Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn ngân sách Nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản và biện pháp phòng chống

Mục lục Lời nói đầu Phần 1: Một số lý luận chung về đầu tư xây dựng cơ bản. Một số khái niệm trong đầu tư xây dựng cơ bản. Đầu tư - Đầu tư phát triển và vai trò của đầu tư phát triển. Khái niệm về đầu tư xây dựng cơ bản. Nội dung của xây dựng cơ bản. Khảo sát, thiết kế. Xây lắp. Mua sắm máy móc, thiết bị. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Vốn cho xây lắp. Vốn đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị. Vốn kiến thiết cơ bản khác. Phân loại vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Nguồn vốn đầu tư xây dựng c

doc55 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn ngân sách Nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản và biện pháp phòng chống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơ bản. Một số đặc điểm chủ yếu của sản phẩm xây dựng và vai trò của xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng. Vai trò của xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân. Phần 2: Thực trạng về đầu tư xây dựng cơ bản - Nguyên nhân và sự cần thiết phải chống thất thoát, lãng phí vốn Ngân sách trong đầu tư xây dựng cơ bản. Thực trạng. Những bất cập - Nguyên nhân và sự cần thiết phải chống thất thoát lãng phí vốn đầu tư trong xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách Những bất cập và những mánh khoé moi tiền của Nhà nước trong xây dựng cơ bản. Về chủ trương đầu tư và công tác thẩm định. Công tác kế hoạch hoá còn nhiều yếu kém. Ban quản lý công trình - Ong “ chủ thật” hay “ chủ hờ”. Đấu thầu - Những tiêu tực và hạn chế. Về đối tượng đấu thầu. Trình tự thực hiện đấu thầu. Về xác định giá trần. Tổ chức đấu thầu - Một màn kịch được dựng sẵn. Chạy vốn và cấp vốn - Những đường ban lắt léo. Tình trạng “ Một cửa mà có nhiều chìa khoá”. Thất thoát trong xây dựng cơ bản bắt nguồn từ các văn bản pháp quy. Mấy cách quyết toán khống trong xây dựng cơ bản. Phần móng. Phần thân khung nhà. Khai tăng nhân công. Quyết toán khống vào tiền đền bù, giải phóng mặt bằng, tiền quan hệ, phần việc phát sinh. Khai tăng giá những vật liệu không có trong đơn giá được Nhà nước ban hành. Những thủ đoạn gian lận trong hạch toán nhằm giấu doanh thu và lợi nhuận. Sự cần thiết phải chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước. Phần 3: Những giải pháp nhỏ cho những điều nan giải lớn. Đánh giá chung về tình hình chông thất thoát, lãng phí hiện nay. Một số kiến nghị nhằm chống thất thoát, lãng phí vốn Ngân sách Nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản. Một số kiến nghị. Nâng cao tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp xây dựng bằng hình thức xã hội hoá đầu tư. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Nhà nước đặt hàng công trình thay cho cấp phát vốn đầu tư. Đấu thầu tín dụng. Cấp vốn tạm ứng và xã hội hoá đầu tư bằng các chính sách. Cần thay đổi hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá trong xây dựng cơ bản. Giải quyết mối quan hệ giữa cơ quan tài chính và cơ quan cấp phát. Về công tác đấu thầu. Về công tác quyết toán công trình. Giải quyết mối quan hệ giữa cấp phát vốn đầu tư với công tác quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành. Nội dung và chế độ báo cáo thực hiện đầu tư hàng năm. Nội dung báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành. Thẩm tra báo cáo quyết toán. Phí và quản lý phí thẩm tra quyết toán. Một số giải pháp. Về chủ trương đầu tư. Về công tác kế hoạch hoá. Nâng cao chất lượng và trách nhiệm của ban quản lý công trình. Chấn chỉnh và hoàn thiện công tác đấu thầu. Về đối tượng đấu thầu. Về trình tự thực hiện đấu thầu. Về xác định giá trần. Về khâu tổ chức đấu thầu. Chấn chỉnh, tăng cường kỷ luật trong khâu nghiệm thu, thanh quyết toán công trình. Hoàn thiện các văn bản pháp quy có liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản. Kết luận Lời nói đầu Muốn phát triển đi lên trong giai đoạn hiện nay thì vốn đầu tư có ý nghĩa hết sức quan trọng, bất kỳ một nước nào dù là nước phát triển hay chậm phát triển thì đều cần đến vốn. Vốn là yếu tố cơ bản, là động cơ để thúc đẩy tiến trình phát triển diễn ra nhanh hay chậm và đặc biệt tiến trình này phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả sử dụng đồng vốn. Với một nước cho dù có tiềm lực về vốn thế nào đi chăng nữa nhưng nếu vốn được đem đi đầu tư không đúng, không phù hợp thì hiệu quả đem lại cũng chẳng được bao nhiêu. Còn Việt Nam thì sao ? Việt Nam là một nước nghèo, chịu nhiều hậu quả của chiến tranh để lại và bắt đầu bắt tay vào công cuộc công nghiệp hoá muộn hơn so với các nước khác, hơn nữa lại là một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn Tư bản chủ nghĩa nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất nghèo nàn, lạc hậu, đặc biệt bị thiếu vốn một cách trầm trọng, nguồn vốn ngân sách là nguốn vốn chủ đạo trong mọi công cuộc đầu tư lớn của đất nước mà nó cũng chỉ rất “ mỏng manh”. ấy vậy mà nguồn vốn này lại được sử dụng một cách vô tổ chức, kém hiệu quả, tình trạng thất thoát, lãng phí nhất là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản đang diễn ra như một bài toán nan giải với một dấu hỏi lớn đặt ra: Sẽ giải quyết như thế nào đây ?. Ai sẽ là người giải quyết tình trạng này ? Lời kêu cứu đó đã phát ra từ nhiều năm nay nhưng hình như chưa có ai nghe thấy hoặc có nghe nhưng cố tìn làm ngơ, bởi một cá nhân thì không thể làm gì được mà nó đòi hỏi tất cả các cấp, các ngành, tất cả mọi người cùng tham gia giải quyết. Vấn đề này không chỉ đơn thuần là giải quyết nội bộ ngành mà nó phụ thuộc vào cả một cơ chế. Nguồn vốn ngân sách là tiền đóng góp, là mồ hôi, nước mắt của ttất cả mọi người dân nên khi nguồn vốn này sử dụng kém hiệu quả thì gây ra thiệt hại cho mỗi cá nhân mà còn cho cả đất nước. Do vậy không thể để kéo dài mãi tình trạng này được, bởi lẽ trong xu hướng phát triển của thế giới hiện nay, nếu ta không tìm ra được một con đường, một cách đi đúng đắn và vững bước trên đôi chân của mình thì ta sẽ nhanh chóng bị tụt hậu, mà ngày nay chúng ta cũng đã bỏ xa những nước đi trước rất nhiều. Trước những bức xúc này em xin mạnh dạn viết về đề tài: “Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn ngân sách Nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản và biện pháp phòng chống”. Bởi đầu tư xây dựng cơ bản là lĩnh vực thất thoát, lãng phí lớn nhất ở nước ta hiện nay. Để có được bài viết này em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Nguyễn Thu Hà, người đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo và đóng góp ý kiến cho bài viết của em, cùng với các thầy cô giáo bộ môn đã giảng dạy cho em những kiến thức cơ bản trong thời gian em được vinh dự là sinh viên của khoa. Sau đây là một số những hiểu biết cơ bản của em về lĩnh vực này. Phần1: một số lý luận chung về đầu tư xây dựng cơ bản I - Một số khái niệm trong đầu tư xây dựng cơ bản 1 / Đầu tư _Đầu tư phát triển và vai trò của đầu tư phát triển Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại ( tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Có ba loại đầu tư đó là: Đầu tư tài chính, Đầu tư thương mại và Đầu tư phát triển( Căn cứ vào bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại). Trong đó chỉ có hoạt động đầu tư phát triển là hoạt động tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, là bộ phận cơ bản của đầu tư. Đầu tư phát triển là quá trình chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn hiện vật nhằm tạo ra những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh, dichk vụ, đời sống, tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới cũng như duy trì những tiềm lực sẵn có của nền kinh tế. Đầu tư phát triển có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, nó được coi là chìa khoá của sự tăng trưởng, là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, thể hiện: 1- Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. 2- Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. 3- Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. 4- Đầu tư làm tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. 5- Đầu tư làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế. 6- Đầu tư có vị trí quan trọng ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. 7- Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. 2/ Khái niệm về đầu tư xây dựng cơ bản. Đầu tư cơ bản là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định đưa vào hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế xã hội nhằm thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau. Xét một cách tổng thể, không một hoạt động đầu tư nào mà không cần phải có các tài sản cố định. Tài sản cố định bao gồm toàn bộ các cơ sở vật chất, kỹ thuật đủ các tiêu chuẩn theo qquy định của Nhà nước. Để có được tài sản cố định chủ đầu tư có thể thực hiện bằng nhiều cách tiến hành xây dựng mới các tài sản cố định. Xây dựng cơ bản chỉ là một khâu trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Xây dựng cơ bản là các hoạt động cụ thể để tạo ra các tài sản cố định( khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt) . kết quả của hoạt động xây dựng cơ bản là các tài sản cố định, có một năng lực sản xuất và phục vụ nhất định. Vậy ta có thể nói: Xây dựng cơ bản là một qúa trình đổi mới và tái sản xuất mở rộng có kế hoạch các tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân trong các ngành sản xuất vật chất, cũng như không sản xuất vật chất. Nó là quá trình xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. 3 Nội dung của xây dựng cơ bản Khảo sát, thiết kế. Có chức năng nhằm mô tả hình dáng, kiến trúc, nội dung kỹ thuật và kinh tế của công trình. Bao gồm : -Khảo sát kinh tế: Nêu nên sự cần thiết phải xây dựng công trình và tính kinh tế của công trình. -Khảo sát kỹ thuật: là khảo sát những điều kiện khả năng, phương tiện để xây dựng công trình. b) Xây lắp. Tạo ra những sản phẩm xây dựng cơ bản. Kết quả của hoạt động này bao gồm: Nhà cửa, vật kiến trúc; công tác lắp đặt máy móc, thiết bị; công tác sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc; công tác thiết kế, thăm dò, khảo sát phát sinh trong quá trình thi công. c) Mua sắm máy móc, thiết bị. Là công tác mua sắm thiết bị, máy móc, dụng cụ dùng cho sản xuất, nghiên cứu hoặc thí nghiệm. 4/ Vốn đầu tư xây dựng cơ bản Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn cóvà tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Vốn đầu tư là một chỉ tiêu chủ yếu trong kế hoạch của Nhà nước về xây dựng cơ bản. Nó phản ánh khối lượng xây dựng mới, xây dựng lại, khôi phục và mở rộng các tài sản cố định của ngành thuộc khu vực sản xuất vật chất và không sản xuất biểu hiện bằng tiền. Nhưng hiện nay vốn đầu tư của Nhà nước về xây dựng cơ bản chỉ bao gồm đầu tư vào các công trình công nghiệp, công trình dân dụng và công trình công cộng, các công trình phát triển khoa học kỹ thuật, y tế, giáo dục, các công trình hành chính sự nghiệp và mạng lưới công trình kỹ thuật hạ tầng thuộc khu vực Nhà nước. Nhà nước không đầu tư vào các công trình sản xuất, kinh doanh thuộc khu vực tập thể cũng như tư nhân. Như vậy vốn đầu tư là số tiền bỏ vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhằm tăng cường cho các quá trình sản xuất kinh doanh sau đó. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là số tiền bỏ ra nhằm tăng cường tài sản cố định của tất cả các ngành cả sản xuất và không sản xuất của nền kinh tế quốc dân.Là toàn bộ chi phí để đạt được mục đích đầu tư, bao gồm: Chi phí cho việc khảo sát, quy hoạch xây dựng, chi phí cho chuẩn bị đầu tư, chi phí cho thiết kế và xây dựng, chi phí cho mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị và các chi phí khác được ghi trong tổng dự toán. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản chủ yếu dùng để tạo ra các tài sản cố định , nhưng có một số trường hợp có những công tác xét về mặt tính chất và nội dung kinh tế thì thuộc hoạt động xây dựng cơ bản, nhưng chi phí của chúng không được tính vào vốn đầu tư xây dựng cơ bản như: Sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc (tính vào khấu hao sửa chữa lớn) các chi phí khảo sát thăm dò quy hoạch tính chung cho toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, có một số khoản mục không làm tăng giá trị tài sản cố định nhưng lại được tính vào vốn đầu tư xây dựng cơ bản như: Chi phí mua sắm công cụ dụng cụ không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định, chi phí cho đào tạo. Nội dung của vốn đầu tư xây dựng cơ bản: Vốn cho xây lắp. Bao gồm vốn cho chuẩn bị xây dựng mặt bằng và vốn cho xây dựng và lắp đặt Vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị. Là toàn bộ chi phí cho việc mua sắm máy móc thiết bị, dụng cụ dùng cho sản xuất, nghiên cứu và thí nghiệm được lắp vào công trình theo dự toán. Bao gồm: Giá trị của bản thân máy móc thiết bị ,công cụ, dụng cụ; Chi phí vận chuyển, bảo quản, gia công trước khi giao lắp. c) Vốn kiến thiết cơ bản khác: -Các chi phí kiến thiết cơ bản được tính vào giá trị công trình như: tư vấn đầu tư xây dựng, đền bù..v..v.. -Chi phí tính vào giá trị tài sản lưu động:mua sắm nguyên vật liệu, công cụ , dụng cụ không đủ tiêu chuẩn của tài sản cố định, chi phí cho đào tạo... -Những chi phí kiến thiết cơ bản khác được phép không tính vào giá trị công trình. 5/ Phân loại vốn đầu tư xây dựng cơ bản Tuỳ từng tiêu thức khác nhau mà ta có các loại vốn đầu tư khác nhau -Theo nguồn vốn: gồm có vốn ngân sách Nhà nước , vốn tín dụng đầu tư, vốn của các đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ, vốn vay nước ngoài, vốn hợp tác liên doanh của nước ngoài, vốn của nhân dân. -Theo hình thức đầu tư: gồm có vốn đầu tư xây dựng mới, vốn đầu tư khôi phục, vốn đầu tư mở rộng đổi mới thiết bị. -Theo nội dung kinh tế: gồm có vốn xây lắp, vốn đầu tư mua sắm máy móc , thiết bị, vốn kiến thiết cơ bản khác 6/ Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản Vốn đầu tư xây dựng cơ bản được hình thành từ các nguồn sau: 1- Vốn ngân sách Nhà nước ( bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương) hình thành từ tích luỹ của nền kinh tế, vốn khấu hao cơ bản và một số nguồn thu khácdành cho đầu tư xây dựng cơ bản. 2- Vốn tín dụng đầu tư: ( Do ngân hàng đầu tư phát triển quản lý) bao gồm: Vốn của Nhà nước chuyển sang, vốn huy động của các đơn vị kinh tế trong nước và các tầng lớp dân cư trong nước dưới các hình thức, vốn vay dài hạn của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế và của người Việt nam ở nước ngoài. 3- Vốn của các đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ thuộc các thành phần kinh tế( do xí nghiệp tự tichs luỹ được từ các nguồn thu hợp pháp). 4- Vốn vay nước ngoài: Cính phủ vay theo hiệp định ký kết nước ngoài; đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ trực tiếp vay các tổ chức cá nhân nước ngoài; Ngân hàng đầu tư và phát triển vay. 5- Vốn viện trợ đầu tư xây dựng cơ bản (vốn viện trợ không hoàn lại). 6- Vốn hợp tác liên doanh của nước ngoài. 