việc của người lao động một cách lâu dài và hiệu quả. Ngoài ra tiền lương còn giúp người lao động nâng cao tay nghề coi như tái sản xuất sức lao động theo chiều sâu.
- Chức năng đòn bẩy kinh tế: Tiền lương là động lực thúc đẩy sự hăng say lao động của người lao động. Đây là mục tiêu để người công nhân nâng cao chất lượng tay nghề, năng suất lao động và hoạt động sản xuất cũng phát triển theo. Để chức năng này thực hiện tốt đòi hỏi phải quán triệt nguyên tắc phân phối lao động. Tiền lương được trả phải căn cứ vào kết quả lao động.
- Chức năng làm công cụ quản lý của Nhà nước: Các chủ doanh nghiệp luôn muốn giảm tối đa chi phí sản xuất trong đó có chi phí tiền lương. Do đó nhà nước phải dựa vào chức năng này để xây dựng một cơ chế tiền lương phù hợp, ban hành nó như một văn bản pháp luật bắt chủ doanh nghiệp phải tuân theo.
- Chức năng điều tiết lao động: Thông qua việc quy định bậc lương, mức lương nhà nước điều tiết phân bố lao động giữa các ngành, các vùng tạo ra cơ cấu lao động hợp lý phù hợp với kế hoạch phát triển của đất nước. Những ngành cần ưu tiên phát triển, những ngành có điều kiện làm việc khó khăn.... mức lương sẽ cao, còn những vùng, những ngành tự thân nó đã có sức hút đối với lao động nhà nước để cho thị trường tự điều tiết.
- Chức năng thước đo hao phí lao động xã hội: Theo chức năng đó thì vì tiền lương là giá cả sức lao động nên thông qua tiền lương nhà nước có thể xác định được mức hao phí lao động của cả XH.
Trong thực tế tồn tại hai khái niệm tiền lương. Tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa. Nhưng tất cả các chức năng trên của tiền lương đều gắn với khái niệm tiền lương thực tế chứ không phải tiền lương danh nghĩa. Bởi vì tiền lương danh nghĩa chỉ là khái niệm chỉ số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người cung ứng sức lao động theo hợp đồng thoả thuận giữa hai bên. Tiền lương danh nghĩa không thể cho ta biết mức trả công cho người lao động là cao hay thấp. Tiền lương thực tế mới là cái mà người lao động quan tâm vì tiền lương thực tế quyết định khả năng tái sản xuất lao động và quyết định lợi ích cụ thể của người công nhân. Giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa có mối quan hệ lẫn nhau.
Tiền lương thực tế =
Như vậy tiền lương thực tế tỷ lệ thuận với tiền lương danh nghĩa và tỷ lệ nghịch với chỉ số giá cả. Để cho tiền lương thực hiện các chức năng của mình nhà nước phải quan tâm đến tiền lương thực tế bằng cách thường xuyên điều chỉnh mức lương danh nghĩa cho phù hợp với chỉ số giá cả thị trường.
2. Các khoản trích theo lương.
Trong doanh nghiệp ngoài tiền lương, tiền công, công nhân viên chức còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc phúc lợi xã hội trong đó có trợ cấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. Theo chế độ tài chính hiện hành, các khoản này doanh nghiệp phải tính vào chi phí sản xuất kinh doanh.
Bảo hiểm xã hội được chi tiêu cho các trường hợp: Người lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất. Bảo hiểm y tế được sử dụng để thanh toán các khoản tiền khám, chữa bệnh, viện phí thuốc thang... cho người lao động trong thời gian ốm đau sinh đẻ.
Kinh phí công đoàn phục vụ chi tiêu cho hoạt động tổ chức công đoàn nhằm chăm lo, bảo vệ quyền lợi người lao động.
