Lời Nói Đầu
Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất gay gắt, sự sống còn của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sức mạnh cạnh tranh. Ngày nay,sự cạnh tranh không chỉ đơn thuần là sự cạnh tranh về chất lượng của sản phẩm mà còn là sự cạnh tranh về giá cả, thì vấn đề giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm luôn luôn là mục tiêu quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Vấn đề này tuy không còn mới mẻ, nhưng nó luôn là vấn đề mà mọi doanh nghiệp đều quan tâm. Vậy các doanh nghiệp cần có
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1192 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tổ chức công tác Kế toán tập hợp chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty Dệt len Mùa Đông Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biện pháp gì để có thể đạt được mục tiêu: Giảm chi phí, hạ giá thành nhưng vẫn đảm bảo chất lượng của sản phẩm, tạo sức cạnh tranh để có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Chính vì vậy, việc tập hợp chi phí và tính đúng giá thành sản phẩm taị các doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí, giá thành, mặt khác, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có biện pháp phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một phần hành quan trọng của kế toán, nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý của Công ty nói riêng, cũng như quản lý vĩ mô của Nhà nước nói chung.
ở nước ta, trải qua nhiều năm chuyển đổi nền kinh tế, nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã quen trong cơ chế quan liêu, bao cấp, làm ăn theo kiểu lãi giả, lỗ thật đã không đứng vững được trong cơ chế thị trường nên phải giải thể. Nhưng bên cạnh đó vẫn có những doanh nghiệp Nhà nước đã tìm ra cho mình một con đường đi đúng đắn, sản xuất ngày càng đi lên, quy mô ngày càng phát triển. Công ty Dệt len Mùa Đông là một doanh nghiệp Nhà nước chuyên sản xuất các mặt hàng dệt may phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tuy có quy mô khiêm tốn nhưng đã có sự phát triển tốt về mọi mặt, hoà nhập được với xu thế phát triển của đất nước. Một trong những lý do giúp doanh nghiệp tồn tại và khẳng định được vị trí của mình trên thị trường trong bối cảnh thị trường dệt may có nhiều biến động, đó là công ty đã quan tâm và thực hiện tốt công tác tiết kiệm chi phí sản xuất từ đó làm cơ sở để hạ giá thành sản phẩm.
Nhận thức rõ vị trí và vai trò của công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm, trong thời gian thực tập tại Công ty Dệt len Mùa Đông, em đã đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm và hoàn thành luận văn với đề tài:” Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Dệt len Mùa Đông Hà Nội”.
Đề tài trên nhằm mục tiêu: Vận dụng lý luận hạch toán kế toán vào thực tiễn, trên cơ sở tìm hiểu thực tế để có những ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác kế toán tại đơn vị thực tập.
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn bao gồm 3 phần chính sau:
Phần I: Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất.
Phần II: Thực trạng tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty dệt len mùa đông.
Phần III: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty dệt len mùa đông.
Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên tiếp xúc với thực tế, khả năng và thời gian có hạn, đối tượng nghiên cứu lại rất rộng và phức tạp nên luận văn không tránh khỏi những sai sót . Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, các cán bộ trong Công ty Dệt len Mùa Đông và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nghiêm Thị Thà, cán bộ trong công ty đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành luận văn.
phần thứ nhất
Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các
doanh nghiệp sản xuất.
Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất.
1.1.1. Khái niệm, bản chất của chi phí sản xuất.
Sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của xã hội là hoạt động chính của các doanh nghiệp sản xuất. Để tiến hành một hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có đầy đủ các yếu tố cơ bản như : Tư liệu lao động, đối tượng lao động, sức lao động. Sự tham gia của các yếu tố này vào quá trình sản xuất hình thành nên các khoản chi phí tương ứng.
Như vậy, chi phí sản xuất là toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá trình sản xuất trong một thời kỳ nhất định, biểu hiện bằng tiền.
Chi phí về lao động sống bao gồm: Tiền lương, trích quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế …, của công nhân sản xuất.
Chi phí về lao động vật hoá bao gồm chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, khấu hao tài sản cố định…
Trong doanh nghiệp cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí của kỳ hạch toán chỉ những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Còn chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp ( mua sắm vật tư, hàng hoá), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý…) và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ ( chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo).
Việc phân biệt giữa chi phí và chi tiêu có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu bản chất cũng như nội dung, phạm vi và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ để tính giá thành sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành, có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất bao gồm rất nhiều loại, do đó để quản lý chặt chẽ việc sử dụng tiết kiệm và hợp lý chi phí cũng như để tổ chức tốt công tác kế toán thì ở mỗi doanh nghiệp khác nhau, dựa trên các tiêu thức khác nhau, cần tiến hành phân loại chi phí sản xuất phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp.
1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất:
Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế:
theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia thành 5 loại:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ chi phí về các loại nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế…mà doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động sản xuất trong kỳ.
-Chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ số tiền lương, phụ cấp và các khoản trích trên tiền lương theo quy định của lao động trực tiếp sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiẹn công việc, lao vụ trong kỳ.
-Chi phí khấu hao tài sản cố định: Phản ánh toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định sử dụng cho sản xuất trong kỳ của doanh nghiệp.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: Gồm các khoản chi trả về các loại dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
-Chi phí khác bằng tiền: Là toàn bộ chi phí bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế có tác dụng quan trọng đối với việc quản lý chi phí của lĩnh vực sản xuất:Cho phép hiểu rõ cơ cấu, tỷ trọng từng yếu tố chi phí; là cơ sở để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất; làm cơ sở cho việc dự trù hay xây dựng kế hoạch cung ứng vật tư, tiền vốn, huy động sử dụng lao động,…
Tuy nhiên, với cách phân loại này chỉ nêu lên được yếu tố chi phí nào đã được sử dụng chứ không chỉ rõ được công dụng cụ thể của chi phí và quan hệ giữa chi phí sản xuất với giá thành sản phẩm. Chính vì vậy mà các nhà quản lý doanh nghiệp còn phân loại chi phí theo mục đích, công dụng kinh tế.
Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng của chi phí:
Theo tiêu thức này, chi phí sản xuất được chia thành các khoản mục sau đây:
-Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm chi phí về các loại nguyên vật liệu chính ( kể cả nửa thành phẩm mua ngoài), vật liệu phụ, nhiên liệu…sử dụng trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện công việc, lao vụ.
- Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp phải trả và các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn trên tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất theo quy định.
- Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí dùng vào việc quản lý và phục vụ sản xuất chung tại bộ phận sản xuất ( phân xưởng, đội, trại…); bao gồm 6 điều khoản sau:
+ Chi phí nhân viên phân xưởng: Gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp phải trả và các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn trên tiền lương của nhân viên quản lý, nhân viên thống kê, nhân viên tiếp liệu, nhân viên bảo vệ… tại phân xưởng( đội, trại) sản xuất theo quy định.
+ Chi phí vật liệu: Gồm vật liệu các loại sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung của phân xưởng sản xuất như dùng để sửa chữa tài sản cố định, dùng cho công tác quản lý tại phân xưởng.
+ Chi phí dụng cụ sản xuất: Là chi phí về các loại công cụ, dụng cụ dùng cho nhu cầu sản xuất chung ở phân xưởng sản xuất như: khuôn mẫu, dụng cụ gá lắp, dụng cụ cầm tay, dụng cụ bảo hộ lao động.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định: Bao gồm số khấu hao của tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình và tài sản cố định thuê tài chính sử dụng ở phân xưởng sản xuất như khấu hao máy móc thiết bị, khấu hao nhà xưởng…
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Bao gồm các khoản chi phí về dịch vụ mua ngoài, thuê ngoài để sử dụng cho nhu cấu sản xuất chung của phân xưởng sản xuất như chi phí về điện, nước, điện thoại, thuê sửa chữa tài sản cố định.
+ Chi phí bằng tiền khác: Bao gồm các khoản chi bằng tiền ngoài các khoản đã kể trên, sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung của phân xưởng sản xuất.
Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng kinh tế có tác dụng phục vụ cho việc quản lý chi phí theo định mức; là cơ sở cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo khoản mục; là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và định mức chi phí sản xuất cho kỳ sau.
Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ sản xuất trong kỳ:
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia thành 2 loại:
- Chi phí khả biến( biến phí): Là những chi phí có sự thay đổi khi có sự thay đổi của khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. Cần lưu ý rằng, các chi phí biến đổi nếu tính trên một đơn vị sản phẩm thì lại có tính cố định.
- Chi phí cố định( định phí): Là những chi phí mà tổng số không thay đổi khi có sự thay đổi của khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ hoàn thành trong kỳ. Chi phí cố định nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi.
Cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong quản trị kinh doanh, phân tích điểm hoà vốn, phục vụ cho việc ra các quyết định cần thiết để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả của chi phí.
Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí và mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí:
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia thành 2 loại:
- Chi phí trực tiếp: Là những chi phí có liên quan trực tiếp với việc sản xuất ra một loại sản phẩm và được kết chuyển trực tiếp cho sản phẩm hoặc đối tượng chịu chi phí.
- Chi phí gián tiếp: Là những chi phí sản xuất có liên quan đến việc sản xuất nhiều loại sản phẩm hoặc công việc khác nhau, những chi phí này cần phải được phân bổ cho các đối tượng liên quan theo một tiêu thức thích hợp.
Cách phân loại này có ý nghĩa trong việc xác dịnh phương pháp kế toán tập hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng chịu chi phí một cách hợp lý.
Mỗi cách phân loại trên đều phục vụ cho mục đích quản lý , hach toán, kiểm tra, kiểm soát chi phí phát sinh ở các góc độ khác nhau. Vì thế các cách phân loại đều tồn tại, bổ sung cho nhau và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Trong sản xuất kinh doanh, chi phí mới chỉ là một mặt thể hiện sự hao phí sản xuất. Để đánh giá chất lượng và hiệu quả của sản xuất kinh doanh thì chi phí sản xuất cần phải được xem xét trong mối quan hệ với kết quả quá trình sản xuất hay là với giá thành sản phẩm.
Giá thành sản xuất và phân loại giá thành:
Giá thành sản xuất sản phẩm:
Giá thành sản phẩm (công việc, lao vụ) là chi phí sản xuất tính cho một khối lượng hoặc một đơn vị sản phẩm (công việc, lao vụ) do doanh nghiệp sản xuất đã hoàn thành.
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: Mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ tạo nen chỉ tiêu giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp. Giá thành sản phẩm cao hay thấp, tăng hay giảm đồng nghĩa với việc lãng phí hay tiết kiệm lao động xã hội, bao gồm cả lao động sống và lao động vật hoá trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm cao hay thấp, nó phản ánh kết quả của việc quản lý, sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp, cũng như tính đúng đắn của các giải pháp tổ chức, kinh tế, kỹ thuật và công nghệ mà doanh nghiệp đã sử dụng nhằm đạt mục đích sản xuất được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí sản xuất tiết kiệm và hạ giá thành sản phẩm. Giá thành còn là một căn cứ quan trọng để định giá bán và xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất.
Phân loại giá thành sản phẩm:
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán, lập kế hoạch giá thành và xây dựng giá bán sản phẩm, giá thành sản phẩm được phân loại theo các tiêu thức khác nhau:
Phân loại giá thành theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành:
theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm được chia thành 3 loại:
- Giá thành kế hoạch: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính giá thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và được tiến hành truức khi bắt đầu qua trình sản xuất, chế tạo sản phẩm.Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp.
- Giá thành định mức: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. Việc tính giá thành định mức cũng được thực hiện trước khi tiến hành sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành định mức là công cụ quản lý định mức của doanh nghiệp , là thước đo chính xác để xác định kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động trong sản xuất, giúp cho đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình hoạt động sản xuất nhằm nang cao hiệu quả kinh doanh.
- Giá thành thực tế: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ cũng như sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất trong kỳ. Giá thành thực tế chỉ có thể tính toán được sau khi kết thúc quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm và được tính toán cho cả chỉ tiêu tổng giá thành và giá thành đơn vị. Giá thành thực rế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế-kỹ thuật-tổ chức và công nghệ…để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước cũng như các đối tác liên doanh liên kết.
Phân loại giá thành theo phạm vi các chi phí cấu thành:
Theo cách phân loại này, giá thành được chia làm 2 loại:
- Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng): Bao gồm toàn bộ chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung tính cho sản phẩm, công việc hay lao vụ đã hoàn thành.
