Tổ chức công tác hạch toán tiền lương & các khoản trích theo lương tại Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam

Lời nói đầu Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường hàng loạt các vấn đề nảy sinh trong mọi lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.Một trong những vấn đề này là quản lý và sử dụng lao động sao cho có hiệu quả.Trước đây trong cơ chế bao cấp,vấn đề này chưa thực sự được quan tâm.Nguyên do vì nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế bằng các chỉ tiêu mang tính pháp lệnh. Cơ chế quản lý của nhà nước là nếu kết quả sản xuất lãi,nhà nước thu,lỗ nhà

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tổ chức công tác hạch toán tiền lương & các khoản trích theo lương tại Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước bù,tất cả các hoạt động của doanh nghiệp nhằm thực hiện kế hoạch nhà nước giao dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp trên báo cáo đều hoàn thành kế hoạch nhưng thực tế thì năm nào cũng lỗ không những số lượng không đạt mà chất lượng còn kém.Vấn đề hiệu quả kinh tế không phải là vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm vì thế nên người lao động làm việc như thế nào,chất lượng công việc ra sao người nào làm tốt,xấu đều chấp nhận mức lương mang tính bình quân.Nhưng hiện nay tình hình lại khác hẳn,trong văn kiện Đại Hội Đảng VIII Đảng ta đã chỉ rõ “Việc phát huy nguồn lực con người là nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.Do đó để đánh giá đúng vai trò quyết định của con người trong quá trình sản xuất kinh doanh,các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp.Vấn đề quản lý và sử dụng lao động một cách hiệu quản đang là vấn đề hết sức cấp thiết.Bởi vì trong các yếu tố của sản xuất,lao động là yếu tố có tính chủ động,tích cực,ảnh hưởng trực tiếp và rất mạnh tới kết quả sản xuất kinh doanh.Đứng trên góc độ kế toán,nhân tố lao động thể hiện là một bộ phận của chi phí đó chính là chi phí tiền lương.Thông qua cách tính và trả lương kế toán tiến hành quản lý lao động.Mỗi doanh nghiệp có mô hình hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau,đặc điểm lao động cũng khác nhau.Do vậy tuỳ theo yêu cầu của từng doanh nghiệp mà họ xây dựng cho mình hình thức trả lương,một cách hạch toán sao cho ưu việt nhất Thấy được tầm quan trọng của tiền lương cũng như công tác Tổ chức hạch toán tiền lương,em xin chọn chuyên đề thực tập “Tổ chức công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương”trong đợt thực tập tốt nghiệp tại Tổng Công Ty Dệt -May Việt Nam. Nội dung của chuyên đề được chia làm 3 chương như sau: Chương I:Một số vấn đề lý luận chung về công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở doanh nghiệp Chương II:Tình hình thực tế về tổ chức kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Tổng Công Ty Dệt -May Việt Nam. Chương III:Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện tổ chức kế toán hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Tổng Công Ty Dệt -May Việt Nam Chương I Lý luận chung về công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong doanh nghiệp I - Khái niệm và đặc điểm của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương. 1.1Khái niệm tiền lương: Trong lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội,lao động là hoạt động cơ bản nhất,lao động gắn liền với sự tồn tại và phát triển của con người.Có thể định nghĩa lao động như sau: “Lao động là hoạt động có mục đích có ý thức của con người nhằm tác động vào giới tự nhiên,biến chúng thành những vật có ích đối với đời sống của mình”. Theo định nghĩa trên thì quá trình lao động chính là quá trình sử dụng sức lao động tức là sử dụng toàn bộ thể lực và trí tuệ tồn tại trong cơ thể sống của con người mà con người có thể vận dụng trong quá trình sản xuất.Thực chất sức lao động mới chỉ là khả năng của lao động mà thôi. Lao động có một vai trò quan trọng đối với xã hội loài người.Loài người ngay từ khi xuất hiện để tồn tại được trước hết phải tiêu dùng một lượng của cải vật chất nhất định để thoả mãn những nhu cầu sinh học cơ bản như ăn,mặc,ở…Muốn có được của cải vật chất này không còn cách nào khác là phải lao động và chính nhờ lao động con người mới khám phá ra thế giới xung quanh,nhận biết được các quy luật của tự nhiên và chinh phục tự nhiên.Đứng trên góc độ toàn xã hội thì lao động,tư liệu lao động và đối tượng lao động là ba yếu tố của nền sản xuất xã hội.Trong đó lao động là yếu tố quan trọng mang tính chủ động,tích cực nhất,vai trò của lao động ngày càng tăng.Nếu thiếu lao động thì 2 nhân tố còn lại sẽ trở thành vô dụng.Hơn thế nữa lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư-phần giá trị mới sinh ra là cơ sở cho việc tái sản xuất mở rộng theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu.Như chúng ta đă biết,trong quá trình sản xuất tư liệu sản xuất và đối tượng sản xuất chuyển hết giá trị sức lao động vào sản xuất mà còn tạo ra thêm một phần giá trị mới nữa,phần giá trị mới này nếu nhìn ở góc độ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì đó chính là lợi nhuận-mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Quá trình sản xuất diễn ra đòi hỏi phải tiêu dùng liên tục các yếu tố tư liệu lao động,đối tượng lao động một cách thường xuyên.Mà các yếu tố này không phải là vô cùng vô tận nên cần phải tái tạo lại,hay tái sản xuất các yếu tố này.Đối với tư liệu lao động và đối tượng lao động thì tái tạo lại có nghĩa là mua sắm cái mới,nhưng sức lao động thì khác.Sức lao động gắn liên với hoạt động sống của con người là thể lực,trí lực con người,cho nên muốn tái tạo lại sức lao động cần phải thông qua hoạt động sống của con người,người tiêu dùng một lượng vật chất nhất định.Phần vật chất này do người sử dụng lao động trả cho người lao động dưới hình thức hiện vật,hay giá trị và được gọi là tiền lương. Trong thời kỳ kinh tế tập trung,tiền lương được hiểu một cách thống nhất như sau: “Về thực chất tiền lương dưới chủ nghĩa xã hội là một phần thu nhập quốc dân,biểu hiện dưới hình thức tiền tệ,được nhà nước phân phối có kế hoạch cho công nhân viên cho phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi người đã cống hiến.Tiền lương phản ánh việc trả công cho công nhân viên chức dựa theo nguyên tắc phân phối theo lao động”.Quan niệm này đã bác bỏ tiền lương là giá trị sức lao động.Bây giờ tiền lương chỉ làm một khái niệm thuộc phạm trù phân phối,tuân thủ quản lý phân phối.Dưới chủ nghĩa xã hội việc phân phối là do nhà nước lên kế hoạch. ở nước ta quan tâm về tiền lương như vậy đã tồn tại trong một thời gian rất dài.Khi hệ thống chủ nghĩa xã hội sụp đổ,để tồn tại đất nước ta đã phải tiến hành một cuộc cải cách thật toàn diện trên mọi lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh vực tư tưỏng.Cơ chế thị trường buộc chúng ta phải có thay đổi lớn trong nhận thức,vì vậy quan niệm về tiền lương cũng phải thay đổi về cơ bản.