Tài liệu Tình trạng nghèo đói ở vùng núi phía bắc nước ta trong những năm gần đây và một số kiến nghị đối với công tác xóa đói giảm nghèo ở vùng núi của Nhà nước: LỜI NÓI ĐẦU
Đối với tất cả các nước trên thế giới, đói nghèo luôn là vấn đề được xã hội quan tâm. Ở các nước phát triển, dù có mức sống cao song vẫn luôn tồn tại tình trạng phân hóa giàu nghèo. Còn ở những nước đang phát triển với thu nhập trung bình và thấp, trong đó bao gồm Việt Nam, thì một bộ phận không nhỏ dân cư vẫn sống ở mức nghèo khổ, đặc biệt còn có những người sống trong hoàn cảnh rất khó khăn vẫn phải chịu tình trạng thiếu đói, không đủ ăn trong khi đây là nhu cầu thiết yếu của con... Ebook Tình trạng nghèo đói ở vùng núi phía bắc nước ta trong những năm gần đây và một số kiến nghị đối với công tác xóa đói giảm nghèo ở vùng núi của Nhà nước
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3614 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Tình trạng nghèo đói ở vùng núi phía bắc nước ta trong những năm gần đây và một số kiến nghị đối với công tác xóa đói giảm nghèo ở vùng núi của Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
người.
Mức độ đói nghèo cũng có sự chênh lệch khác nhau giữa các vùng miền trong cả nước do những đặc điểm khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Trong đó, đói nghèo ở các khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa trầm trọng hơn các khu vực miền xuôi. Tình trạng đó đã gây ảnh hưởng rất xấu tới chất lượng cuộc sống nhân dân vùng núi. Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm, nhiều chủ trương chính sách tích cực giúp xóa đói giảm nghèo cho vùng núi và đã đạt những kết quả nhất định. Song trên thực tế, tình hình đói nghèo nơi đây vẫn còn khá nghiêm trọng bởi những chính sách này chưa thật sự hoàn thiện và phù hợp với tình hình địa phương, và do đó sự tác động của chúng tới việc khắc phục đói nghèo miền núi chưa thật sự hiệu quả. Xuất phát từ thực tế đó, ở đây, bài viết với đề tài: “Tình trạng nghèo đói ở vùng núi phía bắc nước ta trong những năm gần đây và một số kiến nghị đối với công tác xóa đói giảm nghèo ở vùng núi của Nhà nước” đi vào nghiên cứu thực trạng nghèo đói ở miền núi phía bắc Việt Nam trong những năm gần đây như một ví dụ điển hình cho đói nghèo ở vùng núi nói chung, từ đó đánh giá những ưu điểm và nhược điểm của các chính sách xóa đói giảm nghèo cho vùng núi của Nhà nước để đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả, phát huy tác dụng của các chính sách có ý nghĩa thiết thực này.
Căn cứ vào yêu cầu của đề tài, nội dung của chuyên đề được kết cấu thành ba chương:
- Chương I: Những vấn đề chung về đói nghèo
- Chương II: Tình trạng đói nghèo ở vùng núi phía bắc nước ta trong những năm gần đây và thực trạng các chính sách xóa đói giảm nghèo ở vùng núi của Nhà nước
- Chương III: Những kiến nghị đối với công tác xóa đói giảm nghèo ở vùng núi của Nhà nước ta
Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phạm Vũ Thắng, giảng viên khoa Khoa học Quản lý - trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đã tận tình hướng dẫn và đóng góp ý kiến cho tác giả trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề này.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO
I.1. Những khái niệm cơ bản
I.1.1. Đói nghèo là gì ? - Các cách tiếp cận về nghèo đói trên thế giới và Việt Nam
Trên thế giới tồn tại nhiều định nghĩa về đói nghèo. Nhìn chung, trên bình diện quốc tế, hai khái niệm “đói” và “nghèo” thường được gộp chung thành khái niệm “đói nghèo” và được hiểu như là “nghèo khổ”. Đó là tình trạng thiếu “một cái gì đó” ở mức tối thiểu cần thiết. Sự cụ thể hóa “cái gì đó” đã hình thành nên những cách tiếp cận khác nhau về nghèo đói. Có thể tập hợp các quan niệm về nghèo đói trên thế giới vào bốn cách tiếp cận cơ bản sau đây:
I.1.1.1. Cách tiếp cận tiền tệ:
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, cách tiếp cận tiền tệ thường được sử dụng kết hợp với ngưỡng nghèo (sẽ được giải thích trong phần I.1.2.a) và dựa trên chỉ tiêu thu nhập hoặc tiêu dùng để quy cho đói nghèo một giá trị tiền tệ. Những người có thu nhập nằm dưới ngưỡng nghèo thì được coi là nghèo.
Đại biểu cho cách tiếp cận này là Martin Ravallion, coi tình trạng đói nghèo của một xã hội là tình trạng một hay nhiều cá nhân trong xã hội đó không có được một mức phúc lợi kinh tế cần thiết để đảm bảo cuộc sống tối thiểu hợp lý theo tiêu chuẩn của xã hội đó. “Cái gì đó”, theo ông, chính là “mức phúc lợi kinh tế”, thường được đo lường bằng mức sống mà chỉ tiêu quan trọng nhất là thu nhập, đặc biệt là thu nhập từ tiền mặt. Ngoài ra còn có thể đo lường qua giá trị của lượng hàng hóa và dịch vụ được tiêu dùng bời một hộ gia đình có xem xét tới quy mô và thành phần nhân khẩu của hộ gia đình đó Martin Ravallion, Poverty Comparisons, Fundamentals of Pure and Applied Economics, Harwood Academic Publishers, 1994
.
Tổ chức Y tế Thế giới WHO cũng định nghĩa nghèo theo tiêu chí thu nhập. Theo đó, một người được coi là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm của quốc gia (chỉ số Per Capita Income, PCI).
Cách tiếp cận này có ưu điểm là dễ đo lường vì số lượng tiền tệ dễ xác định, vì vậy nó được sử dụng khá phổ biến mặc dù chỉ xem xét đói nghèo theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm ở chỗ nó dựa vào giả thiết người nghèo sử dụng thu nhập của mình theo cách hiệu quả nhất để mua những hàng hóa như thực phẩm, nhà ở, quần áo, giáo dục, y tế ở mức cơ bản chứ không bao gồm những hàng hóa mà không thật sự thiết yếu cho cuộc sống. Ngoài ra, thu nhập thực tế của người nghèo có thể dao động lên trên hoặc xuống dưới ngưỡng nghèo ở những thời điểm khác nhau do nhiều yếu tố tác động nên có khi họ được coi là người nghèo, có lúc không.
Như vậy, với quan niệm của trường phái này thì để loại bỏ đói nghèo, các biện pháp xóa đói giảm nghèo (XĐGN) cần định hướng vào mục đích tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người nghèo như tạo công ăn việc làm, cải tiến nâng cao năng suất lao động.
Sở dĩ cách tiếp cận tiền tệ được cho là chỉ tìm hiểu đói nghèo theo nghĩa hẹp bởi trên thực tế, những nhu cầu của con người không chỉ bao gồm yếu tố vật chất, thu nhập mà còn gồm nhiều yếu tố phi tiền tệ khác. Đói nghèo còn được biểu hiện ở phương diện tinh thần hoặc những hình thái trừu tượng khác không thể lượng hóa thành tiền - những nhu cầu bậc cao hơn của con người - không được đáp ứng. Hiểu đói nghèo theo ý nghĩa này được gọi là đói nghèo theo nghĩa rộng. Với cách hiểu này, chúng ta có ba cách tiếp cận khác về đói nghèo.
I.1.1.2. Cách tiếp cận về năng lực:
Cách tiếp cận về năng lực chú trọng vào sự tự do của con người và một cuộc sống có giá trị thì định nghĩa đói nghèo là sự thất bại trong việc đạt tới những khả năng, năng lực cơ bản và tối thiểu trong cuộc sống.
Nhà kinh tế học người Ấn Độ Amartya Sen cho rằng: sự phát triển cần được nhìn nhận như sự mở rộng năng lực của con người chứ không phải là việc tối đa hóa độ thỏa dụng hay thu nhập bằng tiền. Ông nhấn mạnh vào năng lực, khả năng của mỗi con người và phát biểu: “giá trị cuộc sống của con người là khả năng mà con người có được, là quyền tự do đáng kể mà họ được hưởng để vươn tới một cuộc sống mà họ mong muốn, gồm: đủ dinh dưỡng, sức khỏe tốt, tránh được nguy cơ tử vong sớm, được tôn trọng, có tiếng nói và quyền lực...” Amartya Sen, Phát triển là tự do, New York, 1999
.
Chỉ số HPI (chỉ số nghèo khổ con người) do Liên Hợp Quốc đưa ra (xem I.1.2.4) cũng dựa trên cơ sở cách tiếp cận về năng lực để phản ánh đói nghèo theo ba yếu tố năng lực điển hình là tuổi thọ, hiểu biết và mức sống. Trên thực tế, rất nhiều nhà học giả đã cố gắng liệt kê đầy đủ các năng lực mà con người hướng tới trong cuộc sống song hầu như chưa có nghiên cứu nào bao quát được tất cả bởi tính đa dạng và phong phú của chúng. Ở đây, tác giả xin dẫn ra danh sách các đặc trưng cần thiết cho một cuộc sống đầy đủ do Nussbaum đề xuất: M. Nussbaum, Women and Human Development: A study in Human Capabilities, Cambridge University Press, 2000
Hình I.1: Những đặc trưng của một cuộc sống đầy đủ (Nussbaum)
Tuổi thọ bình thường
Sức khỏe tốt, dinh dưỡng đầy đủ
Có nhà ở
Sự toàn vẹn về thể chất, hoạt động và quyền lựa chọn sinh sản
Trí tưởng tượng, cảm xúc, suy nghĩ được truyền thụ qua giáo dục
Lập kế hoạch cho cuộc sống
Hòa nhập với xã hội, được bảo vệ khỏi sự kỳ thị và phân biệt
Được tôn trọng
Quyền lợi về mặt chính trị và mặt vật chất
Như vậy, có thể dễ dàng thấy rằng vấn đề thu nhập được đề cập đến trong cách tiếp cận tiền tệ chỉ là một phần trong số các yếu tố năng lực, và vì vậy, cách tiếp cận đói nghèo trên phương diện năng lực của con người có ưu điểm là phản ánh đầy đủ, sâu sát và chính xác hơn tình trạng nghèo đói của con người. Bởi thế, đây là cách tiếp cận về đói nghèo được sử dụng rộng rãi nhất về mặt lý thuyết. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không phải là không có nhược điểm, mà nhược điểm đó được thể hiện rõ nhất ở mặt áp dụng trong thực tế để nghiên cứu về đói nghèo. Điểm yếu của cách tiếp cận này là khó xác định được đầy đủ số lượng cũng như mức độ của các khả năng để đánh giá tình trạng nghèo khổ trong thực tiễn. Thực tế, việc đo lường đói nghèo theo cách hiểu này thường chỉ sử dụng một số khả năng cơ bản dễ được định lượng như cách tính chỉ số HPI của Liên Hợp Quốc được đề cập đến ở trên.
Tương tự với quan điểm của Amatya Sen về các khía cạnh của đói nghèo, Bob Baulch đã đưa ra sơ đồ kim tự tháp các khái niệm về nghèo đói Bob Baulch,“Poverty, Policy and Aid” article, the IDS Bulletin Volume 27 Number 1, 1996
như sau:
Hình I.2: Sơ đồ kim tự tháp các khái niệm về đói nghèo của Bob Baulch
Tiêu dùng
Tiêu dùng + Tài sản
Tiêu dùng + Tài sản + Con người
Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa XH
Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa XH + Chính trị
Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa XH + Chính trị + Bảo vệ
(Trong đó:
Tiêu dùng là thu nhập/tiêu dùng
Tài sản là tài sản tự nhiên : đất đai, của cải vật chất, khả năng tài chính
Con người là giáo dục, kỹ năng, sức khỏe ...
Văn hóa xã hội là hệ thống các mối quan hệ xã hội
Chính trị là khả năng tham gia và trao quyền
Bảo vệ là khả năng chống đỡ và giảm thiểu rủi ro)
Tuy chưa có được một định nghĩa về đói nghèo thống nhất theo cách tiếp cận về năng lực, song từ các quan niệm kể trên, Ngân hàng thế giới đã đưa ra một cách hiểu về đói nghèo bao gồm tương đối đầy đủ những khía cạnh cơ bản: The World Bank, Voices of the Poor, 2002
- sự khốn cùng về mặt vật chất, được đo lường qua mức thu nhập bấp bênh
- bị giới hạn về sức khỏe thể chất
- năng lực, hiểu biết bị kìm hãm
- sự phân biệt về giới tính
- dễ gặp nguy cơ bị tổn thương và rủi ro do thiếu sự bảo vệ, bị lạm dụng bởi các thế lực và gặp phải các vấn đề trong giao tiếp với xã hội
- các tổ chức cộng đồng đại diện yếu
Theo quan điểm này, các chính sách XĐGN cần đi theo hướng tạo ra những cơ hội cho người nghèo để họ được tự do phát huy năng lực của mình để hướng tới một cuộc sống sung túc theo mong muốn của riêng họ.
I.1.1.3. Cách tiếp cận về sự loại trừ mang tính xã hội:
Một cách tiếp cận khác về đói nghèo theo nghĩa rộng là cách tiếp cận về sự loại trừ mang tính xã hội. Sự loại trừ mang tính xã hội là việc các cá nhân hay nhóm người, một phần hoặc hoàn toàn, bị ngăn chặn khỏi sự tham gia vào xã hội mà họ sinh sống. Townsend định nghĩa sự tước đoạt theo ý nghĩa đói nghèo là tình trạng con người bị loại ra khỏi lối sống, tục lệ và hoạt động của xã hội Peter Townsend, Poverty in the United Kingdom, Harmondsworth, 1979
. Nguyên nhân của việc này thường xuất phát từ những đặc điểm riêng của nhóm người trong xã hội đó như người già, người tàn tật, người thuộc dân tộc, chủng tộc khác… Atkinson xác định một ảnh hưởng quan trọng của sự loại trừ xã hội là tính động lực A.B.Atkinson, Social Exclusion, Poverty and Unemployment, in: A.B. Atkinson & J. Hills (Eds), Exclusion, Employment and Opportunity, CASE Paper 4, London School of Economics, Centre for Analysis of Social Exclusion, 1998
: do một số bất lợi từ đói nghèo mà người nghèo bị cô lập khỏi xã hội, tình trạng đó càng làm cho họ mất đi những cơ hội để thỏa mãn tình trạng thiếu thốn của mình và để thoát nghèo, do đó càng trở nên bất lợi, càng bị loại trừ, và bởi thế càng trở nên nghèo đói hơn nữa. Nói chung, cách tiếp cận này tuy mở rộng một cách xem xét mới về đói nghèo song được sử dụng ít phổ biến do tính tương đối (chỉ xảy ra ở một số cộng đồng xã hội nhất định) và rất khó đo lường.
