Tài liệu Tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại Công ty TNHH TM và DV Tuấn Thảo : ... Ebook Tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại Công ty TNHH TM và DV Tuấn Thảo
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại Công ty TNHH TM và DV Tuấn Thảo , để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đã khẳng định tầm quan trọng của thương mại trong đời sống kinh tế xã hội. Với vai trò là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, thương mại đã làm cho quá trình lưu thông hàng hoá được nhanh chóng và thuận tiện hơn, người mua có thể tìm thấy ở doanh nghiệp kinh doanh thương mại nhiều loại hàng hoá mà mình cần. Trước đây, trong cơ chế quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp thương mại hoạt động theo chỉ tiêu sản xuất của nhà nước. Nhưng hiện nay, để đứng vững và phát triển doanh nghiệp thương mại phải nắm bắt và đáp ứng được tâm lý, nhu cầu của người tiêu dùng với sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã phong phú nhằm làm tốt cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng cũng như góp phần thúc đẩy sản xuất.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh thương mại thì bán hàng là một khâu quyết định trong mỗi chu kì kinh doanh vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của chu kì đó. Giải quyết tốt khâu này tức là doanh nghiệp đã đảm bảo cho các chu kì kinh doanh được diễn ra thường xuyên liên tục. Quá trình bán hàng là cơ sở để tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp, đó là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Để thực hiện được mục tiêu, mỗi doanh nghiệp cần nắm bắt các thông tin làm cơ sở đánh giá, phân tích, lựa chọn và ra quyết định đầu tư kinh doanh như doanh thu, chi phí và kết quả..vv. Với tư cách là công cụ quản lý kinh tế, kế toán đã theo dõi, phản ánh, ghi chép đầy đủ những thông tin đó và cung cấp cho các doanh nghiệp, cụ thể là kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng. Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác kế toán doanh thu bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở các doanh nghiệp thương mại nói chung và công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Tuấn Thảo nói riêng, bằng kiến thức lý luận được trang bị ở nhà trường và sự giúp đỡ tận tình của Giám đốc, kế toán Công ty TNHHTM &DV Tuấn Thảo, em mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại Công ty TNHHTM & DV Tuấn Thảo”.
Nội dung của đề tài đề cập đến những vấn đề lý luận chung, thực tế và những đánh giá, kiến nghị về công tác kế toán doanh thu bán hàng và xác định kết quả của công ty, nội dung được trình bày cụ thể như sau:
Chương I: Lý luận chung về tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng trong doanh nghiệp thương mại.
Chương II: Thực tế tổ chức kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở Công ty TNHHTM & DV Tuấn Thảo
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại Công ty TNHHTM & DV Tuấn Thảo.
Với kiến thức tích luỹ còn hạn chế, phạm vi đề tài rộng và thời gian thực tế chưa có nhiều nên bài khó tránh khỏi những thiếu sót, em kính mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo, giúp đỡ của các thầy cô giáo, Giám đốc, kế toán Công ty để báo cáo thực tập của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI.
Sự cần thiết phải tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng trong doanh nghiệp thương mại
1.1.1 Ý nghĩa của hoạt động bán hàng và xác định kết quả bán hàng trong doanh nghiệp thương mại và sự cần thiết phải quản lý.
Bán hàng (hay tiêu thụ hàng hoá) là giai đoạn cuối cùng của giai đoạn tuần hoàn vốn trong doanh nghiệp, là quá trình thực hiện mặt giá trị của hàng hoá. Trong mối quan hệ này, doanh nghiệp phải chuyển giao hàng hoá cho người mua và người mua phải chuyển giao cho doanh nghiệp số tiền mua hàng tương ứng với giá trị của hàng hoá đó, số tiền này được gọi là doanh thu bán hàng. Quá trình bán hàng được coi là hoàn thành khi có đủ 2 điều kiện sau:
- Gửi hàng cho người mua
- Người mua đã trả tiền thanh toán hay chấp nhận thanh toán
Tức là nghiệp vụ bán hàng chỉ xảy ra khi giao xong hàng, nhận được tiền hoặc giấy chấp nhận thanh toán của người mua, hai việc này có thể diễn ra đồng thời cùng một lúc hoặc không đồng thời tuỳ theo phương thức bán hàng của doanh nghiệp. Có thể nói công tác bán hàng là cực kì quan trọng đối với doanh nghiệp, thể hiện ở nội dung sau:
- Đối với sản xuất, sản xuất và tiêu thụ có mối quan hệ biện chứng với nhau. Sản xuất là tiền đề của tiêu thụ cũng như hoạt động mua vào trong kinh doanh thương mại và ngược lại, tiêu thụ lại ảnh hưởng quyết định tới sản xuất, tới việc thu mua hàng hoá. Nếu sản xuất ra không tiêu thụ được hay mua hàng về không bán được sẽ dẫn đến kinh doanh bị ứ đọng, ảnh hưởng tới tình hình sản xuất kinh doanh cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do vậy thực hiện tốt công tác bán hàng đảm bảo cho doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh, tăng vòng quay vốn kinh doanh, từ đó đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp và mở rộng hoạt động kinh doanh.