Để có được một nhận thức đúng về tiền lương,phù hợp với cơ chế quản lý mới,khái niệm về tiền lương phải đáp ứng một số yêu cầu sau: + Coi sức lao động là hàng hoá của thị trường yếu tố sản xuất. + Tiền lương phải là tiền trả cho sức lao động,tức là giá cả của hàng hoá sức lao động theo quản lý cung cầu,giá cả trên thị trường lao động. + Tiền lương là bộ phận cơ bản(hoặc duy nhất) trong thu nhập của người lao động,đồng thời là một trong các yếu tố chi phí đầu vào của sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó “tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động,là giá của yếu tố sức lao động mà người sử dụng(nhà nước,doanh nghiệp..)phải trả cho người cung ứng sức lao động tuân theo các nguyên tắc cung cầu,giá cả của thị trường và pháp luật hiện hành của nhà nước”. Như vậy bản chất của tiền lương chính là giá cả của sức lao động vì sức lao động thực sự là một loại hàng hoán đặc biệt.Chính vì sức lao động là hàng hoá mà giá cả của nó chịu sự chi phối của quy luật kinh tế như quy luật giá trị ,quy luật cung cầu… +Tiền lương chịu sự chi phối của quy luật giá trị,tiền lương có thể cao hơn,bằng hoặc thấp hơn giá trị sức lao động,mà con người đă bỏ ra trong quá trình lao động. +Tiền lương chịu sự chi phối của quy luật cung cầu:Nừu cầu về sức lao động lớn thì người có nhu cầu sử dụng sức lao động sẽ sẵn sàng trả lương cao hơn cho người lao động để giữ chân họ tiếp tục cung cấp sưc s lao động cho mình chức khong phải là cho người khác.Ngượclại,nếu cung về sức lao động hơn cầu về sức lao động thì đương nhiên người có nhu cầu sức lao động sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn lao động,họ sẵn sàng từ chối người lao động mà yêu cầu giá lương cao để tìm người lao động khác đang cần họ với tiền lương thấp hơn chất lượng lao động có thể còn tốt hơn. Cùng với khái niệm tiền lương như trên là một loạt các khái niệm cùng với nó như tiền lương danh nghĩa,tiền lương thực tế,tiền lương tối thiểu,tiền lương kinh tế,chế độ tiền lương,hình thức tiền lương. 1.2 Đặc điểm của tiền lương. Tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền với lao động,tiền tệ và nền sản xuất hàng hoá. Trong điều kiện tồn tại nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ,tiền lương là một yếu tố chi phí sản xuất,kinh doanh cấu thành nên giá thành của sản phẩm,lao vụ,dịch vụ. Tiền lương là một đòn bẩy kinh tế quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,tăng năng suất lao động,có tác dụng động viên khuyến khích công nhân viên chức phấn khởi,tích cực lao động,nâng cao hiệu quả công tác. II . Yêu cầu và nhiệm vụ của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương. 2.1 Yêu cầu của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương. Hiện nay trong chế độ lao động tiền lương có quan điểm chỉ đạo lâu dài là thực hiện đúng quyền hạn,quyền lợi,nghĩa vụ của doanh nghiệp và người lao động thực hiện sự bình đẳng giữa hai bên,tôn trọng quyền được làm việc và thôi việc của người lao động.Trong các doanh nghiệp sản xuất ngày nay tổ chức tiền lương phải tuân thủ các nguyên tắc sau: +Nguyên tắc trả lương theo số lượng và số lượng lao động:Nguyên tắc này nhằm khắc phục chủ nghĩa bình quân trong phân phối,mặt khác tạo cho người lao động ý thức với kết quả lao động của mình.Số lượng và số lượng lao động được thể hiện một cách tổng hợp ở kết quả sản xuất thông qua số lượng và số lượng sản phẩm sản xuất ra hoặc khối lượng công việc được thực hiện. +Gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh và phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ:Nếu chính sách tiền lương không giải quyết đúng đắn thì không những ảnh hưởng xấu đến sản xuất,đến tình hình phát triển kinh tế-xã hội mà còn trở thành vấn đề chính trị không có lợi. Để phân biệt và quy định mức độ phức tạp của công việc làm cơ sở tính trả lương cho công nhân viên thì trong các doanh nghiệp hiện nay được nhà nước quy định về tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật,thang lương và mức lương.Đó là cách trả lương theo chất lượng lao động.Còn việc trả lương theo số lượng lao động thực hiện bằng cách sử dụng các hình thức tiền lương.Việc kết hợp đúng đắn giữa chế độ lương cấp bậc với các hình thức tiền lương tạo điều kiện quán triệt đầy đủ nguyên tắc phân phối theo lao động. 2.2 Nhiệm vụ của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương Ghi chép,phản ánh,tổng hợp chính xác,đầy đủ,kịp thời về số lượng,chất lượng,thời gian và kết quả lao động. Tính toán các khoản tiền lương,tiền thưởng,các khoản trợ cấp phải trả cho người lao động và tình hình thanh toán các khoản đó cho người lao động. Kiểm tra việc sử dụng lao động,việc chấp hành chính sách chế độ lao động,tiền lương,trợ cấp bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế và việc sử dụng các quỹ tiền lương,quỹ bảo hiểm xã hội,quỹ bảo hiểm y tế. Tính toán và phân bổ các khoản chi phí tiền lương,bảo hiểm xã hội vào chi phí sản xuất,kinh doanh theo từng đối tượng.Hướng dẫn và kiểm tra các bộ phận trong doanh nghiệp thực hiện đúng chế độ ghi chép ban đầu về lao động,tiền lương,bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế,kinh phí công đoàn,mở sổ,thẻ kế toán và hạch toán lao động,tiền lương,bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế,kinh phí công đoàn theo chế độ. Lập báo cáo về lao động,tiền lương và các khoản trích theo lương,phân tích tình hình sử dụng lao động,quỹ tiền lương,quỹ bảo hiểm xã hội,quỹ bảo hiểm y tế đề xuất biện pháp để khai thác có hiệu quả tiềm năng lao động,tăng năng suất lao động,ngăn ngừa những vi phạm kỷ luật lao động,vi phạm chính sách chế độ về lao động,tiền lương và các khoản trích theo lương. III - Các hình thức tiền lương,quỹ tiền lương và các khoản trích theo lương. 3.1 Trả lương theo thời gian Là tiền lương được xây dựng căn cứ vào thời gian công tác và trình độ kỹ thuật của công nhân.tiền lương thời gian có thể tính theo tháng,theo ngày,theo giờ công tác và gọi là tiền lương tháng,lương ngày,lương giờ.Lương tháng có nhược điểm vì không phân biệt được người làm việc nhiều hay ít trong tháng nên không có tác dụng khuyến khích tận dụng ngày công theo chế độ.Đơn vị thời gian trả lương càng ngắn thì càng sát với mức độ hao phí lao động của mỗi người.Hiện nay trong các doanh nghiệp áp dụng trả lương theo thời gian chủ yếu là theo ngày.Theo hình thức này thì: Lương phải trả =Lương làm việc x Đơn giá bình quân theo công nhân viên thực tế thời gian ưu điểm của tiền lương trả theo thời gian:Đơn giản dễ tính toán,phản ánh được trình độ kỹ thuật và điều kiện làm việc của người công nhân.Song nó có nhược điểm cơ bản vì nó chưa gắn thu nhập mỗi người với kết quả lao động của mình.Hình thức này chỉ áp dụng khi mà tiền lương sản phẩm không thể áp dụng được,trong những trường hợp công nhân lao động máy móc là chủ yếu hoặc những công việc không thể tiến hành định mức một cách chặt chẽ chính xác hoặc vì tính chất cảu sản xuất nếu thực hiện trả công cho sản phẩm sẽ không bảo đảm được chất lượng sản phẩm và không đem lại kết quả thiết thực.Trong điều kiện nước ta hiện nay khi lao động thủ công còn khá phổ biến,trình độ chuyên môn hoá sản xuất còn thấp thì cần mở rộng hình thức trả lương theo sản phẩm nhưng khi sản xuất phát triển đến trình độ cao,quá trình sản xuất được cơ giới hoá và tự động hoá thì hình thức trả lương theo thời gian sẽ phổ biến. Hình thức trả lương theo thời gian chia thành 2 hình thức nhỏ: +Lương thời gian giản đơn +Lương thời gian có thưởng Tiền lương thời gian giản đơn: Theo hình thức này,tiền lương của công nhân được xác định căn cứ vào mức lương cấp bậc và thời gian làm việc thực tế.Hình thức này có nhược điểm cơ bản là không xét đến thái độ lao động,đến hình thức sử dụng lao động,sử dụng nguyên vật liệu,máy móc,thiết bị.Hình thức trả lương này mang tính chất bình quân nên trong thực tế ít được áp dụng.Để khắc phục những nhược điểm trên bên cạnh tiền lương trả theo thời gian doanh nghiệp đã kết hợp với hình thức tiền lương khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng hoặc chất lượng đã qui định.Đó chính là hình thức tiền lương theo thời gian có thưởng. Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng Hình thức tiền lương theo thời gian có thưởng được áp dụng chủ yếu đối với những công nhân phụ làm công việc phục vụ như công nhân sửa chữa,điều chỉnh thiết bị..Ngoài ra còn áp dụng đối với những công nhân chính làm việc ở những khâu sản xuất có trình độ cơ khí hoá cao,tự động hoá hoặc những công việc tuyệt đối phải bảo đảm chất lượng.Cách tính lương theo hình thức nà là lấy lương tính theo thời gian của công nhân+tiền thưởng.Trong đó cách tính lương thời gian đơn giản được trình bày ở phần trên. Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng có nhiều ưu điểm.Cách trả lương như vậy không những phản ánh trình độ thành thạo và thời gian làm việc thực tế mà còn gắn chặt với thành tích công tác của từng người thông qua các chỉ tiêu xét thưởng đã đạt được.vì vậy có khuyến kích người lao động quan tâm đến trách nhiệm và công tác của mình. 3.2 Trả lương theo sản phẩm. Là hình thức tiền lương tính theo khối lượng(số lượng)sản phẩm và công việc đã hoàn thành đảm bảo yêu cầu chất lượng quy định và đơn giá tiền lương tính cho một đơn vị sản phẩm,công việc đó,tiền lương sản phẩm phải trả tính bằng khối lượng(số lượng)sản phẩm,công việc hoàn thành đủ tiêu chuẩn chất lượng nhân với(x)đơn giá tiền lương sản phẩm. Ưu điểm của hình thức này là: +Quán triệt đầy đủ nguyên tắc trả lương theo số lượng và chất lượng lao động.Nó gắn việc trả lương với kết quả sản xuất của mỗi người.Do đó kích thích nâng cao năng suất lao động. +Khuyến khích người lao động ra sức học tập văn hoá,khoa học,kỹ thuật,nghiệp vụ để nâng cao trình độ lành nghề,ra sức phát huy sáng kiến,cải tiến kỹ thuật,cải tiến phương pháp lao động,sử dụng tốt máy móc,thiết bị để nâng cao năng suất lao động. +Góp phần thúc đẩy công tác quản lý doanh nghiệp nhất là quản lý lao động. Hình thức tiền lương theo sản phẩm gồm các hình thức: Tiền lương trả theo sản phẩm cá nhân trực tiếp,thời gian theo sản phẩm tập thể,tiền lương thep sản phẩm cá nhân gián tiếp,tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến,hình thức trả lương thep sản phẩm có thưởng,hình thức trả lương khoán. 3.2.1 Tiền lương trả theo sản phẩm cá nhân trực tiếp: Theo hình thức này tiền lương của công nhân được xác định theo số lượng sản phẩm sản xuất ra và đơn giá lương sản phẩm. Lt = Q x Đg Trong đó: Lt : Là tiền lương theo sản phẩm cá nhân trực tiếp Q : Số lượng sản phẩm hợp quy cách Đg: Đơn giá lương sản phẩm một sản phẩm Đơn giá lương sản phẩm là tiền lương trả cho một đơn vị sản phẩm hoàn thành và được xác định căn cứ vào mức lương cấp bậc công việc và định mức thời gian hoặc định mức số lượng cho công việc đó.Ngoài ra trong đơn giá còn được tính thêm tỉ lệ khuyến khích trả lương sản phẩm hoặc phụ cấp khu vực(nếu có) Công thức xác định: ML x Đt(100+K1+K2) ĐG = 100 Trong đó: Ml:Mức lương giờ(ngày)của cấp bậc công việc. Đt:Định mức thời gian đơn vị sản phẩm(giờ hoặc ngày) K1:Tỉ lệ khuyến khích trả lương sản phẩm do nhà nước qui định(%) K2:Tỉ lệ phụ cấp khu vực(nếu có)(%) Hình thức này đơn giản,dễ hiểu đối với mọi người công nhân.Nó được áp dụng rộng rãi trong các xí nghiệp công nghiệp đối với những công nhân trực tiếp sản xuất có thể định mức và hạch toán kết quả riêng cho từng người.Tuy nhiên hình thức này có nhược điểm là người lao động quan tâm đến số lượng sản phẩm chứ không quan tâm đến việc sử dụng tốt máy móc,tiết kiệm vật tư. 3.2.2 Tiền lương theo sản phẩm tập thể: Tiền lương căn cứ vào số lượng sản phẩm của cả tổ và đơn giá chung để tính lương cho cả tổ sau đó phân phối lại từng người trong tổ.Phương pháp này cũng như đối với cá nhân trong chế độ tiền lương theo sản phẩm cá nhân trực tiếp. Việc phân phối tiền lương của tổ cho từng người có thể tiến hành theo nhiều phương pháp song tất cả các phương pháp đều dựa vào 2 yếu tố cơ bản là thời gian công tác thực tế và cấp bậc công việc mà công nhân đảm nhiệm.Trong thực tế có thể áp dụng 2 phương pháp sau: +Phương pháp phân chia theo hệ số:Thực chất phương pháp này là quy đổi trong làm việc của từng người ở các cấp bậc khác nhau thành thời gian của công nhân bậc 1 bằng cách nhân với hệ số cấp bậc tiền lương.Sau đó tính tiền lương cảu 1 giờ hệ số bằng cách lấy lương của cả tổ chia tổng số giờ chia tổng số giờ hệ số của cả tổ.Cuối cùng tính phần tiền lương của mỗi người căn cứ vào hệ số giờ của họ và tiền lương 1 giờ hệ số.Cách tính này được thể hiện bằng công thức: Lt Li= x tiki ồtiki Li:Tiền lương của công nhân i ti:Thời gian làm việc thực tế của công nhân i Ki:Hệ số cấp bậc của công nhân. Lt:tiền lương sản phẩm của cả tổ +Phương pháp điều chỉnh:Căn cứ vào giờ làm việc thực tế và mức lương cấp bậc của từng công nhân để tính tiền lương của mỗi người và của cả tổ,sau đó dùng hệ số điều chỉnh để tính toán lại tiền lương của mỗi người được hưởng.hệ số điều chỉnh là tỉ số giữa tiền lương sản phẩm của cả tổ và tổng số tiền lương cấp bậc của cả tổ Công thức tính: Lt Li= x ti x Mi ồtiMi Trong đó: Mi:Mức lương giờ theo cấp bậc của công nhân i Hình thức này được áp dụng đối với những công việc do một tổ sản xuất hay một nhóm công nhân cùng tiến hành và khó thống kê kết quả công việc của từng cá nhân.Chẳng hạn việc lắp ráp thiết bị,sản xuất ở các bộ phận làm theo dây chuyền,việc điều kiện các máy lưu động hạng nặng. Trả lương theo sản phẩm tập thể có tác dụng khuyến khích công nhân quan tâm đến kết quả sản xuất chung của cả tổ,phát triển việc kiểm nghiệm nghề nghiệp và nâng cao trình độ của công nhân. Tuy nhiên,do nhược điểm của công việc chia lương là chưa tính đến thái độ lao động,đặc điểm sức khoẻ,sự nhanh nhẹn tháo vát hoặc kết quả công tác của từng công nhân,số lượng của mỗi công nhân không trực tiếp quyết định đến tiền lương của họ,do đó ít kích thích công nhân nâng cao năng suất lao động cá nhân. 3.2.3 Tiền lương sản phẩm cá nhân gián tiếp: Lương sản phẩm cá nhân gián tiếp được áp dụng đối với những công nhân phụ,phục vụ và hỗ trợ cho sản xuất chính như công nhân điều chỉnh máy,sửa chữa thiết bị…mà kết quả công tác của họ có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả công tác của những người công nhân sản xuất chính nhằm khuyến khích họ nâng cao chất lượng phục vụ tiền lương của công nhân phục vụ được xác định bằng cách nhân số lượng sản phẩm thực tế của công nhân chính mà người đó phục vụ với đơn giá lương cấp bậc của họ với tỉ lệ phần trăm hoàn thành định mức sản lượng bình quân của những công nhân chính. Có thể biểu diễn bằng công thức: LG=SCxĐSG hoặc LP=MPxTC Trong đó: LP:Tiền lương công nhân phụ SC:Sản lượng sản phẩm của công nhân chính ĐSG:Đơn giá lương sản phẩm gián tiếp MP:Mức lương cấp bậc của công nhân phụ TC:Tỷ lệ hoàn thành định mức sản lượng bình quân của công nhân chính(%) Đơn giá sản lượng gián tiếp tính bằng công thức: Mp ĐSG = ĐMC Trong đó : ĐMC:Định mức sản lượng công nhân chính Hình thức tiền lương này không phản ánh chính xác kết quả lao động của công nhân phụ nhưng nó lại làm cho mọi người trong cùng một bộ phận công tác quan tâm đến kết quả chung.Việc khuyến khích vật chất đối với công nhân phụ sẽ có tác dụng nâng cao năng suất lao động của công nhân chính 3.2.4 Hình thức trả lương sản phẩm luỹ tiến: Thực chất của hình thức tiền lương này là dùng nhiều đơn giá khác nhau,tuỳ theo mức độ hình thức vượt mức khởi điểm luỹ tiến,là mức sản lượng quy định mà nếu số sản phẩm sản xuất vượt quá mức đó sẽ được trả theo đơn giá cao hơn(luỹ tiến).Mức này có thể quy định bằng hoặc cao hơn định mức sản lượng.Những sản phẩm dưới mức khởi điểm luỹ tiến được tính theo đơn giá chung cố định,những sản phẩm vượt mức này sẽ được trả theo đơn giá luỹ tiến(tăng dần) Ta có công thức tính như sau: ồL=ĐG x Q1+ĐG x K(Q1-Q0) Trong đó ồL:Tổng lương trả theo hình thức sản phẩm luỹ tiến ĐG:Đơn giá cố định tính theo sản phẩm. Q1:Sản lượng thực tế. Q0:Sản lượng mức khởi điểm K:Tỷ lệ đơn giá sản phẩm được áp dụng hình thức tiền lương này thường dẫn đến tốc độ tăng tiền lương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động.Vì vậy chỉ sử dụng một biện pháp tạm thời trong điều kiện cần khuyến khích mạnh mẽ việc tăng năng suất lao động và tăng sản lượng ở các khâu yếu hoặc những khâu quan trọng của sản xuất nhằm tạo điều kiện phát triển sản lượng cho các bộ phận khác và của toàn đơn vị . Nhờ việc tăng khối lượng sản xuất của đơn vị mà chi phí cố định/đơn vị sản phẩm sẽ phải trả.