Phần A
những vấn đề chung
Lý do chọn chuyên đề
Thế kỷ XXI là thế kỷ còn nhiều sự kiện đặc biệt khi mà nhân loại đang trên đường phát triển đến đỉnh cao của nền văn minh và khoa học. Trong thực tế hiện nay có rất nhiều nước đã thành công trong công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, đời sống vật chất và tinh thần ngày một nâng cao. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều nước chậm phát triển, nhiều bộ phận dân cư vẫn trong tình trạng đói nghèo và Việt Nam ta cũng là m
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1509 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tổ chức Đoàn thanh niên với chương trình xoá đói giảm nghèo (34tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột trong những quốc gia đó.
Xoá đói giảm nghèo là một vấn đề mà xã hội rất quan tâm. Một đất nước văn minh giàu đẹp trước hết người dân phảI hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Ngay những ngày đầu giành độc lập Bác Hồ của chúng ta đã coi cái đói nguy hiểm như giặc ngoại xâm và phát động phong trào diệt giặc đói trong toàn dân và đây là việc làm rất cấp bách và cần thiết để phát triển kinh tế nước ta đi lên CNXH không qua giai đoạn phát triển CNTB, lại xuất phát đIểm từ một nước có nền kinh tế lạc hậu kém phát triển đồng thời chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh và kéo dài quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp làm nền kinh tế bị kìm hãm không phát triển được. Đảng cộng sản Việt nam luôn có nhận thức đúng đắn và luôn đề ra những giải pháp nhằm hạn chế tối đa sự đói nghèo của nhân dân. Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra chương trình xoá đói giảm nghèo là mối quan tâm của xã hội với mục tiêu là nhằm giảm tỷ lệ nghèo đói của cả nước. Tập trung xoá hết nạn đói thường xuyên. Nghị quyết 09 của Bộ chính trị còn coi đây là giải pháp quyết định đưa đất nước ta sớm ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế, tiến kịp các nước trong khu vực và trên thế giới, cải thiện đời sống nhân dân, đưa đất nước ta bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá vững chắc. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX họp tháng 4 năm 2001 khẳng định. Đảng ta vẫn tiếp tục thực hiện mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo, quan tâm phát triển kết cấu cơ sở hạ tầng cho các vùng nghèo, xã nghèo đẩy mạnh sản xuất phát triển nghành nghề, tăng thu nhập, phấn đấu từ nay đến năm 2005 về cơ bản không còn hộ đói, chỉ còn khoảng 10% số hộ thuộc diện nghèo, nâng dần mức sống của các hộ nghèo, tránh tình trạng tái nghèo.
Những chủ trương và chính sách mà Đảng và nhà nước ta đề ra nhằm xoá đói giảm nghèo trong thời điểm hiện nay đã thu được những thành công nhất định. Đời sống của nhân dân dần được cải thiện, xuất hiện nhiều các tấm gương làm kinh tế giỏi ở các địa phương. Tuy thế nhưng do đIều kiện thời tiết, khí hậu không thuận lợi trình độ thâm canh canh tác của nhân dân còn lạc hậu hạn chế, do áp lực của nền kinh tế thị trường do đó sự đói nghèo vẫn tồn tại ở nước ta, vẫn còn nhiều ở một số địa phương trong cả nước thậm chí có địa phương lại có xu hướng ra tăng.
Huyện Yên Mô nằm ở phía Nam của tỉnh Ninh Bình, là huyện ở vị trí chuyển tiếp giữa vùng Trung du và Miền núi, là một trong 8 huyện thị thuộc tỉnh Ninh Bình số hộ gia đình nghèo còn nhiều so với các huyện khác. Đây là vấn đề mà các lãnh đạo Đảng và chính quyền địa phương luôn quan tâm và tìm những giải pháp hữu hiệu giải quyết triệt để vấn đề này.
Với trách nhiệm là người cán bộ Đoàn được học tập và rèn luyện tại Học viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam, tôi luôn tự hỏi mình phải làm gì và làm như thế nào để góp sức vào việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo tại địa phương quê hương mình. Vì lý do đó nên tôi chọn đề tài: "Tổ chức Đoàn thanh niên với chương trình xoá đói giảm nghèo " với mục đích góp phần sức nhỏ bé của mình vào công tác xoá đói giảm nghèo trên địa bàn huyện mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Đoàn thanh niên tham gia xoá đói giảm nghèo trên địa bàn huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình.
