Tổ chức Công ty Bảo hiểm ở thị trường Bảo hiểm Việt Nam hiện nay

Lời mở đầu Với dân số hơn 80 triệu người, Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Trong đó Bảo hiểm đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Sự tồn tại và phát triển của con người đi song song với nó là những rủi ro không lường trước được do môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội, do sự tiến bộ và phát triển của khoa học và kỹ thuật. Nhưng mặc cho rủi ro đó có lớn đến đâu thì xã hội vẫn không ngừng phát triển. Có được đIều đó một phần lớn là do va

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1676 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tổ chức Công ty Bảo hiểm ở thị trường Bảo hiểm Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i trò của các hoạt động Bảo hiểm bởi nó không chỉ thực hiện huy động vốn cho nền kinh tế mà đIều quan trọng là góp phàn đảm bảo tài chính cho các cá nhân, gia đình,mọi tổ chức và doanh nghiệp để khôi phục đời sống và các hoạt động sản xuất kinh doanh. Không những thế mà hoạt động Bảo hiểm còn góp phần vào việc đề phòng, hạn chế tổn thất. Với những vai trò như vậy thì Bảo hiểm đã thực sự trở thành nhu cầu không thể thiếu trong nền kinh tế đất nước. Với nhu cầu không thể thiếu được như vậy, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 179 CP, thành lập Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, đó là bước ngoặt lớn cho thị trường Bảo hiểm Việt Nam. Sau hơn 30 năm hoạt động, thị trường Bảo hiểm Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, hàng loạt công ty Bảo hiểm ra đời với những nghiệp vụ ngày càng phong phú và đa dạng. Nhưng tổ chức một công ty Bảo hiểm ở thị trường Bảo hiểm Việt Nam hiện nay tồn tại không ít khó khăn. Do đó đề tài “ Tổ chức công ty Bảo hiểm ở thị trường Bảo hiểm Việt Nam hiện nay” giúp chúng ta có thể xem xét một cách tổng quan về sự thành lập công ty Bảo hiểm và ý nghĩa thực tiễn của nó. Do điều kiện thời gian có hạn và do thiếu kinh nghiệm nên đề tài chưa được hoàn thiện như ý muốn của em mong thầy góp ý. Em xin chân thành cảm ơn thầy TS. Nguyễn Văn Định đã giúp em thực hiện đề tài. Phần I : Tổng quan về thị trường Bảo hiểm I. KháI niệm và sự cần thiết của Bảo hiểm 1. Khái niệm về thị trường Bảo hiểm Nói đến thị trường Bảo hiểm thì có thể có rất nhiều định nghĩa nhưng mang tính chung nhất là: “ Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người Bảo hiểm cam kết bồi thường ( theo quy luật thống kê) cho người tham gia Bảo hiểm trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi Bảo hiểm với đIều kiện người tham gia nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba”. Trong thị trường Bảo hiểm có 2 đối tượng chính là: người bán Bảo hiểm và người mua Bảo hiểm. Người bán gắn liền với các tổ chức Bảo hiểm còn người mua là các cá nhân hay tập thể có nhu cầu Bảo hiểm về sức khoẻ, tài sản, trách nhiệm dân sự… Họ đến với thị trường bằng cách trực tiếp hoặc thông qua môi giới để mua các dịch vụ mà mình muốn. 2. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của thị trường Bảo hiểm Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày mặc dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Bất kể rủi ro nào cũng đem lạI những khó khăn cho con người trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội nói chung. Để đối phó với những loạI rủi ro này con người đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Trong đó nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro gồm: các biện pháp tránh né rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Mặc dù các biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn hoặc giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro xảy ra người ta không thể lường trước được hậu quả. Vì vậy, sẽ có xuất hiện nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro gồm: các biện pháp chấp nhận rủi ro và Bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro xảy ra nếu