I.1.1.4. Cách tiếp cận mang tính tham gia:
Trong khi cách tiếp cận tiền tệ và cách tiếp cận theo năng lực - khả năng bị chỉ trích là chỉ mang ý kiến của người “ngoài cuộc”, không chứa đựng cách nhìn nhận về đói nghèo của chính những người nghèo thì cách tiếp cận mang tính tham gia do Chambers khởi xướng R. Chambers, Whose Reality Counts? Putting the First Last, London, Intermediate Technology Publications, 1997
đã khắc phục được những hạn chế này. Cách tiếp cận này khuyến khích người nghèo tham gia vào việc ra quyết định và đánh giá thế nào là đói nghèo, mức độ ảnh hưởng quan trọng đến cuộc sống của chính họ và họ cần phản ứng lại như thế nào đối với đói nghèo. Mục đích của nó là giúp cho người nghèo có thể chia sẻ, phân tích và tăng thêm hiểu biết về cuộc sống và điều kiện sống để họ lập được kế hoạch hành động cho mình. Cách tiếp cận này nhìn vào đói nghèo từ nhiều phương diện: xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị và phòng vệ, và do đó, nó cung cấp một cái nhìn đa dạng, nhiều mặt về đói nghèo. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế, nó thường chỉ được sử dụng bổ trợ cho những nghiên cứu sâu hơn về đói nghèo như các “Báo cáo về Đói nghèo” và ấn phẩm “Tiếng nói của người nghèo” của Ngân hàng Thế giới. Hạn chế đầu tiên là do tính chất tham gia của người nghèo vào việc đánh giá đói nghèo, cách tiếp cận này không chỉ ra được cách giải quyết khi có sự khác nhau trong cách nhìn nhận của những đối tượng khác nhau: phụ nữ và nam giới, những người theo trường phái truyền thống và trường phái hiện đại, những cộng đồng nghèo khác nhau… Lí do thứ hai, do sự yếu thế của người nghèo trong xã hội, chưa chắc đã có thể khẳng định họ dám nói lên những suy nghĩ của mình một cách trung thực và đầy đủ. Thứ ba, đánh giá của một người nghèo, chỉ giới hạn trong tình cảnh nghèo của chính họ, chưa phản ánh được bức tranh toàn cảnh về đói nghèo.
Ở Việt Nam, chúng ta thừa nhận định nghĩa về nghèo theo cách tiếp cận về năng lực do Hội nghị Chống đói nghèo khu vực châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức ở Bangkok, Thái Lan đưa ra vào tháng 9/1993: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế, xã hội và phong tục tập quán của địa phương” Chính phủ Việt Nam, 2002, Chiến lược toàn diện về Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo, NXB Bản đồ
. Do đặc thù của một nước đang phát triển, đã từng tồn tại tình trạng thiếu lương thực trong một thời gian dài nên chúng ta còn phân tách hộ đói với hộ nghèo. Những hộ đói được hiểu là một bộ phận trong những hộ gia đình nghèo mà không có được đủ lương thực để ăn hai bữa cơm hàng ngày, chỉ đủ khả năng đảm bảo mức lương thực ít ỏi cần thiết để tồn tại, do đó tiêu chuẩn thu nhập bình quân đầu người quy gạo của Bộ LĐTBXH đối với hộ đói thấp hơn so với mức quy gạo của hộ nghèo. Xem I.1.2, phần Ngưỡng nghèo (hay chuẩn nghèo)
I.1.2. Các thước đo về đói nghèo của thế giới và Việt Nam
I.1.2.1. Ngưỡng nghèo (hay chuẩn nghèo):
Đây là một trong những thước đo quan trọng được sử dụng chủ yếu trong việc xác định tình trạng đói nghèo. Ngưỡng nghèo là một mức độ phân chia ranh giới giữa “nghèo” và “không nghèo”. Gồm có 2 loại: ngưỡng nghèo tuyệt đối và ngưỡng nghèo tương đối.
Ngưỡng nghèo tuyệt đối là chuẩn tuyệt đối về mức sống tối thiểu cần thiết để con người có thể tồn tại khỏe mạnh. Ngưỡng nghèo tuyệt đối cũng gồm 2 loại : ngưỡng nghèo LTTP (được xác định bằng số tiền cần có để mua được một rổ LTTP thiết yếu hàng ngày) và ngưỡng nghèo chung (có tính đến số tiền chi tiêu cho cả các sản phẩm phi lương thực khác). Ngưỡng nghèo LTTP thường chỉ được dùng phổ biến ở các nước đang phát triển và nhìn chung là thường thấp hơn ngưỡng nghèo chung.
Ngân hàng thế giới World Bank (WB) đã đưa ra ngưỡng nghèo tuyệt đối (được hiểu như là ngưỡng nghèo chung) quốc tế là 1$/ ngày cho các nước có thu nhập thấp (GNP/người từ 755$/năm trở xuống, theo giá gốc năm 1999) và cho các nước có thu nhập trung bình thấp (GNP/người từ 756 đến 2.995$/ năm, giá gốc năm 1999) là 2$/ngày. Tính theo ngang giá sức mua, ở Việt Nam, hai ngưỡng này tương đương 20 và 40 cent/ ngày. PGS.TS. Phạm Văn Vận – Th.S. Vũ Cương, khoa Kế hoạch và Phát triển, trường ĐHKTQD, Giáo trình Kinh tế công cộng, NXB Thống kê, 2005
Ở Việt Nam, Tổng cục thống kê (TCTK) đưa ra hai ngưỡng. Ngưỡng thứ nhất, nghèo đói LTTP là tình trạng mức thu nhập không bảo đảm được nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu 2100 Kcal/người/ngày đêm. Ngưỡng thứ hai là nghèo đói chung, coi LTTP ứng với 70% nhu cầu cơ bản tối thiểu, 30% là các nhu cầu khác.
Bảng I.1: Ngưỡng nghèo của TCTK qua các năm Niên giám TCTK năm 2000 và 2006
(đơn vị : VNĐ/người/năm)
Năm
1998
2002
2004
Nghèo đói LTTP
1.286.808
1.381.000
1.488.000
Nghèo đói chung
1.789.872
1.915.000
2.076.000
Bên cạnh đó, ở Việt Nam còn có ngưỡng nghèo do Bộ LĐTBXH quy định theo từng giai đoạn căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và mức giá cả ở từng khu vực. Cụ thể: PGS.TS. Phạm Văn Vận – Th.S. Vũ Cương, khoa Kế hoạch và Phát triển, trường ĐHKTQD, Giáo trình Kinh tế công cộng, NXB Thống kê, 2005
Giai đoạn 1996 – 2000:
+ Nông thôn miền núi, hải đảo: 55.000 đồng/người/tháng
+ Nông thôn đồng bằng: 70.000 đồng/ người/tháng
+ Thành thị: 90.000 đồng/người/tháng
Giai đoạn 2000 – 2005:
+ Nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng
+ Nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng
+ Thành thị: 150.000 đồng/người/tháng
Giai đoạn 2006 – 2010: quy định sẽ chỉ còn 2 ngưỡng nghèo là:
+ Nông thôn: 200.000 đồng/người/tháng
+ Thành thị: 260.000 đồng/người/tháng
Ngoài ra chúng ta cũng sử dụng thước đo về thu nhập bình quân đầu người trong hộ một tháng quy gạo để làm chuẩn đói như sau: Bộ LĐTBXH, Chuẩn mực đói nghèo và mức độ đói nghèo ở Việt Nam, 2000
Giai đoạn 1993 – 1995:
+ Thành thị: dưới 13kg
+ Nông thôn: dưới 8kg
Giai đoạn 1995 – 2000: dưới 13kg cho tất cả các vùng
- Giai đoạn 2000 đến nay: Bộ LĐTBXH không tiếp tục đưa ra mức chuẩn đói do cơ bản đã giải quyết được tình trạng hộ đói kinh niên.
Ngưỡng nghèo tương đối là một mức phần trăm so với thu nhập trung bình chung của toàn xã hội mà những người dân trong xã hội đó nếu có mức thu nhập ròng thấp hơn mức này thì được coi người nghèo. Tỷ lệ phần trăm này thường được xác định ở mức 50% hoặc 60% của thu nhập trung bình.
I.1.2.2. Tỷ lệ đói nghèo:
Tỷ lệ đói nghèo được xác định bằng số lượng người nghèo trên tổng dân số, thể hiện quy mô số người nằm dưới ngưỡng nghèo, và thường được biển hiện dưới dạng phần trăm.
Tỷ lệ nghèo chung (%) = (Số người nghèo chung) : Tổng dân số x 100
Tỷ lệ nghèo LTTP (%) = (Số hộ nghèo LTTP) : Tổng số hộ x 100
Đây cũng là một thước đo đói nghèo thông dụng, tuy nhiên nó có hạn chế là không quan tâm đến mức độ đói nghèo (mức độ nằm dưới, cách xa ngưỡng nghèo) do đó không biểu hiện được kết cấu đầy đủ của sự đói nghèo. Bởi vậy, nếu chỉ căn cứ vào tỷ lệ đói nghèo thì sẽ khó có thể đưa ra được một chính sách XĐGN sâu sát tới từng loại đối tượng thuộc diện này.
I.1.2.3. Khoảng nghèo:
Khoảng nghèo được tính bằng tổng mức thiếu hụt của tất cả những người nghèo so với ngưỡng nghèo, hay được hiểu là chi phí để đưa tất cả những người nằm dưới ngưỡng nghèo lên mức sống ngang bằng với ngưỡng nghèo. Nói chung, thước đo này được sử dụng ít phổ biến hơn so với hai thước đo kể trên.
I.1.2.4. Chỉ số nghèo khổ con người:
Chỉ số nghèo khổ con người Human Poverty Index (HPI) là chỉ số đo lường mức độ nghèo khổ của con người trên ba phương diện cơ bản: tuổi thọ, hiểu biết và mức sống. Chỉ số này ở một quốc gia càng cao thì chứng tỏ tình trạng đói nghèo của quốc gia đó càng nghiêm trọng. Liên Hợp Quốc sử dụng HPI-1 cho các nước đang phát triển, HPI-2 cho các nước OECD.
Ở các nước đang phát triển, UNDP đưa ra công thức đo lường chỉ số này như sau:
HPI1 = [1/3(P13 + P23 + P33)]1/3
P1 : tỷ lệ người không sống đến 40 tuổi
P2 : tỷ lệ người lớn không biết chữ
P3 : tỷ lệ phần trăm dân số không được tiếp cận với nguồn nước sạch và tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
Bảng I.2: Xếp hạng một số nước theo chỉ số nghèo khổ con người
HPI-1 năm 2007 Báo cáo 2007/2008 của UNDP
Xếp hạng
HPI(%)
Quốc gia
Xếp hạng
HPI(%)
Quốc gia
1
3
Barbados
47
18.2
Indonesia
2
3.5
Uruguay
50
21.2
Fiji
3
3.7
Chile
52
21.5
Myanma
4
4.1
Argentina
55
23.5
South Africa
6
4.7
Cuba
60
30.8
Kenya
7
5.2
Singapore
62
31.3
India
10
6.8
Mexico
65
32.3
Ghana
13
7.8
Quata
70
34.5
Laos
16
8.3
Malaysia
80
37.3
Nigeria
20
8.8
Paraguay
85
38.6
Cambodia
24
10.0
Thailand
88
39.3
Congo
27
11.7
China
93
40.5
Bangladesh
34
14.3
Jamaica
97
42.9
Senegal
36
15.2
Vietnam
101
50.6
Mozambique
37
15.3
Philippines
105
54.9
Ethiopia
44
17.8
Sri Lanka
107
56.4
Mali
I.2. Nguyên nhân của đói nghèo trên thế giới và ở Việt Nam
I.2.1. Giới thiệu một số nghiên cứu về nguyên nhân của đói nghèo trên thế giới:
Một nhà nghiên cứu có tên là Phil Bartle cho rằng những nguyên nhân lịch sử sâu xa của đói nghèo là chiến tranh, chủ nghĩa thực dân, chế độ nô lệ và sự xâm lược. Còn ngày nay, có những yếu tố khác tạo ra sự tiếp tục tiếp diễn của đói nghèo. Ông đã đưa ra mô hình “Năm yếu tố lớn” (The Big Five) xác định năm nguyên nhân tạo nên đói nghèo như một vấn đề xã hội là: sự thiếu hiểu biết, bệnh tật, sự lãnh đạm, tính không trung thực và tính lệ thuộc.
Hình I.3: Mô hình “Năm yếu tố lớn” của Phil Bartle Dr.Phil Bartle, Factors of Poverty: The Big Five, Community Empowerment Programme, 2005
Bệnh tật
Sự lãnh đạm
Sự không trung thực
Sự phụ thuộc
Đói nghèo
Sự thiếu hiểu biết
Theo ông, sự thiếu hiểu biết ở đây không giống với sự ngu dốt mà bản chất là vấn đề thiếu những thông tin cần thiết hữu ích cho người nghèo. Giáo dục có thể là một giải pháp tốt nhưng cần chọn lọc kiến thức phù hợp để giảng dạy, ví dụ như người nông dân cần biết loại cây trồng nào thích nghi được với chất đất của địa phương. Bệnh tật làm giảm năng suất lao động và tổng sản lượng, và tạo ra ít sự thịnh vượng của quốc gia hơn. Ông cho rằng “phòng bệnh hơn chữa bệnh” và đề cao vai trò của y tế cơ sở. Sự lãnh đạm là khi con người cảm thấy bất lực, không muốn và không còn ý chí cải thiện tình trạng tồi tệ của mình, cảm thấy ghen tị với những người có quyết tâm vươn lên và tìm cách ghìm kéo họ xuống tình cảnh của mình. Sự thiếu trung thực mà Phil Bartle đề cập đến chủ yếu là tệ nạn tham nhũng: một số tiền mà quan chức chính phủ bỏ vào túi riêng có thể làm giảm giá trị đáng lẽ mà cả xã hội có thể nhận được đi một khoản lớn hơn số tiền hối lộ đó nhiều lần. Cuối cùng là sự phụ thuộc hay là tính ỷ lại của người nghèo, của quốc gia nghèo vào các nguồn viện trợ làm cho họ mất đi động lực tự phấn đấu và cuối cùng, nghèo vẫn hoàn nghèo.