2.2.Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động xoá đói giảm nghèo
Thực trạng hoạt động xoá đói giảm nghèo của Đoàn thanh niên huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình
Đề xuất các giải pháp để thực hiện có hiệu quả hoạt động xoá đói giảm nghèo của Đoàn thanh niên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xoá đói giảm nghèo của Đoàn thanh niên huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Địa bàn huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình
Thời gian: Từ tháng 8 năm 2003 đến tháng 4 năm 2004
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu tàI liệu
Phương pháp quan sát thực tiễn
Phương pháp phỏng vấn sâu
5. Đóng góp mới của chuyên đề
Trên cơ sở đối chiếu so sánh phân tích chuyên đề rút ra những kinh nghiệm quý báu nhất nhằm giúp Đoàn đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, tham gia chương trình xoá đói giảm nghèo ở địa phương.
6. Kết cấu chuyên đề
Ngoài phần những vấn đề chung, phần kết luận, danh mục tài liệu, chuyên đề kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo
Chương II: Thực trạng của tổ chức Đoàn tham gia chương trình xoá đói giảm nghèo ở huyện Yên Mô
Chương III: Những kiến nghị và giải pháp tham gia vào chương trình xoá đói giảm nghèo của Đoàn thanh niên huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình
phần b: Nội dung
chương I
cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện
chương trình xoá đói giảm nghèo
1. quan niệm về đói nghèo (Trên thế giới)
Trên thế giới mỗi một quốc gia có một quan niệm khác nhau về đói nghèo vì nó phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đó. Cho nên dẫn đến thu nhập của mỗi đầu người trên một năm hoàn toàn khác nhau nên có thể cho rằng: Đời sống của người nghèo ở những nước kinh tế phát triển tương đương với đời sống của những người khá ở những nước chậm phát triển, mặt khác sự phân bố giàu nghèo không những ở các quốc gia trên thế giới mà còn ở từng các khu vực, địa phương cũng có sự khác nhau. Những nước có số lượng người đói nghèo cao thường rơi vào những nước có chiến tranh kéo dài hoặc là thuộc địa của nước khác, hay là những nước có khí hậu khắc nghiệt, nghèo tài nguyên khoáng sản, vị trí địa lý không gian thuận lợi để phát triển kinh tế.
Theo quan niệm chung của nhiều nước thì người nghèo đói là những người có mức thu nhập dưới 1/3 mức thu nhập trung bình của xã hội. Vì vậy trên thế giới hiện nay có khoảng trên một tỷ người tương ứng với hơn 20% dân số thế giới đang thuộc diện nghèo khổ, phải sống trong tình trạng khó khăn thiếu thốn.
Nghèo đói còn được nhận diện bởi nhiều khía cạnh như: không gian, thời gian, môi trường và giới:
Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở các vùng nông thôn và những người sống ở đó cho dù họ đang sống trong một xã hội phát triển đến đâu, như thế nào thì họ vẫn phải sống trong một đIều kiện thiếu thốn khó khăn.
Về thời gian: Những người thuộc diện đói nghèo có mức sống thấp dưới mức được xác định như là một chuẩn thấp nhất và có thể được chấp nhận trong một thời gian dài.
Về môi trường: Hầu hết những người nghèo đói thường phải sống trong một môi trường khắc nghiệt và chính vì tình trạng đói nghèo của họ đã làm cho môi trường xuống cấp hơn vì họ không có đủ điều kiện, khả năng để bảo vệ và gìn giữ môi trường ở đó.
Về giới: Trong số những người nghèo đói thì phần lớn họ là nữ giới. Trong một gia đình thì thường người phụ nữ bao giờ cũng gánh chịu phần khổ nhiều hơn nam giới, mặc dù trong gia đình đó người nam giới lại là chủ gia đình.
Đói: Là những người có đời sống không đạt mức tối thiểu
Nghèo: Là những người đời sống chỉ đạt mức tối thiểu và thấp hơn so với mức trung bình của người khác cùng sống trong một quốc gia, địa phương.
Theo sự đánh giá chung của thế giới thì dưới nghèo là đói và người nào có thu nhập trong năm dưới 730 USD là người thuộc diện nghèo.
2. Quan niệm của việt nam về đói nghèo và biểu hiện của sự đói nghèo
Cũng như quan niệm chung của thế giới về đói nghèo nó phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế giới cũng đã đưa ra một thước đo để đánh giá những vấn đề này. Do mức thu nhập của người dân không có sự đồng đều, lại có sự chênh lệch rất cao giữa các vùng, các khu vực cho nên không thể đưa ra một con số cụ thể thống nhất chung cho cả nước mà phảI đưa ra nhiều con số để áp dụng cho từng vùng, như chuẩn mực đói nghèo hiện nay được quy định tại thông báo số: 175/LĐ-TBXH ngày 20-5-1997 của Bộ lao động- Thương binh xã hội lấy gạo làm mốc hộ đói nghèo.