có. Trong đó Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro thì Bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Còn theo quan điểm xã hội, Bảo hiểm không chỉ là sự chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép chúng ta có thể dự đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra có hiệu quả nhất. Như vậy, Bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh. Do sự cần thiết như vậy nên khái niệm “Bảo hiểm” trở nên gần gũi, gắn bó với con người, với các đơn vị sản xuất kinh doanh. Từ đó, chúng ta nhận thấy tác dụng to lớn của Bảo hiểm là bồi thường những rủi ro thuộc phạm vi Bảo hiểm, làm nhanh chóng ổn định kinh tế, khôi phục đời sống và sản xuất kinh doanh, đóng góp tích luỹ cho ngân sách, ngăn ngừa đề phòng, hạn chế rủi ro xảy ra, là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức giúp họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt, sản xuất kinh doanh, thể hiện tính cộng đồng, tương trợ nhân văn sâu sắc. Nó còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước nhất là thông qua hoạt động tái Bảo hiểm… II. những đặc trưng cơ bản của thị trường Bảo hiểm 1. Cung, cầu của thị trường Bảo hiểm Cung và cầu là hai nhân tố cơ bản của thị trường Bảo hiểm. Cung của Bảo hiểm được thực hiện bằng hoạt động của các công ty Bảo hiểm. Có công ty kinh doanh chuyên ngành, có công ty kinh doanh tổng hợp làm nhiều loại hình một lúc. Nhìn chung, cung của Bảo hiểm trong thời gian đầu thường nhỏ hơn cầu, nhưng sau đó vì tính sinh lợi cao, số công ty Bảo hiểm tăng lên nhanh chóng và dẫn đến cung sẽ lớn hơn cầu. Sự tăng nhanh về số lượng công ty Bảo hiểm càng làm cho cung tăng nhanh. Còn cầu Bảo hiểm chính là nhu cầu về các dịch vụ Bảo hiểm của dân cư. Song hoạt động của Bảo hiểm lại là hoạt động có đặc thù khác một số loại hoạt động dịch vụ khác, người tham gia Bảo hiểm có nhu cầu rất đa dạng và thay đổi tuỳ theo các đIều kiện cụ thể. Chẳng hạn, nhu cầu Bảo hiểm cho các công ty kinh doanh phụ thuộc chặt chẽ vào sự tăng trưởng kinh tế, còn nhu cầu Bảo hiểm của cá nhân chịu ảnh hưởng rõ rệt của mức thu nhập và trình độ dân trí. Khi cung và cầu gặp nhau tại một điểm nào đó hình thành nên phí Bảo hiểm. Khi thị trường chưa có sự cạnh tranh, phí Bảo hiểm phụ thuộc vào mức độ độc quyền, hoặc do Nhà nước quy định. Điều này ít có tác dụng kích thích cầu. Khi chuyển sang cơ chế thị trường cạnh tranh trở nên tự do, do đó xuất hiện nhiều công ty Bảo hiểm nên phí Bảo hiểm dần dần trở lại trạng thái ban đầu của giá chấp nhận trên thị trường cạnh tranh. 2. Cạnh tranh và liên kết Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi và là động lực của sự phát triển bởi nó buộc các công ty Bảo hiểm phải không ngừng đổi mới chất lượng phục vụ, giá cả. Như vậy, cạnh tranh vô hình chung đã giúp các công ty Bảo hiểm tự hoàn thiện mình hơn. Tuy nhiên vì mục tiêu cao nhất là lợi nhuận nên các công ty có thể tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để lợi mình, hại người. Làm như vậy không phải là sự cạnh tranh lành mạnh và nó không thể tồn tại lâu dài. Song song với cạnh tranh là sự liên kết. Có thể nói khi cạnh tranh càng khốc liệt bao nhiêu thì liên kết càng chặt chẽ bấy nhiêu bởi các doanh nghiệp nhỏ muốn tồn tại được thì tất yếu phải liên kết lại với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp cũng như các doanh nghiệp nhỏ phải liên kết với các doanh nghiệp lớn nhằm đảm bảo an toàn trong cạnh tranh. Không thể loại trừ trường hợp các doanh nghiệp mạnh, cạnh tranh bất phân thắng bại, gây tổn hại cho cả hai bên mà cuối cùng lại không được gì thì biện pháp hữu hiệu nhất là liên kết với nhau làm tăng khả năng sức mạnh. 3. Thị phần của các công ty Bảo hiểm Thị phần của công ty Bảo hiểm chính là phần chiếm lĩnh thị trường công ty, là kết quả của hoạt động cạnh tranhvới công ty khác trong hoạt động của mình. Các công ty luôn mong muốn chiếm lĩnh thị trường của các công ty khác, làm tăng thị phần của công ty mình. Muốn