Năm yếu tố lớn này dẫn đến những yếu tố cấp hai tạo nên đói nghèo là thiếu thốn cơ sở vật chất hạ tầng cho người nghèo, thiếu thị trường, sự quản lý của chính phủ yếu kém, thiếu công ăn việc làm, thiếu kĩ năng tay nghề, thiếu vốn và các yếu tố khác.
Theo một nghiên cứu khác của Maxwell School, Syracuse University thì có thể chia ra hai cách tiếp cận về đói nghèo là lý thuyết “Hoàn cảnh” (Case theory) và lý thuyết “Chung” (Generic theory) Hari Srinivas, Causes of Poverty, A GDRC compilation of articles on the causes of poverty and related issues
. Theo “Case theory” thì đói nghèo xuất phát từ nguyên nhân tổng hợp của các đặc điểm riêng của người nghèo như là:
- Giáo dục, kĩ năng, kinh nghiệm, trí thông minh
- Sức khỏe, tuổi tác
- Định hướng công việc, tầm nhận thức, văn hóa
- Sự phân biệt về tầng lớp, giai cấp, chủng tộc, giới tính…
Còn theo “Generic theory” thì đói nghèo lại được hiểu là tình trạng xuất phát từ những vấn đề chung mang tính vĩ mô của nền kinh tế: thiếu những cơ hội nghề nghiệp, tổng cầu thấp, thu nhập quốc gia thấp.
Trong khi đó, tổ chức MSU Women and International Development chỉ đưa ra những nguyên nhân gây nên đói nghèo theo hướng liệt kê mà không phân nhóm: Hari Srinivas, Causes of Poverty, A GDRC compilation of articles on the causes of poverty and related issues
- Lịch sử bị cai trị và xâm lược
- Chiến tranh và xung đột vũ trang
- Chu trình sản xuất nông nghiệp
- Thảm họa tự nhiên và thiên tai
- Sự tập quyền
- Nạn tham nhũng
- Suy thoái môi trường
- Bất bình đẳng xã hội
Như vậy, có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới đói nghèo. Thực tế, những nguyên nhân được nhắc tới trong các nghiên cứu nói trên còn có thể tiếp tục được chia nhỏ chi tiết hơn nữa. Đối với đói nghèo ở Việt Nam có thể hợp nhóm các nguyên nhân này vào ba nhóm nguyên nhân lớn. Ở đây, ta không quan tâm tới những nguyên nhân mang tính lịch sử như chiến tranh, sự xâm lược của nước ngoài mà chỉ quan tâm tới những gì có tác động đến đói nghèo như một vấn đề xã hội hiện đại ngày nay.
I.2.2. Nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam
I.2.2.1. Nguyên nhân thuộc về điều kiện tự nhiên:
Đất nước ta được chia làm nhiều vùng miền có vị trí địa lý và địa hình rất khác nhau. Ở những vùng có tính đặc thù như miền núi, vùng sâu vùng xa, hải đảo, vị trí địa lý khá cách biệt các vùng khác, cộng thêm địa hình gập ghềnh hiểm trở đã tạo khó khăn trong việc giao thông liên lạc với các khu vực khác, tạo ra sự cô lập tương đối về mọi mặt đời sống. Nhiều nơi ở nước ta như vùng núi phía bắc, các tỉnh miền trung: Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa… thường xuyên phải gánh chịu hậu quả to lớn của các trận lũ lụt gây ra thiệt hại to lớn về người và của, rơi vào tình trạng đói nghèo triền miên. Những vùng canh tác nông nghiệp lại gặp phải vấn nạn về sâu bệnh, mưa đá, sương muối, rét đậm rét hại… dẫn đến mất mùa, thất bát, mất đi các nguồn lực sản xuất.
Việt Nam từ lâu đã được coi là rừng vàng biển bạc, có nhiều tài nguyên. Tài nguyên rừng, biển, đất đai, sinh vật, khoáng sản ... đều rất phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, theo thời gian, chúng đã bị khai thác gần như cạn kiệt. Những tài nguyên đó khi còn dồi dào đã giúp nhiều người Việt Nam có thu nhập tương đối, song hành động quá khứ đã để lại hậu quả cho thế hệ ngày nay. Giờ đây, một bộ phận dân cư sống dựa vào tự nhiên đã mất đi nguồn thu nhập đáng kể. Những tài nguyên còn lại đều ở tình trạng gặp khó khăn trong việc khai thác.
I.2.2.2. Nguyên nhân xuất phát từ điểm yếu của người nghèo:
Những yếu tố như sự thiếu hiểu biết, sự lãnh đạm, bệnh tật và tính phụ thuộc mà Phil Bartle nhắc tới trong lý thuyết “Năm yếu tố lớn” và các nguyên nhân theo “Case theory” của Maxwell School, Syracuse University có thể xếp vào nhóm nguyên nhân lớn này. Phần lớn người nghèo ở Việt Nam sinh sống tập trung ở vùng nông thôn và vùng sâu, vùng xa, chỉ một phần nhỏ rải rác ở các vùng thành thị đồng bằng. Đa số hoạt động nông nghiệp với lối canh tác truyền thống lạc hậu, cho năng suất thấp. Những người làm việc trong các lĩnh vực phi nông nghiệp thì có tay nghề kỹ thuật yếu. Bản thân họ có trình độ học vấn không cao, nhiều người thất học. Cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo cũng được thể hiện rất rõ. Một là, các hộ thuộc diện đói nghèo thì thường đông con (xuất phát từ nhu cầu về lao động kiếm sống) song cũng chính vì thế lại tạo thêm gánh nặng về các khoản chi tiêu cho gia đình. Thứ hai, thu nhập thấp, điều kiện ăn ở thiếu thốn không đảm bảo được sức khỏe, dẫn đến tình trạng ốm yếu, bệnh tật của người nghèo, mà đến lượt nó thì chính bệnh tật lại là nguồn gốc làm cho đói nghèo thêm trầm trọng vì người nghèo không đủ sức lực để làm việc.
Một vấn đề khác cũng nổi cộm lên trong đó là tình trạng bất bình đẳng giới. Trọng nam khinh nữ là quan niệm còn ăn sâu trong tiềm thức nhiều người dân Việt Nam. Sinh nhiều con cũng do mong có được đứa con trai. Con gái thường bị bắt nghỉ học sớm ở nhà giúp đỡ cha mẹ, vô hình trung gây lãng phí nguồn chất xám lớn do cách nhìn thiển cận. Ở nhiều vùng núi có tục “thờ chồng”, phụ nữ dù sức yếu vẫn phải làm lụng vất vả nuôi cả gia đình.
Cuối cùng, mặc dù thời gian gần đây Nhà nước đã có nhiều chính sách XĐGN song ở nhiều nơi, nghèo vẫn hoàn nghèo. Đó là do tâm lý trì trệ, trông chờ vào trợ cấp Nhà nước của bà con. Trong khi đó, trợ cấp thì có hạn. Chừng nào chưa xóa bỏ được tâm lý ỷ lại này để tự lực vươn lên XĐGN thì người nghèo chưa thể có được mức sống khá hơn một cách bền vững.
I.2.2.3. Nguyên nhân về phía cơ chế chính sách của Việt Nam:
Đây là những nguyên nhân ở tầm vĩ mô gây tác hại duy trì tình trạng đói nghèo, có sự tương đồng với “Generic theory” của Maxwell School, Syracuse University. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã tích cực thực hiện nhiều chương trình dự án nhằm XĐGN, song hiệu quả đạt được chưa như mong muốn và số hộ nghèo vẫn không giảm, vẫn còn tình trạng tái nghèo. Nguyên nhân là do các biện pháp chính sách XĐGN được thực hiện còn thiếu tính đồng bộ, nội dung chưa sát với thực tiễn địa phương, vì vậy khiến cho việc thực hiện còn nặng về hình thức, chỉ giải quyết phần “ngọn” của vấn đề gây lãng phí nguồn lực đầu tư vô ích. Tình trạng này sẽ được xem xét kỹ hơn ở mục II.3.2.
I.3. Sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo
I.3.1. Những tác hại mà đói nghèo gây ra:
Đối với bản thân người nghèo, hậu quả của đói nghèo có thể được nhìn thấy hết sức rõ ràng. Vì “đói” mà thiếu ăn thường xuyên, vì “nghèo” mà các nhu cầu sống bị hạn chế ở mức thấp. Cuộc sống thiếu thốn, nhà cửa tạm bợ, đồ dùng chỉ đủ ở mức thiết yếu nhất. Tình trạng ốm đau bệnh tật, trẻ em suy dinh dưỡng xảy ra ở nhiều nơi. Không đủ ăn, mặc, ở, việc học hành bị coi nhẹ dẫn đến sự thất học, thiếu hiểu biết, tư duy con người trở nên lạc hậu. Các tệ nạn xã hội như trộm cắp, nghiện hút, mại dâm… có cơ hội phát sinh. Người nghèo, vì thế, hầu như không có tiếng nói và vị thế ngoài xã hội và dễ trở thành nạn nhân của sự đối xử bất công như bị trả lương thấp, bị coi thường.
Đói nghèo gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường theo cơ chế về “cầu”, người nghèo triệt để khai thác tài nguyên tự nhiên để phục vụ cuộc sống. Để đánh bắt cá với số lượng lớn, ngư dân sẵn sàng cho nổ mìn. Vì mục tiêu sinh lợi, phong trào nuôi ốc bươu vàng rầm rộ một thời gian đã gây nên những mối nguy về mất cân bằng sinh thái. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật quá liều lượng, những làng tái chế phế thải nhựa thành túi nilon… làm ô nhiễm môi trường trầm trọng. Ở vùng cao, rừng bị đốt làm rẫy, bị “xẻ thịt” đem bán, khoáng sản bị khai thác bừa bãi, động vật rừng bị săn bắn ồ ạt, đất đai bạc màu theo nạn du canh du cư… khiến cho tài nguyên thiên nhiên ngày một cạn kiệt.
Không những vậy, đói nghèo còn gây ra ảnh hưởng đến vấn đề ổn định chính trị quốc gia. Những năm qua, việc đồng bào dân tộc bị các thế lực phản động nước ngoài mua chuộc, xúi giục gây mất an ninh, trật tự xã hội đã trở thành điểm nóng khiến cả xã hội phải quan tâm. Tất cả cũng do cuộc sống còn khó khăn đã khiến người nghèo dễ bị lay động bởi những mối lợi trước mắt. Nếu không giải quyết được dứt điểm nạn đói nghèo thì lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước còn có thể bị kẻ thù lợi dụng vào âm mưu phá hoại của chúng.
I._..3.2. Phân cách giàu nghèo là biểu hiện của bất bình đẳng:
Phân hóa giàu nghèo chính là bất bình đẳng trong phân phối thu nhập bởi vì: Con người sinh ra đều có những yếu tố tự nhiên như nhau cho phép họ hưởng thụ cuộc sống như nhau trong tương lai, nhưng trên thực tế thì thu nhập mà họ nhận được khi trưởng thành, làm việc lại là khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”, nhưng sự khác nhau về điều kiện kinh tế, xã hội, môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến cuộc sống đã không cho con người có sự bình đẳng về mức sống. Trên thực tế, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập bắt nguồn từ hai nhóm nguyên nhân chính là từ việc sở hữu các nguồn lực (các nguồn lực này có được là do được thừa kế tài sản, do hành vi tiêu dùng và tiết kiệm hoặc do sản xuất kinh doanh) và từ lao động (do khác nhau về khả năng và kĩ năng lao động, do khác nhau về cường độ làm việc, về nghề nghiệp và tính chất công việc, do bị phân biệt đối xử…). Người nghèo không có điều kiện, và nhiều khi không thể tự tác động lên các nguyên nhân đó để tự thay đổi cuộc sống cho mình. Mức sống thấp lại mang đến các hệ quả cho người nghèo là thiếu thốn về hưởng thụ các dịch vụ xã hội, dễ bị tổn thương và yếu thế (như định nghĩa về đói nghèo của Ngân hàng Thế giới đã đề cập) làm cho sự chênh lệch về chất lượng cuộc sống của người giàu và người nghèo càng thêm đậm nét.
Nhà nước ta là Nhà nước do dân, của dân và vì dân có chức năng quan trọng là phân phối lại thu nhập để khắc phục tình trạng bất bình đẳng này, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo công bằng xã hội.
I.3.3. Ý nghĩa của XĐGN đối với sự phát triển chung của toàn xã hội:
Các Mác đã nói: “ Gia đình là tế bào của xã hội”, mỗi con người lại là một tế bào của gia đình. Một nền kinh tế dù phát triển đến mấy song vẫn để cho một bộ phận dân cư phải chịu cảnh sống thiếu thốn thì không thể là một sự tăng trưởng bền vững. Những khu vực nghèo đói ít nhiều kìm hãm sự phát triển chung vì nó gây ra lãng phí nguồn lực cho phát triển kinh tế như nguồn nhân lực, đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác. Vì vậy, thực hiện XĐGN đồng nghĩa với quá trình giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả và tiềm năng kinh tế của đất nước. Một khi người nghèo được hưởng cuộc sống sung túc, đã có sự tương đồng về trình độ phát triển giữa các khu vực thì sẽ tạo ra thêm nhiều thế và lực mới (ưu thế của tăng trưởng bền vững, sự cạnh tranh và hỗ trợ giữa các vùng kinh tế …) đóng góp trở lại vào sự phát triển kinh tế chung, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
CHƯƠNG II
TÌNH TRẠNG ĐÓI NGHÈO Ở VÙNG NÚI PHÍA BẮC NƯỚC TA TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ THỰC TRẠNG CÁC CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VÙNG NÚI CỦA NHÀ NƯỚC TA
Như trên đã nói, người nghèo ở nước ta sống chủ yếu ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa và hải đảo. Trong đó, các khu vực miền núi (với tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn khá lớn) thường chiếm tỷ lệ nghèo đói thuộc loại cao nhất nước và đã được Nhà nước ta dành cho sự quan tâm đáng kể trong thời gian vừa qua. Ở nước ta, các khu vực miền núi chiếm diện tích không nhỏ (khoảng 3/4 lãnh thổ quốc gia), trải dài từ Bắc đến Nam, bao gồm: miền núi phía bắc (Đông Bắc và Tây Bắc), miền núi Bắc Trung Bộ (khu vực miền núi thuộc các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế), vùng miền núi duyên hải Nam Trung Bộ, miền núi Tây Nguyên, vùng miền núi Đông Nam Bộ (gồm các xã, huyện miền núi thuộc Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Phước), và một số huyện miền núi thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Miền núi nước ta có vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng và môi trường sinh thái, đồng thời cũng chứa đựng tiềm năng dồi dào, to lớn về đất đai, tài nguyên khoáng sản và khả năng hợp tác giao lưu phát triển kinh tế với các nước trong khu vực.