- Việc tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp còn ảnh hưởng tới nhiều đối tượng khác nhau. Chẳng hạn, nếu mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp này là nguyên vật liệu của nhiều doanh nghiệp khác thì việc đảm bảo tiêu thụ của mình sẽ tạo đIều kiện cho các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả hơn, đảm bảo cùng tồn tại và phát triển trong sự ràng buộc của hệ thống phân công lao động xã hội. Tổ chức công tác bán hàng có ý nghĩa quan trọng như vậy, nhưng mối quan tâm không chỉ dừng lại ở đây mà là kết quả của việc tổ chức thực hiện đó. Đây cũng là qui luật tất yếu trong sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp đều muốn biết mình đang và sẽ thu được gì sau hàng loạt các hành vi tác nghiệp.
Kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm: kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả của hoạt động tài chính, kết quả của hoạt động khác. Đối với doanh nghiệp thương mại, kết quả hoạt động kinh doanh thực chất là kết quả bán hàng nó sẽ là nguồn lợi chính, là chênh lệch giữa doanh thu thuần (tổng doanh thu bán hàng sau khi đã trừ đi khoản giảm doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT phải nộp theo phương pháp trực tiếp) với trị giá vốn hàng đã bán ra, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp , được xác định theo công thức:
Kết quả bán hàng = DTT về bán hàng và cung cấp dịch vụ- giá vốn của hàng bán – CFBH, CFQLDN phân bổ cho số hàng đã bán.
Trong điều kiện khu vực hoá, toàn cầu hoá, tự do thương mại và tự do cạnh tranh làm cho sự khác biệt giữa thị trường trong nước và ngoài nước ngày càng mờ nhạt, điều đó vừa tạo ra cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ nhưng lại đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước lớn hơn do đối thủ cạnh tranh ngày một nhiều và mạnh. Đứng trước tình hình này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình một chính sách sản phẩm, chính sách tiêu thụ đúng đắn nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị trường và tăng hiệu quả kinh doanh.
Để quản lý tốt quá trình bán hàng, tiết kiệm chi phí và tối đa hoá lợi nhuận cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
- Quản lý sự vận động và số hiện có của từng loại hàng hóa, theo chỉ tiêu số lượng, chất lượng, chủng loại và giá trị của chúng. Đối với từng loại hàng hoá không chỉ theo dõi về các chỉ tiêu tổng hợp mà cần phải mở sổ chi tiết để quản lý chặt chẽ.
- Để đảm bảo sự phát triển bền vững của doanh nghiệp cần nắm vững thị trường, xác định đúng giá cả, lựa chọn phương thức tiêu thụ cho phù hợp và xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp. Ngoài yếu tố giá cả và chất lượng và thương hiệu là một nhân tố tích cực thúc đẩy tốc độ tăng doanh số bán.
- Quản lý và sử dụng hiệu quả CFBH, CFQLDN nhằm tối đa hoá lợi nhuận và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước, quản lý chặt chẽ việc chấp hành chế độ tài chính về phân phối kết quả.
1.1.2 Nhiệm vụ của kế toán doanh thu bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
Từ những yêu cầu chung của quá trình quản lý bán hàng, kế toán với tư cách là công cụ phục vụ đắc lực cho quản lý kinh tế, khi kế toán doanh thu bán hàng và xác định kết quả bán hàng được tổ chức khoa học hợp lý sẽ cung cấp được những thông tin có ích cho nhà quản lý trong việc ra quyết định sản xuất và tiêu thụ cho phù hợp, có hiệu quả. Muốn vậy doanh thu bán hàng và xác định kết quả bán hàng phải thực hiện của các nhiệm vụ sau:
- Ghi chép đầy đủ kịp thời khối lượng hàng hoá bán ra về tiêu thụ nội bộ, tính toán đúng trị giá vốn của hàng đã bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp và các khoản chi phí khác nhằm xác định đúng đắn kết quả bán hàng.
- Kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện kế hoạch bán hàng, tình hình thanh toán với người mua với ngân sách nhà nước.
- Cung cấp thông tin chính xác trung thực và đầy đủ về tình hình bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
Như vậy kế toán bán hàng và xác định kết quả là công tác quan trọng của doanh nghiệp nhằm xác định số lượng, giá trị của lượng hàng hoá bán ra cũng như doanh thu và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Song để phát huy được vai trò và thực hiện các nhiệm vụ đã nêu trên đòi hỏi phải tổ chức tốt công tác kế toán thật khoa học, hợp lý, đồng thời cán bộ kế toán phải nắm vững nội dung của việc tổ chức tốt công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
1.2 Lý luận về tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng
1.2.1 Các phương thức bán hàng
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường để thúc đẩy quá trình tiêu thụ các doanh nghiệp sử dụng rất linh hoạt các phương thức bán hàng. Phương thức bán hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng các tài khoản kế toán phản ánh tình hình xuất kho hàng hóa. Đồng thời có tính chất quyết định đối với việc xác định thời điểm bán hàng và ghi nhận doanh thu, tiết kiệm chi phí bán hàng để tăng lợi nhuận. Căn cứ vào điều kiện ghi nhận doanh thu và thời điểm xác định là bán hàng có thể chia quá trình bán hàng thành hai phương thức:
Phương thức bán hàng trực tiếp
Phương thức gửi bán
1.2.1.1 Phương thức bán hàng trực tiếp
Theo phương thức này, khi doanh nghiệp giao hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng thì đồng thời khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán ngay. Nghĩa là quá trình chuyển giao hàng và ghi nhận doanh thu diễn ra đồng thời. Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn lợi ích và rủi ro gắn với quyền sở hữu hàng hoá cho khách hàng và ngay lúc chuyển giao hàng đã thoả mãn đầy đủ các điều kiện ghi nhận doanh thu. Phương thức bán hàng trực tiếp giúp cho quá trình bán hàng được thực hiện nhanh chóng, dứt khoát tiết kiệm được các chi phí về vận chuyển, bảo quản hàng hoá và giảm rủi ro cho doanh nghiệp. Tuy nhiên doanh nghiệp cần đầu tư nhiều thời gian và chi phí vào các hoạt động marketing, mở rộng và tiếp cận thị trường, tìm kiếm các khách hàng mới. Do được xác định là nghiệp vụ bán hàng ngay khi chuyển giao hàng hoá, kế toán bán hàng trong trường hợp này sử dụng TK632 để phản ánh trị giá vốn hàng bán và TK511 để phản ánh doanh thu mà không cần sử dụng TK157- Hàng gửi đi bán
1.2.1.2 Phương thức gửi bán
Theo phương thức này, định kỳ doanh nghiệp theo những thoả thuận đã ghi trong hợp đồng. Khách hàng có thể là những đơn vị mua một lần hoặc những khách hàng mua thường xuyên theo hợp đồng kinh tế. Khi xuất kho hàng hoá giao cho khách hàng thì số hàng hoá đó vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp bởi chưa thoả mãn 5 điều kiện ghi nhận doanh thu. Chỉ đến khi khách hàng đã chấp nhận thanh toán doanh nghiệp mới ghi nhận doanh thu.
Đối với phương thức bán hàng này, kế toán cần phải chú ý thời điểm và các điều kiện ghi nhận doanh thu. Đồng thời cần phải mở các tài khoản tổng hợp và chi tiết để theo dõi, quản lý hàng hoá gửi bán và thực hiện trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho nếu có các dấu hiệu giảm giá. Bán hàng theo phương thức gửi bán đạt hiệu quả cao trong nền kinh tế thị trường, khi mà sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc từ khâu sản xuất đến tiêu dùng. Các doanh nghiệp sản xuất sẽ giảm được các khoản đầu tư vào khâu bán hàng để tập trung vào khâu sản xuất. Tuy nhiên, phương thức này có nhược điểm là khó quản lý các sản phẩm, hàng hoá đã gửi bán, khả năng rủi ro cao. Các nhà quản lý cần theo dõi, đôn đốc việc thu tiền từ các khách hàng khi sản phẩm, hàng hoá đã được xác định bán. Để phản ánh trị giá vốn sản phẩm, hàng hoá xuất kho gửi bán, kế toán sử dụng TK 157- Hàng gửi đi bán. Chỉ khi đã xác định là nghiệp vụ bán hàng, kế toán mới ghi nhận giá vốn và doanh thu bán hàng ở TK632, TK511 và các tài khoản liên quan.