Giá thành sản xuất của sản phẩm được sử dụng để hạch toán thành phẩm nhập kho và giá vốn hàng bán(bán thẳng cho khách hàng không qua nhập kho). Giá thành sản xuất là căn cứ để xác định giá vốn hàng bán và mức lãi gộp trong kỳ ở các doanh nghiệp .
- Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ: Bao gồm giá thành sản xuất và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm tiêu thụ.
Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ chỉ xác định và tính toán khi sản phẩm, công việc hoặc lao vụ đã được xác nhận là tiêu thụ. Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ là căn cứ để tính toán, xác định mức lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp.
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt biểu hiện của quá trình sản xuất. Giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất đã tập hợp cho một lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động sản xuất. Tuy vậy, giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có sự khác nhau thể hiện ở những phương diện sau:
- Chi phí sản xuất luôn gắn liền với từng thời kỳ phát sinh chi phí, còn giá thành sản phẩm lại gắn với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành.
- Chi phí sản xuất không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến những sản phẩm hỏng và sản phẩm dở dang cuối kỳ. Còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng, nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang.
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được thể hiện bằng công thức sau:
Giá thành Chi phí sản xuất Chi phí sản xuất Chi phí sản xuất
sản phẩm dở dang đầu kỳ phát sinh trong kỳ dở dang cuối kỳ
Nhiệm vụ kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Để tổ chức tốt công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đáp ứng đầy đủ, trung thực, kịp thời yêu cầu quản lý doanh nghiệp, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp và yêu cầu quản lý.
- Tổ chức vận dụng các tài khoản kế toán để hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm phù hợp với phương pháp kế toán hàng tồn kho (kê khai thường xuyên hoặc kiểm kê định kỳ) mà doanh nghiệp đã lựa chọn.
- Tổ chức tập hợp, kết chuyển hoặc phân bổ chi phí sản xuất theo đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất đã xác định, theo các yếu tố chi phí và khoản mục giá thành.
- Lập báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố( trên thuyết minh báo cáo tài chính); định kỳ tổ chức phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp.
- Tổ chức kiểm kê và đánh giá khối lượng sản phẩm dở dang khoa học, hợp lý, xác định giá thành và hạch toán giá thành sản phẩm hoàn thành sản xuất trong kỳ một cách đầy đủ và chính xác.
Tổ chức kế toán, tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm.
Để quản lý tốt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đòi hỏi phải xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất của mỗi doanh nghiệp.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn mà chi phí sản xuất cần phải tập hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra, phân tích chi phí và tính giá thành sản phẩm.
Việc lựa chọn đối tượng tập hợp chi phí ở từng doanh nghiệp khác nhau là khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào đặc điểm tổ chức kinh doanh, yêu cầu quản lý cũng như quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm.
Để xác định đúng đắn đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất trước hết cần phải căn cứ vào đặc điểm và công dụng của chi phí trong sản xuất, sau đó căn cứ vào địa điểm phát sinh chi phí (phân xưởng, giai đoạn công nghệ). Tuỳ theo cơ cấu tổ chức sản xuất, yêu cầu quản lý, yêu cầu hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp mà đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là toàn bộ quy trình công nghệ hay từng giai đoạn, từng quy trình công nghệ riêng biệt, từng phân xưởng, tổ đội sản xuất. Tuỳ theo quy trình công nghệ riêng biệt, từng phân xưởng, tổ đội sản xuất, đặc điểm của sản phẩm mà đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là từng nhóm sản phẩm, từng mặt hàng sản phẩm, từng đơn đặt hàng, từng loạt hàng hoặc từng bộ phận.
Như vậy, việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất thực chất là việc xác định nơi phát sinh chi phí và đối tượng phải chịu chi phí.
Đối tượng tính giá thành:
Đối tượng tính giá thành là những sản phẩm, bán thành phẩm, công việc hoặc lao vụ do doanh nghiệp sản xuất hoàn thành cần phải xác định được tổng giá thành và giá thành đơn vị.
Khi tính giá thành sản phẩm, dịch vụ trước hết phải xác định được đối tượng tính giá thành. Căn cứ vào đặc điểm tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, loại sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất và thực hiện để xác định đối tượng tính giá thành cho phù hợp với thực tế của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất có tính chất đơn chiếc như đóng tàu, sửa chữa ô tô… thì đối tượng tính giá thành là những sản phẩm hoàn thành. Nếu sản xuất chế tạo mang tính hàng loạt như chế tạo xe máy, ti vi…thì đối tượng tính giá thành là từng loại sản phẩm hoàn thành. Mặt khác, khi xác định đối tượng tính giá thành còn phải căn cứ vào quy trình công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Nếu quy trình sản xuất giản đơn thì đối tượng tính giá thành có thể là loại sản phẩm hoàn thành ở cuối quy trình công nghệ. Nếu quy trình phức tạp theo kiểu liên tục thì đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở giai đoạn cuối hay bán thành phẩm ở mỗi giai đoạn. Nếu quy trình sản xuất phức tạp kiểu song song thì đối tượng tính giá thành là từng chi tiết, bộ phận sản phẩm hoàn thành hay sản phẩm cuối cùng đã hoàn chỉnh….
Đơn vị tính giá thành của từng loại sản phẩm phải là đơn vị tính đã được xã hội thừa nhận và phải phù hợp với đơn vị tính trong kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành:
Đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành có mối quan hệ mật thiết với nhau và trong trường hợp đặc biệt chúng có thể thống nhất với nhau đối với quy trình công nghệ là giản đơn, chế tạo ra một loại sản phẩm. Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa lớn trong việc tổ chức tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý chi phí và quản lý giá thành sản phẩm.
Đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành giống nhau ở bản chất chung, chúng đều là phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí và cùng phục vụ cho công tác quản lý, phân tích, kiểm tra chi phí và giá thành. Tuy nhiên, giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành cũng có những điểm khác nhau cơ bản:
- Xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định phạm vi phát sinh chi phí để tập hợp chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
- Xác định đối tượng tính giá thành có liên quan đến kết quả của quá trình sản xuất (thành phẩm hoặc dịch vụ hoàn thành).
- Một đối tượng tập hợp chi phí có thể có nhiều đối tượng tính giá thành và ngược lại, một đối tượng tính giá thành có thể có nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Nội dung kế toán tập hợp chi phí:
1.5.2.1 Phương pháp kế toán chi phí sản xuất:
Phương pháp kế toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại chi phí sản xuất theo các khoản mục giá thành trong phạm vi giới hạn của từng đối tượng tập hợp chi phí như: sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ, phân xưởng, nhóm sản phẩm…
Tuỳ thuộc vào khả năng quy nạp chi phí vào các đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất, kế toán sẽ áp dụng phương pháp tập hợp chi phí sản xuất một cách phù hợp.
Phương pháp tập hợp chi phí trực tiếp áp dụng đối với các chi phí có liên quan trực tiếp đến đối tượng kế toán tập hợp chi phí đã xác định và công tác hạch toán, ghi chép ban đầu cho phép quy nạp trực tiếp các chi phí nà vào từng đối tượng kế toán tập hợp chi phí có liên quan.
Phương pháp phân bổ gián tiếp áp dụng khi một loại chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất , không thể tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng được.Theo phương pháp này, trước hết tập hợp toàn bộ chi phí sản xuất sau đó sẽ tiến hành phân bổ cho từng đối tượng cụ thể. Tiêu chuẩn phân bổ phải đảm bảo được mối quan hệ tương quan giữa chi phí phân bổ và các đối tượng chịu chi phí.
Trên cơ sở tiêu chuẩn phân bổ và số chi phí cần phân bổ ta có công thức:
Ci=
Trong đó:
Ci: Chi phí sản xuất phân bổ cho đối tượng thứ i.
ồC: Tổng chi phí sản xuất đã tập hợp cần phân bổ.
ồTi: Tổng đại lượng của tiêu chuẩn dùng để phân bổ.
Ti: Đại lượng của tiêu chuẩn dùng để phân bổ của đối tượng i.
Đại lượng của tiêu chuẩn dùng để phân bổ( đơn vị công) được lựa chọn tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Độ tin cậy của thông tin về chi phí phụ thuộc vào tính hợp lý của tiêu chuẩn phân bổ được lựa chọn.
1.5.2.2 Tổ chức kế toán tập hợp chi phí:
Hàng tồn kho hiện nay của các doanh nghiệp được hạch toán theo hai phương pháp: Phương pháp kê khai thường xuyên và phương pháp kiểm kê định kỳ.
Trường hợp doanh nghiệp kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên: Hệ thống tài khoản được sử dụng để tập hợp chi phí bao gồm các tài khoản sau:
- Tài khoản 621” chi phí nguyên vật liệu trực tiếp” dùng để tập hợp toàn bộ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp dùng cho sản xuất trong kỳ ở doanh nghiệp.
Chi phí thực tế nguyên vật liệu trực tiếp trong kỳ được tính vào giá thành sản phẩm phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Trị giá nguyên vật liệu trực tiếp xuất và đưa vào sản xuất trong kỳ: Căn cứ vào chứng từ xuất kho và sử dụng nguyên vật liệu trực tiếp cho từng đối tượng có liên quan.
+ Trị giá nguyên vật liệu còn lại đầu kỳ ở các phân xưởng, địa điểm sản xuất nhưng đến cuối kỳ trước chưa sử dụng, được chuyển cho kỳ này.
+ Trị giá nguyên vật liệu xuất dùng trong kỳ nhưng đến cuối kỳ sử dụng không hết nhập lại kho hoặc để lại tại các địa điểm sản xuất sử dụng cho kỳ sau: Yếu tố này được xác định dựa vào các phiếu nhập kho vật liệu và phiếu báo vật liệu còn lại cuối kỳ.
+ Trị giá phế liệu thu hồi ( nếu có): Được căn cứ vào các chứng từ nhập kho phế liệu và đơn giá phế liệu doanh nghiệp đã sử dụng trong kỳ hạch toán.
Chi phí NVL Trị giá NVL Trịgiá NVL còn Trị giá NVL còn Trị giá
-
-
trực tiếp = xuất, sử dụng + lại đầu kỳ ở địa lại cuối kỳ chưa phế liệu
trong kỳ trong kỳ điểm sản xuất sử dụng thu hồi
- Tài khoản 622 “ chi phí nhân công trực tiếp” dùng để tập hợp và phân bổ chi phí nhân công trực tiếp sản xuất.
- Tài khoản 627 “ chi phí sản xuất chung” dùng để tập hợp và phân bổ các chi phí liên quan đến việc phục vụ , quản lý sản xuất trong phân xưởng, tổ đội sản xuất.
- Tài khoản 154 “ chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” được sử dụng để tập hợp chi phí sản xuất và cung cấp số liệu để tính giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ ở các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ. Ngoài ra, tài khoản này còn được sử dụng để hạch toán nghiệp vụ thuê ngoài gia công chế biến và tính giá thành vật liệu thuê ngoài chế biến.
Tài khoản 154 được hạch toán chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất (theo địa điểm phát sinh, nhóm, loại sản phẩm theo từng ngành, từng công trình, hạng mục công trình…).
Ngoài ra, kế toán còn sử dụng các tài khoản liên quan như tài khoản 155 “thành phẩm”; tài khoản 632 “giá vốn hàng bán”.
Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và giá thành theo phương pháp kê khai thường xuyên được phản ánh theo sơ đồ sau :
Sơ đồ số 1:
TK 621 TK154 TK138,152,821
Dđk*** Trị giá sản phẩm hỏng bắt bồi thường
Chi phí NVL trực tiếp Phế liệu thu hồi do sản phẩm hỏng
TK 622 TK155
Giá thành thực tế sản phẩm hoàn thành
Chi phí nhân công trực tiếp nhập kho
TK627 TK157
Giá thành thực tế sản phẩm gửi bán
Chi phí sản xuất chung không qua kho
TK 632
Giá thành thực tế sản phẩm hoàn
thành bán ngay
Dck ***
Trường hợp doanh nghiệp kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ:
Cũng tương tự phương pháp kê khai thường xuyên, chi phí sản xuất trong kỳ được tập hợp trên các tài khoản:
- Tài khoản 621- Chi phí vật liệu trực tiếp
- Tài khoản 622- Chi phí nhân công trực tiếp
- Tài khoản 627- Chi phí sản xuất chung
Và thay vì tài khoản 154 ”Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”, kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ sử dụng tài khoản 631 “giá thành sản xuất” để tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm hoàn thành.