7- Vốn của nhân dân: bằng tiền, vật liệu , công lao động... II - Một số đặc điểm chủ yếu của sản phẩm xây dựng và vai trò của xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân. 1/ Đặc điểm của sản phẩm xây dựng. Ngành công nghiệp xây dựng là ngành sản xuất vật chất nằm trong hệ thống của nền kinh tế quốc dân, do đó ngoài những đặc điểm chung của ngành công nghiệp xã hội chủ nghĩa nó còn có những đặc điểm riêng, đó là: 1- Sản phẩm của ngành công nghiệp xây dựng mang tính tổng hợp và đặc biệt, sản xuât không theo một dây chuyền nhất định và hàng loạt, mỗi công trình một kiểu không giống nhau. Ngay trong một công trình kiểu cách và tính chất kết cấu đều khác nhau, nên sản phẩm của ngành xây dựng không liên tục trong quá trình sản xuất. 2- Sản phẩm của ngành xây dựng phải trải qua một quá trình lao động lâu dài mới có thể đưa vào sản xuất và sử dụng được. Địa điểm xây dựng đồng thời là nơi tiêu thụ các nguyên vật liệu, kết cấu và bán thành phẩm. Cho nên ssản phẩm của ngành xây dựng phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên của quá trình sản xuất và tăng nhiều khoản chi phí không trực tiếp tạo nên giá trị sản phẩm. 3- Sản phẩm của ngành công nghiệp xây dựng gắn chặt với đất đai nơi sản xuất và sử dụng, sau khi xây dựng xong cố định tại một chỗ. Vốn đầu tư vào công trình lớn, thời gian sử dụng lâu dài. Do đó khi tiến hành xây dựng phải chú ý ngay từ khâu lập luận chứng kinh tế, kỹ thuật, chọn địa điểm xây dựng, thiết kế công trình và tổ chữcây dựng công trình, tránh phá đi làm lại, sửa chữa gây thiệt hại vốn đầu tư và thời gian sử dụng công trình. 4- Địa điểm đặt từng loại sản phẩm xây dựng thường thay đổi và phân tán. Quá trình sản xuất thường tiến hành ngoài trời, bị ảnh hưởng lớn do điều kiện thiên nhiên. 5- Sản phẩm của ngành xây dựng có kích thước và trọng lượng lớn. Số lượng lao động, tính chất lao độngcũng như số lượng về nguyên liệu và các máy móc, thiết bị, dụng cụ phục vụ cho quá trình sản xuất của mỗi sản phẩm xây dựng đều khác nhau, luôn thay đổi theo thời gian và yêu cầu kỹ thuật. Bởi vậy giá thành của sản phẩm xây dựng rất phức tạp, thường xuyên thay đổi theo từng giai đoạn. 6- Sản phẩm công nghiệp xây dựng không chỉ mang ý nghĩa kinh tế- kỹ thuật mà còn mang tính chất nghệ thuật; chịu nhiều ảnh hưởng của nhân tố thượng tầng kiến trúc, mang màu sắc truyền thống dân tộc, thói quen tập quán sinh hoạt... Hay nói cách khác, sản phẩm xây dựng phản ánh trung thực thình độ kinh tế, trình độ khoa học kỹ thuật và trình độ văn hoá nghệ thuật trong từng giai đoạn phát triển của một nước. 2/ Vai trò của xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân. Ngành công nghiệp là một ngành sản xuất ra của cải vật chất, đặc biệt tao ra cơ sở vật chất và kỹ thuật ban đầu cho xã hội. Nó giữ một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, bởi vì nhiệm vụ chủ yếu của công nghiệp xây dựng là bảo đảm nâng cao nhanh chóng năng lực sản xuất của các ngành, các khu vực kinh tế có kế hoạch, bảo đảm mối liên hệ tỷ lệ cân đối giữa các ngành, các khu vực và phân bố hợp lý sức sản xuất. Trước mắt công nghiệp phải ra sức phục vụ cho các ngành nông , lâm, ngư nghiệp và công nghiệp chế biến. Một số ngành như công nghiệp nặng, như dầu khí, điện lực, vật liệu xây dựng- xây dựng các cơ sở hạ tầng như mạng lưới giao thông vận tải, mạng lưới thông tin liên lạc... Tất cả các ngành kinh tế khác chỉ có thể tăng nhanh được đều nhờ có xây dựng cơ bản, xây dựng mới, nâng cấp các công trình về mặt quy mô, đổi mới kỹ thuật và công nghệ để nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất. Tiếp theo, công nghiệp xây dựng còn có nhiệm vụ xây dựng mới ngày càng nhiều các công trình văn hoá, giáo dục, y ttế và nhà ở... để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thứ nữa, các công trình xây dựng còn có ý nghĩa lớn về nhiều mặt như: khoa học, chính trị, kinh tế, xã hội nghệ thuật và quốc phòng. -Về mặt khoa học: Công trình xây dựng là kết tinh của thành tựu khoa học kỹ thuật của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. -Về mặt chính trị xã hội: Các công trình xây dựng thể hiện đường lối phát triển kinh tế của đất nước trong từng giai đoạn, việc bố trí sản xuất cho từng vùng kinh tế, các khu công nghiệp và thành phố. -Về mặt kinh tế: Công trình xây dựng thể hiện ở tỷ trọng đầu tư vào máy móc, thiết bị trên giá trị công trình ( ở nước ta tỷ lệ này dưới 50%, ở các nước tư bản trên 70%). -Về mặt nghệ thuật: Công trình được xây dựng góp phần mở mang đời sống văn hoá tinh thần, làm phong phú thêm nền kiến trúc của đất nước. -Về mặt quốc phòng: Các công trình xây dựng còn có thể đưa vào phục vụ quốc phòng khi cần thiết. Ngành công nghiệp xây dựng còn có ý nghĩa lớn trong việc quản lý và sử dụng một số bộ phận lớn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, lực lượng sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Hàng năm, ngành xây dựng còn đóng góp lợi nhuận cho nền kinh tế và thu hút một lực lượng lao động lớn trong xã hội. Xuất phát từ vai trò to lớn của xây dựng cơ bản cho ta thấy tầm quân trọng và sự cần thiết của vốn đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là đối với những nước chậm phát triển và “đói vốn” một cách trầm trọng như Việt nam. Bất kỳ một nước nào muốn tăng trưởng và phát triển đều cần đến một điều kiện không thể thiếu, đó là vốn. Đối với các nước nghèo, để phát triển kinh tế và từ đó để thoát ra cảnh nghèo thì một vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn gay gắt và từ đó dẫn đến thiếu nhiều thứ khác cần thiết cho sự phát triển như: Công nghệ, cơ sở hạ tầng... Và Việt nam cũng nằm trong quy luật đó. Nhưng hiện nay chúnh ta đang đứng trước hai mâu thuẫn: Nhu cầu vốn đầu tư rất lớn nhưng khả năng đáp ứng chưa tương xứng do tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn quá thấp. Hơn thế nữa trong khi đó việc quản lý và sử dụng vốn còn rất kém hiệu quả nên càng làm cho nhu cầu vốn trở nên lớn hơn. Đặc biệt tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư đã lên tới mức báo động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Mặc dù các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã đưa ra một số biện pháp nhưng dòng tiền chảy từ ngân sách Nhà nước chảy về túi tư nhân vẫn không hề giảm mà thậm chí còn gia tăng. Việc chống thất thoát, lãng phí và tiêu cực trong đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước đang được đặt ra một cách bức xúc và vô cùng cấp thiết. Phần 2 : Thực trạng về đầu tư xây dựng cơ bản nguyên nhân và sự cần thiết phải chống thất thoát lãng phí vốn ngân sách trong đầu tư xây dựng cơ bản I - Thực trạng. Hàng năm Nhà nước dành khoảng hơn 20% tổng sản phẩm quốc nội cho đầu tư xây dựng cơ bản ( công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, nông nghiệp...) và đã đem lại hiệu quả đáng kể, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển chung của đất nước. Trước hết nó là một ngành mũi nhọn đầu tàu để kéo các ngành khác như nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp chế biến, giao thông thuỷ lợi... cùng phát triển. Ngành xây dựng đã làm đổi mới bộ mặt của cả nước, những khu đô thị mới, những nhà cao tầng, những công trình kiến trúc đang mọc lên ngày càng nhiều, làm cho thành phố, đô thị làng xã trở nên khang trang hơn, tươi đẹp hơn. Từ những con đường đi trong làng, trong xã cũng được xây dựng mới cho đến những con đường cao tốc rộng lớn dài mấy chục km như đường Láng Hoà Lạc, Đường 5 đã xây dựng xong, rồi con đường Hồ Chí Minh xẻ dọcTrường Sơn, xuyên qua thế kỷ đang dần hoàn thành giúp cho việc giao thông đi lại, vận tải trở nên dễ dàng hơn, thuận lợi hơn.Vui hơn nữa là dự án xây dựng hầm đường bộ qua đèo Hải Vân đã bắt đầu khởi công. Đây là dự án xây dựng hầm lớn lần đầu tiên sẽ làm ở Việt Nam và khu vực Đông Nam á. Khi hầm đường bộ này hoàn thành và đưa vào sử dụng ( dự kiến năm 2003) thì chắc chắn tai nạn giao thông ở khu vực này sẽ giảm đi rất nhiều. Rồi cả những cây cầu to lớn, đồ sộ cầu Thăng Long bắc qua con sông Hồng đục ngàu, mênh mông nước,cây cầu Chương Dương vĩnh cửu do chúng ta tự thiết kế và thi công, đây là cây cầu đánh dấu ý chí tự lực tự cường của những ngườ thợ cầu Việt Nam, cây cầu Hàm Long mới được xây dựng đứng song song với cây cầu Hàm Rồng nối hai ngọn núi, bắc qua