1.2.2 Doanh thu bán hàng
Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kì hạch toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Doanh thu được xác định bằng các khoản đã thu được hoặc sẽ thu được sau khi trừ đi các khoản CKTM, GGHB và giá trị hàng bán bị trả lại. Tuỳ theo loại hình sản xuất kinh doanh có các loại doanh thu:
- Doanh thu bán hàng
- Doanh thu cung cấp dịch vụ
- Doanh thu từ tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi nhuận được chia
Doanh thu bán hàng là toàn bộ số tiền thu được hoặc số thu được từ các giao dịch và nghiệp vụ phát sinh doanh thu như bán sản phẩm,hàng hoá cho khách hàng bao gồm cả các khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán (nếu có). Nếu doanh nghiệp có doanh thu bán hàng bằng ngoại tệ thì doanh thu được qui đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá thực tế của nghiệp vụ phát sinh hoặc tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ. Trong kì kế toán, doanh thu bán hàng thuần mà doanh nghiệp thực hiện được có thể thấp hơn doanh thu bán hàng ghi nhận ban đầu do các nguyên nhân: doanh nghiệp chiết khấu thương mại, giảm giá hàng đã bán cho khách hàng hoặc hàng đã bán bị trả lại (do không đảm bảo điều kiện về qui cách, phẩm chất ghi trong hợp đồng kinh tế) và doanh nghiệp phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp được tính trên doanh thu bán hàng thực tế mà doanh nghiệp đã thực hiện được trong kì kế toán.
Theo chuẩn mực kế toán số 14- Doanh thu và thu nhập khác, doanh thu chỉ được ghi nhận khi thoả mãn 5 điều kiện sau:
- Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm, hàng hoá cho người mua.
- Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hoá như người sở hữu hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá.
- Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
-Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng.
- Doanh nghiệp phải xác định được thời điểm chuyển giao phần lớn lợi ích và rủi ro gắn liền với quyền sở hữu hàng hóa cho khách hàng trong từng trường hợp cụ thể. Hầu hết các trường hợp thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro trùng với thời điểm chuyển giao lợi ích. Nếu doanh nghiệp vẫn phải chịu phần lớn rủi ro và lợi ích thì doanh thu không được ghi nhận. Nếu lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng còn phụ thuộc yếu tố không chắc chắn thì chỉ được ghi nhận doanh thu khi các yếu tố này đã xử lý xong. Mặt khác, doanh thu và chi phí của cùng một giao dịch phải được ghi nhận đồng thời theo nguyên tắc phù hợp. Khoản tiền nhận trước của khách hàng không được ghi nhận là doanh thu mà phải ghi nhận là một khoản nợ phải trả tại thời điểm nhận trước của khách hàng.
1.2.3 Các khoản giảm trừ doanh thu bán hàng
Các khoản giảm trừ doanh thu như chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế GTGT nộp theo phương pháp trực tiếp, thuế xuất khẩu được tính vào doanh thu ghi nhận ban đầu. Để xác định doanh thu thuần cuối kỳ phải kết chuyển các khoản giảm trừ doanh thu sang TK511- Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. Như vậy để tăng doanh thu thuần một mặt phải tăng lượng hàng tiêu thụ, một mặt ta phải hạn chế các khoản giảm trừ doanh thu có như thế mới tăng được kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần theo dõi, phản ánh chi tiết, riêng biệt từng khoản giảm trừ doanh thu để cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác kịp thời cho các nhà quản trị doanh nghiệp.