Trình tự kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành theo phương pháp kiểm kê định kỳ được phản ánh trên sơ đồ sau:
Sơ đồ số 2:
TK 154 TK631
Kết chuyển chi phí dở dang đầu kỳ Phản ánh chi phí
SXDD cuối kỳ
TK 611 TK621 TK 611,138,821
Chi phí NVL trực tiếp Phế liệu SP hỏng thu hồi
Trị giá SP hỏng bắt bồi
TK 622 thường tính vào CPBT
Chi phí NC trực tiếp
TK 632
TK 627
Chi phí sản xuất chung Giá thành thực tế SP hoàn
thành sản xuất trong kỳ
Tuỳ vào đặc điểm sản xuất của mỗi doanh nghiệp mà có thể sử dụng một trong hai phương pháp hạch toán trên. Giữa hai phương pháp có những điểm khác biệt cơ bản sau:
+ Về thực chất, phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi và phản ánh thường xuyên liên tục có hệ thống tình hình nhập, xuất, tồn kho vật tư hàng hoá trên sổ kế toán, còn phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp hạch toán căn cứ vào kết quả kiểm kê thực tế để phản ánh giá trị của vật tư hàng hoá tồn kho cuối kỳ trên sổ kế toán.
+ Trong phương pháp kê khai thường xuyên, kế toán sử dụng tài khoản 154 “ chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” để tập hợp chi phí sản xuất trong kỳ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, thuê ngoài gia công, tự chế và tính giá thành sản phẩm. Còn đối với phương pháp kiểm kê định kỳ, tài khoản 154 chỉ sử dụng để phản ánh chi phí dở dang đầu kỳ và cuối kỳ;và để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm hoàn thành, kế toán sử dụng tài khoản 631”giá thành sản xuất”.
Nhìn chung, trên thực tế đối với các doanh nghiệp sản xuất thì phương pháp kê khai thường xuyên được sử dụng phổ biến hơn.
1.5.2.3 Tổ chức hệ thống sổ kế toán để ghi chép tập hợp chi phí:
Tuỳ theo từng hình thức kế toán, mỗi doanh nghiệp sẽ có một hệ thống sổ kế toán thích hợp để phản ánh quá trình tập hợp chi phí sản xuất.
- Đối với doanh nghiệp áp dụng hình thức Nhật ký chung:Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được thực hiện trên hệ thống các bảng phân bổ, sổ chi tiết tài khoản và trên hệ thống sổ tổng hợp như Nhật ký chun._.g và sổ cái cho các tài khoản 621, 622, 627, 154(631). Dựa vào hệ thống sổ chi tiết và sổ cái, kế toán sẽ lập bảng tính giá thành sản phẩm.
- Đối với doanh nghiệp áp dụng hình thức Nhật ký- Sổ cái: việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dược thực hiện trước hết trên các bảng phân bổ chi phí, sổ chi tiết tài khoản 621,622,627,154(631); tiếp theo trên hệ thống sổ tổng hợp(sổ Nhật ký- Sổ cái).
- Đối với doanh nghiệp áp dụng hình thức Chứng từ ghi sổ: Việc tập hợp chi phí sản xuất được tập hợp trên sổ kế toán chi tiết chi phí sản xuất theo từng đối tượng tập hợp chi phí và sổ cái các tài khoản 154”chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”(hay tài khoản 631”giá thành sản xuất”), tài khoản 621”chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”, tài khoản 622”chi phí nhân công trực tiếp”, tài khoản 627”chi phí sản xuất chung”. Cơ sở để ghi vào sổ chi tiết chi phí sản xuất theo từng đối tượng là các chứng từ gốc, các bảng phân bổ chi phí và các chứng từ ghi sổ liên quan. Việc tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh toàn doanh nghiệp trên sổ cái được căn cứ vào các chứng từ ghi sổ.
- Đối với doanh nghiệp áp dụng hình thức Nhật ký- Chứng từ: Quá trình tập hợp chi phí sản xuất sẽ được phản ánh vào các bảng phân bổ, bảng kê và nhật ký chứng từ sau:
+ Bảng phân bổ số 1 “Bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội”.
+ Bảng phân bổ số 2 “Bảng phân bổ nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ”.
+ Bảng phân bổ số 3”Bảng tính và phân bổ khấu hao tài sản cố định”.
+ Bảng kê số 4”Tập hợp chi phí sản xuất theo phân xưởng”.
+ Nhật ký chứng từ số 7”Tập hợp chi phí sản xuất và kinh doanh toàn doanh nghiệp”.
Về trình tự tập hợp, phân bổ chi phí và ghi sổ kế toán được tiến hành theo phương pháp tập hợp chi phí do doanh nghiệp lựa chọn , nhưng nguyên lý chung là: những chi phí trực tiếp khi phát sinh sẽ hạch toán trực tiếp vào sổ kế toán chi tiết của từng đôí tượng chi phí, chi phí sản xuất chung khi phát sinh sẽ tập hợp theo từng khoản mục chi phí, đến cuối kỳ hoặc khi cần báo cáo thì tiến hành phân bổ cho các đối tượng liên quan theo tiêu thức phù hợp đã chọn.
1.5.3 Đánh giá sản phẩm làm dở cuối kỳ:
Sự cần thiết phải đánh giá sản phẩm làm dở.
Sản phẩm dở dang là khối lượng sản phẩm, công việc còn đang trong quá trình sản xuất, gia công, chế biến trên các giai đoạn của quy trình công nghệ, hoặc đã hoàn thành một vài quy trình cế biến nhưng vẫn còn phải gia công chế biến tiếp mới trở thành thành phẩm.
Đánh giá sản phẩm dở dang là tính toán, xác định phần chi phí sản xuất mà sản phẩm dở dang cuối kỳ phải chịu.
Các doanh nghiệp sản xuất có quá trình công nghệ xen kẽ, liên tục nên vào thời điểm cuối tháng, cuối quý, cuối năm thường có một khối lượng sản phẩm đang sản xuất dở dang(bán thành phẩm). Trong trường hợp này, chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ không chỉ liên quan đến sản phẩm, công việc đã hoàn thành trong kỳ mà còn liên quan đến cả những sản phảm, công việc còn đang dở dang. Như vậy, muốn tính được giá thành cho sản phẩm, công việc hoàn thành nhập kho trong kỳ ta phải tiến hành đánh giá sản phẩm làm dở. Đánh giá sản phẩm làm dở cuối kỳ có trung thực hợp lý thì mới xác định chính xác giá thành sản xuất sản phẩm trong kỳ.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm cụ thể về tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ, về tính chất cấu thành của chi phí sản xuất và yêu cầu trình độ quản lý của từng doanh nghiệp để vận dụng phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ thích hợp. Dưới đây là một số phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang mà các doanh nghiệp có thể lựa chọn:
- Đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí vật liệu chính trực tiếp hoặc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Theo phương pháp này, sản phẩm dở dang cuối kỳ chỉ bao gồm chi phí vật liệu chính trực tiếp (hoặc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp), còn các chi phí gia công chế biến (chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung…) tính cho cả giá thành thành phẩm chịu.
Công thức tính toán như sau:
Dđk + Cvl (1)
Dck = x Sd
Stp + Sd
Trong đó:
Dck và dđk: Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ và đầu kỳ.
Cvl: Chi phí vật liệu chính trực tiếp(hoặc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp) phát sinh trong kỳ.
Stp và Sd: Sản lượng thành phẩm và sản lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ.
Trường hợp doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm phức tạp chế biến kiẻu liên tục gồm nhièu giai đoạn công nghệ sản xuất kế tiếp nhau thì sản phẩm dở dang ở giai đoạn công nghệ đầu tiên tính theo chi phí vật liệu chính trực tiếp (hoặc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp), còn sản phẩm dở dang ở các giai đoạn công nghệ sau phải tính theo chi phí nửa thành phẩm của giai đoạn trước đó chuyển sang.
Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp có ưu điểm tính toán đơn giản, khối lượng tính toán ít nhưng có nhược điểm là độ chính xác không cao vì không tính đến các chi phí chế biến.
Phương pháp này áp dụng thích hợp trong trường hợp chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất, khối lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ ít và không biến động nhiều so với đầu kỳ.
- Đánh giá sản phẩm dở dang theo khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương.
Theo phương pháp này, trước hết cần căn cứ khối lượng sản phẩm dở dang và mức độ chế biến của chúng để tính đổi khối luượng sản phẩm dở dang ra khối lượng sản phâmr hoàn thành tương đương. Sau đó, tính toán, xác định từng khoản mục chi phí cho sản phẩm dở dang theo nguyên tắc:
+ Đối với chi phí sản xuất bỏ vào một lần ngay từ đầu dây chuyền công nghệ nhu chi phí vật liệu chính trực tiếp hoặc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thì tính cho sản phẩm dở dang theo công thức (1).
+ Đối với các chi phí bỏ dần trong quá trình sản xuất, chế biến thì tính cho sản phẩm dở dang theo công thức:
Dđk + C
Dck = x S’d
Stp + S’d
Trong đó:
C: Được tính theo từng khoản mục chi phí tương ứng phát sinh trong kỳ.
S’d: Khối lượng sản phẩm dở dang đã tính đổi ra khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương theo tỷ lệ chế biến hoàn thành ( % HT):
S’d = Sd * % HT
Đánh giá sản phẩm làm dở cuối kỳ theo phương pháp này có ưu điểm là chính xác cao nhưng khối tính toán nhiều. Do vậy, thích hợp với những doanh nghiệp mà chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng không lớn lắm, khối lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ nhiều và biến động lớn so với đầu kỳ.
- Đánh giá sản phẩm làm dở cuối kỳ theo chi phí sản xuất định mức:
Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí sản xuất định mức áp dụng thích hợp với những sản phẩm đã xây dựng được định mức chi phí sản xuất hợp lý hoặc đã thực hiện phương pháp tính giá thành theo định mức.
Theo phương pháp này, kế toán căn cứ vào khối lượng sản phẩm dở dang đã kiểm kê, xác định ở từng công đoạn sản xuất và định mức từng khoản mục chi phí ở từng công đoạn sản xuất tương ứng cho từng đơn vị sản phẩm để tính ra chi phí định mức của khối lượng sản phẩm dở dang ở từng công đoạn , sau đó tập hợp lại cho từng loại sản phẩm. Ta có công thức:
x
Định mức chi phí
Chi phí sản phẩm dở Khối lượng sản phẩm
dang cuối kỳ dở dang cuối kỳ.
Trong phương pháp này, các khoản mục chi phí tính cho sản phẩm dở dang được tính theo mức độ hoàn thành của sản phẩm làm dở.
1.5.4 Tổ chức kế toán giá thành sản phẩm.
1.5.4.1 Kỳ tính giá thành:
Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành cần tiến hành công việc tính giá thành cho từng đối tượng tính giá thành.
Xác định kỳ tính giá thành thích hợp sẽ giúp cho việc tổ chức công tác kế toán tính giá thành sản phẩm được khoa học, đảm bảo cung cấp số liệu, thông tin về giá thành thực tế của sản phẩm, lao vụ kịp thời, trung thực, phát huy được đầy đủ chức năng giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm của kế toán.Sau đây là một số cách xác định kỳ tính giá thành:
- Xác định kỳ tính giá thành định kỳ hàng tháng phù hợp với loại tổ chức sản xuất nhiều, mặt hàng ít, ổn định, chu kỳ sản xuất ngắn và xen kẽ liên tục.
- Tính giá thành theo chu kỳ sản xuất: Giá thành chỉ được tính khi chu kỳ sản xuất đã kết thúc. Cách tính này phù hợp với loại tổ chức sản xuất đơn chiếc, hàng loạt, mặt hàng thường xuyên thay đổi, chu kỳ sản xuất dài và riêng lẻ.
1.5.4.2 Các phương pháp tính giá thành sản phẩm:
Phương pháp tính giá thành sản phẩm là phương pháp sử số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ để tính toán tổng giá thành và giá thành đơn vị theo từng khoản mục chi phí quy định cho các đối tượng tính giá thành.
Có nhiều phương pháp được sử dụng để tính giá thành. Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, đặc điểm của sản phẩm, yêu cầu quản lý sản xuất và giá thành, mối quan hệ giữa đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất với đối tuợng tính giá thành mà doanh nghiệp có thể lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp đối với từng đối tượng tính giá thành. Sau đây là một số phương pháp tính giá thành thông dụng:
Phương pháp tính giá thành giản đơn:
Phương pháp tính giá thành giản đơn còn gọi là phương pháp tính trực tiếp. Phương pháp này áp dụng thích hợp với những sản phẩm, công việc có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn khép kín, tổ chức sản xuất nhiều, chu kỳ sản xuất ngắn và xen kẽ liên tục, đối tượng tính giá thành tương ứng phù hợp với đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất, kỳ tính giá thành định kỳ hàng tháng (quý) phù hợp với kỳ báo cáo.