Toàn bộ các khoản này đều được hình thành từ hai nguồn chính. Một là người sử dụng lao động phải đóng và khoản này được coi là một bộ phận chi phí. Hai là CBCNV phải đóng lấy trực tiếp từ tiền lương của mình. Việc đóng góp bảo hiểm của chủ doanh nghiệp có thể coi như là việc phân phối phần giá trị mới do lao động tạo ra. Còn việc đóng góp của người lao động chính là phân phối lại tổng thu nhập. Ta có thể nói như vậy được là do bảo hiểm thực chất là lấy sự đóng góp của nhiều người để bù đắp cho một số người khi gặp rủi ro như ốm đau, tai nạn...
Bảo hiểm XH, y tế, kinh phí công đoàn có ý nghĩa quan trọng trong xã hội. Các khoản này đã đảm bảo quyền lợi cho người lao động thực hiện công bằng XH thu hẹp khoảng cách giàu nghèo khắc phục những mặt yếu của cơ chế thị trường.
3. Sự cần thiết phải hạch toán và nhiệm vụ hạch toán lương các khoản trích theo lương.
3.1. Sự cần thiết phải hạch toán lương:
Trong doanh nghiệp tiền lương có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đòi hỏi phải thường xuyên theo dõi ghi chép, kiểm tra, cần thiết phải hạch toán cẩn thận. Nguyên do vì:
- Tiền lương là một bộ phận chi phí sản xuất. Đối với doanh nghiệp mục đích hàng đầu là lợi nhuận thì chắc chắn phải cố gắng theo dõi kiểm tra, kiểm soát chi phí, những thông tin bị sai lệch về chi phí dẫn đến một kết quả kinh doanh bị bóp méo và chắc chắn các nhà quản lý khó mà tạo ra được các quyết định đúng đắn. Hơn thế nữa nếu không có thông tin về chi phí không hiểu biết rõ về chi phí, thì làm sao doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu tối thiểu hoá chi phí nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
- Ngoài ra tiền lương còn là phương tiện tạo ra giá trị mới bởi vì nó chính là động lực, là mục đích của người lao động. Đối với người lao động tiền lương được nhận thoả đáng sẽ trở thành động lực kích thích khả năng sáng tạo để làm tăng năng suất lao động. Tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Mặt khác mức lương thoả đáng sẽ làm cho người lao động tự giác, có trách nhiệm hơn với hoạt động của doanh nghiệp. Ngược lại với mức lương không hợp lý sẽ làm cho người lao động chán nản, hiệu quả sản xuất giảm. Với ý nghĩa này đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng một mức lương, hình thức trả lương hợp lý đảm bảo lợi ích cho người lao động kích thích người lao động hăng say làmviệc vừa đảm bảo sử dụng hợp lý lao động vừa tối thiểu chi phí tiền lương.
3.2. Nhiệm vụ hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
Hạch toán lao động kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương không chỉ liên quan đến quyền lợi của người lao động mà còn đến chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp liên quan đến tình hình chấp hành các chính sách về lao động tiền lương của nhà nước.
Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở doanh nghiệp phải thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tổ chức hạch toán đúng thời gian, số lượng, chất lượng và kết quả lao động của người lao động, tính đúng và thanh toán kịp thời tiền lương và các khoản liên quan khác cho người lao động.
Tính toán, phân bố hợp lý chính sách chi phí tiền lương, tiền công và các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn cho các đối tượng sử dụng liên quan.
Định kỳ tiến hành phân tích tình hình sử dụng lao động, tình hình quản lý và chi tiêu quỹ lương. Cung cấp các thông tin kinh tế cần thiết cho các bộ phận có liên quan.
II. Quỹ lương và các nguyên tắc quản lý quỹ lương.
1. Phân loại lao động trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong các loại doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau thì việc phân loại lao động cũng khác nhau, tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý lao động cụ thể của từng doanh nghiệp. Nhìn chung, các doanh nghiệp có thể phân loại lao động như sau:
Căn cứ vào tính chất công việc mà người lao động đảm nhận, có thể chia lao của doanh nghiệp thành hai loại.