con sông Mã lịch sử oai hùng, cây cầu Triều Dương ra đời nối liền hai tỉnh Hưng Yên, Thái Bình , góp phần chấm dứt cảnh, thuyền, phà đi lại chậm chạp, mất an toàn. Đặc biệt, trong năm 2000, việc khánh thành cây cầu Mỹ Thuận đã làm nức lòng người dân cả nước. Đây là một cây cầu treo lớn đầu tiên tại Việt Nam với thiết kế mang đầy tính nghệ thuật. Đó là phục vụ cho ngành giao thông vận tải, còn đối với ngành điện lực thì sao? Công trình thuỷ điện Hoà Bình được khởi công từ năm 1979 đến năm 1993 chính thức đưa và hoạt độnglà một nhà máy thuỷ điện ngầm có công suất lớn ở vùng Đông Nam á đã lợi dụng sức nước của con sông Đà dữ dằn, hung bạo để đem đến nguồn điện cho hầu hết cả nước. Không những thế Hoà Bình đã và đang trở thành một khu công nghiệp và du lịch của miền Bắc. Nhà máy thuỷ điện Trị An trên sông Đồng Nai mùa xuân năm 1988 đã hoà vào lưới điện quốc gia, đây thực sự là niềm tự hào của những người xây dựng Việt Nam và biết bao công trình nhiệt điện, thuỷ điện khác như nhiệt điện Phả Lại, thuỷ điện Thác Bà, thuỷ điện ĐaNhim ... nhờ có đường dây tải điện siêu cao 500 KV đã đưa điện đến từng nhà, từng xóm, từ miền ngược đến miền xuôi, từ vùng sâu vùng xa cho đến đồng bằng , trung du...tất cả đều có dấu tích của những công trình xây dựng, in dấu bàn tay của những người công nhân xây dựng. Nhờ có xây dựng, mà các công trình thuỷ lợi ra đời đã đưa nước đến từng đồng ruộng, hệ thống tưới tiêu, kênh rạch khắp nơi trong cả nước, từ đó phục vụ đắc lực cho ngành nông nghiệp, ví dụ như Hồ Núi Cốc không chỉ là một nơi tham quan du lịch, mà còn là một cái bể chứa nước khổng lồ nhờ nguồn nước của con sông MêKông, không những cung cấp nước tưới tiêu cho cả tỉnh Thái Nguyên mà còn dẫn sang các nước bạn.Rồi biết bao những công trình xây dựng khác, các khu vui chơi giải trí như công viên Đầm Sen, công viên nước Hồ Tây, các toà nhà cao tầng đang đua chen. Tốc độ xây dựng đang gia tăng một cách mạnh mẽ, sôi động khắp nơi trong cả nước, nơi nơi xây dựng, ngàng ngành xây dựng, nhà nhà xây dựng. Từ trong những năm tháng chiến tranh ác liệt cũng như những ngày hoà bình xây dựng, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, giữa những ngày đông giá lạnh cũng như trong những tháng hè cháy bỏng, đâu đâu cũng in đậm vết chân, lúc nào cũng có mặt những người thợ xây dựng. Tuy đầu tư xây dựng cơ bản đã đạt được một số, những thành tựu đáng kể, nhưng so với các nước trong khu vực Châu á thì nước ta vẫn chỉ đạt được tốc độ tăng trưởng và phát triển thấp, tỷ lệ đóng góp vào GDP của ngành xây dựng vẫn còn thấp hơn mức trung bình (khoảng 7%) của một số nước Châu á. Điều này được thể hiện trong bảng sau: Bảng 1 Xu hướng phát triển vĩ mô của công nghiệp xây dựng Tên nước GDP năm 1998theo giá hiện hành (tỉ $) Phần đóng góp vào GDP của ngành xây dựng 1998(%) Vốn đầu tư xây dựng cơ bản/ người năm 1998 Khối lượng xây dựng( tỉ $) Dân số ( nghìn người) Đầu tư xây dựng / người($) Australia Trung Quốc Hồng Kông ấn Độ Indonesia Nhật Bản Hàn Quốc Malaysia Phillipine Singapore Srilanka Việt Nam 3393.26 958 166.03 334.2 93.04 3759.7 372.17 123.7 90.34 85.06 13.02 27.83 6.7 7.1 5.4 14.7 - 9.8 10.1 4.8 5.9 9.1 1.6 5.7 16.5 188 10.67 49.2 12.63 538.3 55.2 9.1 3.4 11.6 1.5 3.97 18524.2 1248000 6805.6 998000 204400 126420 46330 22200 75160 3865.6 18774 77000 890 151 1568 50 61.7 4258 1191 410 45 80 52 52 Tổng cộng 900.07 22845479.4 316 Nguồn báo cáo của Hội nghị Xây dựng Châu á 1999. Trong những năm vừa qua hầu hết nền kinh tế của các nước Châu á còn chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế và tiền tệ do đó đầu tư cho lĩnh vực xây dựng cơ bản cũng gặp không ít khó khăn, Việt Nam cũng chịu tác động nhưng bị ảnh hưởng không sâu sắc. Thể hiện: Bảng 2 Đầu tư và xây dựng những năm gần đây của một số nước Châu á. Tên nước Khối lượng xây dựng năm 1998(theo giá hiện hành) Mức tăng trưởng xây dựng trong GDP (%) Tổng (tỉ USD) Khu vực Tư nhân (tỉ USD) Khu vực công cộng (tỉ USD) 1995 1996 1997 1998 1999 Australia Trung Quốc Hồng Kông ấn Độ Indonesia Nhật Bản Hàn Quốc Malaysia Phillipine Singapore Srilanka Việt Nam 16.5 188 10.67 49.2 16.66 538.3 29.11 n.a 3.41 11.62 1.5 3.9 n.a n.a n.a n.a 9.49 283.3 n.a n.a..n.a 1.97 5.55 1.2 n.a n.a n.a n.a 7.17 255 n.a 17.3 1.44 6.07 0.3 4.9 12.4 18.2 n.a 19 -2.58 8.8 14.2 6.5 8.5 4.9 6.9 -1.0 8.5 18.8 6.5 -10 2.04 6.9 11.0 10.8 21.9 3.4 6.53 5.8 7.9 12.4 12.0 -23 -3.61 1.4 9.0 16.2 15 5.4 6.54 11.9 12.0 n.a 12.0 -40 n.a -9.0 n.a -8.1 3.9 7.1 5.75 n.a n.a n.a 4.8 n.a n.a 0.9 -5.6(nđ) n.a n.a n.a Nguồn báo cáo của Hội nghị Xây dựng Châu á 1999. Đó là đứng trên bình diện tổng quát so với một số nước ở Châu á thì sức phát triển của ngành đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt nam còn rất thấp, môi trường xây dựng của Việt Nam vẫn chưa được phát triển toàn diện, còn rất non kém so với các nước đi trước. Xét về các kết quả đạt được do ngành xây dựng trong nước đem lại thì ngành xây dựng đã có những chuyển biến tích cực, đã trở thành một ngành độc lập và có đóng góp to lớn trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vốn đầu tư dàng cho xây dựng cơ bản ngày càng gia tăng, trong đó nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất. Điều này được thể hiện trong bảng sau: Bảng 3: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội 1995-1999 theo giá hiện hành phân theo nguồn vốn. (tỉ đồng) Nguồn vốn \ Năm 1995 1996 1997 1998 Sơ bộ 1999 1-Vốn Nhà nước *Vốn ngân sách Nhà nước -Trung ương -Địa phương *Vốn tín dụng *Vốn tự có của các DNNN 2-Vốn ngoài quốc doanh 3Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 12047.8 13757.0 7828.0 5747.0 3064.0 9408.8 20000.0 22000.0 35894.4 16544.2 8968.6 7575.6 8280.2 11070.0 20773.0 22700.0 46570.4 20570.4 9861.3 10709.1 12700.0 13300.0 20000.0 30300.0 52536.1 22208.9 10076.5 12132.4 10214.8 20112.4 20500.0 24300.0 64000.0 26000.0 16000.0 10000.0 19000.0 19000.0 21000.0 18900.0 Tổng số 68047.8 79367.4 96370.4 97336.1 103900.3 Nguồn niên giám thống kê năm 2000. Qua bảng ta thấy tỷ trọng của vốn Ngân sách Nhà nước dành cho đầu tư xây dựng cơ bản luôn chiếm từ 20%-25% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội dành cho ngành này, riêng năm 1995 thì vượt trội hơn, chiếm gần 40% và con số tuyệt đối luôn luôn tăng qua các năm. Và nguồn vốn ngân sách cũng là nguồn vố chủ đạo trong vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước. Nguồn này được dành cho xây lắp, mua sắm máy móc, thiết bị và cho xây dựng cơ bản khác. Cơ cấu của nguồn vốn dành cho các nội dung này được thể hiện qua bảng sau: Bảng 4: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước 1990-1999 phân theo cấu thành và cấp quản lý.(Giá hiện hành).