Hộ đói có thu nhập bình quân tính theo đầu người/tháng dưới 13kg gạo tương đương với 45.000đ
Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng dưới:
+ 15kg gạo tương đương 55.000 đ đối với nông thôn, miền núi, hảI đảo
+ 20kg gạo tương đương 70.000 đ đối với khu vực nông thôn đồng bằng, trung du
+ Dưới 25kg tương đương 90.000 đ đối với khu vực thành thị Bộ lao động- Thương binh xã hội đã phối hợp với các bộ, ngành xây dựng chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2001-2005, yêu cầu của chuẩn mới áp dụng nhu cầu lương thực, thực phẩm ra còn phải thoả mãn được một số nhu cầu xã hội cơ bản khác như y tế, giáo dục… cho người nghèo.
Chuẩn nghèo mới công bố trong Quyết định số 1143/2000/QĐTĐTBXH ngày 01/11/2000 của Bộ lao động- Thương binh và xã hội được quy định theo mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ cho từng vùng như sau:
Vùng nông thôn miền núi, hảI đảo: 80.000 đồng/tháng, 960.000 đồng/năm
Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/tháng, 1.200.000 đồng/năm
Vùng thành thị: 150.000 đồng/tháng, 1.800.000 đồng/năm
Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định nêu trên được xác định là hộ nghèo
Phân biệt cấp độ khác nhau giữa đói và nghèo
Nghèo: Là đời sống của người dân có mức sống thấp hơn mức trung bình của cộng đồng nơI mình đang sống mà chỉ đáp ứng được một số yêu cầu cần thiết tối thiểu đảm bảo cho cuộc sống bình thường
Đói: Là mức độ thiếu hụt gay gắt hơn có nghĩa là bữa đói, bữa no, không đảm bảo sự duy trì một cuộc sống bình thường tối thiểu.
3. Bối cảnh chung về việc xuất hiện chương trình xoá đói giảm nghèo
Việt Nam chúng ta là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa thoát khỏi hai cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dàI hàng chục năm, trong khi đó ta lại duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong kinh tế và cơ chế này đã bộc lộ sự không phù hợp rõ rệt, đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, làm cho sản xuất ở hầu hết các lĩnh vực bị đình đốn, năng suất chất lượng, hiệu quả sản xuất thấp. Sau đó chúng ta lại chuyển cơ chế tập chung quan liêu bao cấp với thành phần kinh tế nhà nước, hợp tác là chủ yếu với sự tập chung hóa cao độ sang nền kinh tế hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Xét một cách toàn diện thì đã có người giàu, người nghèo nhưng do có sự phân phối bình quân nên sự giầu nghèo bị che lấp đi. Ngày nay khi nước ta chuyển sang cơ chế tự cung tự cấp, cơ chế kinh tế thị trường thì đói nghèo được bộc lộ khá rõ rệt.
Nền kinh tế thị trường với quy luật vốn có của nó đã tạo ra những thay đổi mang tính chất là bước ngoặt của nền kinh tế đi lên, nó tác động mạnh vào cơ cấu xã hội, đó là xây dựng nền kinh tế "mở" cả trong nước và ngoài nước. Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế mở, nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế thế giới để tận dụng những thuận lợi của nước ta trong quan hệ thương mại quốc tế, dẫn đến bộ mặt nông thôn nói riêng cũng như kinh tế, đời sống của mọi người trong nước có bước tiến chuyển rõ rệt.
Nền kinh tế thị trường với quy luật vốn có của nó đã tạo ra những quy luật mang tính chất là bước ngoặt của nền kinh tế đi lên, nó tác động mạnh vào cơ cấu xã hội, đó là xây dựng nền kinh tế "mở"cả trong nước và ngoài nước. Đảng ta chủ trương xây dựng nenf kinh tế mở, nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế mở, nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế thế giới để tận dụng những thuận lợi của nước ta trong quan hệ thương mại quốc tế, dẫn đến bộ mặt nông thôn nói riêng cũng như kinh tế, đời sống của mọi người trong nước có bước tiến chuyển rõ rệt.