Loại lao động trực tiếp và loại lao động gián tiếp.
- Lao động trực tiếp gồm những người trực tiếp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm hay trực tiếp thực hiện các công việc dịch vụ nhất định.
Theo nội dung công việc mà người lao động thực hiện loại lao động trực tiếp được chia thành: Lao động sản xuất kinh doanh chính lao động sản xuất kinh doanh phụ trợ, lao động của các hoạt động khác.
Theo năng lực và trình độ chuyên môn, lao động trực tiếp được phân thành các loại:
+ Lao động tay nghề cao: Gồm những người đã qua đào tạo chuyên môn, có nhiều kinh nghiệm, có khả năng đảm nhận các công việc phức tạp đòi hỏi trình độ cao.
+ Lao động có tay nghề trung bình: Gồm những người đã qua đào tạo chuyên môn nhưng thời gian công tác thực tế chưa nhiều hoặc những người chưa được đào tạo qua trường lớp nhưng có thời gian làm việc thực tế tương đối lâu.
- Lao động gián tiếp: Gồm những người chỉ đạo, phục vụ và quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp.
Theo nội dung công việc và nghề nghiệp chuyên môn loại lao động này được chia ra thành: Nhân viên kỹ thuật, nhân viên quản lý kinh tế, nhân viên quản lý hành chính.
Theo năng lực và trình độ chuyên môn lao động gián tiếp được phân thành các loại:
+ Chuyên môn chính: Là những người có trình độ từ đại học trở lên có trình độ chuyên môn cao, có khả năng giải quyết công việc mang tính tổng hợp, phức tạp.
+ Chuyên viên: Cũng là những người lao động đã tốt nghiệp đại học, trên đại học, có thời gian công tác tương đối lâu, trình độ chuyên môn tương đối cao.
+ Cán sự: gồm những người tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp.
+ Nhân viên: là những người lao động gián tiếp với trình độ chuyên môn thấp, có thể đã qua đào tạo và các trường lớp chuyên môn, nghiệp vụ hoặc chưa qua đào tạo.
- Phân loại lao động trong doanh nghiệp có ý nghĩa lớn trong việc thực hiện quy hoạch lao động, lập kế hoạch lao động. Mặt khác thông qua phân loại lao động trong toàn doanh nghiệp và từng bộ phận giúp cho việc lập dự toán chi phí nhân công, chi phí sản xuất kinh doanh. Lập kế hoạch tiền lương và thuận lợi cho việc kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch. Bộ phận lao động tiền lương lập “sổ danh sách lao động của doanh nghiệp” và “sổ sách lao động của từng bộ phận trong doanh nghiệp”. Số liệu về lao động được sử dụng lập báo cáo lao động hàng tháng, quý, năm và phân tích số lượng, cơ cấu lao động phục vụ cho quản lý lao động trong doanh nghiệp.
2. Quỹ lương và các nguyên tắc quản lý quỹ lương ở doanh nghiệp.
Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền dùng để chi trả lương cho công nhân viên.
Quỹ lương bao gồm:
- Tiền lương thời gian, tiền lương tính theo sản phẩm và tiền lương khoán.
- Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng sản xuất do nguyên nhân khách quan, trong thời gian được điều động công tác làm nghĩa vụ theo chế độ quy định, thời gian nghỉ phép, thời gian đi học.
- Tiền lương làm thêm giờ.
- Các khoản tiền lương thưởng có tính chất thường xuyên.
- Quỹ tiền lương kế hoạch trong doanh nghiệp còn được tính cả các khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội trong thời gian lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động.
Để phục vụ cho công tác hạch toán tiền lương có thể được chia thành hai loại: Tiền lương lao động trực tiếp và tiền lương lao động gián tiếp. Trong đó chi tiết theo tiền lương chính là tiền lương chính và tiền lương phụ.