Những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Nhà nước, miền núi đã có bước chuyển biến rõ rệt, thu được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, đời sống của đồng bào các dân tộc không ngừng được cải thiện về cả vật chất lẫn tinh thần.
Mặc dù đạt được những tiến bộ quan trọng, nhưng đến nay miền núi nước ta vẫn là khu vực kinh tế lạc hậu, chậm phát triển so với cả nước, khoảng cách chênh lệch phát triển giữa miền núi và miền xuôi có xu hướng ngày càng tăng. Tính bền vững của quá trình phát triển miền núi chưa được bảo đảm bởi còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hiện nay, miền núi đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, mà trước hết là tình trạng đói nghèo: ba vùng nghèo nhất là Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và miền núi phía bắc. Đời sống của người dân miền núi, đặc biệt là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
Trong khuôn khổ có hạn, chuyên đề này chỉ đi vào nghiên cứu thực trạng đói nghèo ở vùng núi phía bắc nước ta như một ví dụ điển hình, để từ đó chỉ ra những thành công cũng như hạn chế còn tồn tại của những chính sách về XĐGN ở vùng núi của Nhà nước ta.
II.1. Vài nét về vùng núi phía bắc nước ta
II.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Vùng núi phía bắc nước ta có tổng diện tích 10.096 nghìn hecta, chiếm khoảng 30% tổng diện tích cả nước, được chia ra làm 2 khu vực: vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc.
Vùng Đông Bắc được giới hạn về phía bắc và đông bởi đường biên giới Việt - Trung. Phía đông nam trông ra vịnh Bắc Bộ. Phía nam tiếp giáp với vùng đồng bằng sông Hồng. Đây là vùng núi và trung du với nhiều khối núi và dãy núi đá vôi hoặc núi đất. Phía đông thấp hơn, có nhiều dãy núi hình vòng cung quay lưng về hướng đông là vòng cung Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn, Đông Triều. Phía tây bắc cao hơn, với các khối núi đá và dãy núi đá cao như Tây Côn Lĩnh, Kiêu Liêu Ti, cao nguyên đá Đồng Văn. Phía tây nam thấp có dãy núi Tam Đảo sát vùng đồng bằng. Vùng Đông Bắc có nhiều sông chảy qua, trong đó các sông lớn là sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Gâm (thuộc hệ thống sông Hồng), sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam (thuộc hệ thống sông Thái Bình), sông Bằng, sông Bắc Giang, sông Kỳ Cùng, v.v... Về khí hậu, do địa hình cao, ở phía bắc, lại có nhiều dãy núi dài chạy song song, nên vào mùa đông, vùng này có gió mùa đông bắc thổi mạnh, thời tiết rất lạnh. Vùng núi ở Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn có thể có lúc nhiệt độ xuống 0°C và có mưa tuyết. Các vùng ở đuôi các dãy núi cánh cung cũng rất lạnh do gió. Có nhiều thắng cảnh thiên nhiên đẹp nổi tiếng là vịnh Hạ Long, hồ Ba Bể, Mẫu Sơn, hồ Hang Then, Phanxi păng …
Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía tây của miền bắc Việt Nam, có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Vùng này là một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu vùng kia là vùng Đông Bắc và đồng bằng sông Hồng). Không gian địa lý của vùng Tây Bắc hiện còn chưa được nhất trí. Một số ý kiến cho rằng đây là vùng phía nam sông Hồng. Một số ý kiến lại cho rằng đây là vùng phía nam của dãy núi Hoàng Liên Sơn. Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng tây bắc- đông nam. Dãy Hoàng Liên Sơn cao đến 1500 m, dài tới 180 km, rộng 30 km, với một số đỉnh núi cao trên 3000 m. Vùng Tây Bắc có hai con sông lớn, đó là sông Đà và sông Thao (tức sông Hồng). Thượng nguồn của sông Mã cũng ở trên vùng đất Tây Bắc. Có các bồn địa Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường Thanh và các cao nguyên Tà Phình, Mộc Châu, Nà Sản. Tây Bắc là vùng có nguy cơ động đất cao nhất Việt Nam.
Lượng mưa cả vùng ở trong khoảng 1.500 – 2.000 mm/năm. Thảm thực vật phong phú với hơn 20 loài quý hiếm, 51 loài động vật quý. Độ che phủ rừng của Đông Bắc là 34,4% và Tây Bắc là 17% (năm 2001). Giàu tài nguyên khoáng sản: apatit, than đá, đồng, sắt, mangan, niken, đá vôi … Số liệu được tổng hợp từ
II.1.2. Đặc điểm dân cư
Về phạm vi hành chính, vùng Đông Bắc bao trùm các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang và Quảng Ninh. Vùng Tây Bắc chỉ bao gồm 4 tỉnh là Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình.
Đông Bắc: Về cơ cấu dân tộc, đây là vùng có cơ cấu đa dạng nhất cả nước với khoảng 30 dân tộc sinh sống, trong đó, dân tộc Kinh chiếm 66,1%, dân tộc Tày chiếm 12,4%, dân tộc Nùng 7,3%, Dao 4,5% , H’Mông 3,8%. Về dân số, tổng dân số là 9,458 triệu người (2006) chiếm 11,5% dân số cả nước, mật độ trung bình 148 người/ km2, tập trung đông ở Bắc Giang, Phú Thọ, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, dân số thành thị chiếm 19% dân số trong vùng với tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 4,32%.Về trình độ học vấn, dân cư ở đây có trình độ tương đương với trình độ trung bình cả nước song đồng thời tình trạng mù chữ cũng còn tồn tại, chủ yếu xảy ra ở đồng bào dân tộc ít người. Về lực lượng lao động: tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn chỉ chiếm 12% tổng lực lượng lao động. Về văn hóa lịch sử, đây là nơi phát triển văn hóa Đông Sơn với nhiều lễ hội và làn điệu dân ca truyền thống.
Tây Bắc: dân số 2,607 triệu người (2006), mật độ dân cư thưa thớt chỉ có 69 người/km2. Trong vùng chủ yếu là dân tộc ít người sinh sống: Thái, Mường, H’Mông, Dao … Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực thành thị là 3,89%. Lực lượng lao động dồi dào song trình độ thấp, cơ cấu lao động đơn giản, chủ yếu hoạt động nông nghiệp. Số liệu được tổng hợp từ và Niên giám TCTK 2006
II.2. Thực trạng đói nghèo tại vùng núi phía bắc:
II.2.1. Tình trạng nghèo đói tại vùng núi phía bắc so sánh với các địa phương khác qua một số chỉ tiêu thước đo đói nghèo:
Trước hết, để đánh giá một cách tổng quan về thực trạng đói nghèo tại miền núi phía bắc, ta xem xét hai chỉ tiêu thước đo đói nghèo tổng quát cơ bản là tỷ lệ đói nghèo (gồm có tỷ lệ nghèo chung và tỷ lệ nghèo lương thực thực phẩm) và khoảng nghèo.
Biểu đồ II.1: Tỷ lệ nghèo của các vùng năm 2002 và 2004 22
Bảng II.1: Tỷ lệ nghèo của các vùng năm 2002 và 2004 Niên giám TCTK 2006
(đơn vị : %)
Địa phương
2002
2004
Tỷ lệ nghèo chung
Tỷ lệ nghèo LTTP
Tỷ lệ nghèo chung
Tỷ lệ nghèo LTTP
CẢ NƯỚC
28.9
9.9
19.5
6.9
PHÂN THEO VÙNG
Đồng bằng s.Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng s.Cửu Long
22.4
38.4
68.0
43.9
25.2
51.8
10.6
23.4
6.5
14.1
28.1
17.3
10.7
17.0
3.2
7.6
12.1
29.4
58.6
31.9
19.0
33.1
5.4
19.5
4.6
9.4
21.8
12.2
7.6
12.3
1.8
5.2
Bảng II.2: Khoảng nghèo của các vùng qua các năm Tính toán từ số liệu Niên giám TCTK 1994, 2000, 2006
(đơn vị : %)
1993
1998
2002
2004
CẢ NƯỚC
Đồng bằng s.Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
D.hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng s.Cửu Long
18.5
18.3
29.6
26.2
24.7
17.2
26.3
10.1
13.8
9.5
6.2
17.6
22.1
11.8
10.2
19.1
3.0
8.1
6.9
4.3
9.6
24.1
10.6
6.0
16.7
2.2
4.7
4.7
2.1
7.0
19.1
8.1
5.1
10.6
1.2
3.0
Có thể thấy, theo thời gian, tỷ lệ nghèo chung và tỷ lệ nghèo LTTP đều giảm nhanh chóng. Từ 2002 đến 2004, Đông Bắc có tỷ lệ nghèo chung giảm 9%, tỷ lệ nghèo LTTP giảm 4,7% ; Tây Bắc giảm tương ứng là 9,4% và 6,3% so với tỷ lệ giảm nghèo của cả nước là 9,4% và 3%. Đó là tín hiệu đáng mừng, song mặt khác ta cũng thấy đặc điểm nổi bật là vùng Tây Bắc có tỷ lệ nghèo cao nhất cả nước xét theo cả hai chỉ tiêu. So với cả nước, tỷ lệ nghèo chung của Tây Bắc cao gấp 2,35 lần vào năm 2002, đến năm 2004 đã tăng lên là hơn 3 lần. Tỷ lệ này với nghèo LTTP là 2,84 lần và 3,16 lần. Sự chênh lệch càng rõ nét nếu so sánh với Đông Nam Bộ, khu vực có tỷ lệ nghèo thấp nhất nước. Mức chênh lệch giữa Tây Bắc và Đông Nam Bộ xét theo tỷ lệ nghèo chung là 6,41 lần (2002) tăng lên 10,85 lần (2004), xét theo tỷ lệ nghèo LTTP là 8,78 lần (2002) tăng lên 12,11 lần (2004). Vùng Đông Bắc tuy tỷ lệ nghèo không cao bằng Tây Bắc song cũng chiếm vị trí thứ tư sau Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ - đây cũng là những vùng có phần lớn địa hình miền núi và trung du.
Đến 9/2007, tỉ lệ nghèo chung của cả nước là 14,75% và các vùng dẫn đầu về tỷ lệ nghèo vẫn là Tây Bắc (34,45%), Bắc Trung Bộ (25,51%), Tây Nguyên (22,95%) và Đông Bắc (21,13%). Kết quả đó cho thấy tình trạng nghèo đói nghiêm trọng ở khu vực miền núi phía bắc nói riêng và các vùng núi nói chung ở nước ta so với mặt bằng đời sống chung.
Thước đo về khoảng nghèo cũng thể hiện rõ điều đó. Thành tích đạt được là khoảng nghèo của tất cả các địa phương, trong đó bao gồm vùng núi phía bắc, đã giảm đi so với giai đoạn trước. Sự giảm đi này có nhiều lý do song một nguyên nhân quan trọng đó là trong những năm trở lại đây, Nhà nước đã tiến hành hàng loạt chủ trương chính sách XĐGN nói chung và cho các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa nói riêng. Tuy nhiên, tình trạng nghèo đói ở miền núi phía bắc vẫn còn trầm trọng thể hiện ở tỉ lệ khoảng nghèo vẫn còn rất lớn, đặc biệt là Tây Bắc với tỷ lệ lớn nhất cả nước là 19,1% tính đến 2004. Và trong khi các địa phương khác giảm khoảng nghèo đều đặn thì năm 2002, tỷ lệ này ở Tây Bắc lại tăng lên so với 1998 cho thấy việc giảm nghèo ở đây còn nhiều bất ổn, thành tích đạt được chưa thật sự vững chắc.
Do ưu điểm của cách tiếp cận tiền tệ đã được đề cập đến trong chương I là dễ đo lường, dễ tính toán và thực tế đây là phương thức đo lường đói nghèo được sử dụng phổ biến nhất, dưới đây, tác giả xin sử dụng cách tiếp cận này để xem xét thực trạng đói nghèo ở miền núi phía bắc trên hai phương diện quan trọng nhất của đói nghèo là thu nhập và chi tiêu cho đời sống. Trong khi đó, cách tiếp cận về năng lực được sử dụng để đánh giá các mặt: văn hóa - giáo dục, y tế - chăm sóc sức khỏe. Ngoài ra, phương pháp thống kê số liệu được kết hợp với hai cách tiếp cận nhằm minh họa bằng con số cụ thể.
II.2.2. Về thu nhập bình quân đầu người:
Ở vùng núi phía bắc, dân cư sống tập trung rất đông ở nông thôn. Ta thấy rõ điều đó qua bảng tỷ trọng dân số hai khu vực ở các vùng dưới đây:
Bảng II.3: Tỷ trọng dân số thành thị - nông thôn chia theo vùng Kết quả điều tra biến động dân số 1/4/2006 http:/www.gso.gov.vn
Tỷ trọng dân số
Tỷ số dân số thành thị - nông thôn
Chung
Thành thị
Nông thôn
Đồng bằng sông Hồng
100,0
24,9
75,1
33,2
Đông Bắc
100,0
18,9
81,1
23,3
Tây Bắc
100,0
13,9
86,1
16,2
Bắc Trung Bộ
100,0
13,7
86,3
15,9
Duyên hải Nam Trung Bộ
100,0
30,1
69,9
43,1
Tây Nguyên
100,0
28,1
71,9
39,1
Đông Nam Bộ
100,0
54,7
45,3
120,5
Đồng bằng sông Cửu Long
100,0
20,7
79,3
26,0
Nếu so sánh với kết quả thống kê ở mục II.2.1 nói trên (cho thấy tỷ lệ nghèo ở vùng núi phía bắc là rất cao) thì điều này hoàn toàn là hợp lý. Bới vì, khu vực nông thôn với đặc thù sản xuất nông nghiệp thủ công lạc hậu, dựa vào sức người là chính luôn có thu nhập thấp hơn đáng kể so với khu vực thành thị thường sản xuất kinh doanh trong xu hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Thực ra, do truyền thống nền nông nghiệp lúa nước của Việt Nam từ xa xưa nên ta có thể dễ dàng nhận thấy tính chất dân cư sống phân bố chủ yếu ở nông thôn hơn là thành thị không chỉ là đặc điểm có ở Đông Bắc và Tây Bắc mà còn ở hầu hết các vùng kinh tế khác (7/8 vùng kinh tế, xem bảng II.3). Tuy nhiên, mức độ chênh lệch đến mức nào thì giữa các vùng là không giống nhau. Đông Bắc và Tây Bắc là 2 trong 3 vùng có tỷ lệ dân số thành thị/ nông thôn thấp nhất trong cả nước và so với tỷ lệ này ở các địa phương còn lại thì khoảng cách là khá lớn. Dân số nông thôn chiếm trên 80% là nguyên nhân cơ cấu thu nhập của người dân nghiêng về nông, lâm nghiệp và thủy sản mà ta có thể thấy qua bảng và biểu đồ sau:
Bảng II.4: Thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng chia theo nguồn thu ở vùng núi phía bắc năm 2002 và 2004 Số liệu từ Niên giám TCTK 2006 và trang
(đơn vị: nghìn đồng)
Đông Bắc
Tây Bắc
2002
2004
2002
2004
TỔNG THU NHẬP
Thu từ tiền lương, tiền công
Thu từ nông lâm nghiệp & thủy sản
Thu phi nông lâm nghiệp & thủy sản
Thu khác
268.74
70.82
112.56
42.88
42.48
379.9
110
143.1
63.5
63.3
196.99
41.83
115.29
15.27
24.60
265.7
66.3
141.8
21.7
35.9
Nhìn vào tổng thu nhập, bảng II.4 cho thấy thu nhập bình quân đầu người ở vùng núi phía bắc đã tăng lên qua các năm. Do bao gồm một số tỉnh có kinh tế khá phát triển so với các tỉnh khác thuộc khu vực là Quảng Ninh, Thái Nguyên và Bắc Giang nên vùng Đông Bắc có thu nhập bình quân cao hơn so với Tây Bắc.