vậy, các công ty phải làm tốt công tác như: phải cung cấp chất lượng dịch vụ cao hơn, phí Bảo hiểm phù hợp hơn, mua Bảo hiểm thuận lợi hơn, quảng cáo mạnh hơn.. Lãnh đạo của công ty cần phân tích các chỉ tiêu giữa các công ty khác với công ty mình đẻe có biện pháp khắc phục các nhược điểm. Phần 2: Thị trường Bảo hiểm Việt Nam I. lịch sử ra đời và phát triển của thị trường Bảo hiểm Việt Nam Bảo hiểm Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước khác trên thế giới, tuy nhiên nó đã có mầm mống từ thời kỳ Pháp thuộc. Mãi đến năm 1965 Thủ tướng chính phủ mới ra quyết định số 179 CP thành lập Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, nó mở ra một thời kỳ mới của thị trường Bảo hiểm. Nhưng trong một thời gian dài, Nhà nước ta duy trì chế độ độc quyền đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm. Do nhu cầu đổi mới trong đời sống và kinh tế nói chung và ngành Bảo hiểm nói riêng nên ngày 18/12/1993 Chính phủ đã ban hành nghị định 100 CP quy định về hoạt động kinh doanh Bảo hiểm. Từ chỗ có một công ty kinh doanh trên thị trường Bảo hiểm( Bảo Việt) thì sau nghị định 100 CP đã xuất hiện hàng loạt các công ty kinh doanh khiến cho thị trường Bảo hiểm Việt Nam trở nên sôi động và nhịp nhàng hơn bao giờ hết. Do đó, nghị định 100 CP là một bước ngoặt trong lịch sử phát triển của thị trường Bảo hiểm Việt Nam. 1. Thị trường Bảo hiểm Việt Nam trước nghị định 100 CP Hoạt động Bảo hiểm ở Việt Nam xuất hiện từ khi Pháp có mặt ở Việt Nam nhưng đến khi đất nước bị chia cắt làm hai miền thì hai khu vực này có sự phát triển khác nhau. Ơ miền Bắc chỉ có duy nhất một công ty Bảo hiểm là Bảo Việt hoạt động trong lĩnh vực hàng hải. Ơ miền Nam sôi động hơn với sự hoạt động của 51 công ty Bảo hiểm hoạt động trên mọi lĩnh vực. Sau năm 1975, miền Nam được giải phóng, tất cả các công ty Bảo hiểm của chế độ cũ bị giải thể, cơ sở vật chất và nhân viên giao hết cho Bộ tài chính. Vượt qua những khó khăn và thử thách, Bảo Việt đã trở thành một tập đoàn Bảo hiểm mạnh nhất ở Việt Nam. Với một mạng lưới dày đặc ở 61 tỉnh thành, đội ngũ cán bộ có trình độ, có năng lực, có mối quan hệ quốc tế. Do duy trì cơ chế kế hoạch hoá tập trung và cùng với cơ chế này là sự độc quyền của Bảo Việt trong hoạt động kinh doanh Bảo hiểm. Do vậy trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam trong giai đoạn này chỉ tồn tại duy nhất một công ty Bảo hiểm- đó là Bảo Việt. Vì vậy, trong một thời gian dài người dân Việt Nam chỉ biết đến Bảo hiểm thông qua Bảo Việt. 2. Thị trường Bảo hiểm Việt Nam sau nghị định 100 CP Với đường lối mở cửa thì việc Nhà nước độc quyền trong lĩnh vực kinh doanh Bảo hiểm là khó có thể được. Do đó, ngày 18/12/1993 nghị định 100 CP của Chính phủ ra đời cho phép các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài được thành lập công ty Bảo hiểm, tái Bảo hiểm, môi giới Bảo hiểm; mở chi nhánh, văn phòng đại diện của công ty Bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam. Nó mở ra một thời kỳ mới cho thị trường Bảo hiểm Việt Nam. Đích thực đây mới là thị trường Bảo hiểm vì ở đây bắt đầu có sự cạnh tranh giữa các công ty với nhau. Tuy nhiên nghị định này cho phép các công ty Bảo hiểm trong nước được phép mở trước, công ty Bảo hiểm nước ngoài mở chi nhánh và mở công ty muộn hơn. Chính vì vậy cho đến năm 1997 mới chỉ có gần 30 công ty Bảo hiểm nước ngoàI đặt văn phòng đại diện nhưng chưa có công ty Bảo hiểm nước ngoài nào mở được chi nhánh, thành lập công ty Bảo hiểm tại Việt Nam. Vào thời điểm đó mới chỉ có 4 công ty Bảo hiểm gốc của Việt Nam , đó là: Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO, Bảo Long và công ty tái Bảo hiểm quốc gia ViNaRe cùng với sự góp mặt của gần 30 văn phòng đại diện của các công ty Bảo hiểm nước ngoài đã tạo nên một thị trường sôi động hơn. Thị trường Bảo hiểm Việt Nam chỉ thực sự sôi động kể từ năm 1998 bởi trên thị trường xuất hiện hàng loạt các công ty mà đặc biệt là sự góp mặt của các tập đoàn Bảo