Tiền lương chính: Là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian người lao động thực hiện nhiệm vụ chính của họ gồm tiền lương trả theo cấp bậc và các khoản phụ cấp kèm theo.
Tiền lương phụ: Là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian họ thực hiện nhiệm vụ khác ngoài nhiệm vụ chính và thời gian lao động nghỉ phép, nghỉ lễ, nghỉ tết, nghỉ vì ngừng sản xuất... được hưởng theo chế độ.
Tiền lương chính của công nhân trực tiếp sản xuất gắn liền với quá trình sản xuất ra sản phẩm. Còn tiền lương phụ không gắn với từng loại sản phẩm.
Một vấn đề hết sức quan trọng trong vấn đề tiền lương của doanh nghiệp. Là quản lý quỹ lương sao cho phù hợp với nguyên tắc “Đảm bảo quyền tự chủ của doanh nghiệp. Kết hợp với việc quản lý thống nhất nhà nước về chế độ tiền lương trên cơ sở gắn thu nhập của người lao động với kết quả hoạt động kinh doanh đồng thời kết hợp hài hoà các loại lợi ích cá nhân tập thể, nhà nước”. Quản lý quỹ lương thực chất là xác định mối quan hệ giữa người lao động, người quản lý lao động với nhà nước trong việc phân chia lợi ích sau một kỳ kinh doanh. Quỹ lương của doanh nghiệp được xác định thông qua đơn giá tiền lương do cơ quan chủ quản giao và khối lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp thực hiện được trong từng thời kỳ.
Cụ thể các quy định của nhà nước như sau:
Nhà nước quy định đơn giá lương của các sản phẩm, trọng yếu của sản phẩm đặc thù sản phẩm do nhà nước định giá.
Tuỳ theo yêu cầu quản lý các bộ ngành, địa phương quyết định đơn giá tiền lương cho một số sản phẩm trọng yếu sản phẩm đặc thù của từng bộ ngành địa phương quản lý.
- Các sản phẩm còn lại dựa vào hướng dẫn chung của doanh nghiệp sẽ xác định đơn giá nhưng phải đăng ký với cơ quan nhà nước (Bộ lao động thương binh và xã hội, cơ quan tài chính thuế, cơ quan chủ quản nếu như doanh nghiệp thuộc trung ương quản lý). Đơn giá tiền lương thường được xác định theo một phương pháp sau: Đơn giá tiền lương được xác định trên đơn vị sản phẩm (hoặc sản xuất quy đổi), đơn giá tiền lương tính trên tổng doanh thu trừ tổng chi phí, đơn giá tiền lương tính trên lợi nhuận và đơn giá tiền lương tính trên doanh thu.
Phương pháp tính đơn giá tiền lương theo đơn vị sản phẩm được áp dụng ở các đơn vị sản xuất ít mặt hàng, các mặt hàng đều là truyền thống và có hệ thống định mức lao động chi tiết, đầy đủ. Đơn giá tiền lương sẽ được xác định theo công thức:
ĐG = T x LCB
Trong đó: ĐG: Đơn giá tiền lương tính theo đơn vị sản phẩm.
T: Hao phí thời gian lao động để làm ra sản phẩm gồm có cả hao phí thời gian của lao động công nghệ, lao động phụ trợ, lao động quản lý.
LCB: Lương cấp bậc (kể cả phụ cấp của lao động công nghệ, phụ trợ quản lý).
Quỹ lương thực hiện = ĐG x +
Quỹ lương bổ sung là quỹ lương trả cho thời gian, không tham gia sản xuất theo chế độ được hưởng lương và tiền lương chức vụ cho giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều sản phẩm, mặt hàng nhưng chưa có định mức lao động cho từng loại sản phẩm thì đơn giá tiền lương được xác định trên tổng doanh thu trừ tổng chi phí.
ĐG =
Trong đó: Vkh: Quỹ tiền lương kế hoạch (không bao gồm lương của giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng).