Đảng và Nhà nước ta đã huy động toàn dân phát huy tích cực, tập chung cao độ để sản xuất tăng trưởng kinh tế, gắn liền với phát triển kinh tế- xã hội, ổn định về chính trị, phát triển nhanh về kinh tế, hạn chế tối đa mặt hạn chế của nền kinh tế thị trường gây ra. Trong đó có việc tập trung giải quyết sự phân hóa giàu nghèo gây bất ổn định về chính trị xã hội. Khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp, đi đôi với xoá đói giảm nghèo bền vững, chú trọng phát triển nông nghiệp nông thôn. xoá đói giảm nghèo là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước, xoá đói giảm nghèo là một cuộc cách mạng xã hội sâu sắc, là phong trào của quần chúng nhất là ở địa phương cơ sở. Ngoài ra Đảng và Nhà nước hình thành được hệ thống chính sách và chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo, và tập trung nguồn lực dể xoá nhanh các hộ đói, xã đặc biệt khó khăn giảm mạnh các hộ nghèo, xã nghèo. Thực hiện xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo, đa dạng hoá các nguồn lực trong nước, phát huy nội lực tại chỗ và tranh thủ hợp tác, trợ giúp quốc tế, tạo thành phaong trào sôi động trong cả nước lấy ngày 17 tháng 10 hàng năm là " ngày vì người nghèo"
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xoá đói giảm nghèo
Coi đói nghèo như một "thứ giặc" cũng như giặc dốt, giặc ngoại xâm
Làm cho người nghèo thì đủ ăn
Người đủ ăn thì khá, giàu
Người giàu thì giàu thêm
4. Chức năng của tổ chức đoàn trong việc tham gia xoá đói giảm nghèo.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là một tổ chức chính trị xã hội của thanh niên Việt Nam. Là lớp kế cận của Đảng, có chức năng bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của tuổi trẻ, phát động các phong trào phát triển kinh tế xã hội và có vai trò quan trọng trong việc tham gia chương trình xoá đói giảm nghèo. Như chúng ta đã biết quyền con người được thể hiện ở ba khía cạnh đó là dân sinh, dân chí, dân chủ, mà công tác xoá đói giảm nghèo lại liên quan đến vấn đề này và đặc biệt là vấn đề dân sinh là cơ bản nhất, vì nó là lợi ích rất thiết thực mà ai ai cũng phải có. Nếu chúng ta giải quyết được vấn đề này sẽ tạo điều kiện cho dân trí và dân chủ phát triển, dân sinh là quyền sống của con người với sự cống hiến của mình với chức năng của mình, và quan trọng hơn nữa, tổ chức Đoàn là người được Đảng cộng sản Việt nam giao phó phụ trách về công tác thanh niên. Vậy để xây dựng tổ chức của mình vững mạnh, phát triển toàn diện thì không thể nói trong lực lượng của mình, còn nhiều người đói nghèo và hơn thế nữa nếu chúng ta thực hiện tốt được mối quan hệ này, thì tổ chức của chúng ta đã giải quyết tốt được mối quan hệ giữa quyền lợi và lợi ích của thanh niên. Tạo được niềm tin trong thanh niên thành chỗ dựa vững chắc, do đó tổ chức Đoàn không thể đứng ngoài cuộc được. Trái lại cần phải xác định đây là một nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của tổ chức mình. Phải thường xuyên quan tâm thực hiện tốt hơn công tác xoá đói giảm nghèo, thực hiện mục tiêu mà đại hội Đảng VIII đã đề ra cũng như thực hiện tốt nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Yên Mô lần XIV đề ra.
chương II
Thực trạng của tổ chức đoàn tham gia chương trình xoá đói giảm nghèo ở huyện yên mô
Tình hình kinh tế xã hội ở địa phương
Về địa lý
Yên Mô (Ninh Bình) là vùng đất lịch sử, văn hoá có bề dày truyền thống hàng ngàn năm. Núi sông hội tụ, huyền thoại và sự tích đặc sắc, phong tục văn nhã, con người thuần phác giàu nghĩa hiếu trung được tiếng là:"Dân thuần, tục mỹ".