1.2.3.1 Chiết khấu thương mại
Chiết khấu thương mại (CKTM) là khoản tiền mà doanh nghiệp bán đã giảm trừ hoặc đã thanh toán cho người mua hàng do người mua hàng mua với khối lượng lớn theo thoả thuận về CKTM đã ghi trên hợp đồng kinh tế mua bán hoặc các cam kết mua hàng. Cần phân biệt chiết khấu thanh toán là khoản tiền người bán giảm cho người mua trừ vào số tiền phải trả do thanh toán trước thời hạn đã ghi trong hợp đồng còn CKTM là khoản người bán giảm cho người mua do mua nhiều hoặc do khách hàng quen bất kể là đã thanh toán ngay hay chưa. Đây là một biện pháp các doanh nghiệp khuyến khích người mua hàng nhằm tăng doanh thu và giữ mối quan hệ tốt với khách hàng. Kế toán cần theo dõi chi tiết các khoản CKTM với từng khách hàng.
1.2.3.2 Giảm giá hàng bán
Giảm giá hàng bán (GGHB) là khoản giảm trừ cho người mua do hàng hoá kém phẩm chất, sai quy cách hoặc lạc hậu thị hiếu. Thông thường, doanh nghiệp vẫn bán sản phẩm, hàng hoá và phát hành hóa đơn theo giá niêm yết. Nhưng khi giao hàng cho người mua, bên nhận thường kiểm tra hàng hoá trước khi nhập kho. Nếu phát hiện không đảm bảo chất lượng, quy cách đã ghi trong hợp đồng thì bên mua sẽ yêu cầu bên bán giảm giá hàng bán hoặc trả lại lô hàng đó. Doanh nghiệp nếu chấp thuận thì sẽ tiến hành giảm giá cho bên mua bằng cách trừ vào số tiền còn phải trả hoặc nếu đã thanh toán thì trả lại tiền. Nếu doanh nghiệp đã viết hoá đơn cho khách hàng thì có thể viết hoá đơn theo giá đã giảm và khi đó không hạch toán vào TK532 – Giảm giá hàng bán nữa và doanh thu được ghi nhận theo giá hoá đơn. Giảm giá hàng bán không chỉ làm giảm doanh thu và kết quả bán hàng của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng. Do vậy doanh nghiệp cần quản lý tốt chất lượng sản phẩm, hàng hoá và đảm bảo các điều kiện về giao nhận hàng để hạn chế tối đa các khoản giảm giá hàng bán.
1.2.3.3 Hàng bán bị trả lại
Hàng bán bị trả lại là số sản phẩm, hàng hoá doanh nghiệp đã xác định tiêu thụ nhưng bị khách hàng trả lại do vi phạm các điều kiện đã cam kết trong hợp đồng kinh tế như hàng kém phẩm chất, sai quy cách, chủng loại. Hàng bán bị trả lại phải có văn bản đề nghị của người mua ghi rõ lý do trả lại hàng, số lượng hàng bị trả lại, giá trị hàng bị trả lại và trường hợp trả lại toàn bộ thì phải trả lại hoá đơn. Hàng bán bị trả lại cũng là khoản làm giảm doanh thu bán hàng thuần của doanh nghiệp và do vậy làm giảm kết quả kinh doanh chung của doanh nghiệp. Mặt khác, nó làm giảm uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Doanh nghiệp cần quản lý, theo dõi chi tiết các khoản hàng bán bị trả lại và có giải pháp hạn chế. Nếu cần thiết, doanh nghiệp có thể giảm giá hợp lý cho khách hàng để tiêu thụ được hàng hoá.
1.2.4 Giá vốn hàng tiêu thụ
Khi ghi nhận doanh thu bán hàng phải đồng thời với việc ghi nhận các khoản chi phí liên quan làm cơ sở cho việc xác định kết quả kinh doanh. Giá vốn của hàng đã tiêu thụ bao gồm hai thành phần: giá vốn hàng xuất bán và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho hàng đã bán.
Theo chuẩn mực 02- Hàng tồn kho và thông tư 89 của Bộ Tài Chính, giá vốn của hàng tồn kho (vật tư, thành phẩm, hàng hoá) được xác định bằng một trong bốn phương pháp sau:
* Phương pháp thực tế đích danh:
Theo phương pháp này, doanh nghiệp sử dụng đơn giá thực tế nhập kho của lô hàng xuất để xác định trị giá vốn thực tế của lô hàng đó. Phương pháp này đảm bảo sự phù hợp giữa chi phí và thu nhập. Tuy nhiên, để áp dụng được phương pháp này thì doanh nghiệp pahỉ theo dõi được đơn giá thực tế từng lần nhập, nhận diện được cụ thể từng lô hàng. Phương pháp này áp dụng đối với các doanh nghiệp có ít các nghiệp vụ nhập xuất, các lô hàng có giá trị lớn và ít chủng loại hàng hoá.