Vkh: được xác định dựa trên tiền lương bình quân theo chế độ và định biên lao động hợp lý theo công thức.
Vkh = tiền lương bình quân theo chế độ x lao động định biên chi phí.
Kế hoạch gồm toàn bộ các khoản chi phí hợp lệ, hợp lý trong giá thành sản phẩm chi phí khác (chưa có lương) và các khoản phải nộp ngân sách theo quy định hiện hành.
Quỹ lương thực hiện được xác định:
Quỹ lương thực hiện = ĐG x - (không có V).
Đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả ổn định thì đơn giá tiền lương được xác định trên lợi nhuận của doanh nghiệp.
ĐG =
Trong đó: Pkh : lợi nhuận kế hoạch của doanh nghiệp.
Quỹ lương thực hiện của doanh nghiệp sẽ bằng:
Quỹ lương thực hiện = Đơn giá x PTH.
PTH: Lợi nhuận thực hiện.
Các doanh nghiệp mà sản xuất kinh doanh không ổn định và không thể tính toán tiền lương theo các phương pháp đã nêu ở trên thì sử dụng phương pháp xác định tiền lương trên doanh thu:
ĐG =
Và quỹ lương thực hiện được xác định như sau.
Quỹ lương thực hiện = ĐG x Doanh thu thực hiện
Sau khi xác định quỹ lương theo chế độ doanh nghiệp xây dựng cơ chế trả lương cho phù hợp với nguyên tắc trả lương theo lao động. Có thể trả lương theo bảng lương do nhà nước quy định hoặc kết hợp nhiều hình thức vừa phân phối theo hệ số lương vừa phân phối theo hệ số kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Quỹ bảo hiểm xã hội – bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn.
- Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số quỹ tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp (chức vụ, khu vực...) của công nhân viên thực tế phát sinh trong tháng. Theo chế độ hiện hành tỷ lệ trích bảo hiểm xã hội là 20% trong đó 15% do đơn vị hoặc chủ sử dụng lao động nộp được tính vào chi phí kinh doanh. 5% còn lại do người lao động đóng góp và được tính trừ vào thu nhập người lao động quỹ bảo hiểm xã hội được chi tiêu cho các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. Quỹ này do cơ quan bảo hiểm xã hội quản lý.
Quỹ bảo hiểm y tế: được sử dụng thanh toán các khoản tiền khám chữa bệnh viện phí... cho người lao động. Trong thời gian ốm đau, sinh đẻ... quỹ này được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp của công nhân viên. Tỷ lệ trích bảo hiểm y tế hiện hành là 3% trong đó 2% tính vào chi phí kinh doanh và 1% trừ vào thu nhập của người lao động. Quỹ này do cơ quan bảo hiểm y tế quản lý.
- Kinh phí công đoàn hình thành do việc trích lập theo một tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương thực trả cho cán bộ, công nhân viên và được tính vào chi phí kinh doanh. Tỷ lệ trích kinh phí công đoàn theo chế độ hiện hành là 2%.
- Doanh nghiệp nộp một phần kinh phí công đoàn lên cơ quan quản lý công đoàn cấp trên, doanh nghiệp giữ lại một phần để chi tiền hoạt động công đoàn tại đơn vị mình.
Tiền lương phải trả cho người lao động cùng các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn hợp thành chi phí nhân công trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh.