Huyện Yên Mô nằm phía Tây Nam tỉnh Ninh Bình, hình dạng giống một đa giác lồi nhiều cạnh. Phía Bắc giáp huyện Hoa Lư, phía Tây Bắc giáp thị xã Tam Điệp, phía Đông giáp huyện Yên Khánh, phía Nam giáp huyện Nga Sơn và Hà Trung thuộc tỉnh Thanh Hoá. Huyện Yên Mô có diện tích tự nhiên là 13.453 ha, Yên Mô có địa hình khá phức tạp, chạy suốt sườn tây và dải Tam Điệp- Biện Sơn, ở đây có nhiều núi và hang động đẹp như: Mã Lĩnh, Phương Sơn, Ngọc Thỏ… xen kẽ núi đá vôi là các thung lũng đồi hẹp. Đồng ruộng ngoài nghềnh trong trũng, các dải đất màu xen kẽ đồng chiêm, đồng mùa rất khó trong việc phân chia ngọn vùng kinh tế. Sông ngòi Yên Mô chi chít và nhiều eo thắt, có nhiều nhánh bắt nguồng từ vùng núi đồi Tam Điệp ăn thông với sông Vạc, sông Bút, sông Trinh thành mạng tiêu tự nhiên ra biển và đưa thuỷ triều tưới cho một phần các sông này. Yên Mô kề núi, gần biển, thường có mưa bão gây úng ngập. Năm Tự Đức 11(1958) cho đào nối đoạn sông từ Yên Phú xã Khánh An tới Kim Chính- Kim Sơn gọi tên sông này là sông Vạc. Gần đây huyện đã khơi sâu sông Bút, sông Trinh và nhiều sông nhánh, xây hệ thống hồ ven núi và nhiều trạm bơm để chống úng hạn, đưa kinh tế nông nghiệp có bước phát triển mới. Mạng lưới giao thông thuỷ bộ Yên Mô không lớn nhưng khá thuận tiện. Phía Bắc có đường quốc lộ 1 và đường xe hoả (giao thông huyết mạch Bắc Nam) đi qua. Chạy dọc từ Bắc xuống Nam là Quốc lộ 59 và sông vạc nối liền từ thị xã Ninh Bình qua Yên Mô tới biển Kim Sơn. Từ Đông qua Tây là sông Bút nối liền Nam Định qua Yên Khánh, Yên Mô tới Thanh Hoá và ngược lại. Đường bộ và đường thuỷ có thể tới các xã trong huyện. Yên Mô có thế núi, thế sông hùng vĩ, được núi sông non nước tụ hội, được con người tạo dựng hàng mấy ngàn năm khiến đất này được coi là địa linh nhân kiệt.
Tình hình việc làm và thu nhập
Huyện Yên Mô gồm 17 xã, 1 thị trấn có diện tích tự nhiên là 142,2km2, huyện Yên Mô có số dân là 116.987 người, với tổng số hộ trong huyện là 29.268 hộ gia đình. Trong đó hộ thuộc khu vực nông thôn chiếm 100% tương đương với 29.268 hộ gia đình, số hộ nghèo là 4.198 hộ (tính đến năm 2002).
Hiện nay vấn đề việc làm đang là vấn đề bức xúc. Huyện Yên Mô là huyện thuần về nông nghiệp vì thế thời gian nông nhàn là rất nhiều do đó nhu cầu có việc làm trong lúc nông nhàn là rất lớn, theo con số thống kê tính đến năm 2002 thì trên địa bàn huyện Yên Mô có khoảng từ 80 đến 90% số lao động có nhu cầu việc làm, số lao động còn lại là khoảng 10% tập trung chủ yếu ở hai xã Yên Nhân và Yên Phong do các xã này có nghề thủ công chiếu cói và thêu ren xuất khẩu.
Tổng số hộ khẩu trong toàn huyện
Tổng số hộ khẩu nghèo
Tổng số hộ nghèo thuộc đối tượng
Tổng số hộ
Tổng số khẩu
Tổng số hộ
Tổng số khẩu
Chính sách
Thuộc đối tượng Đoàn
Tỷ lệ hộ nghèo thuộc diện chính sách
Tỷ lệ hộ nghèo thuộc diện đối tượng Đoàn
29.268
116.987
4.198
14.545
06
2.568
0,020
8,774
Thực trạng nguyên nhân đói nghèo (huyện Yên Mô)
Thực trạng, nguyên nhân đói nghèo của huyện Yên Mô là hậu quả của nhiều nguyên nhân gây ra những nguyên nhân chính cơ bản sau:
* Nguyên nhân chủ quan:
Thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, đông con, nhiều miệng ăn theo
Thiếu việc làm, mắc các tệ nạn xã hội
Lười lao động thiếu đất canh tác
* Nguyên nhân khách quan:
Do khí hậu khắc nghiệt, thiên tai, bão, hạn hán, địa hình phân chia giữa vùng núi đá vôi và đồng chiêm trũng
Kinh tế chậm phát triển
Do hậu quả chiến tranh để lại
2.1. Những hoạt động mà tổ chức Đoàn đã tổ chức để tham gia chương trình xoá đói giảm nghèo.
Những mặt làm được:
Quán triệt và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xoá đói giảm nghèo, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Ninh Bình có các chỉ thị, nghị quyết, Quyết định chuyên đề về công tác xoá đói giảm nghèo được các cấp các ngành, các đoàn thể quần chúng và mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh nhiệt liệt hưởng ứng. Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo từ tỉnh đến cơ sở được kiện toàn đủ về số lượng, thành phần và hoạt động khá hiệu quả. Căn cứ vào chương trình kế hoạch của tỉnh các cấp các ngành, các đoàn thể xây dựng chương trình kế hoạch xoá đói giảm nghèo cụ thể sát thực trong cả giai đoạn và hàng năm, xác định mục tiêu và đề ra các giải pháp tổ chức thực hiện. Các chương trương, chính sách, các văn bản về xoá đói giảm nghèo được quán triệt đến từng thôn, xóm dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên tuyên truyền chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác xoá đói giảm nghèo phổ biến khoa học kỹ thuật, những kinh nghiệm hay hướng dẫn cách làm ăn, biểu dương những điển hình về công tác xoá đói giảm nghèo tạo điều kiện cho những hộ đói nghèo vươn lên thoát cảnh đói nghèo.