Qua biểu đồ tỷ trọng dưới đây (chuyển thể từ bảng số liệu), ta thấy rất rõ tương quan giữa các nguồn thu trong việc đóng góp vào tổng thu nhập của người dân khu vực miền núi phía bắc:
Biểu đồ II.2: Tỷ trọng các khoản trong thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng ở vùng núi phía bắc 25
Năm 2002
Năm 2004
Ở cả Đông Bắc và Tây Bắc, trong tổng nguồn thu nhập chung, thu từ hoạt động nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỉ trọng “áp đảo” do đặc thù sản xuất nông nghiệp truyền thống và những ưu thế tự nhiên cho phép phát triển lâm và ngư nghiệp.
Thu từ phi nông lâm nghiệp và thủy sản gồm công nghiệp, xây dựng, thương nghiệp và dịch vụ chỉ mới chiếm tỉ trọng nhỏ trong khi đây lại là những ngành cho phép đem lại nguồn thu nhập dồi dào cho người lao động hơn rất nhiều so với canh tác nông nghiệp. Điều đó cho thấy cơ cấu kinh tế ở khu vực miền núi phía bắc còn lạc hậu và nó đã góp phần tạo nên tình trạng đói nghèo nơi đây. Thực tế, bảng II.5 được trình bày dưới đây (trang sau) cho thấy thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng của Tây Bắc thấp nhất trong 8 vùng của cả nước và Đông Bắc ở vị trí thấp thứ 4/8 sau Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. So với mức thu nhập bình quân của cả nước thì thu nhập ở Đông Bắc mới bằng 78,4% và Tây Bắc chỉ bằng 54,9%.
Phân tích các số liệu trong nội bộ khu vực miền núi phía bắc từ bảng II.5 có thể thấy: trong tất cả các tỉnh thuộc khu vực này thì Quảng Ninh là tỉnh có cơ cấu thu nhập tiến bộ nhất. Duy nhất tỉnh này có tỉ trọng thu nhập từ công nghiệp và dịch vụ cao hơn tỉ trọng thu nhập từ nông lâm nghiệp và thủy sản (điều này có thể được lý giải do việc Quảng Ninh là trung tâm kinh tế lớn của vùng – là một đỉnh trong tam giác kinh tế phía bắc Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh - nơi tập trung nhiều mỏ than và quặng nên rất có điều kiện phát triển công nghiệp khai khoáng). Mặc dù thu nhập từ nông lâm thủy sản thuộc loại thấp nhất trong khu vực song đây lại là tỉnh có thu nhập bình quân nhân khẩu cao nhất (671.800 đồng), gấp 1,7 lần thu nhập bình quân của tỉnh Thái Nguyên (là tỉnh có thu nhập bình quân nhân khẩu đứng cao thứ hai trong khu vực).
Bảng II.5: Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng năm 2004 theo giá thực tế phân theo nguồn thu và vùng Niên giám TCTK 2006
(đơn vị : nghìn đồng)
Tổng thu nhập
Thu từ tiền lương, tiền công
Thu từ nông lâm nghiệp và thủy sản
Thu từ CN, XD, thương mại, dịch vụ
Thu khác
Cả nước
484.4
158.4
131.7
108.8
85.5
ĐBSH
488.2
171.9
110.8
102.6
102.9
Đông Bắc
Hà Giang
Cao Bằng
Bắc Kạn
Tuyên Quang
Lào Cai
Yên Bái
Thái Nguyên
Lạng Sơn
Quảng Ninh
Bắc Giang
Phú Thọ
379.9
247.1
278.7
272.0
341.4
280.1
327.9
396.8
348.7
671.8
392.4
370.1
110.0
51.6
71.6
79.6
88.7
75.4
79.0
119.7
83.0
290.9
87.4
102.7
143.1
154.0
116.2
126.2
152.0
132.5
140.4
139.0
162.9
121.4
167.4
131.6
63.5
13.6
36.6
32.2
55.5
41.9
53.4
70.0
54.0
130.2
76.9
58.1
63.3
27.9
54.3
34.0
45.2
30.3
55.1
68.1
48.8
129.3
60.7
77.7
Tây Bắc
Điện Biên
Lai Châu
Sơn La
Hòa Bình
265.7
224.2
215.7
277.1
292.0
66.3
51.8
54.8
57.6
89.2
141.8
127.5
121.0
169.0
123.6
21.7
13.2
22.3
24.0
23.2
35.9
31.7
17.6
26.6
56.0
BTB
317.1
83.5
109.4
54.6
69.6
DHNTB
414.9
153.0
96.8
105.0
60.1
TN
390.2
92.1
183.5
78.2
36.4
ĐNB
833.0
334.6
100.5
238.2
159.7
ĐBSCL
471.1
121.2
183.2
101.3
65.4
Ở 14 tỉnh còn lại trong khu vực miền núi phía bắc, người dân sống vẫn dựa vào nguồn thu chính là từ nông nghiệp. Ở Thái Nguyên, Bắc Giang, mặc dù đã hình thành các khu công nghiệp song tỉ trọng thu nhập từ công nghiệp và dịch vụ vẫn chỉ đứng vị trí 3/4 trong cơ cấu 4 thành phần thu nhập. Cũng có thể do việc hình thành các khu công nghiệp nên khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công của các tỉnh này là khá lớn so với các tỉnh khác. Các tỉnh có thu nhập thấp nhất trong khu vực miền núi phía bắc là: Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình thuộc Tây Bắc và Hà Giang, Bắc Kạn, Lào Cai, Cao Bằng thuộc Đông Bắc. Ở những tỉnh có thu nhập thấp này, thậm chí thu nhập từ công nghiệp và dịch vụ chiếm tỉ trọng còn ít hơn các khoản thu khác và đứng “thứ hạng” cuối cùng. Đáng chú ý ở Hà Giang, thu nhập từ nông nghiệp cao hơn 11 lần so với thu nhập phi nông nghiệp, một sự chênh lệch quá lớn.
Trong khi nguồn sống của người dân miền núi phía bắc chủ yếu dựa vào nông nghiệp thì giá trị sản xuất nông nghiệp thực tế của miền núi phía bắc so với các vùng khác lại rất thấp (bảng II.6), tất yếu dẫn đến tình trạng thu nhập bình quân đầu người vùng này thuộc loại thấp nhất cả nước.
Bảng II.6: Giá trị sản xuất nông nghiệp những năm gần đây
theo giá so sánh 1994 phân theo vùng Niên giám TCTK 2006
(đơn vị: tỷ đồng)
2004
2005
2006
Đồng bằng s.Hồng
23870.0
24140.0
25137.0
Đông Bắc
10908.5
11147.1
11472.1
Tây Bắc
2639.1
3072.0
3231.7
Bắc Trung Bộ
11416.0
11718.1
12047.2
Duyên hải Nam Trung Bộ
6947.2
7071.4
7427.8
Tây Nguyên
16053.6
16139.8
17714.3
Đông Nam Bộ
15290.4
16053.8
17147.4
Đồng bằng s.Cửu Long
45763.2
47769.8
47837.4
Mặc dù giá trị sản xuất nông nghiệp của Đông Bắc và Tây Bắc có tăng lên qua các năm song luôn luôn thuộc nhóm ba vùng có giá trị thấp nhất. Duyên hải Nam Trung Bộ với diện tích nhỏ hẹp nên sản xuất nông nghiệp hẳn nhiên có hạn chế, còn miền núi phía bắc có diện tích đất canh tác phong phú, chất lượng đất lại không xấu, đặc biệt là ở Đông Bắc, mà sản lượng lại thấp như vậy thì là điều đáng xem xét. Nguyên nhân chủ yếu là do tập tục sản xuất nông nghiệp lạc hậu với kĩ thuật thủ công, thô sơ, lại không khai thác được tiềm năng tự nhiên, nhiều vùng đất còn để hoang hóa, thực chất chỉ sản xuất trên diện tích nhỏ mà lại bị chia cắt, manh mún. Thêm vào đó, thiên tai thường xuyên xảy ra làm mất mùa cũng đóng góp thêm vào tình trạng này.
II.2.3. Về chi tiêu - đời sống:
Bên cạnh thu nhập thì chi tiêu cũng là một chỉ tiêu tiền tệ quan trọng khác phản ánh đói nghèo, bởi vì chi tiêu của người nghèo có những đặc điểm hoàn toàn khác so với người không nghèo như là: mức tổng chi tiêu thấp do bị giới hạn bởi thu nhập eo hẹp, trong các khoản chi thì thường chi chủ yếu cho những hàng hóa, dịch vụ mang tính thiết yếu nhất đủ để đảm bảo nhu cầu của đời sống ở mức cơ bản... Đối với vùng núi phía bắc, ta cũng có thể thấy được những đặc điểm chi tiêu này.
Do thu nhập thấp nên chi tiêu cho cuộc sống của nhân dân miền núi phía bắc cũng rất thấp, trong đó, Tây Bắc vẫn giữ vị trí thấp nhất cả nước về tổng chi tiêu ở mức 250,8 nghìn đồng một tháng (2004), so với Đông Nam Bộ, khu vực có mức chi tiêu bình quân đầu người cao nhất cả nước ở mức 624,4 nghìn một tháng, thì chỉ bằng 40,2%, tức là chưa được một nửa. Theo sau Tây Bắc theo thứ tự là Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Bắc, tuy nhiên mức chi tiêu của Đông Bắc cũng mới chỉ đạt 52% của Đông Nam Bộ. Phần lớn số tiền chi tiêu là dành chi cho đời sống, trong chi cho đời sống thì chi cho ăn uống, hút chiếm chủ yếu (xem bảng II.7)
Bảng II.7: Chi tiêu bình quân đầu người một tháng năm 2004 theo giá thực tế phân theo vùng và theo khoản chi Niên giám TCTK 2006
(đơn vị : nghìn đồng)
Tổng chi tiêu
Chia ra
Chi cho đời sống
Chi ăn, uống, hút
Chi không phải ăn, uống, hút
Tổng
Chi tiêu khác
ĐBSHĐông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
DHNTB
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
ĐBSCL
417.7
324.9
250.8
275.7
366.4
321.3
624.4
376.1
190.8
171.0
139.8
142.3
175.7
151.6
291.0
190.1
182.7
122.8
93.4
110.4
155.1
143.7
286.0
145.0
373.5
293.8
233.2
252.7
330.8
295.3
577.0
335.1
44.2
31.1
17.6
23.0
35.6
26.0
47.4
41.0
Mặc dù chênh lệch không nhiều so với các khu vực khác song vẫn dễ thấy cả Tây Bắc và Đông Bắc đều dành tỷ lệ chi cho ăn, uống, hút là cao nhất trong các vùng của cả nước ở mức 59,95% và 58,2% (xem bảng tỷ trọng II.8). Hiện tượng này có thể giải thích bằng tình trạng thiếu đói còn tồn tại ở nơi đây, do một số nguyên nhân như: năng suất sản xuất nông nghiệp kém trong khi số nhân khẩu trong gia đình thì nhiều, thường xuyên xảy ra mất trắng mùa màng do thiên tai (lũ lụt, sương giá…) xảy ra liên tục.
Bảng II.8: Tỷ trọng các khoản chi trong chi tiêu cho đời sống một tháng năm 2004 phân theo vùng 28
% chi cho ăn uống hút
% chi không cho ăn uống hút
ĐBSHĐông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
DHNTB
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
ĐBSCL
51.08
58.20
59.95
56.31
53.11
51.33
50.43
56.73
48.92
41.80
40.05
43.69
46.89
48.67
49.57
43.27
Nhà ở và đồ dùng lâu bền là những khoản chi tiêu có giá trị lớn trong chi tiêu của các hộ gia đình. Ở vùng núi phía bắc, nơi mà điều kiện sống còn nhiều khó khăn, thì tỷ lệ số hộ sử dụng các hình thức nhà ở và các loại đồ dùng lâu bền cũng phản ánh mức sống của người dân (bảng II.9).