Ngoài chế độ tiền lương và các khoản trích theo lương, doanh nghiệp còn xây dựng chế độ tiền thưởng cho tập thể, cá nhân có thành tích trong hoạt động sản xuất kinh doanh tiền thưởng bao gồm thi đua ( lấy từ quỹ khen thưởng, thưởng trong sản xuất kinh doanh, thưởng nâng cao chất lượng sản phẩm, thưởng tiết kiệm vật tư, thưởng phát minh sáng kiến)
III. Các hình thức trả lương trong doanh nghiệp.
1. Chế độ tiền lương:
1.1. Chế độ tiền lương cấp bậc:
Là chế độ tiền lương áp dụng cho công nhân, tiền lương cấp bậc được xây dựng dựa trên tổng số lượng và chất lượng lao động có thể nói rằng chế độ tiền lương cấp bậc nhằm mục đích xác định chất lượng lao động trong các nghề khác nhau và trong từng nghề. Đồng thời nó cũng có thể so sánh điều kiện lao động nặng nhọc có hại cho sức khoẻ với điều kiện lao động bình thường chế độ tiền lương cấp bậc có tác dụng nhất tích cực nó điều chỉnh tiền lương giữa các ngành nghề một cách hợp lý nó cũng giảm bớt được tính chất bình quân trong việc trả lương thực hiện triệt để quan điểm phân phối theo lao động chế độ tiền lương cấp bậc do nhà nước ban hành doanh nghiệp dựa vào đó để vận dụng vào thực tế tuỳ theo đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị mình chế độ tiền lương cấp bậc bao gồm 3 yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, thang lương, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật, mức lương.
- Thang lương là bảng xác định quan hệ tỷ lệ về tiền lương giữa các công nhân cùng nghề hoặc nhóm nghề giống nhau theo trình độ cấp bậc của họ. Mỗi thang lương gồm một số bậc lương và các hệ số phù hợp với lương đó. Hệ số này nhà nước xây dựng và ban hành.
VD: Hệ số lương công nhân ngành cơ khí bậc 3/7 là 1,92, bậc 4/7 là 2,33.... Mỗi ngành nghề có một bảng lương riêng. Mức lương là số lượng tiền tệ để trả công lao động trong một đơn vị thời gian (ngày, giờ, tháng) phù hợp với các bậc trong thang lương. Chỉ lương bậc 1 được quy định rõ còn các lương bậc cao thì được tính bằng cách lấy mức lương bậc nhân hệ số lương bậc phải tìm. Mức lương bậc 1 theo quy định phải lớn hơn hoặc bằng mức lương tối thiểu. Hiện nay mức lương tối thiểu là 180.000đ.
Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật là văn bản quy định về mức độ phức tạp của công việc và yêu cầu lành nghề của công nhân ở bậc nào đó thì hiểu biết những gì về mặt kỹ thuật và phải làm được những gì về mặt thực hành cấp bậc kỹ thuật phản ánh yêu cầu về trình độ lành nghề của công nhân. Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật và căn cứ để xác định mức lương theo độ phức tạp của công việc, là cơ sở để xác định trình độ tay nghề của người công nhân.
Chế độ tiền lương theo cấp bậc chỉ áp dụng đối với những người lao động tạo ra sản phẩm trực tiếp. Còn đối với những người gián tiếp tạo ra sản phẩm như cán bộ quản lý nhân viên văn phòng... Thì áp dụng chế độ lương theo chức vụ.
1.2. Chế độ lương theo chức vụ.
Chế độ này chỉ áp được thông qua bảng lương do nhà nước ban hành. Trong bảng lương này bao gồm nhiều nhóm chức vụ khác nhau và các quy định trả lương cho từng nhóm.
Mức lương theo chế độ lương chức vụ được xác định bằng cách lấy mức lương bậc 1 nhân với hệ số phức tạp của lao động và hệ số điều kiện lao động cấp bậc đó so với bậc 1. Trong đó mức lương bậc 1 bằng mức lương tối thiểu nhân hệ số mức lương bậc 1 so với mức lương tối thiểu. Hệ số này là tích của hệ số phức tạp với hệ số điều kiện.
Theo nguyên tắc phân phối theo lao động việc tính trả lương trong doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh. Bản thân nhà nước chỉ khống chế mức lương tối thiểu chứ không khống chế lương tối đa mà điều tiết bằng thu nhập.