Trên cơ sở bám sát những chỉ tiêu mà nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV đề ra, huyện Đoàn đã coi trọng việc phân phối với các ban ngành đoàn thể có liên quan mở các tập huấn, tuyên truyền đưa các nội dung khuyến nông, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động của Đoàn. Thực tế đã có 18/18 xã, thị trấn triển khai có hiệu quả việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, giống cây mới, con mới, hàng hoá có năng suất cao và sản xuất. Hàng năm huyện Đoàn đã tổ chức mở được hơn 16 lớp tập huấn về khoa học kỹ thuật, giống cây, con mới cho hơn 6.000 Đoàn viên chiếm hơn 90% tổng số Đoàn viên trong toàn huyện. Cả huyện có hơn 92% Đoàn viên thanh niên được tuyên truyền nắm bắt các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Những chỉ tiêu cơ bản mà Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV đề ra phấn đấu toàn huyện đạt 70.000 tấn lương thực, bình quân lương thực đầu người là 600 kg/năm, giá trị sản phẩm trên 1 ha canh tác bình quân là 24 triệu đồng /năm. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, các quy trình sản xuất giống cây, con mới đều được huyện Đoàn thanh niên của các xã, thị trấn tổ chức tuyên truyền chuyển tải những thông tin kịp thời cung cấp cho Đoàn thanh niên để đảm bảo được tiến bộ và thời gian sản xuất. Trong 3 năm qua huyện Đoàn Yên Mô đã phối hợp với các ban ngành đoàn thể và tỉnh Đoàn Ninh Bình đã phát tờ rơi với số lượng hơn 3.000 tờ cung cấp thông tin về quy trình sản xuất,chăm sóc giống lúa mới, cung cấp cây mới và con mới. Huyện Đoàn Yên Mô đã kết hợp chặt chẽ với phòng nông nghiệp huyện, chi cục bảo vệ thú y tập huấn cho hơn 600 cán bộ Đoàn trong huyện về cách thức quy trình chăm sóc, bảo vệ các giống cây, con mới. Bên cạnh đó huyện Đoàn luôn phối hợp với đài truyền thanh huyện, đài truyền hình và giới thiệu các gương mặt điển hình làm kinh tế giỏi, các chủ trang trại trẻ mạnh dạn đầu tư làm ăn, làm giàu chính đáng, biết cách đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Qua đó, để khuyến khích đoàn viên thanh niên làm giàu, vươn lên tự lực bằng khả năng của mình.
Trong 3 năm vừa qua, huyện Đoàn Yên Mô ra sức hưởng ứng cuộc phát động của tỉnh Đoàn với tinh thần "Tất cả vì cuộc sống cộng đồng", tham gia chương trình thanh niên tình nguyện, quyên góp, giúp đỡ các gia đình chính sách neo đơn, gia đình có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn. Thông qua các đợt tình nguyện do huyện Đoàn phát động trong 3 năm vừa qua đã thu hút được rất nhiều đoàn viên là các sinh viên của địa phương đang theo học ở các trường Cao đẳng, Đại học trong cả nước tham gia rất nhiệt tình. Trong các đợt tình nguyện, các đội tình nguyện đã tổ chức tập huấn chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật cho đoàn viên thanh niên tại các xã thuộc diện khó khăn trong huyện, mở được hơn 20 lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp, phối hợp với làng xã xây dựng các mô hình trang trại vừa và nhỏ, tuyên truyền, vận động các đoàn viên thanh niên chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp dụng khoa học kỹ thuật nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao bước đầu đã đạt dược những kết quả đáng khích lệ. Đã có nhiều đoàn viên thanh niên làm chủ những trang trại như: Anh Trịnh Đình Nghĩa, anh Nguyễn Văn Cường xã Yên Nhân, anh Lã Xuân Thứ xã Yên Phong… Đã áp dụng mô hình trang trại VAC hàng năm có thu nhập từ 15-30 triệu đồng/năm. Cơ sở sản xuất nấm rơm của anh Phạm Văn Tú xã khánh thịnh, anh Nguyễn Văn Tôn xã Yên Phú, anh Đinh Hoàng Minh xã Yên Nhân… đã thu hút được rất nhiều đoàn thanh niên trên địa bàn tham gia cùng sản xuất, tạo được nhiều công ăn việc làm cho thanh niên tăng thu nhập.