hiểm nước ngoàI có uy tín. Đó là công ty liên doanh Bảo hiểm quốc tế Việt Nam( VIA), công ty liên doanh Bảo hiểm liên hiệp( UIC), công ty liên doanh môI giới Bảo hiểm Bảo Việt- INHCAPE, công ty liên doanh Bảo hiểm Việt- UC, công ty TNHH Bảo hiểm ALLIANZ/AFG, công ty TNHH Bảo hiểm Chinfon- Manufile. Theo số liệu thống kê hiện có hơn 40 công ty Bảo hiểm có tiếng của Anh, Mỹ, Nhật, Uc,… đã mở văn phòng đạI diện tạI Việt Nam và đều có nhu cầu mở chi nhánh, thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Điều này cho thấy trong tương lai không xa thị trường Bảo hiểm Việt Nam sẽ ngày càng sôi động hơn, tạo ra một thị trường khá mới mẻ nhưng vô cùng khắc nghiệt buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự hoàn thiện mình, phát huy sức mạnh để đủ sức tồn tại, phát triển trong môi trường cạnh tranh. Tóm lại, ta thấy trong vòng có khoảng 5 năm từ năm 1993- 1998 mà thị trường Bảo hiểm Việt Nam sôi động hơn rất nhiều. II. các loạI hình công ty Bảo hiểm trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam Có nhiều tiêu thức để phân chia, căn cứ vào nguồn vố chủ sở hữu thì có các loại hình công ty Bảo hiểm sau hoạt động trên thị trường Việt Nam: 1. Công ty Bảo hiểm Nhà nước a. Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam ( Bảo Việt) Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam_ Bảo Việt là một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực Bảo hiểm, hoạt động từ ngày 15/1/1965 theo quyết định số 179 CP ngày 17/12/1964 của Thủ tướng chính phủ nước Việt Nam. Từ năm 1981, Bảo Việt đã có các tổ chức Bảo hiểm trực thuộc đặt tại các tỉnh thành trong cả nước để thực hiện các dịch vụ Bảo hiểm. Ngày 17/2/1989, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra quyết định số 27/ TCQĐ/ TCCB chuyển công ty Bảo hiểm Việt Nam thành Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, ngày 01/03/1996, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra quyết định số 145/ TC/ QĐ- TCCB về việc thành lập lại tổng công ty. Ngày 08/10/1996, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 745 xếp hạng đặc biệt cho Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam. Hơn 30 năm hoạt động, Bảo Việt đã từng bước phát triển toàn diện và mạnh mẽ với hơn 62 công ty thành viên khu vực, mạng lưới đại lý, Boả Việt trở thành một doanh nghiệp uy tín trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam, chiếm vị trí chủ đạo với 64% thị phần Bảo hiểm Việt Nam. Với khả năng tài chính lớn mạnh, với những kinh nghiệm lâu năm, năm 1997, Bảo Việt là doanh nghiệp duy nhất được phép kinh doanh cả Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm phi nhân thọ. Với trên 40 nghiệp vụ Bảo hiểm, Bảo Việt đã đáp ứng không chỉ nhu cầu Bảo hiểm của đông đảo tầng lớp dân cư mà còn của các nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực: Bảo hiểm con người, Bảo hiểm Tài sản, Bảo hiểm Trách nhiệm dân sự. Kết quả kinh doanh của Bảo Việt đã khẳng định Bảo Việt tiếp tục giữ vị trí hàng đầu trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam. b. Công ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh ( Bảo Minh) Với yêu cầu phải mở rộng thi trường Bảo hiểm Việt Nam, hơn nữa để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, Bộ Tài chính đã có quyết định thành lập số 1164/ TC/ QĐ- TCCB, ngày 28/11/1994 thành lập công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh ( Bảo Minh). Kể từ năm 1994, Bảo Minh được tách khỏi Bảo Việt và trở thành một công ty độc lập trực thuộc Bộ Tài chính, nó cũng cõ chức năng, quyền han và lĩnh vực hoạt động như Bảo Việt, có quyền kinh doanh tất cả các loại hình Bảo hiểm trên mọi lĩnh vực, và co quyền thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện ở bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam cũng như ở nước ngoài. Mới chỉ mấy năm hoạt động, nhưng do là một công ty năng động, quan tâm đào tạo cán bộ, kết quả kinh doanh của Boả Minh khá cao và năm sau cao hơn