2. Các hình thức trả lương.
2.1. Trả lương theo thời gian:
Hình thức trả lương theo thời gian: Là hình thức tiền lương cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế, hệ số lương hoặc mức lương ghi trong hợp đồng lao động của người lao động. Theo hình thức này tiền lương thời gian phải trả được tính bằng thời gian làm việc nhân mức lương thời gian.
Tiền lương thời gian với đơn giá tiền lương cố định được gọi là tiền lương thời gian giản đơn nó có thể kết hợp với chế độ tiền lương thưởng để khuyến khích người lao động hăng hái làm việc tạo nên tiền lương thời gian có thưởng.
Các doanh nghiệp chỉ áp dụng tiền lương thời gian cho những công việc chưa xây dựng được mức lao động chưa có đơn giá tiền lương sản phẩm thường áp dụng cho lao động làm công tác văn phòng nghiệp vụ. Hình thức trả lương theo thời gian có mặt hạn chế đó là tiền lương còn mang tính chất bình quân nhiều khi không phù hợp với kết quả thực tế của người lao động. Vì vậy chỉ những trường hợp chưa đủ điều kiện thực hiện trả lương theo sản phẩm mới áp dụng trả lương theo thời gian.
2.2. Hình thức tiền lương theo sản phẩm:
Là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào số lượng chất lượng và đơn giá tiền lương giao cho một đơn vị sản phẩm công việc đó. Tiền lương sản phẩm phải trả tính bằng số lương hoặc khối lượng công việc. Sản phẩm hoàn thành đủ tiêu chuẩn chất lượng nhân với đơn giá tiền lương sản phẩm việc xác định tiền lương sản phẩm phải dựa trên cơ sở các tài liệu về hạch toán kết quả lao động.
Để khuyến khích người lao động nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm có thể áp dụng các đơn giá lương sản phẩm khác nhau.
+ Tiền lương sản phẩm tính theo đơn giá tiền lương cố định được gọi là tiền lương sản phẩm giản đơn.
+ Tiền lương sản phẩm đơn giản kết hợp với tiền thưởng về năng suất, chất lượng sản phẩm gọi là tiền lương theo sản phẩm có thưởng.
+ Tiền lương sản phẩm tính theo đơn giá lương sản phẩm tăng dần áp dụng theo mức độ hoàn thành vượt mức khối lượng sản phẩm được gọi là tiền lương sản phẩm lũy tiến.
+ Tiền lương sản phẩm khoán. Theo hình thức này có thể khoán việc khoán khối lượng, khoán sản phẩm cuối cùng, khoán quỹ lương.
Hình thức tiền lương sản phẩm có nhiều ưu điểm.
- Đảm bảo nguyên tắc phân phối theo số lượng và chất lượng lao động khuyến khích người lao động quan tâm đến kết quả và chất lượng sản phẩm.
Mỗi hình thức trả lương đều có ưu điểm và nhược điểm nên tùy theo đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp mà áp dụng hình thức trả lương theo thời gian hay theo sản phẩm cho phù hợp.
3. Các chế độ trả lương phụ, thưởng, trợ cấp, áp dụng tại doanh nghiệp.
3.1. Chế độ trả lương khi ngừng việc và khi làm ra sản phẩm hỏng xấu.
- Trong trường hợp phải ngừng việc người lao động được trả lương như sau:
+ Nếu do lỗi của người sử dụng lao động thì người lao động được trả đủ lương.
+ Nếu do lỗi của người lao động thì người đó không được trả lương những người lao động trong cùng đơn vị được trả lương theo mức lương do hai bên thỏa thuận nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu.
Nếu vì sự cố điện nước mà không do lỗi của người sử dụng lao động hoặc những nguyên nhân bất khả kháng thì tiền lương do hai bên thoả thuận nhưng sẽ không được thấp hơn mức lương tối thiểu.