Nhằm trang bị kiến thức cho hội viên của các câu lạc bộ khuyến nông thanh niên, ban chấp hành Đoàn thường xuyên tổ chức cho Đoàn viên thanh niên, hội viên nghe các chuyên gia khoa học kỹ thuật về giảng bài, đồng thời tổ chức báo cáo kinh nghiệm sản xuất, thăm quan mô hình thanh niên, hội viên nghe các chuyên gia khoa học kỹ thuật về giảng bài, đồng thời tổ chức báo cáo kinh nghiệm sản xuất, tham quan mô hình thanh niên làm kinh tế giỏi, thăm các trung tâm giống cây trồng, viện hoa quả… Riêng năm 2002 đã chuyển giao trên 40 tấn phân vi sinh, 30.000 cá rô phi cho các xã như Yên Thành, Yên Đồng, Yên Thái,… Đầu tư mô hình ngô lai giống mới với hơn 6 ha cho Đoàn viên thanh niên xã Yên Lâm.
Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương mình, trong những năm qua dưới sự chỉ đạo của UBND huyện, huyện Đoàn Yên Mô đã ra sức tuyên truyền và vận động đoàn viên, thanh niên tham ra tích cực hoạt động học tập nâng cao trình độ, trau dồi kiến thức, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo điều kiện kích thích các ngành nghề phụ phát triển, nhằm tạo điều kiện công ăn việc làm cho người lao động, nhất là đoàn viên thanh niên trong lúc nông nhàn.
* Chương trình vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết các vấn đề chính sách xã hội:
Được sự quan tâm của TW Đoàn và tỉnh Đoàn Ninh Bình, Ban phong trào thanh niên tỉnh, trong 10 năm qua Ban thường vụ huyện Đoàn đã tiếp nhận và điều hành quản lý 12 dự án với tổng só vốn 215 triệu đồng tính cả vốn thu hồi và vốn bổ sung, 11/12 dự án đầu tư đúng mục đích vào các lĩnh vực như: chăn nuôi đại gia súc, gia cầm, máy cơ khí phục vụ nông nghiệp, phát triển ngành nghề truyền thống như đan thảm, thêu ren, nghề mộc, sản xuất vật liệu xây dựng (gạch, đá). Thu hút tập hợp được hơn 200 lao động có việc làm ổn định và hơn 500 lao động theo mùa vụ. Thu nhập bình quân đạt 380.000 đồng/tháng. Điển hình là dự án của anh Dương viết yên ở xã Khánh Thịnh và Tạ Văn Đề ở xã Khánh Thượng. Qua các dự án thì tỷ lệ tập hợp thanh niên ngày càng cao (từ 30% năm 1992 tăng lên 57% so với 6 tháng đầu năm 2002). Ngoài các dự án trên năm 2003 huyện Đoàn Yên Mô đã được vay vốn từ quỹ của trung tâm đầu tư phát triển kinh tế xoá đói giảm nghèo thuộc TW Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với tổng số vốn là 2 tỷ đồng. Đã giải quyết việc làm cho hơn 400 đoàn viên thanh niên, bước đầu triển khai thí điểm tại 5 xã trên địa bàn huyện đã thu được những hiệu quả nhất định, nguồn vốn được sử dụng đúng mục đích, khả năng hoàn trả lãi rất cao, không có tình trạng Đoàn viên thanh niên làm ăn thua lỗ. Bằng sự nhiệt tình, hăng hái, dám nghĩ, dám làm, với tinh thần xung phong tình nguyện các cơ sở Đoàn đã đề xuất với cấp lãnh đạo cho đảm nhận những công việc như: làm đường bê tông hoá nông thôn xóm, nạo vét kênh mương… Để gây quỹ cho Đoàn hoạt động, đồng thời tạo công ăn việc làm cho Đoàn viên thanh niên, tăng thêm thu nhập cho bản thân.