Đó cũng chính là nguồn bù đắp cho số tiền lương mà đơn vị phải trả thêm do áp dụng lương sản phẩm luỹ tiến.Chính vì vậy khi áp dụng hình thức tiền lương này cần phải xác định đúng đắn tỉ lệ tăng đơn giá nhằm đảm bảo điều kiện là chi phí cố định phải giảm nhiều hơn hoặc bằng mức tiền lương tăng lên. Ta có: C.(HS– 1) D Ê C . L. HS Công thức này được sử dụng để tính tỷ lệ tăng đơn giá hợp lý,bảo đảm hiệu quả của việc áp dụng trả lương theo sản phẩm luỹ tiến.Ngoài ra cần chú ý khi áp dụng hình thức trả lương này,sản lượng sản phẩm vượt quá mức khởi điểm luỹ tiến phải được tính theo kết quả cả tháng để tránh tình trạng có ngày vượt mức nhiều có ngày lại hụt mức,kết quả cả tháng cộng lại có thể hụt mức mà tiền lương nhận được vẫn vượt tiền lương cấp bậc hàng tháng. Đó cũng là một khía cạnh của nguyên tắc “Tốc độ tăng năng suất lao động lớn hơn tốc độ tăng tiền lương” 3.2.5 Hình thức tiền lương sản phẩm có thưởng: Thực chất của hình thức tiền lương này là sự kết hợp chế độ tiền lương theo sản phẩm với chế độ tiền thưởng.ở các doanh nghiệp,việc áp dụng hình thức trả lương này nhằm mục đích nâng cao chất lượng sản phẩm,giảm mức phế phẩm,tiết kiệm nguyên vật liệu. Tiền lương tính theo sản phẩm có thưởng được tính theo công thức: L x (M x H) LTH = L + 100 Trong đó: LTH:Tiền lương trả theo sản phẩm có thưởng. L:Tiền lương trả theo đơn giá cố định. M:% tiền thưởng trả cho 1% hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thưởng H:% hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thưởng. 3.2.6 Hình thức lương khoán: Là hình thức đặc biệt của tiền lương trả theo sản phẩm,trong đó tổng số tiền lương trả cho công nhân hoặc một nhóm công nhân được qui định trước cho một khối lượng công việc hoặc khối lượng sản phẩm nhất định phải được hoàn thành trong thời gian qui định Chế độ trả lương này chủ yếu áp dụng trong đơn vị xây dựng cơ bản hoặc một số công việc nông nghiệp.Trong công nghiệp chế độ trả lương khoán có thể áp dụng đối với các cá nhân tập thể. Sau khi nhận tiền công do hoàn thành công việc,các cá nhân sẽ được chia lương.Việc chia lương có thể áp dụng theo cấp bậc và thời gian làm việc hoặc theo cách bình công điểm.Nguyên tắc chung chia lương là phải chia hết. Hình thức trả lương khoán khuyến khích công nhân hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn đảm bảo chất lượng công việc nhưng chia lương khá là khó khăn. Tóm lại:Việc trả lương cho người lao động không chỉ căn cứ vào thang lương,bậc lương,các định mức tiêu chuẩn mà còn lựa chọn hình thức tiền lương thích hợp với điều kiện cụ thể của nghành và doanh nghiệp có như vậy mới phát huy được tác dụng của tiền lương,vừa phản ánh lao động hao phí trong quá trình sản xuất vừa làm đòn bẩy kích thích người lao động nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong thực tế nhiều doanh nghiệp mức lương được trả cao hơn thế kia do còn có một số loại phụ cấp thêm vào và chế độ hình thức trả lương cũng khá đa dạng.Đi sâu vào tìm hiểu ta thấy có các loại phụ cấp loại thưởng sau: 3.3 Các chế độ trả lương phụ,thưởng,trợ cấp áp dụng tại doanh nghiệp 3.3.1 Chế độ trả lương khi ngừng việc và khi làm ra sản phẩm hỏng,xấu Khi ngừng việc người lao động vẫn được hưởng 1 khoản lương tuy nhiên mức lương này nhỏ hơn mức lương chính thức khi đi làm việc thực tế.Các trường hợp ngừng việc là do nguyên nhân khách quan,do người khác gây ra hoặc do khi chế thử,sản xuất thử sản phẩm mới.Với mỗi trường hợp mức lương qui định như sau: +70% lương khi không làm việc +ít nhất 80% lương nếu phải làm việc khác có mức lương thấp. +100% lương khi ngừng việc do chế thử,sản xuất thử. Cách tính này thống nhất với mọi lao động theo % trên mức lương cấp bậc kể cả phụ cấp. Còn trong trường hợp cả công nhân làm ra sản phẩm hỏng,xấu thì tuỳ từng trường hợp họ sẽ được nhận: +Nguyên lương nếu mức hỏng này trong phạm vi định mức cho phép hoặc nguyên nhân khách quan. +Nếu mức hỏng ngoài định mức cho phép do lỗi của công nhân thì họ được hưởng 70% lương. +Nhưng nếu là chế thử,sản xuất thử thì họ vẫn được hưởng nguyên lương. +Đối với sản phẩm xấu mà người công nhân sửa lại được thì sẽ được hưởng nguyên lương theo dược phẩm sản xuất nhưng thời gian sửa chữa không được tính lương. 3.3.2 Một số chế độ phụ cấp và tính lương,phép: Khi người lao động nghỉ phép thì họ được tính lương phép.Theo chế độ hiện hành thì lương phép bằng 100%lương theo cấp bậc (chức vụ).Trên lương nghỉ phép là tiền lương phụ.Hiện nay mỗi năm công nhân được nghỉ 12 ngày phép,nếu làm việc từ 5 năm liên tục sẽ được hưởng thêm 1 ngày còn nếu làm việc từ 30 năm trở lên thời gian nghỉ phép sẽ tăng lên 6 ngày. Nếu vì lý do gì đó người lao động không nghỉ phép được thì ngoài tiền lương chính thức trong những ngày phép đó người lao động còn được hưởng thêm một khoản bằng 100% lương cấp bậc của họ. Các khoản phụ cấp áp dụng hiện nay rất đa dạng và được qui định cụ thể cho đối tượng áp dụng.Nhìn chung chỉ có một số loại phụ cấp được áp dụng rộng rãi ở mọi nơi.Đó chính là phụ cấp làm đêm,thêm giờ: Nếu người lao động phải làm đêm(từ 22h đến 6h)thì sẽ được phụ cấp làm đêm.Phụ cấp làm đêm có hai mức:30% lương cấp bậcJ(Chức vụ)đối với các công việc không phải làm đêm thường xuyên,40% đối với những người chuyên làm việc theo ca chẳng hạn.Nhưng đây chỉ là chế độ đối với hình thức lương thời gian.Đối với hình thức lương sản phẩm thì lương làm đêm căn cứ vào số lượng,chất lượng của sản phẩm mà tính. Trường hợp làm thêm giờ người lao động sẽ được nhận một khoản lương ngoài mức lương cấp bậc bình thường.Mức lương thêm này là 50% lương giờ tiêu chuẩn nếu làm thêm vào ngày lễ,ngày nghỉ. +Phụ cấp trách nhiệm:Khoản này được tính cho những người có trách nhiệm trong doanh nghiệp là giám đốc,phó giám đốc. +Phụ cấp độc hại:Dùng trong các nghề có mức độc hại như các doanh nghiệp trực thuộc công ty hoá chất…Mức phụ cấp là 0,1;0,2;0,3;0,4 theo mức tối thiểu. 3.3.3 Hình thức trả lương phụ: Theo qui định của nhà nước thì hiện nay có 2 hình thức thưởng. Thưởng thường xuyên:Là hình thức thưởng gắn liền với việc nâng cao năng suất lao động.Xét về thực chất hình thức thưởng thường xuyên này nhằm quán triệt hơn nữa hình thức phân phối lương theo lao động.Thưởng thường xuyên gồm: +Thưởng tiết kiệm vật tư:Hình thức thưởng này nhằm khuyến khích người công nhân tiết kiệm vật tư.Mức tiền thưởng tối đa không quá 50% số vật tư tiết kiệm được. +Thưởng do nâng cao chất lượng sản phẩm:Thể hiện ở việc nâng cao tỷ trọng hàng hoá loại 1 và giảm tỷ lệ hàng hỏng.Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm có nhiều thứ bậc hay áp dụng và mức thưởng căn cứ vào gía trị chênh lệch giữa sản phẩm loại cao so với tỷ lệ đã qui định. +Thưởng định kỳ:Là hình thức thưởng nhằm bổ sung thêm thu nhập cho người lao động.Hình thức thưởng này căn cứ vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ nên gắn người lao động với tập thể và doanh nghiệp mình.Quĩ thưởng định kỳ được lấy từ quỹ khen thưởng của doanh nghiệp.Thưởng định kỳ thì bất kỳ doanh nghiệp nào cũng áp dụng.Thông thường có các hình thức: +Thưởng thi đua vào dịp cuối năm:Được thông qua việc xếp hạng A,B,..căn cứ xếp hạng là thái độ ,ý thức làm việc trong năm của mỗi lao động.Và tiền thưởng của mỗi cá nhân là khác nhau doanh nghiệp quyết định thưởng từng loại và hệ số khen thưởng giữa từng loại lại qui đổi số người các loại thành một loại chung.Sau đó tách ra mức thưởng của từng người. +Thưởng sáng kiến,thưởng chế tạo sản phẩm mới với mục đích phát huy tính sáng tạo của người công nhân như sáng kiến sử dụng máy móc có hiệu quả tạo sản phẩm hợp với nhu cầu thị trường… +Thưởng nhân dịp lễ,tết:Thưởng với mức thưởng như nhau cho mọi người 3.4 Quỹ tiền