Nhìn vào cơ cấu loại nhà ở thì thấy ở cả hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc, loại nhà ở kiên cố chiếm tỉ trọng nhỏ nhất. Mặc dù có thể giải thích điều này một phần là do yếu tố điều kiện tự nhiên bất lợi, thường xuyên xảy ra thiên tai, lũ lụt tàn phá nên loại nhà này không phải là lựa chọn tối ưu với nhiều người (bởi nếu xây nhà ở kiên cố thì thiệt hại vật chất có thể xảy ra khi nhà bị sập, bị cuốn trôi do bão lũ… sẽ là lớn), song lý do căn bản nằm ở chỗ thu nhập thấp của nhân dân miền núi phía bắc còn chưa cho phép phần đông người dân xây dựng loại nhà kiên cố đòi hỏi chi phí xây dựng cao. Bởi vậy, đa số dân cư vẫn sống trong nhà bán kiên cố phù hợp với thu nhập trung bình và thấp của hộ gia đình, sau đó là đến loại hình nhà tạm và nhà khác là nơi cư ngụ của những người nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Bảng II.9: Tỷ lệ hộ có nhà ở và đồ dùng lâu bền ở
vùng núi phía bắc năm 2004 Kết quả điều tra mức sống dân cư 2004
(đơn vị : %)
Đông Bắc
Tây Bắc
NHÀ Ở
Nhà kiên cố
Nhà bán kiên cố
Nhà tạm và nhà khác
ĐỒ DÙNG LÂU BỀN
Ô tô
Xe máy
Máy điện thoại
Tủ lạnh
Đầu video
Tivi màu
Dàn nghe nhạc
Máy vi tính
Điều hòa nhiệt độ
Máy giặt quần áo
Bình tắm nước nóng
Radio
Máy ảnh, máy quay video
21.14
57.14
21.72
0.06
42.22
18.33
11.80
30.14
59.71
4.09
1.74
0.58
3.00
5.42
15.05
0.49
14.00
59.13
26.87
0.00
37.41
10.35
5.43
22.68
41.52
2.33
1.15
0.13
1.50
3.46
22.52
0.17
Tình trạng chi tiêu mua sắm và sở hữu các đồ dùng lâu bền cũng thể hiện điều này. Với các đồ dùng đắt tiền (hàng xa xỉ) và không phải là thiết yếu lắm với đời sống như ô tô, máy điều hòa nhiệt độ, máy ảnh, máy quay phim, máy vi tính, máy giặt, dàn nghe nhạc, bình tắm nước nóng thì tỷ lệ hộ có sử dụng là rất nhỏ, dưới 10%. Các đồ dùng lâu bền mang tính chất thiết thực hơn cho cuộc sống thì được sử dụng nhiều hơn : nhiều nhất là tivi màu phục vụ nhu cầu thông tin và giải trí, xe máy phục vụ nhu cầu đi lại, đầu video, điện thoại và đài radio.
II.2.4. Về văn hóa – giáo dục:
Thu nhập thấp dẫn đến giá trị các khoản chi tiêu, bao gồm cả chi cho giáo dục đào tạo, cũng rất thấp. Từ bảng thống kê II.10 có thể thấy mức chi giáo dục của khu vực miền núi phía bắc thấp nhất trong cả nước, trong đó, Tây Bắc có mức chi là 293,9 nghìn đồng chỉ bằng 50% mức chi giáo dục của Đông Bắc (616,4 nghìn đồng), bằng 20,6% so với Đông Nam Bộ (khu vực có mức chi cao nhất: 1426,3 nghìn đồng) và bằng 35,6 % so với mức chi giáo dục đào tạo bình quân chung của cả nước.
Những khoản chi cơ bản nhất cho việc học tập bình thường của một người đi học là học phí, đóng góp xây dựng, trang bị cho trường lớp và chi khác cũng là những khoản chi chiếm tỉ trọng lớn nhất trong cơ cấu chi cho giáo dục ở Đông Bắc và Tây Bắc. Còn những khoản chi mang tính “thứ yếu” hơn hoặc không bắt buộc như: chi cho mua sách giáo khoa, đồ dùng học tập, học thêm và quần áo đồng phục thì chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ bởi thu nhập thấp không cho phép người dân vùng núi đầu tư nhiều vào những khoản mục này, và ngoài ra còn do có sự hỗ trợ phần nào từ phía Nhà nước như việc cấp phát miễn phí sách vở và đồ dùng học tập cho các em học sinh người dân tộc thiểu số ở các huyện xã thuộc diện đặc biệt khó khăn.
Bảng II.10: Chi giáo dục đào tạo bình quân 1 người đi học trong
năm 2004 phân theo vùng và khoản chi Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình 2004
(đơn vị : nghìn đồng)
Chung
Chia ra theo các khoản chi
Học phí
Đóng góp cho trường lớp
Quần áo đồng phục
Sách giáo khoa
Dụng cụ học tập
Học thêm
Khác
Cả nước
ĐBSH
ĐB
TB
BTB
DHNTB
TN
ĐNB
ĐBSCL
826.28
898.3
616.4
293.9
650.1
806.7
680.2
1426.3
697.0
253.25294.63
186.7
68.6
166.0
234.9
156.8
540.3
160.3
85.83
93.3
93.0
55.3
115.9
75.5
100.5
93.2
38.6
59.9
33.4
22.5
11.1
32.3
88.7
78.5
105.9
97.5
89.02
95.0
73.8
36.6
86.4
86.5
75.6
126.3
78.8
67.32
73.2
62.0
44.8
62.2
67.5
60.3
75.8
68.1
129.5
159.9
69.5
14.2
94.0
125.4
86.6
276.0
79.1
98.91
148.9
108.9
63.3
93.3
128.2
121.9
208.8
174.6
Trong khi đó, ở các vùng đồng bằng mà người dân có thu nhập cao hơn (xem bảng II.5 so sánh thu nhập) như đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ thì điều kiện giáo dục cũng tốt hơn rất nhiều và tỷ trọng các khoản mục trong cơ cấu chi tiêu cho giáo dục cũng rất khác. Quan sát biểu đồ II.3 (trích số liệu từ bảng II.10 và chuyển thể thành biểu đồ tỷ trọng các khoản chi) có thể thấy, ở hai vùng này, sau học phí thì chi cho học thêm chiếm tỉ trọng cao thứ hai. Trong khi đó, chi cho trường lớp chỉ chiếm tỉ trọng thấp, trái ngược với vùng núi phía bắc (có thể lý giải điều này là do trong khi ở các vùng núi, vùng sâu vùng xa đóng góp chủ yếu nhằm xây dựng trường lớp mới - vốn còn rất thiếu và nếu đã có thì phần nhiều trường lớp vẫn còn rất tồi tàn và đơn sơ - thì ở vùng đồng bằng phần đóng góp này nhằm xây dựng các “quỹ” và các khoản phụ khác).
Biểu đồ II.3: Tỷ trọng các khoản chi cho giáo dục đào tạo bình quân một người đi học (2004) ở Đông Bắc, Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ 30
Những năm gần đây, do chính sách hỗ trợ và phát triển giáo dục đào tạo cho vùng núi từ phía Nhà nước nên số học sinh ở những vùng này theo lớp và ở mỗi cấp học không ngừng tăng lên. Mặc dù vậy, thực trạng giáo dục ở miền núi thực._.g số tương đối (%), trong khi đó, do quy mô tổng thế lớn nên có thể việc khảo sát chỉ tiến hành được theo điều tra chọn mẫu, tất yếu tạo ra sai số. Tương tự, với những câu hỏi định tính trong phiếu điều tra, câu trả lời nhận được có thể phản ánh thiếu chính xác hoặc không rõ ràng tình trạng đời sống thực tế, gây khó khăn cho việc đánh giá đối tượng. Để giải quyết tình trạng này, cần cố gắng định lượng các tiêu chuẩn xét hộ nghèo, xã nghèo theo số tuyệt đối, phiếu câu hỏi cũng được thiết kế tối đa hóa theo câu hỏi định lượng để thuận tiện hơn cho việc đánh giá.
III.2. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách bộ phận trong chính sách tổng thể về XĐGN vùng núi:
III.2.1. Tiếp tục phát triển những cơ sở hạ tầng kỹ thuật thiết yếu
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật thiết yếu có thể coi như “phần cứng” bắt buộc phải có để trên cơ sở đó, Nhà nước triển khai các chính sách “phần mềm” khác nhằm XĐGN thành công, do vậy phải xây dựng đầy đủ cơ sở hạ tầng cho đời sống và phát triển kinh tế: đường sá và hệ thống giao thông liên lạc, trường học, trạm xá… làm nền móng ban đầu cho XĐGN vùng núi.
Về giao thông:
Tiếp tục nâng cấp các tuyến đường sẵn có, nhất là đường liên tỉnh và biên giới, hướng tới mục tiêu 100% trung tâm cụm xã miền núi có đường ô tô phục vụ vận tải lớn. Tuy nhiên, khi nguồn vốn chưa cho phép thì tùy điều kiện địa phương, trước mắt có thể làm đường cho xe cơ giới vừa và nhỏ, hoặc ở nơi địa hình đặc biệt khó di chuyển thì chỉ cần có đường cho xe cơ giới hai bánh hoặc xe ngựa thồ, sau đó sẽ nâng cấp dần. Cơ chế đầu tư sẽ không chỉ có ngân sách Nhà nước mà còn phải huy động được ngân sách địa phương và nhân dân đóng góp với tỷ lệ giữa các nguồn là khác nhau tùy theo công trình giao thông: với đường giao thông liên tỉnh hoặc đi vào trung tâm cụm xã đòi hỏi quy mô vốn lớn thì sử dụng Ngân sách Nhà nước là chính, với đường giao thông liên xã, nội xã thì Nhà nước chỉ hỗ trợ vật tư thiết yếu (xi măng, sắt thép) còn chủ yếu nguồn vốn là từ địa phương. Thực hiện nguyên tắc công khai minh bạch trong đấu thầu dự án xây dựng và trong bàn bạc, trưng cầu dân ý của người dân trong vùng theo tiêu chí “xã có công trình, dân có việc làm". Gắn quyền lợi cũng như nghĩa vụ của nhân dân vùng núi vào việc đầu tư công trình để nâng cao tinh thần trách nhiệm trong khai thác sử dụng và bảo dưỡng công trình.
Về điện:
Đối với những xã vùng núi có khả năng hòa lưới điện quốc gia, Nhà nước cần hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng đường dây tải điện với những thiết bị cơ bản gồm: đường dây điện cao thế, máy biến áp trung thế và công tơ tổng. Việc xây dựng đường dây hạ thế và kéo điện sẽ do địa phương và người dân đảm nhiệm (với hộ gia đình đặc biệt khó khăn thì Nhà nước có thể xem xét hỗ trợ kinh phí cho công đoạn này). Thành lập các tổ quản lý Điện chuyên trách về việc phân phối điện tới hộ gia đình và thu tiền điện, về vận hành, duy tu, bảo dưỡng hệ thống điện.
Đối với những xã cách biệt về vị trí địa lý, khó nối lưới điện thì Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ vốn đế địa phương tự xây dựng các công trình điện tại chỗ, chủ yếu là tận dụng thế mạnh về dòng chảy ở các tỉnh miền núi để phát triển mạnh thủy điện nhỏ và vừa cho thôn bản, đáp ứng nhu cầu cần có điện sử dụng cho sinh hoạt và phát triển sản xuất.
Đối với giá điện sinh hoạt: Nhà nước trợ cấp một phần, tạo điều kiện nâng cao chất lượng sống cho nhân dân miền núi.
Về công trình thủy lợi:
Với các vùng địa hình cao không có ruộng nước, Nhà nước khuyến khích nông dân làm ruộng bậc thang giữ nước và chất màu để sản xuất lương thực tại chỗ. Với những vùng có khả năng xây công trình thủy lợi mà chưa có, Nhà nước và địa phương kết hợp đầu tư vốn xây dựng. Ở nơi đã có công trình thủy lợi lớn tập trung, Nhà nước đầu tư xây dựng hệ thống kênh dẫn lớn và hỗ trợ một phần xây dựng hệ thống kênh nội đồng. Cũng như công trình giao thông và điện, cần chỉ đạo thành lập đơn vị quản lý sử dụng tại địa phương, quán triệt tinh thần cùng góp công góp của trong nhân dân.
Về mạng lưới thông tin liên lạc, văn hóa giáo dục:
Nhà nước ta đã thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học, đang tiến hành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, chứng tỏ sự quan tâm tới nền giáo dục của đất nước. Song bên cạnh đó, cấp dưới tiểu học (mẫu giáo, nhà trẻ) cũng có vai trò hết sức quan trọng: giúp nuôi dạy trẻ em một cách khoa học, kết hợp hài hòa phát triển trí lực và thể lực của các em. Do đó ở vùng núi nên có chính sách riêng đối với cấp học này. Tác dụng đưa lại sẽ là: giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ, tạo nền kiến thức cơ bản và sự hòa nhập cộng đồng cho trẻ em miền núi, tăng quỹ thời gian cho các hộ gia đình tập trung sản xuất.
Cần đẩy mạnh công tác kiên cố hóa trường lớp và xây dựng đủ trường lớp để tạo điều kiện cho thầy và trò vùng núi yên tâm dạy và học. Với những khu vực dân cư tập trung thì việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho giáo dục không có khó khăn đáng kể, vấn đề về trường lớp chủ yếu phát sinh ở những nơi địa lý xa cách, địa hình vùng núi kiểm trở, dân cư phân tán, đòi hỏi xây dựng trường lớp đến đơn vị thôn xã là rất khó vì sẽ đòi hỏi nguồn kinh phí rất lớn. Vì vậy, tạm thời cần tập trung làm tốt xây dựng 100% trường lớp đạt chuẩn ở các trung tâm cụm xã và cấp hỗ trợ xóa bỏ trường lớp tranh tre nứa lá ở thôn, xã dần dần.
Bên cạnh đó, cần nâng cấp chất lượng và xây dựng thêm các công trình trạm y tế, bưu điện và hệ thống thông tin liên lạc nói chung làm nền tảng cho đời sống kinh tế - xã hội mới. Tăng cường xây dựng và kiên cố hóa các bệnh viện tỉnh, huyện, trạm y tế xã, tăng số lượng cán bộ y tế cơ sở và thiết bị y tế đạt tiêu chuẩn. Phát triển các công trình văn hóa công cộng, khu vui chơi giải trí, thể dục thể thao, bưu điện văn hóa, lắp đặt trạm thu - phát sóng truyền thanh, truyền hình đến từng xã để xóa nghèo cho nhân dân về mặt thể chất và tinh thần. Tiến tới lắp đặt hệ thống cáp Internet đến các địa phương vùng núi để cung cấp thông tin cập nhật và tạo điều kiện cho nhân dân miền núi khai thác tài nguyên mạng để nâng cao tri thức, giao lưu học hỏi với người dân miền xuôi và bạn bè quốc tế.
III.2.2. Xây dựng đồng bộ và có hiệu quả các chính sách XĐGN
III.2.2.1. Về chính sách khoa học kỹ thuật:
Nhà nước tiếp tục đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, đặc biệt là nghiên cứu ứng dụng để có thể áp dụng thành tựu kỹ thuật hiện đại vào thực tiễn sản xuất, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Đối với đầu vào cho chính sách: Nhà nước cử những cán bộ khoa học kỹ thuật xuất sắc ra học tập kinh nghiệm ở nước ngoài, hoặc đầu tư phát triển các trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ trong nước để đào tạo đội ngũ cán bộ tại chỗ, kết hợp với việc đẩy mạnh hợp tác với nước ngoài thông qua các dự án nghiên cứu khoa học. Nhà nước hỗ trợ kinh phí mua dây chuyền công nghệ, thiết bị nghiên cứu và các nguyên vật liệu cần thiết khác phải nhập ngoại. Đối với vấn đề chuyển giao thành tựu khoa học cho người dân miền núi áp dụng vào làm ăn: cần khắc phục tình trạng lý thuyết, hình thức. Do đặc trưng miền núi khác với các vùng miền khác nên xây dựng chương trình tập huấn phải sát với nhu cầu thực tế của bà con (có thể làm phiếu điều tra), hướng dẫn kỹ thuật mới thì phải theo hình thức “cầm tay chỉ việc” cụ thể, chi tiết, có đầy đủ cả tài liệu văn bản lẫn vật mẫu, tiêu bản vì nhiều người dân tộc nói chưa sõi tiếng Kinh trong khi cán bộ kỹ thuật hầu hết là người dưới xuôi lên.