(ĐVT: tỉ đồng) Năm Tổng Phân theo cấu thành Phân theo cấp quản lý Xây lắp Thiết bị XDCB khác Trung ương Địa phương 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999(sb) 3047.4 5114.6 8687.8 18555.5 20796.3 26047.8 35894.4 46570.4 52536.1 64000 2211.0 3321.1 5947.8 10717.2 12550.0 15352.4 19514.6 27693.4 31236.2 38100.0 547.4 1377.2 1880.3 5933.4 5957.9 7523.8 11539.3 12422.7 13555.1 16600.0 289.0 416.3 859.7 1904.9 2288.4 3171.6 4840.5 6454.3 7744.8 9300.0 1694.2 2705.8 4956.3 12238.5 12345.8 14144.0 20729.6 26127.7 27247.0 35000.0 1353.2 2408.8 3731.5 6317.0 8450.5 11903.8 15164.8 20442.7 25289.1 29000.0 Nguồn niên giám thống kê năm 2000. Từ bảng trên ta có bảng thể hiện cơ cấu của vốn được phân bổ như sau: Bảng 5: Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước 1990-1999 phân theo cấu thành và cấp quản lý. (giá hiện hành) ( Đơn vị %) Năm Tổng Phân theo cấu thành Phân theo cấp quản lý Xây lắp Thiết bị XDCB khác Trung ương Địa phương 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999(sb) 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 72.5 64.9 68.5 57.7 60.3 58.9 54.4 59.5 59.5 59.5 18.0 26.9 21.6 32.0 28.6 28.9 32.1 26.7 25.8 26.0 9.5 8.2 9.9 10.3 11.1 12.2 13.5 13.8 14.7 14.5 55.6 52.9 57.0 66.0 59.4 54.3 57.8 56.1 51.9 54.7 44.4 47.1 43.0 34.0 40.6 45.7 42.2 43.9 48.1 45.3 Nguồn niên giám thống kê năm 2000 Sau đây là những con số thể hiện cơ cấu của vốn Nhà ._.nước dành cho từng ngành khác nhau trong năm 1997-1998 và giá trị tài sản cố định mới tăng nhờ có nguồn vốn đó. Bảng 6: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước và giá trị tài sản cố định mới tăng phân theo ngành kinh tế ( theo giá hiện hành) ( Đơn vị : Tỉ đồng). Ngành kinh tế Vốn đầu tư XDCB của Nhà nước Giá trị tài sản cố định mới tăng 1997 1998 1997 1998 Tổng số Nông nghiệp và lâm nghiệp Thuỷ sản Công nghiệp khai thác mỏ Công nghiệp chế biến Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước Xây dựng Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ Khách sạn, nhà hàng Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc Tài chính tín dụng Hoạt dộng khoa học và công nghệ Hoạt động liên quan đến KDTS và DVTV Quản lý Nhà nước và an ninh quốc phòng Giáo dục và đào tạo Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội Hoạt động văn hoá , thể thao Hoạt động Đảng, Đoàn thể, Hiệp hội Các hoạt động phục vụ cá nhân, cộng đồng 46570.4 3466.4 524.8 686.3 6017.3 7047.3 936.2 926.1 1097.5 17153.5 24.3 119.0 327.7 2760.1 1534.7 1233.9 914.5 128.4 1672.3 52536.1 4461.8 655.0 692.2 7024.0 12635.9 899.5 770.9 370.5 12811.5 23.1 169.7 1237.0 2258.1 1849.7 1084.8 1097.1 140.3 4355.0 30225.3 2606.0 390.3 437.6 2928.9 1788.3 663.8 393.3 790.1 13853.9 12.8 42.2 159.0 1084.5 1303.1 887.2 506.7 82.7 2294.8 36215.2 2834.0 479.8 118.9 5565.3 3558.5 984.6 750.8 619.6 8863.5 10.2 44 610.3 1550.8 1393.9 875.8 1033.8 75.9 6845.5 Nguồn niên giám thống kê năm 2000. Mặc dù đặc điểm của ngành xây dựng là một tài sản cố định có thể qua nhiều năm mới hình thành, nghĩa là phải được đầu tư trong nhiều năm, do vậy có những năm giá trị tài sản cố định được tạo ra lớn hơn vốn đầu tư, có những năm giá trị tài sản cố định tạo ra rất thấp nên chỉ qua số liệu của hai năm trên thì không thể đánh giá được toàn bộ về hiệu quả đầu tư trong xây dựng cơ bản nhưng ta cũng có một chút nhận xét là: Có rất ít các ngành mà có giá trị tài sản cố định tạo ra lại lớn hơn vốn đầu tư trong hai năm 1997-1998 ( Trong năm 1997 thì có ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước và các hoạt động phục vụ cá nhân cộng đồng, còn trong năm 1998 thì có ngành xây dựng, khách sạn nhà hàng và các hoạt động phục vụ cá nhân cộng đồng). Và so sánh giữa giá trị tài sản cố định mới tăng năm 1998 với vốn đầu tư năm 1997 thí vẫn có sự chênh lệch lớn , vậy điều này xuát phát từ sự kéo dài của kỳ đầu tư hay có sự thất thoát ở đây? Thực trạng phổ biến kéo dài trong nhiều năm qualà bố trí kế hoạch rải mành mành, thiếu tập trung, không sát với tiến độ dự án được duyệt nên không đủ vốn để triển khai kế hoạch đấu thầu, hoặc nếu triển khai cũng chỉ là hình thức. Tổng mức vốn đầu tư bố trí vào kế hoạch năm 1999 cho 74 Bộ, ngành trung ương... và 61 tỉnh, thành phố là 15412 tỉ đồng, đã bố trí đến 8380 dự án. Trong đó: -Các Bộ, ngành trung ương đã bố trí 1689 dự án với số vốn đầu tư là 10278 tỉ đồng. Nhóm A : 67 dự án, vốn đầu tư là 6683 tỉ đồng. Nhóm B: 240 dự án, vốn đầu tư là 2022.2 tỉ đồng . Nhóm C: 1043 dự án, vốn đầu tư 1438.5 tỉ đồng. -Các tỉnh, thành phố đã bố trí 6691 dự án với vốn đàu tư là 5715 tỉ đồng. Trong đố vốn xây dựng cơ bản tập trung3597 tỉ đồng đã bố trí cho 3707 dự án, còn lại bố trí bằng nguồn vốn huy động khác từ ngân sách địa phương. Kế hoạch đầu tư hàng năm triển khai chậm. Đến cuối tháng 8/1999 cả nước còn 1326 dự án chưa triển khai xong vì các lý do : dự án chưa được duyệt, tổng dự toán, dự toán chưa được duyệt, chưa giải phóng xong mặt bằng... Trong đó, các ngành trung ương còn 268 dự án, các tỉnh, thành phố còn 1058 dự án chưa triển khai kế hoạch. Như vậy, về mặt hình thức, giá trị khối lượng thực hiện, là vượt kế hoạch Nhà nước giao, song thực chất giá trị khối lượng trong năm kế hoạch là không đạt. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì đầu tư xây dựng cơ bản còn có rất nhiều hạn chế . điều này thể hiện qua hiệu quả sử dụng vốn rất thấp, đặc biệt là trong việc sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước. Tình trạng thất thoát, lãng phí trong xây dựng cơ bản dẫ lên tới con số báo động, nhiều lần công luận đã lên tiếng. Hiện nay con số chính thức để tổng kết, đánh giá về mức độ thất thoát của Việt Nam trong những năm gần đây thì chưa có nhưng về mặt tương đối thì rất nhiều ý kiến cho rằng, mức độ thất thoát vốn đầu tư trong xây dựng cơ bản vào khoảng 15%, 20%, 25% thậm chí con số này còn có thể lên tới 30% hoặc hơn thế nữa. Thực trạng của xây dựng cơ bản hiện nay được xếp vào diện là một trong các lĩnh vực thất thoát và lãnh phí nhiều nhất, nghiêm trọng nhất. Điều này đã được nêu thành câu ca: Bên B là chùm khế ngọt... Thực chất ở đây thì Nhà nước mới thực sự là chùm khế ngọt và không chỉ có A,B mà có rất nhiều kẻ bám vào các công trình xây dựng cơ bản của Nhà nước đẻ tham ô, móc ngoặc, hối lộ với số tiền không chỉ dừng lại ở dăm mười triệu đồng. Bởi vì các công trình xây dựng cơ bản thường được nhận vốn đầu tư rất lớn, có công trình lên tới hàng trăm ngàn tỉ. Nói chung xây dựng cơ bản là một lĩnh vực phức tạp, không chỉ bởi vì nó dính đến rất nhiều tiền mà liên quan tới rất nhiều người, rất nhiều đường dây cấp phát, duyệt dự toán, quyế toán, nghiệm thu chất lượng, khối lượng công trình. Hiện nay qua rất nhều khâu kiểm tra, kiểm soát nhưng mức độ tiêu cực trong lĩnh vực này không hạn chế mà ngày càng trở nên tinh vi hơn , xảo quyệt hơn với mục đích càng moi được của Nhà nước bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Chính vì vậy, mặc dù các văn bản pháp quy của Nhà nước có quy định nghiêm ngặt đến đâu đi chăng nữa, hết văn bản này ra đời nối tiếp văn bản kia thì vẫn tìm ra được những kẽ hở, luồn lách pháp luật để moi tiền của Nhà nước, dẫn tới tình trạng thất thoát, lãng phí, tiêu cực vốn đầu tư xây dựng cơ bản không những không giảm mà thậm chí còn gia tăngở mức độ trầm trọng. Những vi phạm phổ biến trong lĩng vực này là tình trạng không chấp hành nghiệm chỉnh trình tự và thủ tục xây dựng, trong các khâu giao thầu, thi công, nghiệm thu, thanh toán, các thủ đoạn lập chứng từ giả, khai tăng khối lượng xây lắp, tăng giá vật tư, gian lận trong hạch toán kế toán... dẫn tới tham ô, hối lộ gây thất thoát vốn.Trong thực tế, thất thoát trong lĩnh vực xây dựng cơ bản không chỉ có vốn đầu tư mà còn biểu hiện ở nhiều khâu, dưới nhiều hình thức khác nhau. Có thể khái quát ở ba dạng chủ yếu sau: -Thất thoát về của cải vật chất: Đó là việc sử dụng và bảo quản máy móc, thiết bị kém, để mất mát hư hỏng nguyên vật liệu... Ví dụ như lợi dụng sự sơ hở trong công tác bảo vệ nên rất nhiều trường hợp xảy rs tình trạng bị ăn trộm xi măng, sắt thép, gạch, vôi, cát... , thậm chí có trường hợp có người còn ngang nhiên chở về nhà để xây cái này, cái nọ, hoặc đem bán với lý do nguyên vật liệu thừa hoặc nhiều như vậy lấy đi một chút chẳng bõ bèn gì. -Thất thoát dưới dạng lãng phí sức lao độngcủa con người, mà biểu hiện trực tiếp rõ nhất là lãng phí ngày công lao động của công nhân trong các đơn vị thi công xây lắp. Cũng do đặc điểm của ngành xây dựng là cần phải có thời gian để xây dựng xong một công trình, một hạng mục công trình và hoạt động thường được tổ chức theo mùa, do đó đòi hỏi phải có một tiến độ thi công phù hợp và bố trí nguồn nhân lực một cách phù hợp sao cho đảm bảo đúng tiến độ dự án và chi phí bỏ ra là thấp nhất. Nhưng ở Việt Nam hiện nay rất ít đơn vị làm được điều đó. -Thất thoát lãng phí dưới dạng tiền vốn: tức là các khoản vốn bằng tiền không được đầu tư cho công trình mà mà bị mất mát dưới hình thức nào đó, đứng trên góc độ tiêu cực thì khoản tiền này được kheo léo chui vào “ hầu bao” của một số cá nhân nào đó, cònn các trường hợp khác như: do công trình xây dựng không đảm bảo chất lượng, không đúng tiêu chuẩn phải phá đi làm lại, hoặc do kéo dài tiến độ dự án, phân bổ vốn không hợp lý gây nên tình trạng ứ đọng vốn...