Trường hợp cuối tháng có nhiều sản phẩm dở dang và không ổn định, cần tổ chức đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo phương pháp thích hợp. Trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ và chi phí của sản phẩm dở dang đã xác định, giá thành sản phẩm hoàn thành được tính theo công thức sau:
Z = Dđk + C - Dck
Giá thành đơn vị tính như sau:
Z
J =
S
Trong đó: Z: Tổng giá thành của từng đối tượng tính giá thành.
J: Giá thành đơn vị của từng đối tuợng tính giá thành.
C: Tổng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ.
Dđk và Dck: Chi phí của sản phẩm dở dang dầu kỳ và cuối kỳ.
S: Sản lượng sản phẩm.
Trường hợp cuối tháng không có sản phẩm dở dang, hoặc có nhưng ít và ổn định nên không cần tính toán, tổng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ cũng đồng thời là tổng giá thành sản phẩm hoàn thành.
Z = C
Phương pháp tính giá thành phân bước:
Phương pháp tính giá thành phân bước áp dụng thích hợp trong các doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, kiểu liên tục, quá trình sản xuất phải qua nhiều giai đoạn công nghệ chế biến liên tiếp theo một quy trình nhất định, tổ chức sản xuất nhiều và ổn định, chu kỳ sản xuất nhắn và xen kẽ liên tục, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là quy trình công nghệ sản xuất của từng giai đoạn, đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở giai đoạn công nghệ sản xuất cuối cùng, hoặc cũng có thể là nửa thành phẩm hoàn thành ở từng giai đoạn công nghệ và thành phẩm ở giai đoạn công nghệ cuối, kỳ tính giá thành phù hợp với kỳ báo cáo.
Do việc xác định đối tượng tính giá thành có hai trường hợp khác nhau nên phương pháp tính giá thành phân bước cũng có hai phương án tương ứng:
- Phương pháp phân bước có tính giá thành nửa thành phẩm
Phương pháp này áp dụng thích hợp trong trường hợp xác định đối tượng tíhn giá thành là nửa thanhf phẩm và thành phẩm. Theo phương án này, kế toán giá thành phải căn ci\ứ vào chi phí sản xuất đã được tập trung theo từng giai đoạn sản xuất , lần lượt tính tổng giá thành đơn vị nửa thành phẩm của giai đoạn sản xuất trước và kết chuyển sang giai đoạn sau một cách tuần tự để tính tiếp tổng giá thành và giá thành đơn vị nửa thành phẩm của giai đoạn kế tiếp, cứ thế tiếp tục cho đến khi tính được tổng giá thành và giá thành đơn vị của thành phẩm ở giai đoạn công nghệ sản xuất cuối cùng. Trình tự tính giá thành có thể khái quát theo sơ đồ sau:
Sơ đồ số 3:
Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3
Giá thành nửa thành phẩm giai đoạn n-1 chuyển sang
Giá thành nửa thành phẩm giai đoạn 1 chuyển sang
Chi phí NVL bỏ vào một lần từ đầu
+
+
+
Chi phí sản xuất khác ở giai đoạn n
Chi phí sản xuất khác giai đoạn 2
Chi phí sản xuất khác ở giai đoạn 1
Tổng giá thành và giá thành đơn vị nửa thành phẩm giai đoạn 1
Tổng giá thành và giá thành đơn vị nửa thành phẩm giai đoạn 2
Tổng giá thành và giá thành đơn vị của thành phẩm.
Giá thành nửa thành phẩm ở giai đoạn 1 được xác định:
ZNTPI = DĐKI + CTKI - DCKI
ZNTPI
JNTPI =
SHTI
Giá thành nửa thành phẩm ở giai đoạn 2 được xác định:
ZNTPII = DĐKII + ZNTPI + CTKII - DCKII
ZNTPII
JNTPII =
SHTII
… Giá thành thành phẩm ở giai đoạn n:
ZNTPn = DĐKn + ZNTP(n-1) + CTKn - DCKn
ZNTPn
JNTPn =
SHTn
Có hai cách kết chuyển chi phí tuần tự từ giai đoạn trước sang giai đoạn sau là kết chuyển tổng hợp và kết chuyển tuần tự từng khoản mục.
- Phương pháp phân bước không tính giá thành nửa thành phẩm.
Phương pháp này áp dụng thích hợp trong trường hợp xác định đối tượng tính giá thành chỉ là thành phẩm sản xuất hoàn thành ở giai đoạn công nghệ sản xuất cuối cùng.
Theo phương pháp này, việc tính giá thành trước hết kế toán giá thành phải căn cứ vào số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp được trong kỳ theo từng giai đoạn công nghệ sản xuất (từng phân xưởng, đội sản xuất) để tính toán phần chi phí sản xuất của từng giai đoạn đó nằm trong giá thành của thành phẩm, theo từng khoản mục chi phí quy định. Sau đó chi phí sản xuất của từng giai đoạn công nghệ sản xuất nằm trong giá thành thành phẩm đã tính được kết chuyển song song từng khoản mục để tổng hợp tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị của thành phẩm. Cách kết chuyển chi phí để tính giá thành như trên còn gọi là phương pháp kết chuyển song song.
Có thể biểu diễn phương pháp này theo sơ đồ sau:
Sơ đồ số 4:
Chi phí sản xuất phát sinh ở giai đoạn 2
Chi phí sản xuất phát sinh ở giai đoạn n
Chi phí sản xuất phát sinh ở giai đoạn 1
Chi phí sản xuất của giai đoạn n trong giá thành thành phẩm
Chi phí sản xuất của giai đoạn 2 trong giá thành thành phẩm
Chi phí sản xuất của giai đoạn 1 trong thành phẩm
Kết chuyển song song từng khoản mục
Giá thành sản xuất của thành phẩm
Chi phí sản xuất của từng giai đoạn trong thành phẩm được tính toán theo công thức sau:
Dđki + Ci
Czi = x Stp
Stp + Sdi
Trong đó:
Czi: Chi phí sản xuất của giai đoạn i trong thành phẩm.
Dđki: Chi phí sản xuất dở dang giai đoạn i đầu kỳ.
Ci: Chi phí sản xuất phát sinh ở giai đoạn i.
Sdi: Số lượng sản phẩm dở dang của giai đoạn i.
Stp: Số lượng thành phẩm ở giai đoạn cuối.
Từ đó tính giá thành của thành phẩm theo công thức:
Ztp =
Phương pháp tính loại trừ chi phí.
Nếu trong cùng một quy trình công nghệ , ngoài các sản phẩm chính còn thu được cả sản phẩm phụ. Như vậy, để tính được giá thành sản phẩm chính ta phải trừ chi phí sản xuất tính cho sản phẩm phụ khỏi tổng chi phí sản xuất của cả quy trình công nghệ. Phần chi phí cần loại trừ ra khỏi phần chi phí đã tập hợp thường được tính theo giá kế hoạch hoặc có thể lấy giá bán trừ lợi nhuận định mức và thuế. Công thức tính giá thành của thành phẩm sẽ là:
Z = Dđk + C - Dck - Clt.
Trong đó:
Z: Tổng giá thành của đối tượng tính giá thành.
Clt: Chi phí cần loại trừ ra khỏi tổng chi phí đã tập hợp.
Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng.
Phương pháp này áp dụng thích hợp đối với các doanh nghiệp có quy trình công nghệ sanẻ xuất phức tạp kiểu liên tục, tổ chức sản xuất đơn chiếc hoặc hàng loạt vừa và nhỏ theo đơn đặt hàng như đóng tàu, máy móc hạng nặng…Theo phương pháp này, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng đơn đặt hàng, đối tượng tính giá thành là đơn đặt hàng đã hoàn thành. Kỳ tính giá thành không phù hợp với kỳ báo cáo mà khi đơn đặt hàng đã hoàn thành. Nếu trong tháng đơn đặt hàng chưa hoàn thành thì hàng tháng vẫn mở sổ kế toán tập hợp chi phí sản xuất cho đơn đặt hàng đó, để khi hoàn thành tổng cộng chi phí các thngs lại ta sẽ có giá thành của đơn đặt hàng.
Nếu đơn đặt hàng được sản xuất, chế tạo ở nhiều phân xưởng khác nhau thì phải tính toán, xác định số chi phí của từng phân xưởng liên quan đến đơn dặt hàng đó.
Những chi phí trực tiếp được tập hợp thẳng vào đơn đặt hàng, còn những chi phí chung phân bổ theo tiêu thức thích hợp.
Phương pháp tính giá thành theo hệ số.
Phương pháp này áp dụng trong trường hợp cùng một quy trình công nghệ sản xuất với cùng một loại nguyên vật liệu tiêu hao thu được nhiều loại sản phẩm khác nhau. Đối tuợng tập hợp chi phí sản xuất là toàn bộ quy trình công nghệ. Để tính được giá thành từng loại sản phẩm ta phải căn cứ vào hệ số giá thành quy định cho từng loại sản phẩm, rồi tiến hành theo các bước sau:
Quy đổi sản lượng thực tế từng loại sản phẩm theo hệ số tính giá thành làm tiêu chuẩn phân bổ.
= ồ Si x Hi
Tổng sản lượng thực tế quy đổi ra
sản lượng sản phẩm tiêu chuẩn
Trong đó:
Si: Sản lượng thực tế của loại sản phẩm i.
Hi: Hệ số quy đổi cho sản phẩm loại i.
- Tính hệ số phân bổ chi phí cho từng loại sản phẩm.
=
=x=
Hệ số phân bổ chi phí Sản lương quy đổi sản phẩm
sản phẩm i Tổng sản lượng quy đổi
Tổng giá thành thực tế của từng loại sản phẩm theo khoản mục:
+
=
x
-
Tổng giá thành Sản phẩm làm Chi phí phát sinh Sản phẩm dở Hệ số phân bổ
z sản phẩm i dở đầu kỳ trong kỳ cuối kỳ chi phí sản phẩm i
Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ.
Nếu trong cùng một quy trình công nghệ sản xuất kết quả sản xuất thu được là nhóm sản phẩm cùng loại với quy cách, kích cỡ, phẩm chất khác nhau sẽ tính đến giá thành theo phương pháp tỷ lệ. Để tính giá thành trước hết phải chọn tiêu chuẩn phân bổ giá thành. Tiêu chuẩn phân bổ có thể là giá thành định mức hay giá thành kế hoạch của sản phẩm tính theo sản lượng thực tế. Sau đó tính ra tỷ lệ giá thành của nhóm sản phẩm.
* Tỷ lệ giá Sản phẩm làm dở đầu kỳ + CPPS trong kỳ - Sản phẩm làm dở cuối kỳ
thành theo =
khoản mục Tiêu chuẩn phân bổ
=
X
* Tổng giá thành Tiêu chuẩn phân bổ tỷ lệ
từng quy cách từng quy cách tính giá thành
Phương pháp này áp dụng thích hợp trong trường hợp đối tượng tập hợp chi phí là nhóm sản xuất có nhiều chủng loại khác nhau, còn đối tượng tính giá thành là từng chủng loại sản phẩm. Như vậy, đối tượng tập hợp chi phí có thể bao gồm hai hay nhiều đối tượng tính giá thành.
Phương pháp tính giá thành theo định mức.
Phương pháp này được áp dụng đối với doanh nghiệp có quy trình công nghệ ổn định, có hệ thống các định mức kinh tế kỹ thuật, định mức chi phí, dự toán chi phí tiên tiến hợp lý. Tính giá thành theo phương pháp định mức có tác dụng lớn trong việc kiểm tra tình hình thực hiện định mức, dự toán chi phí sản xuất, tình hình sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả hay lãng phí. Ngoài ra còn nhằm giảm bớt khối lượng ghi chép và tính toán, nâng cao hiệu quả công tác kế toán.
Phương pháp tính giá thành sản phẩm theo định mức được tiến hành theo các bước sau:
Tính giá thành định mức của sản phẩm: Giá thành định mức của sản phẩm được căn cứ vào các định mức kinh tế, kỹ thuật hiện hành để tính.
Xác định hệ số chênh lệch do thay đổi định mức: Vì giá thành xác định theo định mức hiện hành do vậy khi thay đổi định mức cần phải tính toán lại theo định mức mới. Việc thay đổi định mức thường được tiến hành vào đầu tháng nên việc tính toán số chênh lệch do thay đổi định mức chỉ cần thực hiện đối với số sản phẩm làm dở đầu kỳ về chi phí tính cho sản phẩm làm dở đầu kỳ (cuối kỳ trước) là theo định mức cũ. Số chênh lệch do thay đổi định mức bằng định mức cũ trừ đi định mức mới.