lương Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ tiền lương của doanh nghiệp trả cho tất cả các loại lao động thuộc doanh nghiệp quản lý và sử dụng,bao gồm các khoản sau: Tiền lương tính theo thời gian,tiền lương tính theo sản phẩm,tiền lương khoán Tiền lương trả cho người lao động tạo ra sản phẩm hỏng trong phạm vi chế độ quy định Tiền lương t._.rả cho người lao động trong thời gian ngừng sản xuất do nguyên nhân khách quan,trong thời gian được điều động đi công tác làm nghĩa vụ theo chế độ qui định,thời gian nghỉ phép,thời gian đi học… Các khoản phụ cấp làm đêm,làm thêm giờ.. Các khoản tiền lương có tính chất thường xuyên. Ngoài ra trong quỹ tiền lương kế hoạch còn được tính cả các khoản tiền chi trợ cấp bảo hiểm xã hội cho công nhân viên trong thời gian ốm đau,thai sản,tai nạn lao động… Về phương diện hạch toán,tiền lương công nhân viên trong doanh nghiệp được chia làm 2 loại: Tiền lương chính:Là tiền lương trả cho công nhân viên trong thời gian công nhân viên thực hiện nhiệm vụ chính của họ bao gồm:Tiền lương phải trả theo cấp bậc và các khoản phụ kèm theo như phụ cấp trách nhiệm,phụ cấp khu vực… Tiền lương phụ:Là tiền lương trả cho công nhân viên trong thời gian công nhân viên thực hiện nhiệm vụ khác ngoài nhiệm vụ chính của họ,và thời gian công nhân viên nghỉ được hưởng lương theo qui định của chế độ như:nghỉ phép,nghỉ vì ngừng sản xuất. Cách phân loại như trên có ý nghĩa quan trọng đối với công tác kế toán và phân tích tiền lương trong giá thành sản phẩm. Tiền lương chính của công nhân sản xuất gắn liền với quá trình sản xuất và được hạch toán trực tiếp vào chi phí sản xuất từng loại sản phẩm,tiền lương phụ của công nhân sản xuất không gắn liền với từng loại sản phẩm,nên được hạch toán gián tiếp vào chi phí sản xuất sản phẩm. 3.5 Các hình thức của Quỹ BHXH,BHYT,KPCĐ Ngoài tiền lương trả cho người lao động theo qui định hiện hành doanh nghiệp phải tính vào chi phí sản xuất kinh doanh một bộ phận chi phí gồm các khoản trích bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế,kinh phí công đoàn.Trong điều 1 và điều 2 của điều lệ bảo hiểm xã hội ghi rõ “bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo vật chất,góp phần làm ổn định đời sống cho những người tham gia bảo hiểm xã hội tạm thời hay vĩnh viễn mất sức lao động như ốm đau,thai sản,tai nạn lao động,mất sức,nghỉ hưu,chết..” 3.5.1 Quỹ BHXH Theo qui định hiện hành,hàng tháng doanh nghiệp trích lập quĩ bảo hiểm xã hội theo tỷ lệ qui định trên tổng số tiền lương thực tế phải trả cho công nhân viên hàng tháng và phân bổ cho các đối tượng tiên quan sử dụng lao động.Khoản trích này hình thành trên quĩ bảo hiểm xã hội.Quĩ bảo hiểm xã hội được thiết lập nhằm tạo ra nguồn vốn tài trợ cho người lao động trong trường hợp ốm đau,thai sản,mất sức,nghỉ hưu..Tuỳ theo cơ chế tài chính qui định cụ thể mà việc quản lý sử dụng quĩ bảo hiểm xã hội có thể ở tại doanh nghiệp hay cơ quan chuyên môn,chuyên trách.Theo cơ chế tài chính hiện hành,nguồn quĩ như ốm đau,thai sản..Và tổng hợp chi tiêu để thanh toán với cơ quan chuyên trách.Việc sử dụng chi tiêu quĩ bảo hiểm xã hội dù ở cấp nào quản lý phải thực hiện theo chế độ qui định. 3.5.2 Quỹ BHYT Bảo hiểm y tế tài trợ cho việc phòng,chữa và chăm sóc sức khoẻ cho ngưòi lao động.Theo qui định của chế độ tài chính hiện hành được hình thức từ hai nguồn:Một phần do doanh nghiệp phải gánh chịu,được tính trích vào chi phí sản xuất kinh doanh hàng tháng theo tỷ lệ qui định.Tính trên tổng số tiền lương thực tế trả cho công nhân viên trong kỳ.Một phần do người lao động chịu,thường được trừ vào lương công nhân viên.bảo hiểm y tế được nộp lên cho cơ quan chuyên môn,chuyên trách(thường chủ yếu dưới hình thức mua bảo hiểm y tế)để phục vụ,bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho công nhân viên như khám bệnh,chữa bệnh.. 3.5.3 Kinh phí công đoàn Kinh phí công đoàn phục vụ chi tiêu cho hoạt động tổ chức của giới lao động nhằm chăm lo,bảo vệ quyền lợi cho người lao động.Kinh phí công đoàn được hình thành do việc trích lập tính voà chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hàng tháng theo tỷ lệ qui định tính trên tổng số tiền lương thực tế được trả cho công nhân công nhân viên trong kỳ,số kinh phí công đoàn doanh nghiệp trích được phân cấp quản lý và chi tiêu theo chế độ qui định.Một phần nộp cho cơ quan quản lý công đoàn cấp trên và một phần để tại doanh nghiệp chi tiêu cho hoạt động công đoàn tại doanh nghiệp. *Các khoản trích trên cùng với tiền lương phải trả cho người lao động hợp thành loại chi phí về nhân công trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh quản lý việc tính toán,trích lập và chi tiêu sử dụng các quỹ tiền lương,bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế,kinh phí công đoàn có ý nghĩa không những đối với việc tính toán chi phí sản xuất kinh doanh mà còn cả với việc đảm bảo quyền lợi cho người lao động tại doanh nghiệp. IV . Hạch toán tổng hợp tiền lương và các khoản trích theo lương. 4.1 Chứng từ liên quan đến kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương. Hạch toán tiền lương,bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế,kinh phí công đoàn chủ yếu sử dụng các chứng từ về tính toán tiền lương,tiền thưởng,bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế.Thanh toán tiền lương,tiền thưởng,bảo hiểm xã hội như: +Bảng thanh toán tiền lương +Bảng thanh toán BHXH +Bảng thanh toán tiềnthưởng Các phiếu chi,các chứng từ,tài liệu khác về các khoản khấu trừ,trích nộp liên quan.Các chứng từ trên có thể là căn cứ để ghi sổ trực tiếp hoặc làm cơ sở để tổng hợp rồi mới ghi sổ kế toán. Hạch toán tổng hợp tiền lương và các khoản trích theo lương Kế toán tiền lương,bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế,kinh phí công đoàn sử dụng 2 TK chủ yếu là TK 334 và TK 338 4.2.1 TK 334-Phải trả công nhân viên. Để hạch toán tổng hợp tiền lương phải trả cho công nhân viên kế toán sử dụng TK 334-Phải trả công nhân viên TK334-dùng để phản ánh các khoản phải trả và tình hình thanh toán các khoản phải trả cho công nhân viên về tiền lương,tiền thưởng,bảo hiểm xã hội các khoản thuộc về thu nhập của người lao động. TK334 -Phải trả công nhân viên -Các khoản tiền lương,tiền thưởng,bảo hiểm xã hội và các khoản đã trả đã ứng cho công nhân viên -Các khoản khấu trừ vào tiền lương,tiền công của công nhân viên Dư Nợ: -Phản ánh số tiền đã trả quá số tiền phải trả về tiền lương,tiền công,tiền thưởng và các khoản khác cho công nhân viên -Các khoản tiền lương,tiền công,bảo hiểm xã hội và các khoản phải trả cho công nhân viên Dư Có: -Các khoản tiền lương ,tiền thưởng và các khoản khác còn phải trả cho công nhân viên 4.2.2 Hạch toán tổng hợp TK 338-Phải trả,phải nộp khác TK 338-dùng để phản ánh tình hình thanh toán các khoản phải trả,phải nộp khác ngoài nội dung đã phản ánh ở các khoản công nợ phải trả TK 338-Phải trả,phải nộp khác -Kết chuyển giá trị tài sản thừa vào các tài khoản liên quan -Bảo hiểm xã hội phải trả công nhân viên -Kinh phí công đoàn chi tại đơn vị -Số bảo hiểm xã hội ,bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn đã nộp cho cơ quan quản lý quỹ. -Các khoản đã trả đã nộp khác Dư Nợ: -Phản ánh số đã trả,đã nộp nhiều hơn số phải nộp hoặc số bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn vượt chi được cấp bù -Giá trị tài sản thừa chờ giải quyết (Chưa rõ nguyên nhân) -Giá trị tài sản thừa phải trả -Trích bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn vào chi phí sản xuất kinh doanh -Trích bảo hiểm y tế trừ vào lương của công nhân viên -Các khoản phải trả khác Dư Có: -Số tiền còn phải trả,phải nộp -Giá trị tài sản phát hiện thừa chờ xử lý Trong TK 338,có 5 TK cấp 2 để phản ánh các khoản liên quan trực tiếp đến công nhân viên:bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế,kinh