năm trước. Năm 1995, doanh thu đạt 160 tỷ VNĐ, năm 1996, đạt 260 tỷ VNĐ. Cùng với kết quả đó, thị phần của Bảo Minh trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam cũng tăng dần qua các năm: năm 1995 chiếm 15,4%; năm 11996, con số đó là 22,5% và năm 1997 là 20,88%. Năm 1996, Bảo Minh đạt mức tăng trưởng 60% về phí Bảo hiểm so với năm 1995, trong khi đó tốc đọ tăng trưởng bình quân của thị trường Bảo hiểm Việt Nam là 37%. Với kết quả đó, Bảo Minh đã, đang và sẽ trở thành một công ty Bảo hiểm đủ sức cạnh tranh với tất cả các công ty Bảo hiểm khác, ngay cả với Bảo Việt- một thời đã từng là “Mẹ đẻ” của nó. c. Công ty tái Bảo hiểm quốc gia Việt Nam ( VINARE) Được thành lập năm 1995 với mục đích chính là hỗ trợ các doanh ghiệp Bảo hiểm trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp mới thành lập hoạt động và phát triển, VINARE đã và đang trở thành một trong những công ty Bảo hiểm Nhà nước không thể thiếu được trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam. Với vốn điều lệ 40 tỷ đồng, trong 2 năm hoạt động, công ty đã thực hiện tốt chức năng kinh doanh tái Bảo hiểm, nâưng phần giữ lại, hạn chế tái Bảo hiểm ra nước ngoài. Tổng phí giữ lại trong nước đạt 85 tỷ đồng, tăng vố hơn 40 tỷ đồng. Để hoàn thiện hơn nữa trong môi trường cạnh tranh, VINARE cung cấp rất nhiều dịch vụ như cung cấp các thông tin Bảo hiểm, tái Bảo hiểm trong và ngoài nước, tư vấn và giúp đỡ về kỹ thuật nghiệp vụ cho các công ty Bảo hiểm trong việc thu xếp tái Bảo hiểm và khai thác Bảo hiểm, đào tạo cán bộ Bảo hiểm và tái Bảo hiểm, đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 2. Công ty Bảo hiểm cổ phần Công ty cổ phần là loại doanh nghiệp do các cổ đông góp vốn ( ít nhất 7 cổ đông ) được quyền phát hành cổ phiếu, trái phiếu. ở Việt Nam hiện nay có 3 công ty Bảo hiểm cổ phần sau đây: a. Công ty Bảo hiểm cổ phần Petrolimex ( PJCO) Xuất phát từ thực tế phát triển của thị trường Bảo hiểm Việt Nam, ngay từ đầu năm 1994, tổng công ty xăng dầu Việt Nam đã cùng với một số công ty tham gia góp vốn thành lập công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực Bảo hiểm. Và sau gần một năm chuẩn bị PETROLIMEX cùng với 6 cổ đông tiến hành thành lập công ty cổ phần Bảo hiểm PETROLIMEX. Ngày 15/6/1995, công ty chính thức đi vào hoạt động và trở thành công ty cổ phần Bảo hiểm đầu tiên ở Việt Nam. PJICO có số vốn đầu tư là 55 tỷ VNĐ và vốn điều lệ là 53 tỷ VNĐ, trong đó 80% vốn góp của các công ty Nhà nước, 19,5% cổ phần để phát hành cổ phiếu cá nhân và cho đến cuối năm 1995 đã phát hành hết. Tổng công ty xăng dầu Việt Nam là cổ đông lớn nhất chiếm 51% tổng số vốn. Ngoài ra, với các cổ đông là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Tổng công ty thép Việt Nam, công ty điện tử Hà Nội ( Hanel), công ty xuất nhập khẩu và thiết bị toàn bộ ( Matexiom), công ty TNHH thiết bị an toàn ( AT). Ngoài 7 cổ đông sáng lập, vào đầu năm 1996, liên hiệp đường sắt Việt Nam đã được hội đồng quản trị của PJCO chấp nhận là một cổ đông tham gia có số vốn góp lớn. Là một công ty mới được thành lập, PJICO gặp không ít những thuận lợi và khó khăn. Nhưng thuận lợi nhất là các cổ đông đều là những công ty và tổng công ty lớn có uy tín trên thị trường Việt Nam và quốc tế nên đã tạo được niềm tin cho khách hàng. Bằng những cố gắng của Hội đồng quản trị và ban giám đốc, PJICO đã từng bước chiếm lĩnh thị trường Bảo hiểm Việt Nam, trong vòng 8 năm hoạt động, doanh thu Bảo hiểm gốc tăng lên nhanh một cách chóng mặt, năm 1995 là 14 tỷ VNĐ; năm 1996 là 52 tỷ VNĐ và năm 1997 con số đó là 79 tỷ VNĐ. Thị phần của công ty tăng dần lên, năm 1995 là 1,7%; năm 1996 là 4,7% và đến năm 1997 là 7%. b. Công ty Bảo hiểm cổ phần Nhà Rồng ( Bảo Long) Được thành lập 11/7/1995 với số vốn pháp định 22 tỷ đồng, Bảo Long trở thành công ty Bảo hiểm cổ phần của Việt Nam sau PJICO được phép hoạt động kinh doanh các nghiệp vụ Bảo hiểm thương mại trên địa bàn trong và ngoài nước. Mặc dù năm 95 lợi nhuận công ty đạt 8 tỷ VNĐ, nhưng thị phần của công ty chỉ đạt 1%- đó là con số khiêm tốn mà đòi hỏi công ty phải nỗ lực hơn nữa. c. Công ty Bảo hiểm cổ phần bưu điện ( PTI) Được thành lập năm 1998 với số vốn pháp định là 68 tỷ VNĐ, chiếm thị phần Bảo hiểm 2%, PTI đang trở thành công ty Bảo hiểm cổ phần lớn, có sức cạnh tranh trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam. 3. Công ty liên doanh Bảo hiểm Là hình thức công ty Bảo hiểm Việt Nam, và công ty hay tập đoàn nước ngoài góp vốn để thành lập công ty Liên doanh.