Xác định số chênh lệch do thoát ly định mức.
Chênh lệch do thoát ly định mức là số chênh lệch do tiết kiệm hay vượt chi. Việc xác định chênh lệch do thoát ly định mức được tiến hành theo những phương pháp khác nhau, tuỳ thuộc vào từng khoản mục chi phí.
Chênh lêch do Chi phí thực tế theo Chi phí định mức theo
thoát ly định mức từng khoản mục từng khoản mục
- Tính giá thành thực tế của sản phẩm: Sau khi xác định được giá thành định mức, chênh lệch do thay đổi và thoát ly định mức, giá thành thực tế của sản phẩm được tính theo công thức:
Giá thành Giá thành Chênh lệch do Chênh lệch do
thực tế định mức thay đổi định mức thoát ly định mức
phần thứ hai
thực trạng tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Dệt len Mùa Đông.
Đặc điểm của công ty Dệt len Mùa Đông với quá trình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty Dệt len Mùa Đông.
Công ty Dệt len Mùa Đông - Tên giao dịch : Mua Dong Knit Wear Company - đóng tại số 47 đường Nguyễn Tuân - Phường Thanh Xuân Trung - Quận Thanh Xuân - Hà Nội.
Công ty Dệt len Mùa Đông là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc sở Công nghiệp Hà Nội. Nhiệm vụ chính của công ty là sản xuất sợi len và dệt áo len.
Tiền thân của công ty Dệt Len Mùa Đông là công ty hợp doanh với tên gọi “ Xí nghiệp công tư hợp doanh Dệt len Mùa Đông” , chủ sở hữu là một nhà tư sản yêu nước đã hiến cho Nhà nước ( 5/ 1959) và được Uỷ ban hành chính thành phố Hà Nội quyết định thành lập thành doanh nghiệp Nhà nước ( 15/10/1960) với số lao động 283 người. Sau đó, được Nhà nước cấp và bổ sung vốn để phát triển sản xuất. Đến năm 1970 được đổi tên thành “Nhà máy Dệt len Mùa Đông” và đến ngày 8/7/1993 lại đổi tên thành “ Công ty Dệt len Mùa Đông”.
Ban đầu, Công ty chỉ là một xí nghiệp nhỏ gồm có : 1 phân xưởng dệt may với 110 máy dệt, 22 máy khâu, 5 máy xén và 1 máy dao. Nhìn chung còn thô sơ và lạc hậu. Phương hướng tổ chức sản xuất đơn giản, thủ công. Xí nghiệp chỉ sản xuất mặt hàng áo len tiêu thụ trong nội địa.
Trong quá trình hình thành và phát triển, xí nghiệp đã không ngừng đổi mới và hiện đaị hoá các máy móc thiết bị sản xuất, thay thế các máy cũ đã lạc hậu đồng thời mở rộng sản xuất với quy mô ngày càng lớn. Nếu như trước đây, xí nghiệp chỉ có một phân xưởng dệt may và phải mua len để dệt áo thì đến nay đã mở rộng sản xuất gồm 1 phân xưởng sợi và 4 phân xưởng dệt may với máy móc thiết bị hiện đại. Do quy mô khép kín nên xí nghiệp vừa tiết kiệm được chi phí, đảm bảo quá trình sản xuất từ khâu đầu đến khâu cuối, vừa tạo công ăn việc làm vừa tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên. Công ty lúc này vẫn là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc khối Công nghiệp địa phương, trực thuộc sở Công nghiệp Hà Nội, do Uỷ ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội quản lý và nằm trong khu Công nghiệp Thượng Đình.
Trong những năm đầu mới thành lập, do bị chi phối bởi cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp cho nên mọi hoạt động của công ty luôn trong trạng thái thụ động về mọi mặt, làm ăn không hiệu quả.
Khi đất nước chuyển mình sang nền kinh tế thị trường, các thành phần kinh tế cùng hoạt động sản xuất cạnh tranh công bằng, bình đẳng thì ban lãnh đạo của công ty đã kịp thời đổi mới công ty về mọi mặt như : Tổ chức lại cơ cấu quản lý sản xuất, nghiên cứu cải tiến chất lượng, hình thức, mẫu mã cho thích ứng với nhu cầu tiêu dùng, hạ giá thành sản phẩm một cách hợp lý; cụ thể như: mặt hàng sản xuất được mở rộng, cải tạo nâng cấp nơi làm việc của cán bộ công nhân viên và công ty cũng không ngừng đầu tư theo chiều rộng : Đầu tư thêm phân xưởng dệt ( phân xưởng dệt tất ) , tuyển dụng thêm công nhân. Bên cạnh đầu tư theo chiều rộng, công ty cũng đã chú trọng đầu tư theo chiều sâu, đó là do bộ phận lãnh đạo trong công ty nhận thức rõ được thế kỷ 21 là thế kỷ của khoa học kỹ thuật công nghệ, ban lãnh đạo đã nhanh chóng nắm thời cơ, nắm vững kỹ thuật, cải tiến máy móc; đào tạo và đào tạo lại, nâng cao trình độ tay nghề cho cán bộ công nhân viên của Công ty.
Bằng những giải pháp đó, Công ty đã dần dần từng bước đứng vững trong nền kinh tế thị trường, (trong khi đó một số nhà máy, công ty cùng ngành đã bị phá sản hoặc đang trong thời kỳ khủng hoảng ví dụ như nhà máy Dệt Nam Định) và lớn lên về mọi mặt. Là một doanh nghiệp chuyên sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng sợi len và hàng dệt len, qua hơn 10 năm sản xuất kinh doanh trong cơ chế mới, công ty luôn cố gắng phấn đấu để vươn lên thích ứng với cơ chế thị trường, sản phẩm đã giữ được uy tín với khách hàng. Sản phẩm của công ty không những được tiêu thụ rộng rãi trong nước mà còn có mặt ở nhiều nước trên thế giới như : Nga, Hàn Quốc, Đài Loan , Nhật, Anh , Pháp, Đức ..và ngày càng được ưa chuộng . Do đi đúng hướng nên công ty đã đảm bảo được công ăn việc làm cho công nhân viên, đảm bảo thu nhập ổn định. Hàng năm, lợi nhuận của công ty không ngừng tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Vì vậy, công ty đã nộp ngân sách Nhà nước đầy đủ các khoản nghĩa vụ, góp phần xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước( một chủ trương chính trong Đại hội Đảng lần thứ III đã xác định).
Chính vì gặt hái được những thành quả trên mà tập thể cán bộ công nhân viên toàn Công ty đã vinh dự được đón nhận Huân chương Lao Động hạng ba do Hội đồng Nhà nước tặng, nhiều năm liền công ty là đơn vị tiên tiến của sở Công Nghiệp Hà Nội.
Bảng số 1:
Báo cáo kết quả thực hiện các chỉ tiêu tài chính qua một số nămPage: 1
chỉ tiêu
đơn vị tính
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Vốn kinh doanh
đồng
8.736.527.100
9.173.353.455
9.632.021.188
Tổng doanh thu
đồng
30.409.863.600
31.930.356.780
33.526.874.620
Lợi nhuận
đồng
350.728.132
368.264.539
386.677.766
Nộp ngân sách
đồng
822.026.320
863.127.636
906.284.017
Số lao động
người
795
807
815
Lương bình quân
đồng
590.000
650.000
700.000
Vấn đề phấn đấu hoàn thành và vượt mức kế hoạch, vấn đề biện pháp kỹ thuật tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận nhằm tích luỹ cho công ty, nâng mức thu nhập của người lao động là chủ trương xuyên suốt trong ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ nhân viên trong toàn công ty.
2.1.2 Đặc điểm bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh và tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Dệt len Mùa Đông.
2.1.2.1 Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý.
Bộ máy quản lý của Công ty Dệt len Mùa Đông được tổ chức theo mô hình trực tuyến, trong đó đứng đầu, chịu trách nhiệm điều hành toàn Công ty là ban giám đốc. Ban giám đốc Công ty có nhiệm vụ lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp từng phân xưởng sản xuất. Tổ chức quản lý điều hành chung là Giám Đốc. Giám Đốc Công ty do Sở Công nghiệp Hà Nội bổ nhiệm và miễn nhiệm. Giám đốc là người chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trước cấp trên.
Trợ giúp cho Giám đốc Công ty gồm có 2 phó giám đốc, các phòng ban chức năng và quản lý phân xưởng. Cụ thể:
2 phó giám đốc Công ty có trách nhiệm giúp việc cho giám đốc và chỉ đạo các bộ phận được giám đốc uỷ quyền.
+ Phó giám đốc kỹ thuật : Phụ trách chỉ đạo về mặt kỹ thuật, máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất.
+ Phó giám đốc kinh doanh : Chuyên kiến thiết cơ bản, mua bán vật tư, hàng hoá, chỉ đạo kế hoạch sản xuất, đảm bảo giao hàng theo đúng hợp đồng đã ký với khách hàng.
Các phòng ban được tổ chức theo yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của giám đốc. Nhiệm vụ của các phòng ban chức năng là :
- Phòng Tổ chức: Theo dõi, quản lý nhân sự, tuyển lao động,bảo đảm quyền và nghĩa vụ quân sự của người lao động.
- Phòng Hành chính: Quản lý lao động, thời gian lao động; tổ chức đời sống cho cán bộ công nhân viên; thực hiện các hoạt động y tế, tạp vụ, quản trị hành chính và kiến thiết cơ bản. Phòng hành chính có các bộ phận sau:
+ Bộ phận Tài chính-Lao động tiền lương: Làm công tác nhân sự, định mức đơn giá tiền lương, tính lương, thưởng cho toàn bộ cán bộ công nhân viên chức , sau đó chuyển qua phòng tài vụ chi. Ngoài ra, bộ phận này còn làm các công tác như chế độ bảo hiểm xã hội, hưu, thi đua, đào tạo, bảo hộ lao động.
+ Bộ phận Bảo vệ: Bảo đảm an toàn về tính mạng và tài sản trong toàn công ty.
+ Bộ phận Y tế: Chăm lo sức khoẻ cho cán bộ, công nhân viên trng công ty để đảm bảo sức khoẻ được tốt.
- Phòng Tài vụ ( phòng Kế toán ): Theo dõi tình hình tài chính của đơn vị, tình hình nguồn vốn và tình hình luân chuyển vốn; có trách nhiệm theo dõi tình hình sản xuất, tiêu thụ, giá thành sản phẩm; tổng hợp số liệu và phân tích tình hình tài chính để cung cấp thông tin kịp thời và chính xác cho ban giám đốc về kết quả sản xuất kinh doanh trong kỳ
- Phòng Kinh doanh Xuất nhập khẩu: Là cơ quan tham mưu giúp giám đốc công ty xác định phương hướng, mục tiêu kinh doanh xuất nhập khẩu. Nghiên cứu chiến lược kinh doanh xuất nhập khẩu trên các lĩnh vực như: Thị trường, sản phẩm, khách hành.., tăng cường công tác tiếp thị, tổ chức thiết lập mối quan hệ kinh tế với các cơ sở trong và ngoài nước về vấn đề xuất nhập khẩu.
- Phòng Vật tư: Phụ trách mua bán vật tư, hàng hoá.
- Phòng Thị trường: Phụ trách tiêu thụ sản phẩm.
- Phòng Kỹ thuật: Phụ trách chế thử áo, thiết lập các dự án vay vốn.
- Phòng Kế hoạch: Giúp ban giám đốc tổ chức chỉ đạo các hoạt động trong lĩnh vực công tác kế hoạch của công ty. Phòng có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch nhắn hạn, dài hạn, kế hoạch giá thành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Phòng KCS: Có nhiệm vụ kiểm tra chất lượng sản phẩm từ khâu đầu đến khâu cuối trước khi bao gói xuất hàng ra.
Quản lý phân xưởng: Chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của phân xưởng mình.
Sơ đồ số 5: sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý trong công ty.
Giám đốc
PGĐ kinh doanh
PGĐ kỹ thuật
Phòng KCS
Phòng kế hoạch
Phòng kỹ thuật
Phòng thị trường
Phòng vật tư
Phòng XNK
Phòng tài vụ
Phòng hành chính
Phòng tổ chức
PX hoàn thành
PX dệt I,II,III,IV
PX sợi
Bộ phận y tế
Bộ phận bảo vệ
Bộ phận thiết kế
Bộ phận gia công
Bộ phận nhuộm
Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh.