phí công đoàn. TK 3381:Tài sản thừa chờ giải quyết TK 3382:Kinh phí công đoàn TK 3383:Bảo hiểm xã hội TK 3384:Bảo hiểm y tế. TK 3388:Phải trả,phải nộp khác Ngoài các TK 338,334 kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương còn phải sử dụng đến các TK khác như: +TK622-Chi phí nhân công trực tiếp +TK641-Chi phí bán hàng +TK642-Chi phí quản lý doanh nghiệp. +TK111-Tiền mặt +TK112-Tiền gửi ngân hàng… 4.3 Tổng hợp phân bổ tiền lương,trích bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế,kinh phí công đoàn Hàng tháng,kế toán tiến hành tổng hợp tiền lương phải trả trong kỳ theo từng đối tượng sử dụng(Bộ phận sản xuất,sản phẩm,..)và tính toán trích BHX H,BHY T,KPC Đ theo quy định trên cơ sở tổng hợp tiền lương và các tỷ lệ trích BHX H,BH Y T,KPCĐ được thực hiện trên “Bảng phân bổ tiền lương và trích BHX H” (Mẫu số 01/BPB) Ngoài tiền lương và các khoản bảo hiểm,kinh phí công đoàn.Bảng phân bổ còn phản ánh việc trích trước các khoản chi phí phải trả(trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất) Thủ tục tiến hành lập “Bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội” như sau: Hàng tháng trên cơ sở về các chứng từ lao động,tiền lương trong tháng kế toán tiền lương phân loại và tổng hợp tiền lương phải trả cho từng đối tượng sử dụng lao động,trong đó phân biệt tiền lương,các khoản phụ cấp và các khoản khác để ghi vào các cột theo phần ghi có TK334 “Phải trả công nhân viên” ở các dòng phù hợp Căn cứ vào tiền lương thực tế phải trả và tỷ lệ qui định về trích các khoản bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế,kinh phí công đoàn để tính trích và ghi vào các cột ghi có TK 338 “Phải trả phải nộp khác” (TK 3382,3383,3384) ở các dòng phù hợp và,ngoài ra kế toán còn căn cứ vào các tiền lương liên quan để tính và ghi các cột có TK 335 “ Chi phí phải trả” Số liệu tổng hợp phân bổ tiền lương,trích BHXH,BHYT ,KPCĐ và trích trước các khoản được sử dụng cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất,ghi sổ kế toán cho các đối tượng có liên quan. Bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội STT Ghi có cácTK Đối tượng sử dụng(ghi nợ các TK) TK 334 Phải trả CNV TK 338 Phải trả,phải nộp khác TK 335 Chi phí phải trả Tổng cộng Lương Các khoản phụ cấp Các khoản khác Cộng có TK 334 KPCĐ(3382) BHXH(3383) BHYT(3384) Cộng có TK 338 1 TK 622-Chi phí nhân công trực tiếp -PX(sản phẩm) -PX(sản phẩm) 2 TK 627-Chi phí sản xuất chung. -PX(sản phẩm) -PX(sản phẩm) 3 TK 641-Chi phí bán hàng 4 TK 642-Chi phí quản lý doanh nghiệp. … …. Cộng 4.4 Kế toán tổng hợp tiền lương,bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế,kinh phí công đoàn 4.4.1 Phương pháp kế toán các nghiệp vụ chính như sau: 1)Hàng tháng,trên cơ sở tính toán tiền lương phải trả cho công nhân viên kế toán ghi sổ theo định khoản: Nợ TK 622 Chi phí nhân công trực tiếp Nợ TK 241 XDCB dở dang Nợ TK 627 Chi phí sản xuất chung Nợ TK 641 Chi phí bán hàng Nợ TK 642 Chi phí quản lý doanh nghiệp. Có TK 334 Phải trả công nhân viên 2)Tiền lương từ quỹ khen thưởng phải trả cho công nhân viên kế toán ghi sổ theo định khoản: Nợ TK 431 Quỹ khen thưởng phúclợi(TK 4311) Có TK 334 Phải trả công nhân viên 3)Trích số bảo hiểm xã hội phải trả trực tiếp cho cán bộ công nhân viên(trường hợp công nhân viên ốm đau,thai sản..),kế toán phản ánh theo định khoản thích hợp tuỳ theo quy định cụ thể về việc phân cấp quản lý và sử dụng quĩ bảo hiểm xã hội. +Trường hợp phân cấp quản lý và sử dụng quĩ bảo hiểm xã hội,doanh nghiệp được giữ lại một phần bảo hiểm xã hội trích được để tiếp tục sử dụng chi tiêu cho công nhân viên ốm đau,thai sản..theo qui định,khi tính số bảo hiểm xã hội phải trả trực tiếp công nhân viên,kế toán ghi sổ theo định khoản Nợ TK 338 Phải trả công nhân viên Có TK 111 Sổ quĩ bảo hiểm xã hội để lại doanh nghiệp chi không hết hoặc chi thiếu sẽ thanh quyết toán với cơ quan quản lý chuyên trách cấp trên. +Trường hợp toàn bộ số trích bảo hiểm xã hội phải nộp lên cấp trên và việc chi tiền trợ cấp bảo hiểm xã hội cho công nhân viên tại doanh nghiệp được quyết toán sau theo chi phí thực tế,thì khi tính sổ bảo hiểm xã hội phải trả trực tiếp cho công nhân viên,kế toán ghi sổ theo định khoản: Nợ TK138 Phải thu khác(1388) Có TK 334 Phải trả công nhân viên Khoản bảo hiểm xã hội phải trả trực tiếp cho công nhân viên là khoản phải thu từ cơ quan quản lý chuyên trách cấp trên. 4a) Tính số lương thực tế phải trả cho công nhân viên kế toán ghi sổ theo định khoản: Nợ TK 622 Chi phí nhân công trực tiếp Nợ TK 627 Chi phí sản xuất chung Nợ TK 641 Chi phí bán hàng Nợ TK 642 Chi phí quản lý doanh nghiệp(Hoặc nợ TK 335-Chi phí phải trả) Có TK 334 Phải trả công nhân viên 4b)Định kỳ hàng tháng,khi tính trích trước lương nghỉ phép của công nhân sản xuất kế toán ghi sổ: Nợ TK 622 Chi phí nhân công trực tiếp Có TK 335 Chi phí phải trả. 5)Các khoản thu đối với công nhân viên như tiền bồi thường vật chất tiền bảo hiểm y tế(phần người lao động phải chịu),kế toán phản ánh theo định khoản. Nợ TK 138 Phải thu khác(TK 1388) Có TK 338 Phải trả phải nộp khác Có TK 138 Phải thu khác(1381) 6)Kết chuyển các khoản phải thu và tiền tạm ứng chi không hết trừ vào thu nhập của người lao động,kế toán ghi sổ theo định khoản: Nợ TK 334 Phải trả công nhân viên Có TK 141 Tạm ứng Có TK 138 Phải thu khác 7)Tính thuế thu nhập mà người lao động phải nộp nhà nước,kế toán ghi sổ theo định khoản: Nợ TK334 Phải trả công nhân viên Có TK333 Thuế và các khoản phải nộp 8)Khi thanh toán tiền lương và các khoản thu nhập khác cho công nhân viên,kế toán ghi sổ theo định khoản: Nợ TK334 Phải trả công nhân viên. Có TK111,112 9)Hàng tháng khi tính trích bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế,kinh phí công đoàn cho cơ quan chuyên môn câp trên quản lý,kế toán ghi sổ theo định khoản Nợ TK 622 Chi phí nhân công trực tiếp Nợ TK 241 XDCB dở dang Nợ TK 627 Chi phí sản xuất chung Nợ TK 641 Chi phí bán hàng Nợ TK 642 Chi phí quản lý doanh nghiệp. Có TK 338 Phải trả,phải nộp khác(TK 3382,3383,3384) 10)Khi chuyển tiền nộp bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế,kinh phí công đoàn cho cơ quan chuyên môn cấp trên quản lý,kế toán chi sổ theo định khoản: Nợ TK338 Phải trả,phải nộp khác Có TK 111,112 11)Khi chi tiền kinh phí công đoàn(phần để lại tại doanh nghiệp theo qui định),kế toán ghi sổ theo định khoản: Nợ TK338 Phải trả,phải nộp khác(TK 3382) Có TK 111,112 Tuỳ theo hình thức sổ kế toán doanh nghiệp áp dụng mà việc hạch toán tiền lương,bảo hiểm xã hội,bảo hiểm y tế ,kinh phí công đoàn được thực hiện trên sổ kế toán phù hợp. Sơ đồ kế toán tổng hợp TK 138 TK 334 TK 241 (6) (1) TK 141 TK 335 TK 622 (4a) (4b) TK 333 TK 431 TK627,641,642 (7) (2) TK111,112 TK 338(138) (3) (9) (10) (11) H1.Sơ đồ kế toán tổng hợp Chương II Tình hình tổ chức kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Tổng công ty dệt-may việt nam I .Đặc điểm tình hình chung của Tổng công ty dệt-may việt nam 1.1.Giới thiệu chung về tổng công ty Tổng công ty Dệt May Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là THE Vietnam National Textile and Garment Corporation, viết là Vinatex được thành lập theo Quyết Định số 253/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29/4/1995. Trụ sở chính của Tổng công ty đóng tại 25 Bà Triệu Hà nội. Tổng công ty được thành lập dựa trên cơ sở tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may thuộc sở hữu của Nhà nước. Do đó, Vinatex hoạt động trong ngành Dệt May, vừa là nhà xuất khẩu, vừa là nhà nhập khẩu và phân phối (bán buôn, bán lẻ). Vinatex có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong số vốn do Tổng công ty quản lý, có con dấu có tài sản và các quỹ tập trung, được mở tài khoản tại ngân hàng trong nước và nước ngoài theo qui định của nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo điều lệ Tổng công ty. Tổng công ty quản lý hơn 60 doanh nghiệp dệt may trong cả nước. Từ những năm 2001 là những năm mở đầu thời kỳ kế hoạch 5 năm 2002-2005 các doanh nghiệp dệt may trong Tổng công ty có một số thuận lợi cơ bản như kinh tế nước ta đang có đà hồi phục. Nhà nước đang tăng cường mở rộng thị trường, đối ngoại với các nước trên Thế giới, ngành dệt may được Chính phủ quan tâm phê duyệt chiến lược phát triển kèm theo các chính sách ưu đãi tạo điều kiện vươn lên hội nhập với khu vực và thế giới .... 