* Phương pháp nhập trước xuất trước:
Phương pháp này được áp dụng dựa trên giả định là hàng tồn kho được mua trước hoặc sản xuất trước thì được xuất trước, hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất gần thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này, trị giá hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị hàng tồn kho tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ.
*Phương pháp nhập sau xuất trước:
Áp dụng dựa trên giả định là hàng tồn kho được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là hàng tồn kho được mua hoặc được sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá trị của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của hàng tồn cuối kỳ dược tính theo giá của hàng nhập đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ.
* Phương pháp bình quân gia quyền:
Giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá trung bình của từng loại hàng tồn kho đầu kỳ và được mua hoặc sản xuất trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo thời kỳ hoặc mỗi khi nhập một lô hàng về, phụ thuộc vào tình hình của doanh nghiệp.
Đơn giá
bình quân
=
Trị giá hàng tồn đầu kỳ + Trị giá hàng nhập trong kỳ
Số lượng hàng tồn đầu kỳ + Số lượng hàng nhập trong kỳ
Trị giá vốn thực
tế hàng xuất kho
=
Số lượng xuất
´
Đơn giá bình quân
Đồng thời việc tính giá vốn của hàng xuất kho cũng phụ thuộc từng loại hàng tồn kho và từng loại hình doanh nghiệp cụ thể.
Đối với doanh nghiệp sản xuất: trị giá vốn của vật tư xuất kho được tính bầng trị giá thực tế vật tư nhập kho bao gồm giá mua và chi phí mua. Trị giá vốn thành phẩm xuất kho hoặc sản phẩm hoàn thành không qua kho đưa bán ngay chính là giá thành sản xuất thực tế của thành phẩm. Theo chuẩn mực hàng tồn kho việc tính giá trị hàng xuất của doanh nghiệp sản xuất cũng áp dụng theo một bốn phương pháp trên. Tuy nhiên đối với thành phẩm do việc nhập xuất diễn ra hàng ngày, số lượng thành phẩm luôn biến động nhưng việc xác định giá thành sản phẩm không thể tiến hành hàng ngày mà thường tính vào cuối kỳ hạch toán. Bởi vậy đối với doanh nghiệp sản xuất chỉ có thể áp dụng tính giá hàng xuất kho theo phương pháp bình quân gia quyền.
Đối với doanh nghiệp thương mại: trị giá vốn của hàng hoá xuất kho để bán bao gồm trị giá mua thực tế của hàng hoá xuất kho và chi phí mua phân bổ cho số hàng đã bán. Trong đó:
-Trị giá mua thực tế cuẩ hàng xuất kho để bán được xác định theo một trong bốn phương pháp tính giá hàng xuất kho ở trên.
- Chi phí mua phân bổ cho số hàng đã bán: do chi phí mua liên quan đến nhiêù chủng loại hàng hoá, liên quan đến cả khối lượng hàng hoá trong kỳ và hàng tồn đầu kỳ nên cần phân bổ chi phí mua cho hàng đã bán trong kỳ và hàng tồn kỳ. Tiêu thức phân bổ có thể là số lượng, trọng lượng hoặc trị giá mua thực tế của hàng hoá.
Chi phí phân bổ cho hàng hoá đã bán trong kỳ
=
Chi phí của HH tồn đầu kỳ
+
Chi phí mua của HH phát sinh trong kỳ
´
Tiêu chuẩn phân bổ của hàng hoá đã xuất bán
Tổng tiêu chuẩn phân bổ của HH tồn đầu kỳ và hàng hoá đã xuất bán trong kỳ
1.2.5. Kết quả bán hàng
Kết quả bán hàng là biểu hiện bằng số tiền lãi hoặc lỗ từ hoạt động kinh doanh bán hàng trong một thời kỳ nhất định. Kết quả bán hàng cùng với kết quả hoạt động tài chính tạo thành kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thì kết quả bán hàng thường chiếm tỷ trọng lớn. Kết quả bán hàng được xác định theo công thức:
Kết quả
bán hàng
=
Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ
-
Giá vốn của
hàng bán
-
CPBH, CPQLDN phân bổ cho số hàng đã bán
Trong đó, doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ tính bằng tổng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trừ đi các khoản giảm trừ như CKTM, GGHB, hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp. Để tối đa hoá lợi nhuận các nhà doanh nghiệp rất chú trọng nâng cao kết quả hoạt động bán hàng của doanh nghiệp. Đây là hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp và có ý nghĩa quyết định đối với kết quả cuối cùng của doanh nghiệp. Các nhà quản lý doanh nghiệp thường áp dụng đồng bộ các biện pháp để nâng cao kết quả bán hàng. Các chính sách về tiêu thụ, định giá bán, phương thức bán hàng, các dịch vụ hậu mãi được chú trọng đặc biệt để tăng khối lượng hàng hoá bán ra. Mặt khác, các doanh nghiệp cần giảm thiểu các khoản giảm trừ doanh thu, phấn đấu hạ giá thành sản xuất, sử dụng tiết kiệm các khoản chi phí để ngày càng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3 Tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
1.3.1 Chứng từ kế toán sử dụng
Chứng từ kế toán là một phương thức kiểm tra và giám đốc các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của doanh nghiệp. Khi phát sinh các nghiệp vụ bán hàng, kế toán phải lập, thu thập đầy đủ các chứng từ phù hợp theo đúng nội dung, qui định của nhà nước nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý để ghi sổ kế toán.