Sản phẩm của công ty Dệt len Mùa Đông bao gồm sợi len, áo len các loại, tất. Vì vậy, nhiệm vụ sản xuất của công ty là sản xuất ra sợi len và áo len để cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước. Công việc tổ chức được tổ chức thành các phân xưởng sản xuất, trong đó có 7 phân xưởng chính là:
_1 phân xưởng kéo sợi.
_4 phân xưởng dệt( dệt I, dệt II, dệt III, dệt IV).
_ 1 phân xưởng bít tất.
_ 1 phân xưởng hoàn thành( kiểm tra chất lượng sản phẩm, hoàn chỉnh nốt trước khi nhập kho như may mác áo, là hơi, bao bì..,).
Ngoài các phân xưởng sản xuất chính ra, công ty còn 1 bộ phận sản xuất kinh doanh phụ với 1 phân xưởng cơ điện. Phân xưởng này có nhiệm vụ cung cấp năng lượng, động lực, điện máy, ánh sáng cho các phân xưởng và cho toàn công ty, sửa chữa máy móc thiết bị của các phân xưởng sản xuất chính.
Để đảm bảo nhiệm vụ sản xuất, công ty tổ chức sản xuất theo 2 giai đoạn c._.ổi đó đã dẫn đến sự thay đổi của công tác hạch toán trong doanh nghiệp và đặt các doanh nghiệp trước yêu cầu thay đổi và hoàn thiện công tác kế toán. Nhất là những công ty như công ty Dệt len Mùa Đông chưa từng áp dụng qua chế độ dự thảo thì việc chuyển đổi gặp không ít khó khăn và vướng mắc.
Với những lý do trên, ta nhận thấy rằng việc hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hết sức quan trọng, cần thiết.
Các nguyên tắc của việc hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Hoàn thiện là việc thay đổi, sửa đổi và bổ sung để cho công việc thực hiện được tiến hành tốt hơn. Việc hoàn thiện công tác hạch toán kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cũng nhu hoàn thiện công tác hạch toán các phần hành khác đó là việc hoàn thiện những công việc đã được quy định bằng những tiêu chuẩn nhất định. Ccong ty có thể dựa trên các nguyên tắc hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm như:
Dựa trên các yêu cầu ban hành của Bộ Tài Chính về hệ thống các phương pháp thực hiện hạch toán kế toán.
Thực hiện đúng quy định về các biểu mẫu kế toán, các tài khoản sử dụng.
Vận dụng được các yêu cầu thực tế sản xuất kinh doanh của công ty để có thể rút ngắn. thay đổi được công tác kế toán cho phù hợp, đồng thời không trái với quy định chung.
Đảm bảo được tính kinh tế và hiệu quả của công tác kế toán.
Đánh giá về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty Dệt len Mùa Đông.
Qua quá trình tìm hiểu thực tế về công tác kế toán nói chung, công tác quản lý và hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng ở công ty Dệt len Mùa Đông em nhận thấy:
Trải qua hơn bốn mươi năm xây dựng và phát triển, công ty Dệt len Mùa Đông đã dần khẳng định vai trò và vị thế của mình trong ngành may Việt Nam. Công ty đã tồn tại và đứng vững được trong cạnh tranh của cơ chế thị trường trước sự sụp đổ của nhiều doanh nghiệp quốc doanh cũng như tư nhân khác; ví dụ như nhà máy dệt Nam Định…đồng thời nhạn biết được tầm quan trọng của việc quản lý chi phí các nhà quản lý doanh nghiệp cùng với phòng kế toán nghiên cứu tìm ra phương pháp hạch toán chi phí , cải tiến biểu mẫu và cách ghi chép cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh thực tế của công ty. Đạt tới quy mô sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý như hiện naylà cả một quá trình phấn đấu liên tục của các cán bộ công nhân viên các phòng ban và ban giám đốc công ty. Công ty đã cố gắng thực hiện mọi biện pháp nhằm hoà nhập bước đi của mình cùng với nhịp điệu phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Sự nhạy bén, linh hoạt trong công tác quản lý kinh tế, quản lý sản xuất đã thực sự trở thành đòn bẩy tích cực cho quá trình phát triển của công ty, giúp công ty đạt được nhiều thành tích đáng kể trong sản xuất , hoàn thành các nhiệm vụ cấp trên giao phó và không ngừng nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên.Trong sự phát triển chung của công ty , bộ phận kế toán thực sự là một trong những bộ phận quan trọng của hệ thống quản lý kinh tế , quản lý doanh nghiệp.
Trong công tác kế toán của công ty đã có nhiều ưu điểm, cụ thể như:
Thứ nhất:
Công ty đã tăng cường mọi công tác quản lý, đặc biệt là công tác quản lý chi phí sản xuất. Điều đó được thể hiện qua kế hoạch mua nguyên vật liệu của công ty. Trước đây, công ty mua nguyên vật liệu khá sớm làm tăng chi phí bảo quản thì bây giờ việc mua nguyên vật liệu gần như trùng lắp với quá trình sản xuất làm tiết kiệm chi phí bảo quản, cất trữ và giảm lượng hao hụt.
-Thứ hai:
Nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất , tăng hiệu quả sản xuất công ty đã thực hiện các biện pháp tích cực. Cụ thể là công ty đã thực hiện chế độ trả lương theo sản phẩm hoàn thành đạt chất lượng quy định đã đảm bảo cho việc gắn thu nhập của người lao động với thời gian và kết quả lao động của họ. Từ đó, góp phần khuyến khích tinh thần lao động, ý thức tiết kiệm trong sản xuất của công nhân , giúp cho nâng cao năng suất lao động và hoạt động sản xuất đạt hiệu quả hơn.
Thứ ba:
Công ty hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên và sử dụng hình thức kế toán nhật ký chứng từ là hết sức phù hợp. Lý do vì công ty có quy mô vừa nhưng nghiệp vụ kinh tế phát sinh khá nhiều và khá phức tạp, sản phẩm của công ty có giá trị nhỏ nên việc tập hợp chi phí cần phải rất chính xác nếu không giá thành rất dễ bị sai lệch.Ngoài ra, việc theo dõi thường xuyên, liên tục từng lần nhập xuất nguyên vật liệu giúp cho công ty có kế hoạch cung cấp nguyên vật liêụ đầu vào hợp lý, đảm bảo quá trình sản xuất không bị gián đoạn, vật tư được cung ứng với mức độ phù hợp, tiết kiệm chi phí.
Thứ tư:
Trước năm 1998, kỳ tính giá thành của công ty được xác định là một quý. Nhưng do đặc điểm sản xuất của công ty là chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm hoàn thành nhập kho liên tục trong tháng, giá cả sản phẩm của công ty lại thường xuyên biến động trên thị trường do ảnh hưởng của thị hiếu người tiêu dùng, đặc biệt sản phẩm của công ty lại chịu ảnh hưởng rất lớn về thời tiết. Nếu kỳ tính giá thành của doanh nghiệp là 3 tháng thì việc cung cấp các thông tin kế toán cho ban giám đốc để ra các quyết định cho sản xuất sẽ thiếu chính xác, hiệu quả sản xuất kém. Mặt khác, trong thời đại ngày nay với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường cộng với sự trợ giúp của máy vi tính thì kỳ tính giá thành sản phẩm cũng như kỳ báo cáo kế toán của doanh nghiệp kéo dài trong ba tháng là không thể chấp nhận được. Do đó, từ tháng 1/1998 công ty đã rút ngắn kỳ tính giá thành xuống còn một tháng .Từ đó, đưa ra các quyết định kịp thời phù hợp với chiến lược và mục tiêu của công ty, sát với diễn biến thực tế.
Thứ năm:
Phòng kế toán công ty được tổ chức tương đối hoàn chỉnh, gọn nhẹ, vững vàng, nhiều kinh nghiệm. Trong khi làm việc, các nhân viên kế toán trong phòng luôn có sự kiểm tra chéo lẫn nhau nên khi có sai sót thì cùng tiến hành xem xét lại, sửa chữa kịp thời và những nhân viên lâu năm trong phòng luôn kèm cặp, giúp đỡ, đào tạo, nâng cao trình độ cho nhân viên trẻ. Mọi người đều có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác đào tạo đội ngũ kế cận.
Bên cạnh những ưu điểm của tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm công ty đã đạt được, vẫn còn những tồn tại mà nếu công ty khắc phục được sẽ giúp công ty đánh giá chính xác hơn kết quả hoạt động thực tế ở công ty. Những vấn đề còn tồn tại đó là:
Thứ nhất: Về tổ chức bộ máy kế toán.
Trước đây phòng kế toán có 21 nhân viên. Sau quá trình tinh giảm biên chế nhiều lần cho đến nay phòng kế toán chỉ còn lại 6 nhân viên kể cả trưởng phòng. Tuy rằng việc giảm biên chế trên giảm được 15 người, song với một công ty như công ty Dệt len Mùa Đông, quy mô sản xuất loại vừa, sản xuất sản phẩm chủ yếu là quần áo len, công việc kế toán phát sinh tương đối nhiều thì mỗi kế toán nhân viên cùng một lúc phải kiêm nhiều phần hành kế toán khác nhau. Điều đó làm cho kết quả công việc kế toán bị hạn chế. Các kế toán viên do có quá nhiều công việc đôi khi làm tắt hoặc bỏ qua nhiều bước lập bảng, biểu nên thông tin cung cấp cho quản lý chưa được đầy đủ, kịp thời.
Bên cạnh đó, kế toán của công ty phần lớn là nữ, nhân viên lớn tuổi là chủ yếu, làm việc dựa trên kinh nghiệm lâu năm là chính. Công tác kế toán hoàn toàn thủ công chưa có sự hỗ trợ lớn của máy vi tính nên khối lượng ghi chép lớn. Do đó, khối lượng công việc khó hoàn thành đúng thời hạn, bộ phận kế toán thường xuyên không đảm bảo đúng kỳ báo cáo. Hơn nữa, số liệu thường được làm vào cuối tháng nên không tránh khỏi mất mát hoá đơn, chứng từ, số liệu không chính xác phải làm lại nhiều lần tốn thời gian và công sức.
Thứ hai: Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Khi tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán không trừ đi phần giá trị phế liệu thu hồi nên tính chính xác khi tính giá thành chưa cao. Hơn nữa, nó còn làm cho giá trị sản phảm dở dang cuối kỳ lớn.
ở phân xưởng sợi: Cuối tháng, ngoài giá trị xơ đang còn nằm trên dây chuyền sản xuất còn có bông hồi và len thứ phẩm.
ở phân xưởng dệt và tất: Cuối tháng ngoài len dở dang trên dây chuyền sản xuất còn có túp cắt, đề xê.
Thứ ba: Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp.
Hạch toán phân bổ BHXH:
Việc tính BHXH trong công ty không do kế toán tiền lương trực tiếp tiến hành trích lập mà do bộ phận lao động tiền lương thuộc phòng hành chính tổng hợp tính tổng số BHXH phải trích (theo quy định là 15% lương cơ bản) rồi chuyển số liệu này cho kế toán tiền lương. Dựac vào số liệu đó, kế toán tiền lương phân bổ BHXH cho các bộ phận chịu chi phí theo tiêu thức lương thực phát ở kỳ I và kỳ II. Điều chắc chắn rằng tỷ trọng lương thực phát kỳ I và kỳ II của mỗi bộ phận chiếm trong tổng lương thực phát kỳ I bà kỳ II của toàn Công ty sẽ hoàn toàn khác tỷ trọng lương cơ bản của mỗi bộ phận trong tổng lương cơ bản của toàn Công ty nên việc phân bổ BHXH theo tiêu thức lương thực phát của kỳ I và kỳ II cho các bộ phận là không họp lý.
* Tính trích KPCĐ:
Một điểm cần nói nữa trong hạch toán chi phí nhân công là việc trích 2% KPCĐ. Theo quy định thì KPCĐ được trích 2% trên lương thực trả cho công nhân viên, nhưng Công ty lại trích trên tổng lương thực phát ở kỳ I và kỳ II mà lương thực phát ở kỳ I và kỳ II bằng lương thực trả cho công nhân viên ở kỳ (I+II) cộng phần lương trả thừc kỳ trước trừ phần lương trả thừa ở kỳ này. Trên thực tế lương thực phát kỳ (I+II) chỉ bằng với lương thực trả khi lương phát thừa kỳ này đúng bằng lương trả thừa kỳ trước, mà điều này thì khó xảy ra. Do đó, việc tính trích KPCĐ ở Công ty cũng là một vấn đề tồn tại mà Công ty cần xem xét hoàn thiện.