Đây là dạng thất thoát lớn nhất, chủ đạo nhất. Suy cho cùng các khoản thất thoát trên đều tập trung vào vốn đầu tư, bởi vì: cần phải bỏ vốn ra để mua sắm máy móc, thiết bị, để mua nguyên nhiên vật liệu, để trả lương cho công nhân. Những nhóm người nào đó đã lấy tiền công, tiền của Nhà nước để nhằm mục đích tư lợi đã được ví như những tổ chức Mafia. Một trong những hành vi phổ biến của họ là tìm cách thu lợi bất chính và tìm cách tẩy rửa sạch sẽ các khoản tiền bất chính để đầu tư chiều sâu. Nhưng nếu Mafia quốc tế đem những đồng tiền lời do buôn lậu vũ khí, heroin, cướp nhà băng, tống tiền các quan chức Nhà nước... biến đồng tiền đen thành đồng tiền trắng thì Việt Nam lại ngược lại: Biến đồng tiền trắng thành đồng tiền đen. Chính do sự thất thoát , lãng phí, tiêu cực xảy ra trong đầu tư xây dựng cơ bản cho nên hầu hết tất cả các công trình sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước đều có giá thành cao gấp rưỡi, gấp đôi so với bình thường. Vậy nguyên nhân là do đâu?,và những thủ đoạn gì đã được sử dụng ở đây?. II - Những bất cập-Nguyên nhân và sự cần thiết phải chống thất thoát, lãng phí vốn đầu tư trong xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước. 1/ Những bất cập và những mánh khoé moi tiền của Nhà nước trong xây dựng cơ bản. Lãng phí, thất thoát, tiêu cực trong hoạt động đầu tư và xây dựng đã và đang là điều nhức nhối đáng quan tâm. Một trong những nguyên nhân làm cho tệ nạn tham nhũng, móc ngoặc, hối lộ dưới các dạng trắng trợn, hoặc kín đáokiểu “ phong bì chậm” được ngăn chặn có nguồn gốc sâu xa là; Do tồn tại những chỗ giáp ranh, những khoảng tối- sáng giữa cơ chế cũ và cơ chế mới. Từ đó dẫn tới các nguyên nhân chủ quan, khách quan, những nguyên nhân về tự nhiên, kinh tế, xã hội ... khác nhau. Nhưng nhìn chung mọi gian lận, thất thoát, lãng phívà tiêu cực đều xuất phát từ hai nhón nguyên nhân sau; -Nguyên nhân trực tiếp: Thât thoát vì cố tình vi phạm các quy định về chế độ quản lý của Nhà nước. Đây là nguyên nhân chủ quan. -Nguyên nhân gián tiếp: Thất thoát vì có những sơ hở trong chính sách, chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước ở các khâu của quá trình hoạt động đầu tư và xây dựng: bắt nguồn từ các văn bản pháp quy còn rất nhiều sơ hở, từ sự vô trách nhiệm của các ban quản lý công trình, từ sự buông lỏng, quoa loa trong nghiệm thu quyết toán công trình... Chính do nguyên nhân này đã gián tiếp thúc đẩy con người đi đến sự vi phạm pháp luật, nguyên nhân gián tiếp dẫn tới nguyên nhân trực tiếp. Nhưng chủ thể gây ra cả hai nguyên nhân này là ai? Đó chính là con người, là cái gốc của vấn đề. Chính vì con người bị buông lỏng, chưa quản lý được đúng nên tiêu cực phát sinh. Do vậy ranh giới giữa nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp là hết sức mờ nhạt. Trong mọi vi phạm đều có sự tác động của cả hai nguyên nhân này, nguyên nhân trực tiếp bắt nguồn từ nguyên nhân gián tiếp. Sau đây là một số bất cập và cũng là nguyên nhân dẫn tới tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư trong xây dựng cơ bản. Về chủ trương đầu tư và công tác thẩm định. Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản Nhà nước thống nhất quản lý đầu tư và xây dựng đối với tất cả các thành phần kinh tế và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch và kế hoạch phát triển ngành, lãnh thổ, quy hoạch và kế hoạch xây dựng đô thị và nông thôn, quy chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn xây dựng, lưa chọn công nghệ, sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, thiết kế kỹ thuật, kiến trúc xây lắp, bảo hiểm, bảo hành công trình và các khía cạnh kinh tế xã hội khác của dự án. Đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì Nhà nước còn phải quản lý về các mặt thương mại, tài chính và hiệu quả kinh tế của dự án. Trách nhiệm quản lý Nhà nước là phải làm cho các công trình xây dựng được thực hiện theo đúng quy hoạch, bảo đảm chất lượng và hiệu quả kinh tế. Chủ trương đầu tư trong xây dựng cơ bản chưa thực sự đúng đắn và hợp lý, chưa sát với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, chưa phù hợp với quy hoạch phát triển vùng và đô thị gây nên tình trạng nhiều công trình xây dựng xong không thể mở cửa đưa vào sử dụng được vì không đảm bảo an toàn, bị thiệt hại,thua lỗ và gây mất mỹ quan. Hiện tượng phổ biến là nhiều cấp có thẩm quyền khi ra quyết định liên quan đến chủ trương đầu tư thiếu chính xác, phải điều chỉnh, bổ sung, thậm chí nhiều dự án lớn vừa thiết kế, vừa thi công, vừa lên dự toán. Tình trạng đó đã tạo nên những sơ hở trong quản lý, dẫn đến thất thoát, lãng phí vốn đầu tư kéo dài. Nguyên nhân của tất cả sự bất hợp lý, không phù hợp và không hiệu quả ở trên thì đều có nguồn gốc từ công tác thẩm định. Tất cả các dự án đầu tư có công trình xây dựng thuộc mọi nguồn vốn đều phải thẩm định theo từng giai đoạn của quá trình đầu tư và xây dựng kể từ khi chuẩn bị, thực hiện đầu tư đến kết thúc xây dựng đưa dự án vào sử dụng. Mục đích việc lập, thẩm định dự án đầu tư nhằm giúp chủ đầu tư và các cấp ra quyết định dầu tư, cấp giấy phép đầu tư, quyết định xây dựng, cấp giấy phép xây dựng lựa chọn được phương án tốt nhất để quyết định đúng phương hướng và thực hiện xây dựng đúng pháp luật, đạt hiệu quả kinh tế của dự án. Tuy nhiên trong quá trình lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán công trình vẫn có những vấn đề về cơ chế quản lý chưa được quy định hoăc quy định chưa phù hợp; Việc lập hồ sơ trình thẩm định phê duyệt, các chư đầu tư cũng chưa thực hiện đúng quy định , hồ sơ một số dự án còn thiếu văn bản pháp lý, thuyết minh chưa rõ ràng, tài liệu điều tra cơ bản lập dự án thường sơ lược, đặc biệt về tình cung cầu, giá cả thị trường, tài liệu điều tra khảo sát phục vụ thiết kế thường nêu điển hình, chưa đầy đủ, một số tài liệu chưa chuẩn xác, tài liệu tổng dự toán đều lập theo thiết kế , kỹ thuật chưa được thẩm định, tổng dự toán thường khác nhiều với tổng mức đầu tư đã được duyệt... Do vậy công tác thẩm định trong thời gian qua vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý Nhà nước về đầu tư xây dựng, cũng như yêu cầu của chủ đầu tư trong việc triển khai thực hiện dự án. 1.2) Công tác kế hoạch hoá còn nhiều yếu kém. Tình trạng bố trí kế hoạch rải mành mành, thiếu tập trung, không sát với tiến độ dự án được duyệt là phổ biến. Cụ thể: -Thiếu kế hoạch đầu tư xây dựng tổng quát theo ngành và lãnh thổ 5 năm và hàng năm. -Việc phân phối vốn hàng năm mang tính chất chia phần, dẫn đến bố trí kế hoạch phân tán, không theo tiến độ thực hiện dự án được duyệt. -Không thể hiện rõ việc bố trí vốn theo trình tự ưu tiên cho : chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng, thực hiện đầu tư. -Nhiều dự án thiếu thủ tục theo quy định của Nhà nước như: dự án khả thi, quyết định đầu tư, thiết kế, dự toán.... được cấp có thẩm quyề phê duyệt mà vẫn đưa vào kế hoạch đầu tư hàng năm. -Triển khai kế hoạch đầu tư hàng năm chậm. 1.3) Ban quản lý công trình - Ông "chủ thật " hay " chủ hờ " ? Hiện nay, nguyên nhân của sự kém chất lượng của nhiều công trình xây dựng cơ bản, sự thất thoát do tham ô những khoản tiền lớn của Nhà nước có sự đóng góp rất lớn từ sự kém trình độ quản lý nghề nghiệp chuyên môn và thiếu tinh thần trách nhiệm của nhiều ban quản lý công trình. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu người đứng đầu ban quản lý công trình xây dựng cơ bản phải là người có nghề xây dựng cơ bản. Nhưng hiện nay nhiều ngành, nhiều cơ quan vẫn chưa nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị này, từ đó đã làm biến chất nhiều ban quản lý công trình, người đứng tư cách pháp nhân chịu trách nhiệm trước Nhà nước quản lý một công trình xây dựng có khi lên tới hàng chục, hàng trăm tỉ đồng trở thành một ông “ chủ hờ”, kẻ tiếp tay, người hợp thức hoá cho sự tham ô tiền của Nhà nước. Ban quản lý công trình xây dựng cơ bản hiện nay là những người chịu trách nhiệm trực tiếp trước cơ quan chủ quản đầu tư, trước Nhà nước , là bên A trong việc trình luận chứng, xin cấp vốn, tổ chức đấu thầu, chọn thầu, đứng ra ký hợp đồng với bên B, dự toán, nghiệm thu công trình, ký chuyển tiền cho bên B... nhưng thực chất họ chỉ là những con “ tốt” . Anh ta là “chủ hờ “ đối với chất lượng công trình nhưng là “ chủ thật” đối với những gì anh ta kiếm chác được khi công trình xây xong. Do ban quản lý công trình không có chuyên môn, nghề nghiệp, trình độ, bằng cấp phù hợp cho nên tiền của Nhà nước cũng dần dần đi vao túi người khác. Có công trình xây xong , nghiệm thu, thanh toán đã phải xin tiền tu bổ vì xuống cấp như: móng lún, trần dột... , có công trình thì thanh toán quá cho bên B lại phải đi đòi lại. Mặt khác hiện nay nhiều bộ, địa phương thành lập ban quản lý công trình theo khu vực (theo địa bàn hoặc theo khối công tác) khi dự án làm xong bàn giao cho các đơn vị khác sử dụng. Như vậy, ban quản lý công trình là người đại diện cho chủ đầu tư , nhưng lại không phải là chủ đầu tư đích thực nên thiếu sự ràng buộc về trách nhiệm quản lý tài sản, bảo toàn vốn khi dự án đi vào hoạt động 1.4) Đấu thầu-Những tiêu cực và hạn chế. Do đặc điểm của xây dựng và sản phẩm xây dựng nên mối quan hệ giữa chủ đầu tư và nhà thầu được thực hiện dưới hai hình thức cơ bản là đấu thầu hoặc chỉ định thầu. Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để đáp ứng yêu cầu của bên mời thầu. Còn chỉ định thầu là hình thức chủ đầu tư chỉ định trực tiếp nhà thầu để đáp ứng yêu cầu cơ bản của gói thầu để thương thảo hợp đồng. Trong hai hình thức đó thì đấu thầu là hình thức tiến bộ hơn, đang được áp dụng phổ biến trên thế giới nhưng ở Việt Nam phương thức đấu thầu chưa được áp dụng rộng rãi mặc dù được Nhà nước khuyến khích. Thực tế trong những năm qua, việc áp dụng quy chế đấu thầu (theo Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996) và những nội dung được sửa đổi, bổ sung trong nghị định mới (Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999) có rất nhiều vấn đề bất cập, tiêu cực và hạn chế. Cụ thể: 1.4.1-Về đối tượng đấu thầu. Trước đây, Nghị định 42/CP ngày 16/7/1996 về quản lý đầu tư, xây dựng và nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 về quy chế đấu thầu quy định: Tất cả các dự án đàu tư có mức vốn trên 500 triệu đồng phải thực hiện theo phương thức đấu thầu. Những dự án dưới 500 triệu đồng được áp dụng theo phương thức chỉ định thầu. Quy định nhằm khuyến khích (có tính chất bắt buộc) việc áp dụng rộng rãi đấu thầu đối với tất cả các dự án đầu tư. Tuy nhiên, quy định một mức chung cho tất cả các loại dự án thuộc các ngành, các lĩnh vực khác nhau như trên chưa phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế. Chẳng hạn, một dự án giao thông, với mức 500 triệu đồng thì không đủ làm 1 km đường. Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 về Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng; Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 về quy chế đấu thầu đã quy định: “ Các dự án có chủ đầu tư là doanh nghiệp Nhà nước hoặc cơ quan tổ chức của Nhà nước sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước phải tổ chức đấu thầu theo quy chế đấu thầu”. Chỉ được phép chỉ định thầu đối với các trường hợp sau: - Trường hợp bất khả kháng do thiên tai địch hoạ cần chỉ định ngay đơn vị thi công có năng lực thực hiện công việc để khắc phục hậu hoạ. Sau đó phải báo cáo ngay Thủ tướng Chính phủ về nội dung chỉ định thầu đẻ xem xét phê duyệt. - Đối với những dự án có tính chất thử nghiệm, bí mật quốc gia, bí mật an ninh, quốc phòng do Thủ tướng Chính phủ quyết định. - Những dự án đặc biệt do Thủ tướng chính phủ quyết định trên cơ sở báo cáo thẩm định của Bộ kế hoạch và đầu tư, ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài trợ vốn và các cơ quan liên quan. Những quy định về đối tượng dự án phải đấu thầu nêu trên vẫn chưa phù hợp với yêu cầu thực tế, thể hiện: - Theo quy định, tất cả các dự án đầu tư đều phải thực hiện phương thức đấu thầu (trừ 3 trường hợp được chỉ định thầu nhưng phải báo cáo thủ tướng Chính phủ và phải được Thủ tướng cho phép), không phân biệt quy mô vốn đầu tư, tính chất công việc. Nhưng trong thực tế có những loại công việc gọn, khối lượng nhỏ, vốn ít chỉ vài chục triệu đến vài trăm triệu đồng như kéo đương dây điện, điện thoại, lắp đặt một số thiết bị nhỏ của các ngành... cũng phải đấu thầu, dẫn đến tiển khai công việc chậm, làm chậm tiến độ thi công. - Quy định việc chỉ định thầu phải được Bộ kế hoạch và đầu tư thẩm định có ý kiến bằng văn bản trước khi báo cáo Thủ tướng Chính phủ sẽ gây những khó khăn về mặt thủ tục, đặc biệt đối với những dự án quy mô nhỏ, có đặc thù riêng, như kéo đường dây điện, điện thoại... 1.4.2-Trình tự thực hiện đấu thầu. Để chọn một đơn vị trúng thầu ký hợp đồng thực hiện dự án, chủ đầu tư phải thực hiện 4 bước, 8 công đoạn ( 4 lên, 4 xuống) như sau: -Lập và xin duyệt kế hoạch đấu thầu ( có hai công đoạn gồm 1 lên, 1 xuống: lập kế hoạch đấu thầu, trình cấp thẩm quyền phê duyệt ). -Sau khi kế hoạch đấu thầu dược phê duyệt, chủ đầu tư phải tổ chức lập giá trần trình cấp thẩm quyền xem xét, phê duyệt để làm giá chuẩn khi xét thầu ( có 2 công đoạn 1 lên, 1 xuống). -Tổ chức mở thầu, xét thầu, đánh giá kết quả và xếp loại nhà thầu, trình cấp thẩm quyền xem xét, quyết định đơn vị trúng thầu ( gồm 2 công đoạn, 1 lên, 1 xuống). -Sau khi có quyết định của cấp có thẩm quyền về chọn đơn vị trúng thầu, chủ đầu tư tiến hành ký hợp đồng kinh tế với đơn vị trúng thầu lại phải trình cấp thẩm quyền phê duyệt hợp đồng Quy chế đấu thầu ban hành theo nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 đã sửa đổi điều kiện này: Chỉ bắt trình cấp thẩm quyền phê duyệt hợp đồng giữa chủ đầu tư với đơn vị trúng thầu đối với các hợp đồng ký với các nhà thầu nước ngoài, hoặc đối với các nhà thầu trong nước mà kết quả trúng thầu do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trình tự nêu trên khá phức tạp về thủ tục hành chính, đặc biệt đối với những dự án ở xa cấp chủ quản, gây không ít khó khăn, tốn kém mỗi lần đi lại trình duyệt theo từng giai đoạn. 1.4.3-Về xác định giá trần. Việc xác định dự toán để làm giá chuẩn, giá trầnlàm cơ sở xem xét giá trúng thầu thường chậm, thiếu chính xác, gây lãng phí cho công tác tổ chức đấu thầu. 1.4.4-Tổ chức đấu thầu - Một màn kịch được dựng sẵn. Do trình độ chuyên môn, nhận thức và các điều kiện để thực hiện đấu thầu xây dựng chưa đồng đều nên chất lượng đấu thầu còn thấp. Mặt khác, công tác kiểm tra, kiểm soát, quản lý công tác đấu thầu còn thiếu nên nhiều trường hợp đấu thầu chỉ là mua bán thầu. Mục đích của đấu thầu là nhằm tạo ra sự cạnh tranh giữa các bên B với nhau để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng, tránh sự làm dối, làm ẩu và sự lũng đoạn, Từ đó sẽ hạn chế được bớt sự móc ngoặc, sự thông đồng không có lợi cho bên A, tức là Nhà nước. Tuy nhiên, khi một công trình nào đó đã có quyết định đầu tư với một lượng vốn lớn, lập tức các công ty xây dựng lớn có đủ thế và lực, có khả năng vào nhận thầu sẽ gặp gỡ, hiệp thương trước với nhau, thảo thuận ngầm trước với nhau để tránh việc phải đưa nhau lên “sàn đấu”. Họ dàn xếp trước với nhau để B nào vào mũi chính, sau đó B này sẽ phân chia các hạng