III.2.2.2. Về chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế thị trường, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân vùng núi:
Đối với ngành nông - lâm - ngư nghiệp:
Đối với nông nghiệp:
Thực hiện đa dạng hóa nông nghiệp và sản xuất theo hướng thâm canh, bên cạnh trồng lúa thì cần tận dụng điều kiện tự nhiên của vùng núi về đất đai và khí hậu phát triển mạnh hơn nữa các vùng chuyên canh trong trồng trọt và chăn nuôi. Trong đó, trồng trọt tập trung vào các cây công nghiệp (mía, chè, dâu tằm, tiêu, điều, cao su, cà phê… tùy điều kiện vùng núi cụ thể), cây thuốc, cây ăn quả, cây lấy gỗ…, chăn nuôi xây dựng mô hình trang trại đại gia súc (trâu, bò, lợn, dê, cừu) vì đây là những sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao. Xác định mục tiêu trước mắt là đáp ứng đầy đủ nhu cầu về lương thực thực phẩm cho nhân dân vùng núi, xóa đói hoàn toàn, sau đó hướng đến sản xuất phục vụ xuất khẩu đem lại thu nhập cao.
Phải phối hợp với chính sách khoa học kỹ thuật, tạo ra các loại giống cây lai, con lai có năng suất cao, khả năng chống bệnh và thích nghi điều kiện tự nhiên tốt, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó cần thực hiện đồng bộ hàng loạt các chính sách về nguồn vốn - đầu tư - tín dụng để hỗ trợ bà con có đủ vốn làm ăn, chính sách phát triển ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm nông nghiệp để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho đầu ra của sản phẩm. Tiếp tục thực hiện chương trình 134 để khai hoang, có thêm quỹ đất cấp cho nhân dân miền núi canh tác nông nghiệp, phối hợp với chính sách định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số tránh tình trạng du canh du cư, đốt rừng làm rẫy làm giảm chất lượng đất.
Đối với lâm nghiệp:
Lâm nghiệp là thế mạnh của các vùng núi ở Việt Nam do lợi thế về điều kiện khí hậu và chất đất. Nhà nước cần thực hiện việc giao đất, giao rừng đến trực tiếp các hộ nghèo để gắn quyền lợi của họ với rừng, từ đó tăng tinh thần tự chủ và ý thức bảo vệ, quản lý rừng của nhân dân miền núi. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng lâm sinh để thực hiện quản lý, bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn và phục hồi rừng tự nhiên có hiệu quả. Chú ý kết hợp loại rừng đặc dụng với việc xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên lưu giữ các loại động vật hoang dã và các chủng loài thực vật quý hiếm hoặc các khu danh lanh thắng cảnh phục vụ cho nhu cầu du lịch sinh thái, làm tăng giá trị khai thác từ rừng giúp người dân làm giàu.
Kết hợp chính sách định canh định cư nhằm giảm thiểu nạn đốt rừng, chính sách tín dụng ưu đãi để trồng rừng, chính sách phát triển công nghiệp chế biến lâm sản (giấy, đồ gỗ)…
Đối với ngư nghiệp – thủy sản:
Các vùng núi có hệ thống sông suối, ao hồ đa dạng là lợi thế tiềm năng để phát triển ngành này. Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích hộ nghèo bên cạnh đánh bắt tự nhiên thì kết hợp với nuôi trồng thủy sản thông qua ưu đãi vay vốn để mua giống và các đồ dùng, thiết bị đánh bắt, nuôi trồng. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu môi trường sinh thái nước của từng địa phương để tìm ra các giống thủy sản có thể phát triển tốt, cho năng suất cao, hướng dẫn cho ngư dân thâm canh sản xuất.
Đối với công nghiệp:
Chú trọng khai thác tiềm năng vùng núi về các loại khoáng sản để tập trung phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn là khai khoáng và tinh chế, luyện kim, nhiệt điện, hóa chất, xây dựng… trong các khu công nghiệp được quy hoạch khoa học và hợp lý. Bên cạnh đó phải chú ý thích đáng đến công nghiệp chế biến các sản phẩm nông – lâm – thủy sản theo hướng gắn với các vùng chuyên canh sản xuất, cung cấp nguyên liệu sơ chế cho cơ sở công nghiệp tập trung. Phát triển mạnh các công trình thủy điện để tận dụng năng lượng tự nhiên từ các dòng chảy, đảm bảo cung cấp đủ điện sinh hoạt và sản xuất cho vùng núi, là tiền đề quan trọng trong việc tạo ra bước đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Nhà nước hỗ trợ về vốn, cơ sở hạ tầng, kỹ thuật công nghệ và đào tạo nhân lực. Ngoài ra, cũng nên tập trung khôi phục, phát triển tiểu thủ công nghiệp đặc trưng trong vùng như dệt thổ cẩm, mỹ nghệ …
Đối với dịch vụ:
Tận dụng ưu thế của vùng núi để phát triển các trung tâm mậu dịch cửa khẩu và vận tải quá cảnh (vì nhiều tỉnh miền núi nằm ở giáp ranh các nước bạn), các trung tâm thương mại, các chợ và chợ phiên có quy mô phù hợp với tập tục mua bán của người dân miền núi. Chú trọng phát triển dịch vụ vận tải hàng hóa để đảm bảo cung cấp đủ cho nhân dân miền núi những mặt hàng thiết yếu từ vùng xuôi như: muối i-ốt và muối trắng, dầu hỏa thắp sáng, thuốc chữa bệnh, sách vở và giấy viết học sinh, phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng... đi đôi với chính sách trợ cước, trợ giá. Do cảnh quan thiên nhiên vùng núi đa dạng phong phú, vẫn giữ được vẻ nguyên sơ và nhiều phong tục tập quán của các dân tộc vẫn còn được bảo tồn nên du lịch sinh thái và du lịch văn hóa sẽ là những thế mạnh kinh tế trong nay mai. Nhà nước nên có sự lưu tâm đến những loại hình này và khuyến khích đầu tư phát triển thích đáng. Bên cạnh đó, cần chú ý phát triển các hình thức du lịch có giá trị gia tăng cao phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế của nước ta như: du lịch thể thao (golf, nhảy dù, tàu lượn...), mạo hiểm (vượt thác ghềnh, đua xe ô tô, xe máy, leo núi, đi bộ...), nghỉ dưỡng và chữa bệnh… bên cạnh loại hình tour du lịch dã ngoại tham quan đơn thuần truyền thống. Tổ chức các tour du lịch nội vùng và các tuyến du lịch liên vùng. Cùng với hoạt động giao thương với các nước bạn thì nên thấy trước tiềm năng của dịch vụ tài chính và giao thông liên lạc để có định hướng phát triển kịp thời.
III.2.2.3. Về chính sách về nguồn vốn, quản lý nguồn vốn và hoạt động tín dụng:
Về nguồn vốn, các kiến nghị đã được đưa ra ở mục III.1.1, tác giả xin phép không nhắc lại ở đây. Đối với công tác quản lý nguồn vốn, đưa vào sử dụng, cần thực hiện cơ chế phân cấp quản lý nguồn vốn đến từng xã vì đây sẽ là nơi trực tiếp triển khai sử dụng vốn, có cơ chế kiểm tra, kiểm soát quá trình và số lượng giải ngân nhằm đảm bảo tiến độ thực hiện và đảm bảo sự linh hoạt thích ứng nhanh chóng với nhu cầu vốn khi xảy ra biến động. Đảm bảo nguyên tắc công khai minh bạch và kết hợp với chính sách nghiêm trị các hành vi tham nhũng, cắt xén ngân quỹ của XĐGN, để tránh làm thất thoát nguồn vốn.
Về cho vay đối với người nghèo: có chế độ lãi suất thấp ưu đãi không cần thế chấp tài sản, với hộ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn thì không lấy lãi (hiện nay đã làm nhưng cần mở rộng thêm đối tượng thụ hưởng chính sách này). Thủ tục cho vay đơn giản hóa, mức cho vay đa dạng để phù hợp nhu cầu của người dân. Kết hợp với chính sách thông tin (về thị trường, về giá cả, về sản phẩm …) và chính sách đào tạo, tư vấn để bà con sử dụng vốn hiệu quả.
III.2.2.4. Về chính sách giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực:
Thực hiện các biện pháp khuyến học để thu hút trẻ em tới trường: xây dựng đủ trường lớp đảm bảo chất lượng so với nhu cầu, tăng cường trang thiết bị dạy học, miễn học phí, cấp học bổng cho học sinh người dân tộc thiểu số, cấp miễn phí sách giáo khoa và đồ dùng học tập… Kết hợp với chính sách thông tin, tuyên truyền để vận động trẻ em và người mù chữ đến lớp và chính sách nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình để giảm thiểu tình trạng trẻ em miền núi bỏ học phụ giúp gia đình kiếm sống. Thực hiện giảng dạy song ngữ bằng tiếng Kinh và tiếng dân tộc thiểu số. Tăng cường chế độ ưu đãi đối với giáo viên vùng cao bằng cách tăng lương, thưởng, trợ cấp, phụ cấp về nhà ở, phương tiện đi lại, thực hiện luân chuyển công tác giữa giáo viên vùng núi và giáo viên miền xuôi. Phát triển các cơ sở dạy nghề để đào tạo nguồn nhân lực đủ trình độ cho kinh tế địa phương. Trong đó, khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề ngay trong cơ sở sản xuất để người học nghề có cơ hội thực hiện “học đi đôi với hành”, đảm bảo hiệu quả dạy và học nghề, đồng thời sau khi tốt nghiệp khóa đào tạo người học có thể vào làm việc luôn trong doanh nghiệp đó, vừa tiết kiệm chi phí tìm việc của người lao động và chi phí tuyển dụng của doanh nghiệp, vừa tạo tâm lý tin tưởng chắc chắn có “đầu ra” cho học viên để họ chuyên tâm học tập.
III.2.2.5. Về chính sách y tế - dân số - kế hoạch hóa gia đình:
Tiếp tục hoàn thiện mạng lưới y tế, khám chữa bệnh ở cơ sở. Bên cạnh chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng: bệnh viện, trạm xá… thì cần có cơ chế khuyến khích cán bộ y tế miền xuôi lên công tác ở vùng núi để giải quyết tình trạng thiếu nhân lực y tế và quá tải nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân khi mà số lượng cán bộ y tế miền núi hiện tại còn quá ít. Xem xét tăng mức trợ giá, trợ cước vận chuyển cho muối i-ôt và thuốc chữa bệnh. Kết hợp chính sách thông tin tuyên truyền về các biện pháp giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường, sinh đẻ có kế hoạch, kết hôn đúng độ tuổi, nhất là với đối tượng thanh niên người dân tộc (do tập quán người dân tộc thường gả cưới sớm và đẻ nhiều). Tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường theo nguyên tắc Nhà nước hỗ trợ vật liệu (với điều kiện vùng núi thì nên xây dựng các công trình nước tự chảy gồm có đập nhỏ, bể lắng và ống dẫn nước), nhân dân bỏ công lao động. Đẩy mạnh chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, tổ chức cai nghiện và điều trị bệnh nhân mắc HIV... với sự trợ giúp của nước ngoài như Tổ chức Y tế Thế giới, UNICEF, UNDP và các tổ chức khác.
III.2.2.6. Về chính sách văn hóa - thông tin:
Tiếp tục phát triển các công trình văn hóa công cộng, khu vui chơi giải trí, thể dục thể thao, bưu điện đến 100% trung tâm cụm xã để xóa nghèo cho nhân dân về mặt thể chất và tinh thần. Xây dựng mạng lưới thông tin rộng rãi qua hệ thống phát thanh, truyền hình, báo đọc, tuyên truyền. Tăng thời lượng phát sóng các chương trình bằng tiếng dân tộc, tuyên truyền đường lối của Đảng và Nhà nước, tuyên truyền mục đích của chính sách XĐGN để địa phương và nhân dân có nhận thức đúng đắn về ý nghĩa của chương trình - từ đó khắc phục tâm lý ỷ lại vào Nhà nước. Giới thiệu gương làm kinh tế giỏi thoát nghèo, thông tin về thị trường sản phẩm và việc làm... đem lại kênh thông tin hiệu quả về kinh doanh, lao động sản xuất cho người dân. Phát huy hơn nữa vai trò của già làng, trưởng bản, những người có uy tín và tiếng nói ở thôn bản miền núi.
III.2.3. Tăng cường an sinh xã hội với người nghèo đặc biệt khó khăn
Nhằm khắc phục tâm lý ỷ lại vào trợ cấp ở người nghèo, Nhà nước cần theo chủ trương “ cho cần câu hơn cho xâu cá”, hướng dẫn cho dân nghèo làm thế nào để họ tự vươn lên làm giàu chứ không phải là trực tiếp biến họ thành người giàu. Tuy nhiên, với một số đối tượng nghèo đặc biệt không có khả năng tự thoát nghèo thì sự trợ giúp trực tiếp của Nhà nước thông qua chính sách an sinh xã hội lại là điều cần thiết.
Những đối tượng này thường là những người bị tổn thương nặng nề như trẻ em không nơi nương tựa, đồng bào gặp thiên tai, người có gia cảnh đặc biệt như ốm đau, bị ngược đãi… Nguồn trợ cấp có thể là các quỹ phúc lợi từ ngân sách Nhà Nước và sự đóng góp của các tổ chức, đoàn thể xã hội. Với nhân dân vùng núi thường xuyên gặp lũ lụt, thiên tai thì phải đặc biệt chú ý đến hình thức cứu trợ bằng hiện vật và bên cạnh đó là phải xây dựng được một chiến lược Phòng chống và Giảm nhẹ thiên tai toàn diện và cụ thể.