1.2Giới thiệu về Sự phát triển của Ngành Công nghiệp dệt may Việt Nam : *. Môi trường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp : Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV đã xác định sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đây là một chủ trương mang tính chiến lược đúng đắn, thể hiện sự nhận thức, vận dụng linh hoạt các quy luật kinh tế khách quan. Ngay từ những ngày đầu và trong suốt quá trình phát triển nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến ngành công nghiệp dệt may mặc được đánh giá như một nhân tố có ưu thế, hợp thời cơ tạo thế mạnh cho việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế cả về quy mô và chất lượng. Trong những năm gần đây, ngoài việc đáp ứng các yêu cầu hàng may mặc trên thị trường nội địa, doanh số ngoại tệ hàng may mặc xuất khẩu đã đóng góp vị trí xứng đáng trong kim ngạch xuất khẩu của đất nước với tỷ trọng ngày càng tăng, đứng thứ 2 sau ngành dầu khí, trong số những ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn của đất nước. Mặc dù vậy, tiềm năng và phát triển ngành may với tư cách một ngành mũi nhọn còn rất lớn và cần được khai thác để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta. - Công nghiệp may mặc là ngành kinh tế kỹ thuật và là một bộ phận công nghiệp hàng tiêu dùng và trong hệ thống công nghiệp và kinh tế thống nhất của nền kinh tế quốc dân. Với ưu thế vốn có của ngành : vốn đầu tư ít, nhanh thu hồi vốn, tạo nhiều việc làm trong điều kiện nguồn nhân công dồi dào. Công nghiệp may mặc đã giải quyết được mục tiêu tổ chức phân công lao động xã hội. Đó là một giải pháp khai thác tiềm lực của đất nước cả về chiểu rộng và chiều sâu. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước, ngành công nghiệp may mặc phải giải quyết được các nhiệm vụ chủ yếu sau : Đáp ứng nhu cầu mặc ngày càng tăng của xã hội góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân. Giải quyết vấn đề việc làm cho số đông người lao động, nhất là lao động nữ. Thực hiện tốt chủ trương sản xuất hàng xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Đẩy mạnh đổi mới khoa học công nghệ kết hợp đầu tư chiểu sâu nhằm sử dụng có hiệu qủa năng lực thiết bị sẵn có. Công nghiệp may mặc sản phẩm của nó là mặt hàng nhu yếu phẩm quan trọng trong cuộc sống của con người có tính chất thời trang. Trong chừng mực nhất định ở các nước công nghiệp phát triển. Tiền thân của Tổng công ty Dệt May Việt Nam là Liên hiệp sản xuất xuất nhập khẩu May (Con fectimex) và Liên hiệp sản xuất xuất nhập khẩu Dệt (TEXTIMEX) với bộ máy nhân sự khởi đầu là cán bộ công nhân viên biên chế nhà nước chuyển sang. Chức năng chính là kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu Dệt May và chức năng quản lý ngành. cụ thể : Hoạt động nhập khẩu : Tổng công ty nhập khẩu hàng hoá thuộc 3 nhóm mặt hàng chính : nhóm bông, xơ, tơ, sợi ; nhóm hoá chất thuốc nhuộm và nhóm máy móc thiết bị và phụ tùng dệt may, ngoài ra còn có hàng nguyên phụ liệu cho ngành may... Đơn vị cùng thực hiện hoạt động nhập khẩu uỷ thác. Hoạt động kinh doanh thương mại nội địa. Nhận uỷ thác làm môi giới mua bán các mặt hàng cho các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước theo qui định của Nhà nước và của Bộ Thương Mại. Xây dựng kế hoạch phát triển đầu tư, tạo nguồn vốn đầu tư sản xuất .... Liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Nhận sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn do Nhà nước giao gồm cả phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp khác. Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính Phủ về việc thành lập các Tổng công ty mạnh trong toàn quốc.Tổng công ty Dệt May Việt Nam ra đời và hoạt động theo điều lệ đã được phê duyệt. Song từng bước phải làm rõ và thể chế hoá bằng các văn bản, pháp quy giữa Tổng công ty với các cơ quan Nhà nước. Tổng công ty cần nhận rõ trách nhiệm của thời kỳ đầu phát triển công nghệip để đón nhận sự chuyển dịch từ các nước công nghiệp phát triển (đưa dệt-may vào nước ta để khai thác lao động) để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Giải quyết việc làm, song tại chỗ cũng cần chuyển dịch tại các Thành phố lớn, giá công bắt đầu cao, xuống các Thành phố, thị xã tỉnh lỵ để tận dụng mặt ưu thế này. Tổng công ty Dệt May Việt Nam (viết tắt là Vinatex) được thành lập trên cơ sở sắp xếp lại cácdoanh nghiệp dệt may thuộc sở hữu Nhà nước là Tổng công ty Nhà nước hoạt động trong ngành công nghiệp dệt may vừa là nhà sản xuất vừa là nhà xuất khẩu, nhà nhâpj khẩuvà phân phối (bán buôn, bán lẻ) Tổng công ty thực hiện nhiệm vụ kinh doanh hàng dệt, hàng may mặc (từ đầu tư, sản xuất, cung ứng, tiêu thụ, xuất khẩu, nhập khẩu), tiến hành các hoạt động kinh doanh ngành nghề khác theo quy định của Pháp Luật. Liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước; Lựa chọn, khai thác, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, hướng dẫn và phân công thị trường cho các đơn vị thành viên ; Nghiên cứu ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, đổi mới công nghệ, thiết bị theo chiến lược phát triển chung ; Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, kỹ thuật và công nhân lành nghề. Hiện tại Tổng công ty có 40 doanh nghiệp thành viên tham gia sản xuất từ kéơ sợi, dệt vải, hoàn tất và may mặc. Một Công ty tài chính, 3 xí nghiệp cơ khí sửa chữa và sản xuất phụ tùng, 1 viện Kinh tế kỹ thuật dệt may, một viện mẫu và thời trang, 3 trường đào tạo công nhân kỹ thuật. Có các Chi nhánh ở thành phố Hải phòng và Đà nẵng và 2 Công ty dịch vụ thương mại ở Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. Một số đại diện ở nước ngoài. Tổng công ty dệt-may Việt Nam có buôn bán với hơn 200 công ty trên 40 nước và khu vực. Trong những năm tới, ngành dệt may Việt nam phải đầu tư phát triển để đến năm 2005 sản xuất được 1 tỷ mét vải và năm 2010 đạt 2 tỉ mét vải. Để đạt được mục tiêu đó , ngành dự định đẩy mạnh quá trình đầu tư chiều sâu và chiều rộng với các chủ trương biện pháp lớn sau : Cải tạo và đổi mới những máy móc cũ, lạc hậu tại các nhà xưởng hiện có để tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm đạt trình độ khu vực và quốc tế. Xây dựng Nhà máy kéo sợi, dệt vải và hoàn tất đồng bộ mới. Tạo nguồn nguyên liệu tại chỗ , thúc đẩy nhanh các cơ sở sản xuất xơ sợi tổng hợp đã đăng ký triển khai vào sản xuất. Có cơ chế thích hợp nhằm đưa cả vùng trồng bông, dâu tằm và các loại cây sợi dệt khác phát triển để có thể tự túc được 1 phần quan trọng nguyên liệu sản xuất tại Việt Nam. Mở rộng hợp tác quốc tế thông qua các hình thức như liên doanh với nước ngoài, hợp tác xuất khẩu, hợp tác kinh doanh, gọi vốn đầu tư nước ngoài với các Công ty và bạn hàng lớn có tín nhiệm quốc tế để làm ăn lâu dài, tạo thị trường xuất khẩu lớn và ổn định. Mục tiêu của Tổng công ty với nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh hàng năm phải đạt tổng doanh thu là 400 tỷ đồng trong đó : + Kinh doanh ngành dệt là 250 tỷ + Kinh doanh ngành may là 50 tỷ + Kinh doanh tổng hợp 120 tỷ + Kinh doanh Cửa hàng dịch vụ : 3 tỷ Để đạt được mục tiêu trên Tổng công ty phải phấn đấu hết sức mình để đạt được doanh số đó kinh doanh xuất nhập khẩu hàng may mặc tưởng rằng đơn giản nhưng cực kỳ khó