Ơ Việt Nam hiện nay có 3 công ty liên doanh sau: a. Công ty liên doanh Bảo hiểm Quốc tế Việt Nam (VIA) Ngoài 40 văn phòng đại diện của nước ngoài đặt tại Việt Nam, theo xu hướng của một nền kinh tế mở, công ty liên doanh quốc tế VIA giữa Bảo Việt- Tokio Marine And The Comercial Union, bắt đàu hoạt động từ 1/11/1996. Với số vốn điều lệ 6 triệu USD, VIA chỉ được phép hoạt động trong một số nghiệp vụ nhất định. Tuy nhiên, công ty có mối quan hệ với khách hàng Nhật Bản, do đó thị trường tiềm năng rất lớn. b. Công ty liên doanh Bảo hiểm liên hiệp ( UIC) Được cấp giấy chứng nhận ngày 30/5/1997, với số vốn điều lệ 4 triệu USD, chiếm 2% thị phần Bảo hiểm Việt Nam, UIC trở thành công ty liên doanh Bảo hiểm trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam có rất nhiều tiềm năng. c. Công ty liên doanh môi giới Bảo hiểm Bảo Việt – Incape hữu hạn Được cấp giấy chứng nhận 20/12/1994, với số vốn điều lệ 250.000 USD, là công ty liên doanh nên công ty cũng chỉ được phép kinh doanh một số dịch vụ nhất định. Với dịch vụ chính là môi giới Bảo hiểm, công ty trở thành người bạn tin cậy trong việc môi giới, tư vấn Bảo hiểm cho khách hàng. 4. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Là công ty TNHH nhưng cả hai công ty này đều là công ty 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Sự góp mặt của các công ty này đã khiến cho thị trường Bảo hiểm Việt Nam sôi động hơn nhiều, tuy nhiên cũng là những thách thức đối với công ty Bảo hiểm trong nước. a. Công ty 100% vốn nước ngoài Chinfon – Manulife Là công ty Bảo hiểm nhân thọ 100% vốn nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép tại Việy Nam với tổng số vốn đầu tư 10 triệu USD, Chinfon – Manulife, liên doanh giữa tập đoàn Chinfon ( Đài Loan) và Manulife Finacial ( Canada), đã nhanh chóng xác định và triển khai những kế hoạch kinh doanh khá quy mô: tổ chức nhân sự, đào tạo đội ngũ cán bộ Bảo hiểm chuyên nghiệp cũng như xác định phương thức, loại hình Bảo hiểm và đối tượng tiềm năng có thể khai thác. Được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép ngày 12/6/1999 và đã chính thức hoạt động vào tháng 9/1999, công ty đã có kinh nghiệm hơn 100 năm hoạt động của cả hai tập đoàn đã rất thành công trên thương trường quốc tế, với các nghiệp vụ Bảo hiểm hỗn hợp, Bảo hiểm giáo dục hỗn hợp, Bảo hiểm trợ cấp y tế, Bảo hiểm thương tật và tử vong do tai nạn, công ty trở thành công ty Bảo hiểm nhân thọ đầy sức hấp dẫn đối với khách hàng trong và ngoài nước. b. Công ty TNHH Bảo hiểm ALLIANZ/ AGF Được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép, ALLIANZ/ AGF trở thành công ty Bảo hiểm phi nhân thọ 100% vốn nước ngoài đầu tiên hoạt động trê thị trường Bảo hiểm Việt Nam. Đây là công ty liên doanh giữa ALLIANZ Akatiengaselsaft, một trong những tập đoàn Bảo hiểm lớn nhất ở Đức và AFG của Singapore. Với thời hạn hoạt động 30 năm, công ty sẽ đáp ứng nhu cầu Bảo hiểm cho các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động dưới luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, cho các cá nhân nước ngoài, cũng như các tồ chức bằng những dịch vụ Bảo hiểm phi nhân thọ. 5. Công ty chuyên ngành – Công ty Bảo hiểm dầu khí (PVIC) Cùng với sự phát triển kinh tế, là nhu cầu được đáp ứng dịch vụ nói chung, và dịch vụ Bảo hiểm nói riêng ngày càng tăng lên. Tuy nhiên khả năng hiện tại cuả các công ty Bảo hiểm còn chưa đáp ứng kịp, nhất là trong lĩnh vực xăng, dầu