Trong doanh nghiệp thương mại thường sử dụng các chứng từ sau:
- Hoá đơn bán hàng
- Hoá đơn thuế GTGT
- Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho (mẫu 02- BH)
- Phiếu xuất kho (mẫu 02 - VT)
- Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ (mẫu 03 - VT)
- Phiếu thanh toán
- Chứng từ thuế
- Giấy báo có của ngân hàng
- Các tài liệu và chứng từ thanh toán khác
Ngoài ra nếu các doanh nghiệp tham gia hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu hàng hoá, các chứng từ còn gồm:
- Hoá đơn thương mại
- Vận đơn đường biển, đường không
- Giấy chứng nhận bảo hiểm
- Giấy chứng nhận phẩm cấp
- Giấy chứng nhận số lượng, trọng lượng
- Giấy chứng nhận kiểm định
- Tờ khai hải quan
- Bảng kê chi tiết hàng xuất nhập khẩu
Đối với chứng từ, kế toán thống nhất bắt buộc phải được lập kịp thời, đầy đủ theo đúng qui định về biểu mẫu, nội dung và phương pháp lập. Người lập phải chịu trach nhiệm về tính pháp lý, hợp pháp của các chứng từ về các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh. Một chứng từ kế toán phải được tổ chức luân chuyển theo trình tự và thời gian hợp lý
1.3.2 Tài khoản sử dụng
Kế toán doanh thu bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở doanh nghiệp thương mại và dịch vụ Tuấn Thảo thường sử dụng những tài khoản sau: TK156,TK511, TK131,TK331,TK133,TK632, và TK911
- TK 156: Hàng hoá
Tài khoản này phản ánh số hiện có và tình hình biến động về trị giá vốn thực tế của hàng hoá trong kho ở các doanh nghiệp
- Tài khoản 156 có 2 tài khoản cấp 2:
+ TK1561: Trị giá mua hàng hoá
+TK1562 : Chi phí mua hàng hoá
TK131 : Phải thu của khách hàng
Tài khoản này phản ánh các khoản phát sinh trong quá trình bán sản phẩm, vật tư mà khách hàng chưa thanh toán.
TàI khoản này theo dõi chi tiết cho từng đối tượng.
- TK511: Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
Tài khoản này phản ánh doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp trong một kì kinh doanh
TK 511 không có số dư cuối kỳ và có 4 tài khoản cấp 2:
+TK 5111: Doanh thu bán hàng hoá
+TK 5112: Doanh thu bán thành phẩm
+TK 5113: Doanh thu cung cấp dịch vụ
+TK 5114: Doanh thu trợ cấp, trợ giá
- TK331: Phải trả cho người bán
-TK 632: Giá vốn hàng bán
Tài khoản này phản ánh trị giá vốn hàng hoá thành phẩm dịch vụ (đã thanh toán hoặc được chấp nhận thanh toán)
-TK 133: Thuế GTGT được khấu trừ
Đây là số thuế doanh nghiệp đã nộp cho Nhà nước khi mua vật tư, sản phẩm, dịch vụ, TSCĐ để khi Doanh nghiệp bán sản phẩm hàng hóa thông qua người bán sẽ được khấu trừ.