mục công trình cho các B khác, hoặc bán công trình lại cho B khác ăn hoa hồng. Khi đã thoả thuận được với nhau rồi thì việc lên “sàn đấu” chỉ là những thủ thuật đóng kịch làm hoa mắt bên A chứ không phải là những cuộc đua tài, khoe sắc..Và ngay cả bên A cũng dùng hình thức đấu thầu giả mạo để nhằm mục đích tư lợi cho mình, bên A sẽ lựa chọn nhà thầu nào mà có khả năng “ lại quả” cho mình nhiều nhất chứ không phải B nào hạ được giá thành hay có giải pháp nào tối ưu để nâng chất lượng và làm đẹp công trình. Tiêu chuẩn xét thầu thường bộc lộ rõ những ý đồ chủ quan hướng đến cho nhà thầu nào mà chủ đầu tư đã có ý định chọn. Những nhà thầu khác cầm chắc thất bại trong một cuộc chơi không công bằng, sự không công bằng này bên ngoài khó nhận ra. Sự móc ngoặc với bên mời thầu là chiến thuật đưa ra giá dự thầu thấp để nắm chắc khả năng thắng thầu, sau đó khi thực hiện hợp đồng chủ đầu tư và nhà thầu cùng thống nhất bổ sung khối lượng phát sinh hoặc thay đổi phần thiết kế. Có những gói thầu giá trị khối lượng phát sinh lên đến vài chục tỉ đồng. 1.5) Chạy vốn và cấp vốn - Những đường ban lắt léo. Nói đến xây dựng cơ bản là nói đến vốn, đến tiền. Làm thế nào để có tiền?, đây là cửa ải đầu tiên phải vượt qua.. Từ năm 1990 Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương chuyển từ cơ chế bao cấp trong đầu tư xây dựng cơ bản sang cơ chế tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư. Nhưng cho đến naythì những tồn tại, những thói quen, những tư tưởng về một cơ chế “xin-cho”, “cấp - phát” vẫn còn tồn tại, chưa được xoá bỏ hết. Chính cơ chế cũ đã tạo ra thói quen cho chủ đầu tư không phải mất nhiều công sức trong việc tính toán nguồn đầu tư, đôn đốc, thúc đẩy, cải tiến sản xuất nhằm thu hồi vốn nhanh. Cơ chế “ xin - cho” đã khiến cho các chủ đầu tư trở nên thiếu trách nhiệm trong việc sử dụng vốn đầu tư, càng xin được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, không cần quan tâm hiệu quả đầu tư sẽ ra sao, phân bổ vốn này như thế nào... Chính vì vậy hiệu quả sử dụng vốn rất thấp, gây nên tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư, tạo tính quan liêu trong việc xét duyệt, cấp phát vốn, gây nên tình trạng tham nhũng, tạo tâm lý luôn có Nhà nước ở bên cạnh, dẫn đến tình trạng trông chờ, ỷ lại, không khuyến khích được việc tự lực cánh sinh. Bắt nguồn từ đó, “chạy vốn “ đã trở thành một bước tất yếu đầu tiên chuẩn bị cho một công cuộc đầu tư. Theo một số người chạy vốn chuyên nghiệp thì để đảm bảo cho việc chạy vốn thành công phải biết vạan dụng ba bí quyết: “ nhất quen, nhì thế, ba là giỏi biết vận dụng sự nhân danh”. Cách thức phổ thông hiện nay là người ta không cấp cho cùng một lúc mà chia ra làm nhiều đợt, nhiều năm. Như vậy số tiền cấp cho đợt sau sẽ phụ thuộc vào cách xử sự của người được cấp vốn trong đợt trước, tất cả là một vấn đề qua nhiều khâu lắt léo, tế nhị và nó có ảnh hưởng trực tiếp đến các công trình, đổ lên đầu các công trình. Chính vì vậy khâu “chạy, xin , cho. cấp, phát” cũng đóng góp một phần không nhỏ trong tình hình thất thoát, lãng phí chung của ngành xây dựng. 1.6) Tình trạng "Một cửa mà có nhiều chìa khoá". Trong những năm qua Nhà nước ta đã liên tục cải tiến các thủ tục, chính sách nhằm nâng cao tiến độ và hiệu quả đầu tư trong xây dựng cơ bản, chính sách “một cửa“đã được thực hiện nhưng tình trạng “một cửa mà có nhiều chìa khoá”, một cửa mà lại cửa quyền, hay tình trạng chỉ quản có một cửa vào, còn bỏ ngỏ cửa ra và buông lỏng quản lý cũng gây không ít tai hại và thiệt thòi cho nền kinh tế nói chung và của ngành xây dựng nói riêng. Cửa thì giảm đi nhưng thủ tục thì vẫn còn rối rắm.Có những công trình đặc biệt khi đã qua được cửa chính thì lai phải luồn qua không biết bao nhiêu cửa ngách, cửa hậu thì mới xong việc. Chẳng thế mà một công trình xây dựng cơ bản hiện nay phải gánh trên nó ngoài khối lượng sắt, thép, bê tông khổng lồ trên một nền đất không lấy gì làm đảm bảo vững chắc cộng thêm cái “nền xã hội” phức tạp, rối rắm... nên bị móng lún, trần dột, tường nứt cũng không có gì ngạc nhiên cho lắm. 1.7) Thất thoát trong xây dựng cơ bản bắt nguồn từ các văn bản pháp quy. Cùng với sự phát triển của ngành xây dựngcơ bản, công tác quản lý xây dựng cơ bản ở nước ta đã có một quá trình phát triển tương đối dài. Các văn bản pháp quy lần lượt ra đời để nhằm giúp cho công tác quản lý ngày càng tốt hơn. - Ngày 6/6/1981, Hội đồng Chính phủ ra nghị định số 232-CP ban hành điều lệ quản lý xây dựng cơ bản. - Ngày 2/11/1983 Thông tư liên Bộ số 01/TT/LB của UBKHNN và UBXDCBNN ra đời nhắm hướng dẫn thẩm tra, xết duyệt Luận chứng kinh tế- xã hội các công trình xây dựng cơ bản. -Ngày 8/8/1985 Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 217-HĐBT. - Ngày 19/9/1985 ban hành nghị định số 237 - HĐBT. - Tháng 5/1988 Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 80 -HĐBT nhằm cụ thể hoá quyết định số 217-HĐBT. - Ngày 7/11/1990 Hội đồng Bộ trưởng ra nghị định số385-HĐBT ban hành điều lệ quản lý đầu tư và xây dựngsửa đổi, bổ sung, thay thế Điều lệ quản lý xây dựng cơ bản ban hành theo nghị định số 232-CP. - Ngày 20/10/1994 Chính phủ ra nghị định số 177-CP ban hành điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng thay thế điều lệ quản lý xây dựng cơ bản ban hành kèm theo nghị định số 385-HĐBT. - Ngày 16/7/1996 ra nghị định 42-CP và ngày 28/8/1997 ra nghị định 92-CP nhằm sửa đổi, bổ sungđiều lệ trên. Những nội dung trong văn bản được sửa đổi lần cuối cùng về cơ bản đã khắc phục đáng kể cơ chế bao cấp trong đầu tư xây dựng, tiếp cận gần với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện để chuyển đổi hoạt động đầu tư và xây dựng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên rà soát lại các văn bản trên có rất nhiều điều khoản mâu thuẫn nhau, thậm chí loại trừ nhau, trong ngôn từ chính thức lại không ghi rõ văn bản nào là được áp dụng hay loại trừ văn bản nào, Vì vậy các bên B luôn tìm cách vận dụng những điều có lợi cho họ mà không ai bắt bể được vì các ddiều khoản đó đều do Chính phủ ban hành, và từ những khe hở đó đã giúp cho các bên B lách ra được những khoản tiền tỉ. 1.8) Mấy cách quyết toán khống trong xây dựng cơ bản. Tại sao các công trình xây dựng cơ bản hiện nayqua nhiều cấp duyệt mà sự thanh quyết toán vẫn êm trôi những khoản tiền gian? Người ta đã làm cách nào để lọt lưới cả khoản tiền lớn hàng trăm triệu đồng như vậy, mặc dù không phải khâu nào cũng tiêu cực ? Hiện nay, chủ yếu người ta hạch toán gian về mặt khối lượng và các hạng mục sau đây: 1.8.1- Phần móng. Để xây dựng những công trình nhà cao tầng, phải làm móng cọc và bè xi măng khung thép. Trong nhiều công trình, người ta đều khai tăng độ dài cọc phải đóng, độ dày của bê tông cũng như chủng loại sắt thép. Tất nhiên, để làm được việc khai gian dối này phải có sự thông đồng của phía thiết kế. Rất nhiều công trình, phía thiết kế đã chủ động thiết kế dư ra, khi thi công bên B cứ việc rút bớt đi mà không ảnh hưởng tới độ bền vững của công trình. Khi quyết toán, người ta cứ đàng hoàng quyết toán theo thiết kế mà không sợ bị phát hiện vì nó chôn dưới lòng đất. 1.8.2- Phần thân khung nhà. ậ phần này quyết toán khống khối lượng thường khó hơn. Nếu khai tăng khối lượng sắt, thép, xi măng, gạch... thì dễ dàng bị phát hiện mà hầu hết là khai tăng kích cỡ của các loại vật liệu như: Phần thép phi nhỏ người ta quyết toán phi to hơn, tăng mác bê tông, tăng độ dày kính... 1.8.3- Khai tăng nhân công. Khi khối lượng sắt, thép tăng thường kéo theo việc tăng nhân công, bởi vì nhân công được tính theo khối lượng bê tông, tường. Ngoài ra, nhiều công trình còn lợi dụng cần phải làm thêm giờ để vận dụng chế độ trả lương theo ca cao hơn bình thường, nhưng thực chất lại không trả._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5614.doc
Tài liệu liên quan