Ngoài ra, để chủ động giảm thiểu những khả năng gây tổn thương khác cho người dân vùng núi thì còn cần thực hiện rộng rãi và đầy đủ hơn nữa các loại hình bảo hiểm như bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và mạng lưới an sinh tự nguyện như bảo hiểm mùa màng, dịch bệnh…
III.3. Kiến nghị đối với công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chính sách:
Công tác kiểm tra, kiếm soát có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo cho chính sách thực hiện đúng hướng theo mục tiêu đã đề ra, vì vậy, đảm bảo hiệu quả cho nó cũng là việc làm cần được chú ý.
III.3.1. Đối với hệ thống chỉ tiêu đánh giá:
Để đánh giá tình hình thực hiện chính sách thì cần so sánh kết quả thực tế với một loạt các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra, do đó phải xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chặt chẽ và cụ thể, cố gắng lượng hóa đến mức cao nhất. Nếu là chỉ tiêu theo % thì phải nêu rõ là tỷ lệ trên tiêu chí nào để tránh gây hiểu lầm, lúng túng trong triển khai ở địa phương (ví dụ tỷ lệ hộ nghèo đặc biệt khó khăn được tính bằng số hộ nghèo đặc biệt khó khăn chia cho tổng số hộ gia đình trong địa bàn hay tổng số hộ nghèo nói chung).
III.3.2. Đối với công tác báo cáo thống kê:
Để có được những số liệu thống kê chính xác phục vụ cho việc kiểm tra hoạt động thì cần tiến hành một số biện pháp sau đây:
Yêu cầu địa phương triển khai các chương trình, dự án ghi chép lại chi tiết và thường xuyên tình hình thực hiện trên các mặt: tiến độ thời gian và chi phí (trong đó chi phí bao gồm nhiều khoản mục như chi phí quản lý, chi phí nhân công, chi phí về nguyên vật liệu, chi phí vận chuyển, bốc xếp .v.v…, cần được hạch toán chính xác theo quy định hạch toán kế toán hiện hành), trình bày báo cáo định kỳ với thời đoạn ngắn lên trung ương và giải trình chi tiết các số liệu.
III.3.3. Đối với công tác kiểm tra:
Đoàn kiểm tra gồm các cán bộ trung ương ở các lĩnh vực: kế hoạch, kiểm toán, quản lý chất lượng… phải là những cán bộ giàu kinh nghiệm quản lý, vững chắc về kiến thức, năng lực chuyên ngành, thấm nhuần tư tưởng đạo đức nghề nghiệp và tinh thần công chính liêm minh vì nhân dân. Đoàn sẽ phối hợp hoạt động với các Bộ, ngành liên quan tiến hành làm việc với cán bộ địa phương trên cơ sở hệ thống sổ sách và kiểm tra khảo sát thực tế tại địa bàn thực hiện, nếu cần thiết thì còn có thể trực tiếp lấy ý kiến từ người dân để đảm bảo tính công khai, dân chủ, khách quan.
Căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn kế hoạch (có tính đến khoảng giao động hợp lý), căn cứ vào các sai lệch hệ thống không thể tránh khỏi do nguyên nhân về điều kiện tự nhiên (ví dụ thiên tai làm chậm tiến độ), về tác động ảnh hưởng của chính sách khác hoặc các sự cố bất ngờ mà đánh giá chính xác và đầy đủ mức độ hoàn thành chính sách về cả hai mặt: số lượng và chất lượng. Nếu mức độ hoàn thành quá kém hoặc có bất kỳ dấu hiệu vi phạm, gian dối nào thì cần tiến hành điều tra sâu hơn và đề xuất lên cơ quan trung ương có thẩm quyền để xử phạt nghiêm minh để làm gương.
KẾT LUẬN
Đói nghèo là một khái niệm khá rộng với những khía cạnh cơ bản: sự thiếu thốn về vật chất, về hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, nguy cơ dễ bị tổn thương và yếu thế về mặt xã hội. Do đó, để có thể khắc phục tình trạng đói nghèo một cách toàn diện thì phải có một hệ thống chính sách nhằm tác động tổng hợp trên nhiều lĩnh vực như chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập, chính sách giáo dục – đào tạo, chính sách y tế - dân số - kế hoạch hóa gia đình, chính sách văn hóa thông tin…
Qua phân tích đánh giá một số chỉ tiêu phản ánh đời sống của nhân dân các tỉnh miền núi phía bắc trong khoảng năm năm trở lại đây, có thể thấy tình trạng đói nghèo ở đây còn khá trầm trọng biểu hiện ở thu nhập thấp, cơ cấu thu nhập lạc hậu, đời sống còn nhiều thiếu thốn, chưa tiếp cận được nhiều với các dịch vụ y tế, giáo dục, nước sạch… Đây cũng là thực trạng của các vùng núi Việt Nam nói chung, nó đòi hỏi phải có những chính sách XĐGN tích cực.
Mặc dù những chính sách XĐGN vùng núi thời gian gần đây đã góp phần đổi mới bộ mặt vùng núi, song kết quả chưa đạt được trên quy mô rộng và các tác động tích cực chưa thật sự bền vững. Để khắc phục được điều đó, phải tiếp tục hoàn thiện thêm các chính sách XĐGN vùng núi theo hướng nâng cao tính phù hợp với đặc điểm thực tế của địa phương, tính thực hiện chặt chẽ và nghiêm túc, tính phối hợp đồng bộ giữa các chính sách mà cụ thể những kiến nghị đã được trình bày trong chương cuối của chuyên đề này.
XĐGN là một quá trình đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của toàn xã hội, trong đó vai trò quan trọng thuộc về Nhà nước. Với những kiến nghị nói trên, bài viết mong muốn có thể đóng góp làm tăng hiệu quả XĐGN ở vùng núi nói chung và vùng núi phía bắc nói riêng, giúp nhân dân miền núi có cuộc sống tốt đẹp hơn và đất nước ta có một diện mạo mới trong thời đại mới.
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC HÌNH, BIỂU, BẢNG
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ LĐTBXH: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
BTB: Bắc Trung Bộ
CĐ: Cao đẳng
DHNTB: Duyên hải Nam Trung Bộ
ĐB: Đông Bắc
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH: Đồng bằng sông Hồng
ĐH: Đại học
ĐNB: Đông Nam Bộ
LTTP: Lương thực thực phẩm
PTTH: Phổ thông trung học
TB: Tây Bắc
TCTK: Tổng cục thống kê
THCS: Trung học cơ sở
TN: Tây Nguyên
XĐGN: Xóa đói giảm nghèo
DANH MỤC HÌNH, BIỂU, BẢNG
Hình I.1: Những đặc trưng của một cuộc sống đầy đủ (Nussbaum) 6
Hình I.2: Sơ đồ kim tự tháp các khái niệm về đói nghèo của Bob Baulch 7
Hình I.3: Mô hình “Năm yếu tố lớn” của Phil Bartle 15
Hình II.1: Kết quả của Dự án Xóa đói Giảm nghèo các tỉnh miền núi phía bắc do Ngân hàng Thế giới tài trợ (2002-2007) 56
Biểu đồ II.1: Tỷ lệ nghèo của các vùng năm 2002 và 2004 27
Biểu đồ II.2: Tỷ trọng các khoản trong thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng ở vùng núi phía bắc 32
Biểu đồ II.3: Tỷ trọng các khoản chi cho giáo dục đào tạo bình quân một người đi học (2004) ở Đông Bắc, Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ 42
Bảng I.1: Ngưỡng nghèo của TCTK qua các năm 11
Bảng I.2: Xếp hạng một số nước theo chỉ số nghèo khổ con người 14
Bảng II.1: Tỷ lệ nghèo của các vùng năm 2002 và 2004 28
Bảng II.2: Khoảng nghèo của các vùng qua các năm 28
Bảng II.3: Tỷ trọng dân số thành thị - nông thôn chia theo vùng 30
Bảng II.4: Thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng chia theo nguồn thu ở vùng núi phía bắc năm 2002 và 2004 31
Bảng II.5: Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng năm 2004 theo giá thực tế phân theo nguồn thu và vùng 34
Bảng II.6: Giá trị sản xuất nông nghiệp những năm gần đây theo giá so sánh 1994 phân theo vùng 35
Bảng II.7: Chi tiêu bình quân đầu người một tháng năm 2004 theo giá thực tế phân theo vùng và theo khoản chi 37
Bảng II.8: Tỷ trọng các khoản chi trong chi tiêu cho đời sống một tháng năm 2004 phân theo vùng 38
Bảng II.9: Tỷ lệ hộ có nhà ở và đồ dùng lâu bền ở vùng núi phía bắc năm 2004 39
Bảng II.10: Chi giáo dục đào tạo bình quân 1 người đi học trong năm 2004 phân theo vùng và khoản chi 41
Bảng II.11: Tỷ lệ số học sinh thuộc các cấp học so với tổng dân số ở miền núi phía bắc năm 2006 43
Bảng II.12: Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết chữ ở vùng núi phía bắc năm 2004 43
Bảng II.13: Một số chỉ tiêu y tế ở vùng núi phía bắc năm 2006 45
Bảng II.14: Tỷ suất trẻ chết sơ sinh theo vùng qua các năm 46
Bảng II.15: Phần trăm đã từng kết hôn của dân số 15-19 tuổi ở từng độ tuổi chia theo vùng và giới tính 47
Bảng II.16: Nguồn nước ăn chính của hộ gia đình trong năm 2004 chia theo tỷ lệ hộ và theo vùng 49
Bảng II.17: Tổng hợp danh sách các xã đặc biệt khó khăn hoàn thành cơ bản mục tiêu Chương trình 135 giai đoạn 1999 – 2005 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
SÁCH:
SÁCH TRONG NƯỚC:
1. Ban chỉ đạo quốc gia thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, Việt Nam: Tăng trưởng và giảm nghèo (Báo cáo thường niên 2003 –2004)
2. Chính phủ Việt Nam, Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, NXB Bản đồ, 2002
3. GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn – PGS.TS. Mai Văn Bưu, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Giáo trình Quản lý Nhà nước về kinh tế, NXB Lao động – Xã hội, 2005
4. GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng, khoa Kế hoạch và Phát triển, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB Lao động – Xã hội, 2005
5. PGS.TS. Phạm Văn Vận – Th.S. Vũ Cương, khoa Kế hoạch và Phát triển, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Giáo trình Kinh tế công cộng, NXB Thống kê, 2005
6. Tổng cục Thống kê Việt Nam, Niên giám thống kê các năm 1998, 2000, 2004, 2006
7. TS. Mai Quốc Chánh – TS. Trần Xuân Cầu, bộ môn Kinh tế Lao động, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Giáo trình Kinh tế Lao động, NXB Lao động – Xã hội, 2000
SÁCH NƯỚC NGOÀI:
1. A.B.Atkinson, Social Exclusion, Poverty and Unemployment, in: A.B. Atkinson & J. Hills (Eds), Exclusion, Employment and Opportunity, CASE Paper 4, London School of Economics, Centre for Analysis of Social Exclusion, 1998
2. Amartya Sen, Phát triển là tự do, New York, 1999
3. Bob Baulch,“Poverty, Policy and Aid” article, the IDS Bulletin Volume 27 Number 1, 1996
4. Dr.Phil Bartle, Factors of Poverty: The Big Five, Community Enpowerment Programme, 2005
5. Martin Ravallion, Poverty Comparisons, Fundamentals of Pure and Applied Economics, Harwood Academic Publishers, 1994
6. M. Nussbaum, Women and Human Development: A study in Human Capabilities, Cambridge University Press, 2000
7. Peter Townsend, Poverty in the United Kingdom, Harmondsworth, 1979
8. R. Chambers, Whose Reality Counts? Putting the First Last, London, Intermediate Technology Publications, 1997
9. The World Bank, Voices of the Poor, 2002
TẠP CHÍ – BÁO IN:
1. Dương Văn Trọng, Bắc Giang đẩy mạnh phát triển kinh tế, tr.73, tạp chí Cộng Sản, số 774 (4/2007)
2. Duy Anh, Xây dựng các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn ở Kon Tum, tr. 88, tạp chí Cộng Sản, số 779 (9/2007)
3. GS.TS Trần Văn Chử, Công cuộc XĐGN ở Việt Nam, 60 năm nhìn lại, tr.21, tạp chí Lao động & Xã hội số 306 (1-15/3/2007)
4. Hồng Minh, Dạy nghề ngắn hạn ở Thái Nguyên, tr.47, tạp chí Lao động & Xã hội số 311 (16-31/5/2007)
5. Hương Thu, Chương trình 135 với đồng bào Văn Quan, Lạng Sơn, tr.26, tạp chí Dân tộc và Thời đại số 95 (10/2006)
6. Lương Thủy, Hiệu quả từ chương trình 135 ở Thanh Sơn, Phú Thọ, tr.29, tạp chí Dân tộc và Thời đại số 95 (10/2006)
7. Minh Huệ, Xóa đói giảm nghèo ở Nàn Sín, báo Công nghiệp Việt Nam số 10/5/2007
8. Nguyễn Hữu Bắc, Cao Bằng chú trọng giải quyết việc làm và dạy nghề cho đối tượng chính sách, tr.22, tạp chí Lao động & Xã hội số 311 (16-31/5/2007)
9. Nguyễn Hữu Tiến, XĐGN ở Việt Nam, thành tựu, hạn chế và kiến nghị chính sách, tr.46, tạp chí Quản lý Kinh tế CIEM số 13 (3+4/2007)
10. PGS.TS Đỗ Thị Bắc, Giải quyết việc làm và XĐGN ở Thái Nguyên, tr. 44, tạp chí Lao động & Xã hội số 300 (1-15/12/2006)
11. Phan Tự Kiên, Những nốt nhấn trong XĐGN ở Lào Cai, tr.20, tạp chí Lao động & Xã hội số 301 (16-31/12/2006)
12. Stockholm Environment Institute Briefing Note, Poverty and vulnerability programme, 2004
13. Th.S Hoàng Sĩ Kim, Thực trạng đói nghèo và giải pháp XĐGN ở Việt Nam, tr.18, tạp chí Quản lý Nhà nước số 138 (7/2007)
14. Tống Thắng, Nước sạch về với vùng cao, tr.34, tạp chí Dân tộc và Thời đại số 97 (12/2006)
15. TS. Trần Văn Viên, Củng cố mạng lưới y tế thôn bản ra sao?, chuyên đề Dân tộc số 1/2006
INTERNET:
1. Báo điện tử Đảng Cộng Sản http:// www. cpv.org.vn
2. Báo Vietnamnet
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư http:// www.mpi.gov.vn
4. Bộ Y tế
5. Người đại bỉểu nhân dân Online
6. Tổng cục Thống kê
7. Trang điện tử tỉnh Lào Cai
8. Trang tin điện tử Ủy ban dân tộc
9.
10.
11.
12.
13.
14.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12344.doc