*Hiện nay, Công ty không tiến hành trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất. Bộ phận công nhân trực tiếp sản xuất là chiếm nhiều nhất trong tổng số công nhân viên của Công ty nên tiền lương của bộ phận này là rất lớn. Trong doang nghiệp, việc nghỉ phép của công nhân không đều đặn trong một năm (thường nghỉ nhiều vào hè), thời gian nghỉ nhiều thì tiền lương phụ lớn. Để ổn định giá thành sản phẩm thì cần thiết phải tiến hành trích trước và phân bổ đều tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất vào trong giá thành.
Thứ tư: Phân bổ tiền nước.
Do Công ty không có đồng hồ đo nước ở từng bộ phận nên tiền nước của cả Công ty tính hết vào chi phí sản xuất chung của các phân xưởng sản xuất. Điều đó có nghĩa là phần chi phí sản xuất chung đã phải gánh thêm phần chi phí tiền nước cho bộ phận quản lý. Từ đó dẫn đến việc là tăng giá thành sản phẩm và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường cũng bị ảnh hưởng.
Thứ năm: Hạch toán sản phẩm hỏng.
Công ty không hạch toán sản phẩm hỏng vì cho rằng giá trị sản phẩm hỏng là ít và tính luôn vào giá thành sản phẩm là chưa hợp lý. Vì làm vậy việc hạch toán sẽ làm tăng giá thành sản phẩm trong kỳ. Hơn nữa đó chính là nguyên nhân làm cho công nhân không phát huy được tinh thần trách nhiệm cũng như ý thức bảo vệ tài sản và thái độ nghiêm túc trong sản xuất.
Thứ sáu: Đánh giá sản phẩm dở dang.
Như đã trình bày ở phần II, ngoài thời điểm cuối năm 31/12 thì hàng tháng Công ty không tiến hành kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ mà Công ty lại tiến hành tính giá thành sản phẩm theo định mức nguyên vật liệu, định mức tiền lương và chi phí sản xuất chung thì phân bổ theo tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất trước rồi sau đó mới tiến hành tính giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ. Việc tính giá thành sản phẩm và giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ như vậy là tính ngược, không chính xác và thiếu tính khoa học.
Vậy nên theo em trong tất cả các tháng Công ty vẫn nên kiểm kê, đánh giá sản phẩm làm dở cuối kỳ sau đó mới tính giá thành sản phẩm rồi mới phân bổ cho các đối tượng chịu chi phí như ở thời điểm cuối năm. Từ đó, công thức tính giá thành và sản phẩm dở dang cuối kỳ đảm bảo chính xác hơn.
Thứ bảy: Vấn đề sổ sách kế toán.
-Công ty không lập bảng phân bổ số 2 - Bảng phân bổ NVL,CCDC với mẫu tổng quát theo quy định mà chỉ lập các bảng phân bổ chi tiết. Do đó khi tìm số liệu tổng quát thì phải mất nhiều thời gian xem và tính toán.
Hơn nữa, với tình hình nhân viên kế toán trong phòng thiếu, mỗi người phải làm nhiều phần hành kế toán khác nhau nên khối lượng công việc của mỗi người là quá nhiều thì việc áp dụng phương pháp thẻ song song đối với kế toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ càng làm tăng khối lượng công việc cho kế toán.
-Hiện nay, ở Công ty sổ chi tiết nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ được ghi vào cuối tháng. Do có quá nhiều công việc nên nhân viên kế toán chỉ lên sổ chi tiết NVL,CCDC vào cuối tháng sau khi tập hợp tất cả các phiếu nhập kho, phiếu xuất kho trong tháng. Điều này dẫn đến nhân viên kế toán không theo dõi được tình hình nhập, xuất nguyên vật liệu hàng ngày, mà nguyên vật liệu là một trong những yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Vì vậy, để quản lý tốt nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất, Công ty nên mở một sổ chi tiết nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ theo dõi hàng ngày tình hình nhập, xuất nguyên vật liệu .
3.4 Một số đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty Dệt len Mùa Đông.
Với kiến thức đã tiếp thu được trong quá trình học tập kết hợp với việc tìm hiểu thực tế công ty, em xin đưa ra một số đề xuất nhỏ nhằm góp phần hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty Dệt len Mùa Đông.
* Đề xuất 1: Tổ chức bộ máy kế toán.
Hiện nay, phòng kế toán chỉ có sáu người (kể cả kế toán trưởng) phải đảm nhận khối lượng công việc quá lớn, mỗi người phải kiêm nhiều phần hành kế toán. Để giúp cho công việc kế toán có hiệu quả hơn, Công ty cần tuyển thêm một hoặc hai nhân viên nữa để công việc được đảm bảo hơn. Đồng thời đội ngũ kế toán của Công ty phần lớn đã đứng tuổi, chỉ vài năm tới là đến tuổi nghỉ hưu nên việc tuyển nhân viên lúc này còn giúp trẻ hoá đội ngũ nhân viên, giúp các nhân viên mới có thời gian làm quen với công việc, có cơ hội học hỏi những kinh nghiệm của những người đi trước để sau này có thể vững vàng trong nghiệp vụ của mình.
Bên cạnh đó, phòng kế toán nhỉ có duy nhất một chiếc máy vi tính và các nhân viên dùng chủ yếu để tính toán chứ chưa sử dụng kế toán máy. Để công việc kế toán được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả thì Công ty nên đầu tư tiền mua thêm máy vi tính và áp dụng phầnm mềm kế toán. Đồng thời Công ty cũng nên tiến hành đào tạo, nâng cao trình độ cho nhân viên để khi mua phần mèm kế toán về thì các nhân viên đều có thể sử dụng được tối đa hiệu quả phục vụ cho phần việc của mình.
Đề xuất 2: Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Như đã trình bày ở trên, Công ty không hạch toán giá trị phế liệu thu hồi vào chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, điều đó làm cho giá thành dễ bị sai lệch và giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ lớn.
Hiện nay, ở Công ty khi bán được phế liệu thì kế toán hạch toán khoản thu đó vào thu nhập bất thường, kế toán định khoản như sau:
Nợ TK 111
Có TK 721
Theo em, khi bán được phế liệu thu hồi hay nhập kho phế liệu thu hồi thì Công ty nên hạch toán ghi giảm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và ghi nợ các tài khoản liên quan. Kế toán đinh khoản:
Nợ TK 111,112,331
Có TK 621
TK 621.1
TK 621.2
TK 621.5
Đề xuất 3: Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp.
Việc phân bổ BHXH cho các bộ phận sử dụng lao động được trích 15% lương cơ bản (phần tính vào chi phí sản xuất kinh doanh) của công nhân viên nhưng lại được phân bổ theo tiêu thức tổng lương thực phát kỳ I và kỳ II. Việc làm đó dẫn đến phản ánh không chính xác số thực tế phát sinh chi phí BHXH ở các bộ phận sử diụng lao động mà nó chỉ tính đúng tổng số trích BHXH trong toàn Công ty. Cách làm đó sẽ làm cho chi phí nhân công tính vào chi phí sản xuất hoặc là tăng lên hoặc là giảm đi. Vì vậy, BHXH cần phải được tính trực tiếp cho các bộ phận trên cơ sở tổng tiền lương cơ bản của cán bộ coong nhân viên thuộc từng bộ phận.
Để có số liệu cụ thẻ về tổng tiền lương cơ bản của từng bộ phận trong từng quý thì cần phải có mối liên hệ chặt chẽ giữa phòng lao động tiền lương và phòng kế toán. Hàng tháng, ngoài việc chuyển cho phòng kế toán tổng số tiền BHXH phải trích lập của toàn Công ty, phòng kế toán nên yêu cầu phòng lao động tiền lương chuyển cho số tiền BHXH cần trích lập của tưngf bộ phận cụ thể. Theo số liệu phòng lao động tiền lương cung cấp, tổng tiền lương tháng 9 năm 2001 của từng bộ phận là:
Tổng tiền lương cơ bản của phân xưởng dệt may: 215.833.104đ
Tổng tiền lương cơ bản của phân xưởng sợi : 489.787.768đ
Tổng tièn lương cơ bản phân xưởng tất: 10.122.279
Tổng tiền lương cơ bản của nhân viên bán hàng: 11.428.379đ
Tổng tiền lương cơ bản của nhân viên quản lý : 30.040.311đ
Theo số liệu trên, tiền BHXH được trích cho các bộ phận sử dụng lao đông trong tháng là:
+ BHXH hạch toán vào CPNCTT
Phân xưởng dệt: 215.833.104 x 15% = 32.374.966đ
Phân xưởng sợi: 48.978.768 x 15% = 7.346.815đ
Phân xưởng tất: 10.122.279 x 15% = 1.518.342đ
+ BHXH hạch toán vào chi phí sản xuất chung
x 15% = 1.518.342đ
+ BHXH hạch toán vào chi phí bán hàng
x 15% = 1.714.257đ
+ BHXH hạch toán vào chi phí quản lý:
x 15% = 4.506.046đ
ịKế toán tiến hành trích BHYT cho từng bộ phận trong Công ty trong tháng 9/2001 là:
+ BHYT hạch toán vào chi phí nhân công trực tiếp: 5.498.683đ
Phân xưởng dệt: 215.833.104 x 2% = 4.316.662đ
Phân xưởng sợi: 48.978.768 x 2% = 979.575đ
Phân xưởng tất: 10.122.279 x 2% = 202.446đ
+ BHYT hạch toán vào chi phí sản xuất chung:
x 2% = 202.446đ
+ BHYT hạch toán vào chi phí bán hàng:
x 2% = 228.567đ
+ BHYT hạch toán vào chi phí quản lý:
x 2% = 600.806đ
ịTheo quy định của Bộ Tài Chính, KPCĐ phải được trích 2% trên lương thực trả cho cán bộ công nhân viên trong tháng tức là kế toán phải trích 2% giá trị cột Có TK 334 trên bảng tổng hợp lương (hay trên bảng phân bổ số 1). Nhưng trên thực tế, Công ty lại trích KPCĐ 2% trên tổng số lương thực phát kỳ I và kỳ II mà tổng số lương thực phát kỳ I và kỳ II không bằng lương thực trả. Do đó số trích KPCĐ cần có sự điều chỉnh lại cho đúng với quy định.
Tổng số tiền trích KPCĐ tính vào chi phí sản xuất kinh doanh các bộ phận trong tháng 9/2001 là:
+ KPCĐ hạch toán vào chi phí nhân công trực tiếp:
Phân xưởng dệt: 373.944.940 x 2% = 7.478.898đ
Phân xưởng sợi: 78.165.517 x 2% = 1.563.310đ
Phân xưởng tất: 14.486.761 x 2% = 289.735đ
+ KPCĐ hạch toán vào chi phí sản xuất chung:
x 2% = 447.897đ
+ KPCĐ hạch toán vào chi phí bán hàng:
x 2% = 376.507đ
+ KPCĐ hạch toán vào chi phí quản lý:
x 2% = 1.201.125đ
Trong tháng, kế toán sẽ phải định khoản như sau:
Nợ TK 622: 56.070.749
TK 622.1: 44.170.526
TK 622.2: 9.889.700
TK 622.5: 2.010.523
Có TK 338: 56.070.749
TK 3382: 9.331.943
TK 3383: 41.240.123
TK 3384: 5.498.683
Nợ TK 627: 2.168.685
Có TK 338: 2.168.685
TK 3382: 447.897
TK 3383: 1.518.342
TK 3384: 202.446
Sau khi hạch toán lại, ta có bảng tổng hợp lương tháng 9/2001 như sau:
Bảng số 16: Đơn vị tính: đ
Ghi Có
TK
Ghi
Nợ TK
TK 334
TK 138
Lương kỳ I và II
LCB
TK 338
3382(KPCĐ)
3383(BHXH)
3384(BHYT)
TK 622.1
373.944.940
373.741.034
215.833.104
7.478.898
32.374.966
4.316.662
TK 622.2
78.165.517
78.068.621
48.978.768
1.563.310
7.346.815
979.575
TK 622.5
14.486.761
14.486.761
10.122.279
289.735
1.518.342
202.446
TK 627
22.394.874
22.394.874
10.122.279
447.897
1.518.342
202.446
TK 641
60.056.260
60.056.260
11.428.379
376.507
1.714.257
228.567
TK 642
18.825.390
18.825.390
30.040.311
1.201.125
4.506.046
600.806
Cộng
567.873.742
567.572.940
326.525.120
11.357.472
48.978.768
6.530.502
138-trả thừa kỳ này
970.957
Trả thừa kỳ trước
1.271.759
T. Cộng
568.844.699
1.271.759
567.572.940
326.525.120
11.357.472
48.978.768
6.530.502
Như trên đã nói, việc không tiến hành trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất có ảnh hưởng đến việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành trong kỳ. Do vậy, Công ty nên tiến hành trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp theo cách thức sau:
Tổng tiền lương nghỉ phép của CNTTSX theo kế hoạch
- Tỷ lệ trích trước =
Tổng tiền lương chính của CNTTSX theo kế hoạch
x
=
- Mức trích trước tiền lương Tiền lương cơ bản phải trả Tỷ lệ
nghỉ phép của CNTTSX cho CNTTSX trích trước
Kế toán định khoản như sau:
Nợ TK 622
Có TK 335
Đề xuất 4: Phân bổ tiền nước.