khăn. Hai nhiệm vụ chủ yếu là xuất nhập khẩu hàng may mặc và dệt. 1.2.1Các mặt hoạt động kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp : Tổng công ty Dệt May Việt Nam chức năng chủ yếu là xuất nhập khẩu hàng dệt may, xuất áo sơ mi, jacket, thảm, khăn bông, hàng dệt kim, hàng len sang các nước như Liên xô (cũ và mới) Hung, Đức, Tiệp (cũ và mới) Hàn Quốc (Nam Triều Tiên) và các nước Nhật, Nauy, HôngKông, Thuỵ Điển, Singapore, ĐàiLoan, và khối EU. Mặt hàng xuất của ta đi các nước mang tính chất gia công là chính, ta ký hợp đồng đưa nhà máy sản xuất gia công, nhập nguyên liệu của nước ngoài, gia công thu ngoại tệ. Hàng xuất của ta xuất đi các nước hình thức này còn thu lợi nhuận thấp, chỉ triệt để được công sức lao động và lực lượng lao động dôi dư của Việt Nam. Tiến tới ta sẽ sử dụng hình thức cao hơn là dệt vải sản xuất ra nhiều loại vải cao cấp để ngành may không phải nhập vải và nguyên phụ liệu gia công của nước ngoài, tăng lợi nhuận ngày càng cao. * Nhập : Tổng công ty nhập nguyên phụ liệu, phục vụ cho may áo xuất khẩu, những phụ tùng và thiết bị may, thiết bị dệt cho các nhà máy : để may và dệt vải. Tổng công ty còn nhập cả mặt hàng thuốc nhuộm để các nhà máy nhuộm vải cao cấp các mầu. Chủ yếu nhập của các nước : - Trung quốc - Singapo re - Mỹ - Hàn Quốc - Thuỵ Sỹ - Nhật bản ..... - Hông kông, Thái Lan, Bỉ ..... Kim ngạch hàng năm đều đạt và vượt mức Nhà nước giao cho. Ngoài ra Tổng công ty còn có nhiệm vụ thực hiện chỉ tiêu do Nhà nước giao như hàng trả nợ cho công trình thuỷ điện Yaly, Chủ yếu là nhập uỷ thác công trình cho các đơn vị và xuất các mặt hàng trả nợ cho Nhà nước bằng hình thức đổi hàng. Ví dụ như : xuất hàng may mặc, hàng dệt, gạo, thủ công mỹ nghệ. Chủ yếu hàng năm Tổng công ty đã đạt được các thành tích là do công tác tiếp thị, các khâu quảng cáo và các khâu quản lý tổ chức và nghiệp vụ xuất nhập khẩu của các phòng ban trong cơ quan, các cán bộ có bề dầy kinh nghiệm, lâunăm trong các phòng nghiệp vụ, phòng kinh doanh xuất nhập khẩu, phòng tài chính kế toán.... Tổ chức các buổi trình diễn thời trang nhằm thu hút khách hàng và sáng tác mẫu mốt tạo ra các mốt mới tươi trẻ, nhằm cải tiến các kiểu dáng tiến tới tương lai hoà nhập với thị trường mẫu mốt của Thế giới. * Về thực trạng của ngành công nghiệp dệt may và những khó khăn của ngành : Sản phẩm công nghiệp may mặc phục vụ nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội, khoa học xã hội. Trong lịch sử, may mặc là ngành có đầu tư từ lâu và sản phẩm của nó cũng là nhu cầu của quảng đại quần chúng việc phát triển ngành công nghiệp dệt may là rất phù hợp với một nước có nền kinh tế chưa phát triển, hạn hẹp về vốn , mức sống người dân còn thấp nguồn lao động dồi dào. Đặc biệt với Việt Nam trong giai đoạn đầu thực hiện quá trình CNH. Thực trạng của ngành : Máy móc thiết bị của Ngành vẫn là chiếc máy may sử dụng lao động cường lực cùng với những đòi hỏi trong tiêu dùng ngày càng được nâng cao và hoàn thiện hơn như máy vắt sổ, vắt gấu, căn chun, thùa khuy, đính cúc, hệ thống là hơi, may sản phẩm tự động. Nhà xưởng của doanh nghiệp may không đòi hỏi khắt khe cơ cấu, diện tích các khu vực cho sản xuất và quản lý không những bảo đảm tính hợp lý cho quy mô sản xuất mà còn cả về vận hành nội bộ, hơn nữa cảnh quan phải phù hợp với tính chất sản xuất. Nguồn lao động được chăm lo từ khâu tuyển chọn, đào tạo, thực hành, nhờ chế độ hợp đồng, nguồn lao động tự giác nâng cao tay nghề, có đội ngũ thợ lành nghề. * Những thử thách đối với ngành dệt may : Các doanh nghiệp được Nhà nước cho phép xuất nhập khẩu trực tiếp. Sức ép cạnh tranh của thị trường tới từng chủ thể kinh doanh may mặc trong giai đoạn tới sẽ gia tăng ghê ghớm. Tranh khách, chèn ép giá ... Với chính sách gọi đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp may tư nhân, Công ty cổ phần xuất hiện ngày càng nhiều, các khu chế xuất, khu công nghiệp mới ra đời. Ngành may còn chịu hậu quả của cơ chế cũ : coi nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng, do đó trong một thời gian dài chưa được chú ý đâỳ đủ. Hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao . Nguyên nhân chính là hoạt động chủ yếu của ngành công nghiệp dệt may lâu nay là gia công cho nước ngoài, phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm, chưa được thực hiện rộng rãi. Bên cạnh đó thị trường trong nước kém phát triển, chưa ổn định. Vì thế công tác thị trường đang được các doanh nghiệp may Việt Nam hết sức coi trọng và nghiên cứu như : điều kiện kinh tế xã hội, dân số, khí hậu, thu nhập quốc doanh, thị hiếu ... để từ đó có định hướng tương đối chính xác, hạn chế rủi ro. Công tác tiếp thị rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nhất là đối với thị trường mới, sản phẩm mới. Doanh nghiệp luôn mong muốn tìm hiệu quả trong sản xuất kinh doanh còn khách hàng luôn lôn mong tìm đựoc sản phẩm hài lòng. 1.2.2bộ máy tổ chức Sơ đồ bộ máy tổ chức của Tổng công ty dệt may việt nam ---------------- Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Ban tổng giám đốc Ban TCHC Ban TCKT Ban KHTT Ban KTĐT Ban XNK Ban KHCNMT Các đơn vị Hạch toán phụ thuộc : CN Hải phòng, Đà nẵng, TP Hồ chí minh Các đơn vị hạch toán độc lập : May 10, Đức giang, Dệt Hà nội, Dệt */3 ...v.v Các đơn vị liên doanh liên kết tại các miền như : Donabo trang Các đơn vị hành chính sự nghiệp như : Viện mốt, Viện Kinh tế kỹ thuật dệt may 1.2.3 chức năng của các ban ngành * Ban Tổng giám đốc : Lãnh đạo chung về các mặt thực hiện và chịu trách nhiệm toàn diện về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý của toàn Tổng công ty đối với cơ quan chủ quản cấp trên. * Các Ban, phòng : - Ban Tổ chức – Hành chính : Chức năng nhiệm vụ : + Công tác tổ chức – quản lý Nghiên cứu, dự thảo nội dung sửa đổi, bổ sung Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty và các đơn vị thành viên phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh mà Nhà nước giao cho Tổng công ty trong từng thời kỳ, giai đoạn hoạt động cụ thể và phù hợp với quy định của pháp luật để Tổng giám đốc Tổng công ty báo cáo Hội đồng quản trị Tổng công ty trình Thủ tướng Chính phủ. Nghiên cứu đề xuất xây dựng, sửa đổi bổ sung bộ máy quản lý và biên chế của cơ quan trình Hội đồng quản trị. Hướng dẫn các đơn vị thành viên của Tổng công ty xây dựng, sửa đổi bổ sung Điều lệ tổ chức và hoạt động phù hợp với Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty. + Công tác cán bộ : Nghiên cứu xây dựng quy chế phân cấp và quản lý cán bộ để TGĐ TCTy trình HĐQT phê duyệt và hướng dẫn các đơn vị thực hiện. Thiết lập và quản lý hồ sơ cán bộ Cùng các đơn vị thành viên dự kiến việc sắp xếp đề bạt, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật cán bộ thuộc diện TCTy quản lý. Thực hiện thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, cán bộ thuộc diện TCTy quản lý. + Công tác lao động tiền lương Hướng dẫn các đơn vị thành viên thực hiện định mức lao động tổng hợp làm căn cứ xác định tổng quỹ tiền lương của đơn vị. Đề xuất đơn giá tiền lương cho các đơn vị Nghiên cứu xây dựng quy chế tiền lương tiền thưởng cho cơ quan văn phòng TCTy. + Công tác thực hiện chế độ chính sách đối với người lao động : + Công tác hành chính tổng hợp, Quản trị, Thi đua khen thưởng, công tác Pháp chế v.v.... * Ban Kế hoạch thị trường : là bộ phân chuyên môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu, giúp cơ quan Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trên các lĩnh vực : Quy hoạch, kế hoạch dài hạn, kế hoạch được chia ra từng năm, thông tin quản lý, thông tin về năng lực sản xuất, máy móc thiết bị, danh mục sản phẩm và dịch vụ ... Tổng hợp và xây dựng kế hoạch dài hạn, kế hoạch được chia ra từng năm ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0618.doc
Tài liệu liên quan