TK133 có số dư bên Nợ và có 2 tài khoản cấp 2:
+ TK1331: Thuế GTGT được khấu trừ của hàng hóa vật tư
+ TK1332: Thuế GTGT được khấu trừ của TSCĐ
- TK 911: Xác định kết quả kinh doanh
Tài khoản này dùng để phản ánh, xác định kết quả kinh doanh và các hoạt động khác của doanh nghiệp trong một kỳ nhất định
1.3.3 Trình tự hạch toán kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng
1.3.3.1 Doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên
Sơ đồ tổng hợp một số nghiệp vụ chính kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng theo phương pháp kê khai thường xuyên
TK111,131 TK156 TK632 TK911 TK511,512 TK111…
TK133 (3) (14) (13) (5a)
TK 157 TK333(1)
TK531,532,
(1) (2a) (4) 521 (5b)
TK156 (12) TK111,131...
(2b) (6)
TK333
TK334,338 TK641,642 (11)
(7)
TK152,153,142
(8) (15)
TK214
(9)
TK111,112…
(10)
TK821
(16)
TK 421
(17a)
(17b)
Sơ đồ được giải thích như sau:
(1) Nhập kho hàng hoá mua về
(2a) Giá trị hàng hoá gửi bán
(2b) Nhập kho hàng gửi bán
(3) Phản ánh trị giá vốn (.63trị giá mua và chi phí mua) của hàng hoá dịch vụ tiêu thụ trong kỳ
(4) Trị giá mua của hàng gửi bán, ký gửi, đại lý đã được bán
(5a) Phản ánh doanh thu tiêu thụ trong kỳ đã thu được tiền hoặc người mua đã chấp nhận thanh toán (giá không có thuế GTGT).
(5b) Phản ánh thuế GTGT đầu ra phải nộp cho hàng đã bán.
(6) Phản ánh doanh thu tiêu thụ trong kỳ đã thu bằng tiền hay bán chịu hoặc người mua chấp nhận thanh toán (giá bán bao gồm cả thuế GTGT).
(7) Lương và các khoản trích theo lương nhân viên bán hàng, nhân viên quản lý.
(8) Chi phí bao bì, văn phòng phẩm, công cụ dụng cụ, chi phí trích trước.
(9) Chi phí khấu hao TSCĐ.
(10) Chi phí dịch vụ mua ngoài
(11) Phản ánh thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc thuế xuất nhập khẩu phải nộp
(12) Kết chuyển các khoản giảm trừ (giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại)
(13) Kết chuyển doanh thu thuần để xác định kết quả kinh doanh
(14) Kết chuyển trị giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ
(15) Kết chuyển chi phí bán hàng, chi phí bán hàng để xác định kết quả kinh doanh
(16) Kết chuyển thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
(17a) Kết chuyển lỗ về hoạt động tiêu thụ
(17b) Kết chuyển lãi về hoạt động tiêu thụ
1.3.3.2 Doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ
Theo phương pháp này kế toán không theo dõi phản ánh thường xuyên liên tục tình hình nhập xuất kho hàng hoá trên các tài khoản hàng tồn kho mà chỉ để đến cuối tháng căn cứ vào biên bản kiểm kê hàng hoá, xác định lượng hàng hoá xuất ra trong kỳ. Do đó giá vốn hàng hoá xuất kho theo phương pháp này là số chênh lệch giữa giá trị hàng hoá tồn kho đầu kỳ và giá trị hàng hoá mua vào trong kỳ với giá trị hàng tồn kho cuối kỳ
Sơ đồ tổng hợp một số nghiệp vụ chủ yếu về kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng theo phương pháp kiểm kê định kỳ
TK111,131 TK611 TK632 TK911 TK511,512 TK111…
TK133 (3) (14) (13) (5a)
TK 157 TK333(1)
TK531,532,
(1a) (2) (4) 521 (5b)
TK156 (12) TK111,131...
(1b)
(6)
(1c) TK333
TK334,338 TK641,642 (11)
(7)
TK152,153,142
(8) (15)
TK214
(9)
TK111,112…
(10)
TK821
(16) TK421
(17a)
(17b)
Sơ đồ được giải thích như sau:
(1a) Hàng hoá được mua bằng tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, mua chịu
(1b) Kết chuyển hàng hoá tồn kho đầu kỳ
(1c) Kết chuyển hàng hoá tồn kho cuối kỳ
(2) Giá trị hàng hoá gửi bán
(3) Phản ánh trị giá vốn (trị giá mua và chi phí mua) của hàng hoá dịch vụ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21205.doc