Việc tiền nước của toàn Công ty chỉ được phân bổ cho ba giai đoạn công nghệ: dêt, sợi, tất làm tăng chi phí sản xuất dẫn đến giá thành sản phẩm dễ bị sai lệch. Để tính chính xác giá thành sản phẩm, Công ty nên đầu tư lắp đặt hệ thống đồng hồ đo nước ở từng phân xưởng, bộ phận từ đó giúp kế toán tính đúng hơn chi phí tiền nước cho các phân xưởng dệt, sợi, tất và bộ phận quản lý. Ngoài ra nó còn giúp cán bộ công nhân viên của Công ty có ý thức hơn trong việc sử dụng nước sạch, tránh lãng phí nước, nhất là trong khi thiếu nước sạch đang là vấn đề quốc gia, giúp giảm được phần nào chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm.
Đề xuất 5:
Như đã trình bày ở phần II, khi tái nhập len thì kế toán Công ty hạch toán:
Nợ TK 152.11 5.802.400
Có TK 154.1
Việc hạch toán trực tiếp ghi giảm TK 154.1 mà không đưa qua TK 621.1 làm cho nội dung TK 154 trở nên phức tạp. Với thực tế đó, em có ý kiến là đối với các khoản thu ghi giảm chi phí thì những khoản thu nào phát sinh (trước khi đưa vào TK 154) thì ghi giảm ngay tại tài khoản chi phí đó. Với cách hạch toán như vậy thì số liệu khi đưa sang TK 154 chính là số chi phí thực tế đã dùng phục vụ cho sản xuất trong kỳ, và TK 154 sẽ phản ánh chi phí đúng với thực tế hơn.
Ví dụ, khi phát sinh các khoản ghi giảm trừ chi phí nguyên vật liệu (gia trị phế liệu thu hồi, len xuất ra không sử dụng hết nhập lại kho) thì kế toán ghi giảm ngay tại TK 621. Và số liệu kết chuyển sang TK 154 sẽ là số nguyên vật liệu thực tế đã dùng để sản xuất sản phẩm.
Quá trình đó được hạch toán như sau: (Tháng 9 năm 2001)
+ Xuất kho nguyên vật liệu (len) dùng để sản xuất sản phẩm:
Nợ TK 621.1 595.013.336
Có TK 152.11
+ Khi tái nhập len lại kho:
Nợ TK 152.11 5.802.400
Có TK 621.1
+ Cuối kỳ, kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Nợ TK 154.1 589.210.936
Có TK 621.1
Đề xuất 6: Hoàn thiện bảng phân bổ số 2- Bảng phân bổ NVL,CCDC.
Bảng phân bổ số 2 chỉ nên ghi những chỉ tiêu tổng hợp, không cần ghi chi tiết tên số lượng từng loại vật tư xuất dùng cho các đối tượng vì những chi tiết đó đã được theo dõi trên các sổ chi tiết vật liệu, công cụ dụng cụ. Mặt khác, kết cấu và cách ghi của bảng phân bổ cần tạo điều kiện dễ dàng cho việc tập hợp chi phí cho các đối tượng.
Kết cấu và cách ghi bảng phân bổ số 2 của Công ty Dệt len Mùa Đông hiện nay giống như bảng tổng họp chi tiết hơn là bảng phân bổ NVL,CCDC. Mặc dù Công ty cũng nên sử dụng bảng này để tạo điều kiện cho việc lập bảng phân bổ số 2, nhưng nếu coi đây là bảng phân bổ số 2 thì việc tập hợp chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ cho các đối tượng là không thuận tiện và thiếu tính khoa học.
Vì vậy, Công ty nên lập thêm một bảng phân bổ số 2 khác theo mẫu sau để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập hợp chi phí cho các đối tượng.
Bảng số 17: Bảng phân bổ NVL, CCDC
Đề xuất 7: Đối với kế toán vật liệu và công cụ lao động nhỏ.
Về hạch toán chi phí vật liệu, kế toán Công ty Dệt len Mùa Đông sử dụng phương pháp ghi thẻ song song. Phương pháp này tuy đơn giản, dễ làm song công việc ghi chép nhiều và trùng lắp, tốn nhiều công sức, việc kiểm tra và đối chiếu giữa thủ kho và phòng kế toán chỉ tiến hành vào cuối tháng nên làm hạn chế tác dụng kiểm tra kịp thời. Do vậy, Phương pháp này không còn phù hợp với tình hình hiện tại của Công ty nhất là trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu về nguyên vật liệu lớn và đa dạng, tình hình nhập xuất diễn ra hàng ngày và trong khi đó phòng kế toán có số lượng nhân viên ít, công việc lại thực hiện bằng phương pháp thủ công. Vì thế tiến tới Công ty nên áp dụng phương pháp sổ số dư.
Đặc điểm của phương pháp sổ số dư là kết hợp chặt chẽ việc hạch toán nghiệp vụ của thủ kho với việc ghi chép tại phòng kế toán và trên cơ sở kết hợp đó ở kho chỉ hạch toán về số lượng còn ở phòng kế toán chỉ hạch toán vè mặt giá trị. Với phương pháp nay, có thể khắc phục được hạn chế của phương pháp thẻ song song. Mặt khác, tạo điều kiện thực hiện kiểm tra thường xuyên và có hệ thống giữa kế toán và thủ kho, đảm bảo số liệu kế toán kịp thời, chính xác. Phương pháp này được tiến hành cụ thể như sau:
+ ở kho: Hàng ngày hoặc định kỳ khi ghi xong thẻ kho, thủ kho phân loại chứng từ nhập kho, xuất kho theo từng nhóm, từng loại vật liệu. Căn cứ vào kết quả phân loại chứng từ trên, thủ kho lập phiếu giao nhận chứng từ nhập xuất kho theo từng loại , từng nhóm vật liệu, ghi rõ số lượng mỗi chứng từ sau đó chuyển cho phòng kế toán.
+ Phòng kế toán: Định kỳ, nhân viên kế toán xuống kho lấy chứng từ, kiểm tra lại chứng từ sau đó tổng hợp giá trị của vật liệu theo từng nhóm, từng loại vật liệu nhập xuất kho để ghi vào cột “Thành tiền” của phiếu giao nhận chứng từ rồi lên bảng kê luỹ kế nhập và bảng kê luỹ kế xuất vật liệu. Các bảng này được mở theo từng kho hoặc nhiều kho (nếu các kho được chuyên môn hoá). Cuối tháng công số liệu trên bảng luỹ kế nhập, bảng luỹ kế xuất vật liệu để ghi vào các phần nhập, xuất trên bảng kê tổng hợp nhập, xuất, tồn kho rồi tính ra số tồn kho cuối tháng của từng nhóm, từng loại hàng tồn kho và ghi vào cột “Tồn kho cuối tháng” của bảng kê này. Đồng thời vào cuối tháng, ké toán căn cứ vào số tồn trên thẻ kho để ghi vào sổ số dư. Sổ này được lập cho từng kho mở theo năm.
Mẫu số 1 Mẫu sổ số dư
Năm
Tên VL
ĐV tính
Giá hạch toán
Giá thực tế
Dư đầu năm
Dư cuối tháng 1
…
Dư cuối tháng 12
Mẫu số 2 Bảng kê luỹ kế nhập, xuất, tồn kho vật liệu
Tháng năm
Đơn vị tính:
Nhóm hàng
Tồn kho đầu kỳ
Nhập
Xuất
Tồn kho cuối kỳ
Từ ngày
1-10
Từ ngày
11-20
Từ ngày
21-30
Cộng
Từ ngày
1-10
Từ ngày
11-20
Từ ngày
21-30
Cộng
Nội dung và trình tự kế toán chi tiết vật liệu, công cụ dụng cụ theo phương pháp sổ số dư được khái quát theo sơ đồ sau:
Sơ đồ số 11:
Thẻ kho
Sổ số dư
Phiếu XK
Bảng kê
xuất
Bảng kê tổng hợp
nhập - xuất - tồn
Bảng kê luỹ
kế nhập
Bảng kê luỹ
kế xuất
GGGgGGGGGhji
Bảng kê
nhập
Phiếu NK
Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu, kiểm tra.
Các điều kiện để thực hiện các hướng hoàn thiện đã nêu.
Để thực hiện các hướng hoàn thiện đã nêu trên, Công ty cần chú trọng tới các điều kiện sau:
Cần có sự chỉ đạo, giám sát hơn nữa từ giám đốc Công ty đến các phòng ban, giám đốc từng phân xưởng để tổ chức hạch toán đầy đủ các chỉ tiêu cần thiết để đánh giá được châts lượng công tác ở các phân xưởng.
Công tác hạch toán ở các phân xưởng cần phải thực hiện tốt, phản ánh một cách đầy đủ các chi phí phát sinh theo đúng chế độ.
Tất cả các phòng ban cần thực hiện tốt nhiệm vụ và chức năng của mình, xứng đáng là bộ máy tham mưu cho giám đốc.
Công ty phải thực hiện chế độ thưởng, phạt rõ ràng về sử dụng tiết kiệm hay lãng phí vật tư đối với các bộ phận phân xưởng. Về phần mình các phân xưởng phải thường xuyên phân tích, đánh giá, báo cáo về tình hình sử dụng vật tư của đơn vị mình.
Đối với kho tàng, bảo quản vật tư cần bảo đảm đúng kỹ thuật, tránh làm hao hụt vật tư.
Yêu cầu của Công ty đối với người lao động là như vậy, còn trách nhiệm của Công ty đối với họ thì sao? Về phía mình Công ty cần:
Tìm mọi cách để từng bước nâng cao đời sống của người lao động. Bảo đảm đời sống là khâu đầu tiên để người lao động gắn bó với Công ty, phát huy mọi năng lực sáng tạo của mình. Chế độ tiền lương, tiền thưởng, chế độ về nghỉ ngơi, nhà ở… luôn là đòn bẩy để nâng cao chất lượng, năng suất lao động do đó phải luôn được chú trọng đảm bảo.
Cần tăng cường, tạo điều kiện để công nhân, cán bộ được tham gia học tập.
Không ngừng xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới công nghệ.
Đối với bộ máy kế toán của Công ty , Công ty cần có sự đầu tư thích đáng nhằm phát huy năng lực của họ.
Tóm lại, trong điều kiện nền kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần phải không ngừng hoàn thiện chính bản thân mình.
Kết luận
Qua quá trình học tập và thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty Dệt len Mùa Đông, cùng với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn, em đã nhận thức được ý nghĩa của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm -đó là một khâu quan trọng không thể thiếu được của bất kỳ một quá trình hạch toán kinh tế nào. Do vậy, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Dệt len Mùa Đông”.
Trong một chừng mực nhất định phù hợp với khả năng và trình độ của bản thân, đề tài đã giải quyết được những nội dung và yêu cầu cơ bản sau:
Về mặt lý luận: Đã trình bày một cách khái quát, có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp từ đó có sự vận dụng thích hợp đối với từng doanh nghiệp cụ thể.
Về mặt thực tế: Trên cơ sở tìm hiểu thực tế công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Dệt len Mùa Đông, đề ra những biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Trên đây là nội dung của đề tài, có thể thấy rằng tổ chức công tác kế toán nói chung và tổ chức hạch toán chi phí và tính giá thanhf nói riêng là một vấn đề vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn. Để làm cho công tác kế toán thực sự phát huy tác dụng của mình, trở thành một công cụ sắc bén và có hiệu lực phục vụ cho quản lý kinh tế, Công ty cần kiện toàn và tổ chức công tác hạch toán chi phí và tính giá thành một cách kho học và hợp lý hơn. Những đề xuất ở trên cũng là nhằm mục đích hoàn thiện hơn công tác kế toán. Tuy nhiên với thời gian thực tập ngắn, hiểu biết về thực tế không nhiều do đó không tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của cô giáo và các bác, các anh chị trong phòng kế toán của Công ty để bài viết được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình chỉ bảo của cô giáo hướng dẫn và các bác , các anh chị trong Công ty đã tạo điều kiện để em hoàn thành bài luận văn này.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0126.doc