khí... Theo thống kê hàng năm có khoảng từ 90 – 95% các hợp đồng Bảo hiểm dầu khí bị ép chuyển ra nước ngoài do thế yếu của các doanh nghiệp trong nước ( không đủ khả năng tài chính, không có kinh nghiệm,... ) dẫn tới hàng năm có khoảng 15- 17 triệu USD bị chuyển ra nước ngoài dưới hình thức phí Bảo hiểm, trong khi chúng ta đang kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Điều đáng nói ở đây là dịch vụ Bảo hiểm bị chuyển ra nước ngoài trong khi rủi ro và đối tượng Bảo hiểm phát sinh tại lãnh thổ Việt Nam. Chính vì vậy trong điều lệ tổ chức và hoạt động cuả Tổng công ty dầu khí Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn có mô hình công ty Bảo hiểm dầu khí dưới hình thức doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập. Để thực hiện nghị định này, ngày 3/10/1995, hội đồng quản trị Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã họp bàn về vấn đề này và đã ký quyết định số 1396/ HĐQT ngày 14/10/1995 thành lập công ty Bảo hiểm dầu khí ( PVIC). Từ đấy PVIV trở thành công ty chuyên ngành đầu tiên cảu nước ta, đồng thời cũng là doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty dầu khí Việt Nam. PVIC có một ưu thế mà không một công ty Bảo hiểm nào ở Việt Nam có được- đó là được phép thực hiện Bảo hiểm y tế bắt buộc đối với tất cả các cán bộ công nhân viên trong ngành dầu khí. Công ty đã, đang triển khai tất cả các nghiệp vụ Bảo hiểm thương mại trong phạm vi ngành dầu khí và góp phần làm thay đổi cơ cấu thị trường Bảo hiểm Việt Nam, góp phần to lớn vào việc tăng trưởng kinh tế đất nước và cải thiện đời sống nhân dân. III. Thị phần của các công ty Bảo hiểm trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam Chỉ khi nào độc quyền không còn tồn tại trên thị trường thì khi đó mới xuất hiện khái niệm thị phần, đó chính là tỷ lệ chiếm giữ thị trường của các công ty. Trước năm 1995, thị trường Bảo hiểm Việt Nam chỉ có duy nhất Bảo Việt hoạt động. Nhưng từ năm 1995 trở lại đây, kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ theo cơ chế thị trường. Và do đó các công ty Bảo hiểm ra đời và tham gia vào thị trường Bảo hiểm song thị phần chủ yếu vẫn do Bảo Việt nắm giữ. Thị phần bảo hiểm năm 1996 Thị phần bảo hiểm năm 1995 Thị phần bảo hiểm năm 1998 Thị phần bảo hiểm năm 1997 Thị phần bảo hiểm năm 1999 Thị phần bảo hiểm năm 2000 Phần 3: những vấn đề cơ bản để tổ chức một công ty Bảo hiểm trên thị trường Việt Nam hiện nay. I/ Cơ cấu tổ chức của công ty Bảo hiểm Các công ty Bảo hiểm hoạt động dựa trên sự góp sức của nhiều người cùng làm việc với nhau, vì vậy để hoạt động đạt được mục tiêu chung, cần phải phân bổ cho mỗi người một vai trò nhất định. Tổ chức chính là sự liên kết các cá nhân, những quá trình, những hoạt động trong hệ thống nhằm thực hiện mục tiêu đề ra dựa trên các nguyên tắc và quy tắc quản trị quy định. Cơ cấu tổ chức là hình thức tồn tại của tổ chức, biểu thị việc sắp xếp các bộ phận được chuyên môn hoá với những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, có mối liên hệ mật thiết với nhau và được bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau, nhằm thực hiện các chức năng quản lý. Cơ cấu tổ chức quản lý tốt sẽ đảm bảo cho hoạt động của công ty có hiệu quả và đối phó với biến động của môi trường. Nguyên tắc hình thành cơ cấu tổ chức: cơ cấu tổ chức phải đi theo và đáp ứng yêu cầu của chiến lược kinh doanh như tính tối ưu, tính linh hoạt, tính tin cậy và tính kinh tế. Các nhân tố tác động đến cơ cấu tổ chức là chiến lược của công ty Bảo hiểm, nhiệm vụ của công ty, công nghệ, môi trường kinh doanh và mối quan hệ phụ thuộc giữa số lượng người bị quản lý và khả năng kiểm tra của người lãnh đạo. Cơ cấu tổ chức của công ty Bảo hiểm không có tính cứng nhắc mà phải thay đổi tuỳ thuộc vào điều kiện ảnh hưởng. Đa số các công ty Bảo hiểm được tổ chức như sau: Văn phòng chính: có trách nhiệm xây dựng chính sách tổng thể và điều hành các hoạt động của công ty. Văn phòng chính thường đặt ở một trung tâm thủ đô hoặc một trong các thành phố chính. Các văn phòng chi nhánh: có trách nhiệm kinh doanh dịch vụ đối với khách hàng và thanh toán dàn xếp các khoản bồi thường. Văn phòng còn được gọi là công ty hoặc chi nhánh công ty. Tổ chức tại văn phòng chi nhánh thường khác với văn phòng chính. Đây là đơn vị trực tiếp với bên ngoài thông qua các nhân viên và các đại diện. Như đã nói ở trên, từng người ở từng cấp bậc sẽ có nhiệm vụ hoàn thành trách nhiệm của mình được giao từ đó liên kết với nhau sẽ đạt mục đích chung của công ty đề ra. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức một công ty Bảo hiểm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và có thể thay đổi. Vì vậy, thông thường các công ty Bảo hiểm thương có cơ cấu tổ chức phân chia theo 3 nhóm: theo chức năng, theo sản phẩm và theo lãnh thổ. Công ty Bảo hiểm Có thể sử dụng một trong ba cách tổ chức này hoặc kết hợp các cách sao cho phù hợp với công ty của mình. 2/ Chức năng của các bộ phận chủ yếu Bộ phận Marketing Bộ phận này chịu trách nhiệm về việc đưa sản phẩm của công ty Bảo hiểm tới khách hàng. Bao gồm: nghiên cứu thị trường, tạo ra các sản phẩm mới theo nhu cầu, xem xét lại các sản phẩm hiện tại để phù hợp hơn với nhu cầu khách hàng, cho khách hàng thấy được lợi ích của sản phẩm, bán sản phẩm. b) Bộ phận định giá phí Bảo hiểm Bộ phận định giá phí Bảo hiểm có trách nhiệm xem xét các hoạt động của công ty trên cơ sở toán học. Nó phối hợp với các bộ phận khác của công ty để thiết lập và xem xét lại các sản phẩm của công ty. Nó định ra tỷ lệ phí Bảo hiểm, tỷ lệ lãi cổ phần, thưởng. Nó cũng xác định xem vốn dự trữ của công ty Bảo hiểm đồng thời xác địh cả giá trị vay, các khoản huỷ bỏ của đơn Bảo hiểm… Đây là một bộ phận quan trọng của công ty Bảo hiểm. c/ Thẩm định và đánh giá rủi ro Bộ phận này đảm bảo cho công ty biết rằng thiệt hại do rủi ro xảy ra là bao nhiêu, có trong phạm vi Bảo hiểm hay không? Ngoài ra bộ phận này còn tham gia vào quá trình đàm phán và quản lý các hợp đồng tái Bảo hiểm mà theo đó công ty Bảo hiểm có thể chuyển toàn bộ hoặc một phần các rủi ro Bảo hiểm cho các công ty Bảo hiểm khác. D/ Dịch vụ khách hàng Bộ phận này sẽ làm cho khách hàng tin tưởng công ty hơn vì có đầy đủ thông tin về Bảo hiểm đồng thời các chuyên gia sẽ trả lời cho khách hàng về thắc mắc của họ về Bảo hiểm. NgoàI ra bộ phận này còn gửi các thông báo về phí Bảo hiểm cho khách hàng, thu phí Bảo hiểm… e) Giải quyết khiếu nại Bộ phận này có nhiệm vụ xem xét các khiếu nại của người được Bảo hiểm, người được hưởng lợi và xác định hiệu lực của khiếu nại và quyết định trả tiền bảo hiểm cho ngươì thích hợp. f) Đầu tư Đầu tư là một bộ phận tương đối độc lập. Bộ phận này sẽ xem xét thị trường tài chính và đưa ra các chiến lược đầu tư theo chính sách mà ban giám đốc đã đề ra. Họ đồng thời như các cố vấn của Tổng giám đốc và hội đồng Giám đốc khi có sự sát nhập hoặc mua lại một công ty khác. g) Kế toán Bộ phận này rất quan trọng vì nó cho biết công ty hiện nay lãi hay lỗ. Ngoài ra nó còn chịu trách nhiệm duy trì sổ sách kế toán chung của toàn công ty, chuẩn bị các báo cáo tài chính, quản lý việc thu nhận tiền, đồng thời cũng phối hợp với các bộ phận pháp chế để đảm rằng công ty đang hoạt động phù hợp với quy định của chính phủ và luật thuế. h) Pháp chế Bộ phận này cho biết công ty hoạt động có phù hợp với luật pháp và các quy định cuả cơ quan quản lý Bảo hiểm. Đồng thời cũng nghiên cứu các quy định sắp ban hãnh xem có ảnh hưởng tới công ty hay không. Ngoài ra còn cố vấn cho bộ phận giải quyết khiếu nại. i) Tin học Bộ phận này chịu trách nhiệm phát triển và bảo dưỡng hệ thống máy tính của công ty. Hệ thống bao gồm: các hệ thống xử lý thông tin, xử lý văn bản và hệ thống tự động của công ty. Ngoài ra nó còn giúp công ty phát triển về phần mềm cần thiết để cung cấp thông tin, bảo quản tàI liệu và quản lý sản phẩm._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34982.doc
Tài liệu liên quan