- Trong trường hợp nếu công nhân làm ra hàng hỏng xấu thì tuỳ từng trường hợp họ sẽ được nhận.
Nguyên lương nếu mức hỏng này trong phạm vi định mức cho phép hoặc nguyên nhân hỏng là khách quan.
Nếu mức hỏng ngoài định mức cho phép do lỗi của công nhân thì họ được hưởng 70% lương.
Nếu là chế thử thì họ vẫn được hưởng nguyên lương.
Đối với sản phẩm xấu mà người công nhân sửa lại được thì anh ta sẽ hưởng nguyên lương theo sản phẩm sản xuất nhưng thời gian sửa chữa sẽ không tính lương.
3.2. Một số chế độ phụ cấp và cách tính lương phép.
Người lao động có 12 tháng làm việc tại doanh nghiệp thì được nghỉ hàng năm, hưởng nguyên lương theo quy định sau.
- Nghỉ 12 ngày làm việc đối với những người làm việc trong điều kiện bình thường.
- Nghỉ 14 ngày đối với những người làm công việc nặng nhọc, độc hại hoặc làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống khắc nghiệt và đối với lao động dưới 18 tuổi.
- Nghỉ 16 ngày làm việc đối với những người làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại nguy hiểm hoặc đối với những người làm công việc nặng nhọc độc hại nguy hiểm ở những nơi có điều kiện sinh sống khắc nghiệt.
Tiền lương trả cho người lao động nghỉ hàng năm nghỉ lễ, nghỉ tết nghỉ việc riêng có lương được tính theo lương thời gian. Quỹ tiền lương thanh toán cho người lao động trong những ngày nghỉ hàng năm nghỉ lễ, nghỉ tết, việc riêng có lương thường được các cơ quan cấp trên giao ngoài đơn giá tiền lương được gọi là quỹ tiền lương bổ sung và được hạch toán vào chi phí kinh doanh trên cơ sở số tiền thực chi cho người lao động.
Các khoản phụ cấp hiện nay áp dụng gồm có phụ cấp trách nhiệm phụ cấp khu vực, phụ cấp độc hại. Các chế độ phụ cấp này được quy định cụ thể cho từng đối tượng áp dụng nhìn chung chỉ có một số loại phụ cấp được áp dụng rộng rãi đó là:
+ Phụ cấp trách nhiệm, áp dụng đối với một số nghề hoặc công việc đòi hỏi trách nhiệm cao hoặc phải kiêm nhiệm chức vụ quản lý không thuộc chức vụ lãnh đạo, phụ cấp gồm 3 mức: 0,1; 0,2; 0,3 so với mức lương tối thiểu.
+ Phụ cấp độc hại nguy hiểm áp dụng đối với nguồn nghề hoặc công việc có điều kiện lao động độc hại nguy hiểm nhưng chưa xác định trong mức lương phụ cấp gồm 4 mức: 0,1; 0,2; 0,3; 0,4 so với mức lương tối thiểu.
+ Phụ cấp khu vực áp dụng đối với những nơi xa xôi hẻo lánh có nhiều khó khăn và khí hậu xấu.
3.3. Hình thức trả lương thưởng.
Theo quy định của nhà nước thì hiện nay có hai hình thức thưởng. Đó là thưởng thường xuyên và thưởng định kỳ.
- Thưởng thường xuyên là hình thức thưởng gắn liền với việc nâng cao năng suất lao động. Thực chất hình thức này nhằm quán triệt hơn nữa hình thức phân phối theo lao động. Ngoài việc căn cứ vào số lượng, chất lượng lao động số tiền người lao động nhận được phải căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn quan trọng hơn hơn cả mức sản lượng sản xuất ra. Chính vì gắn với sản xuất nên thưởng thường xuyên là một bộ phận của quỹ lương.
Thưởng thường xuyên gồm:
+ Thưởng tiết kiệm vật tư: Hình thức thưởng này được áp dụng tại các DNSX nhằm._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3231.doc