Được sự quan tâm của huyện uỷ, UBND huyện, huyện Đoàn Yên Mô đã cùng với các ban ngành đoàn thể trong huyện, đặc biệt là phòng thương binh xã hội, Ngân hàng huyện Yên Mô xây dựng đề án làm nhà ở cho các hộ cực nghèo, mỗi căn hộ trị giá hơn 10 triệu đồng. Cùng với sự ủng hộ của Tỉnh uỷ, UBND sự ủng hộ nhân dân về kinh tế vật tư, công xây dựng tạo điều kiện cho các hộ nghèo có điều kiện làm nhà. Trong 3 năm vừa qua, toàn huyện đã xây được nhà ở cho hơn 50 hộ đặc biệt khó khăn (cực nghèo) Huyện Đoàn kết hợp với trung tâm y tế mở các đợt khám bệnh, tư vấn, cấp phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân nghèo. Hàng năm huyện Đoàn đều tổ chức được các đợt khám bệnh, cấp phát thuốc lưu động tại các xã thuộc vùng sâu, vùng xa của huyện. Với chủ trương đẩy mạnh phong trào và thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch hoá gia đình nhằm xoá đói giảm nghèo tăng giàu. Huyện Đoàn đã kết hợp cùng với uỷ ban dân số- KHHGĐ của huyện, kết hợp với hội phụ nữ của các xã, thị trấn vận động trên 5.000 người trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện các biện pháp tránh thai. Mức giảm sinh bình quân hàng năm là 0,4 % có 20% xã thị trấn có người sinh con thứ 3 qua đó đã góp phần thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo.
* Có những kết quả trên là do:
- Có chủ trương chinh sách kịp thời của Đảng và Nhà nước vì chương trình xoá đói giảm nghèo. Dưới sự lãnh đạo từ TW đến địa phương, có sự nhận thức đúng đắn của huyện Đoàn về đói nghèo, từ đó có sự phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, các đoàn thể có liên quan đề ra những giải pháp cụ thể cho từng xã trong từng thời điểm, với những vấn đề cụ thể của từng địa phương.
- Có đội ngũ cán bộ Đoàn nhiệt tình, năng nổ, có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt, chủ động trong mọi việc, biết kết hợp với các ban ngành có liên quan cùng thực hiện chương trình.
aCó được những kết quả trên là do :
- Có chủ trương, chính sách kịp thời của Đảng và Nhà nước vì chương trình xoá đói, giảm nghèo. Dưới sự lãnh đạo từ TW đến địa phương , có sự nhận thức đúng đắn của huyện Đoàn về đói nghèo , từ đó có sự phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, các đoàn thể có liên quan đề ra những giải pháp cụ thể cho từng xã trong từng thời điểm, với những vấn đề cụ thể của từng địa phương.
- Có đội ngũ cán bộ Đoàn nhiệt tình , năng nổ, có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt, chủ động trong mọi công việc , biết kết hợp với các ban ngành có liên quan cùng thực hiện chương trình, đưa chương trình xoá đói, giảm nghèo đi đến thành công.
- Có sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, nhất là các cấp lãnh đạo của địa phương.
Tóm lại: Huyện Đoàn Yên Mô trong những năm vừa qua đã tổ chức nhiều hoạt động nhằm phát triển kinh tế, chuyển đổi kinh tế trong nông nghiệp, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, đầu tư vốn phát triển sản xuất tạo công ăn việc làm cho đoàn viên thanh niên, từng bước xây dựng cơ sở vật chất, thực hiện chính sách xã hội với các hộ gia đình nghèo, củng cố nâng cao chất lượng hoạt động cơ sở Đoàn. Từ những kết quả thực tế nêu trên đã cho thấy Đoàn thanh niên đã đóng góp không ít sức mình vào sự thắng lợi của công cuộc xoá đói, giảm nghèo.
a. Những mặt còn tồn tại :
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thì vẫn còn một số tồn tại sau :
- Công tác tuyên truyền xoá đói, giảm nghèo chưa được triển khai đồng bộ, thường xuyên, nhất là ở những xã, những đơn vị yếu kém.
- Tổ chức cơ sở Đoàn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đặc biệt là trình độ quả lý, điều hành các dự án.
- Việc chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật còn đạt kết quả chưa cao do trình độ dân chí một số địa phương còn thấp.
- Công tác tổ chức gắn bó khâu đầu mối, kiểm tra đôn đốc, động viên của huyện Đoàn và các Đoàn cơ sở còn hạn chế, các câu lạc bộ khuyến nông thanh niên còn chưa tập trung đầu tư riêng cho người nghèo, việc đầu tư vốn còn hạn chế chưa thỏa đáng.
- Tính chủ động và mạnh dạn trong thanh niên chưa cao, chưa phát huy được tính tự lực, còn phụ thuộc và thụ động. Thanh niên tham gia làm nhiều song kết quả công việc mang tính tổ chức của thanh niên còn chưa rõ nét.
- Huyện Đoàn và các xã Đoàn còn chưa chú trọng đến việc dạy nghề, giới thiệu việc làm, định hướng cho đoàn viên thanh niên, chưa phát huy đựơc hết vai trò của mình, một số cấp Uỷ, Chính q._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT237.doc