Tính tất yếu khách quan và các giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta

Mở đầu Cho đến cuối những năm 80 của thế kỷ 20, về cơ bản trong nền kinh tế nước ta sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên hiện vật, tự cung, tự cấp còn chiến ưu thế. Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Vì vậy Việt Nam vẫn là nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển, Do đó phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số 1 đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong những bước đường đi tới. Muốn vậy phải chuyển

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tính tất yếu khách quan và các giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền kinh tế thị trường cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để làm được điều đó chúng ta cần phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hành chính, quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế của nước ta trong hiện tại và trong tương lai để đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá để huy động sức mạnh của toàn dân vào việc khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, cần phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Đó là chủ trương có tính chiến lược trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay mà Đảng và nhà nước ta đã xác định. Vấn đề phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay được giải quyết ở trong nội dung của đề án này với những ý chính sau: I. Cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên XHCN nói chung. II. Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. III. Những giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoá Việt Nam I. cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đi lên cnxh nói chung. 1. Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về sự phát sinh và phát triển của sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá, sự khác biệt giữa chúng để làm rõ vấn đề đã nêu ở trên. Trước khi đi vào nghiên cứu sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá ta cần hiểu rõ hàng hoá là gì? - Hàng hoá là sản phẩm của lao động mà. Một là: nó có thể thoả mãn được nhu cầu nào đó của con người; Hai là: nó được sản xuất ra không phải để người sản xuất ra nó tiêu dùng mà là để bán. Vì vậy hàng hoá trước hết là một đối tượng bên ngoài, là một vật nhờ có thuộc tính của nó mà thoả mãn được bất cứ loại nhu cầu nào của con người. Dù nhu cầu đó là do dạ dày hay do ảo tưởng mà có, thì tính chất của những nhu cầu đó không làm cho vấn đề thay đổi gì cả. - Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Trong đó giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên còn giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá, hai thuộc tính là hai mặt đối lập cùng tồn tại trong hàng hoá. + Giá trị sử dụng của hàng hoá: Đó là những công dụng khác nhau do thuộc tính tự nhiên của vật mang lại có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người. Ví dụ: cơm để ăn, áo để mặt, máy móc, thiết bị nguyên nhiên vật liệu để sản xuất… Giá trị sử dụng của vật phẩm chỉ được thể hiện ra khi đem tiêu dùng chúng. Khoa học kỹ thuật và công nghệ càng phát triển thì dần dần người ta sẽ tìm ra nhiều tính có ích của các vật phẩm. Giá trị sử dụng của hàng hoá rất phong phú nó vừa thoả mãn nhu cầu vật chất đồng thời nó còn thoả mãn nhu cầu tinh thần: như sách báo, băng hình băng tiếng… giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn nhưng trong nền kinh tế hàng hoá thì giá trị sử dụng đồng thời là một vật mang giá trị trao đổi tức là nó có thể được đổi lấy vât khác. Hàng hoá phải có giá trị sử dụng nhưng không phải mọi vật có giá trị sử dụng lại là hàng hoá. Ví dụ: không khí, ánh sáng.. + Giá trị của hàng hoá: giá trị của hàng hoá là một phạm trù rất trìu tượng bởi vì nó là thuộc tính xã hội của hàng hoá và muốn hiểu được giá trị của hàng hoá chúng ta phải xuất phát từ việc nghiên cứu giá trị trao đổi. Khái niệm giá trị trao đổi: giá trị trao đổi đó là quan hệ tỷ lệ về lượng mà một giá trị sử dụng này được trao đổi với một giá trị sử dụng khác mà phương thức biểu hiện giá trị trao đổi có dạng. Ví dụ như: 1 rìu = 20kg thóc. Từ phương thức này thì có hai vấn đề cần được giải đáp: Vì sao hàng hoá có công dụng khác nhau lại được trao đổi với nhau. Tại sao 2 hàng hoá lại được trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định (như 1 =20). Giải đáp 2 hàng hoá có công dụng khác nhau mà được trao đổi lẫn nhau, vì vậy giữa chúng phải có cơ sở chung. Cái chung đó không phải là thuộc tính tự nhiên của vật phẩm. Nếu loại trừ điều đó ra thì các hàng hoá mang ra trao đổi chỉ còn một thuộc tính chung duy nhất đó là chúng đều là sản phẩm của lao động con người và nhờ thuộc tính này chúng được trao đổi với nhau. Việc trao đổi hàng hoá đó chính là việc trao đổi lao động của người sản xuất hàng hoá đã được kết tính trong hàng hoá. Trong phương trình trên thì thời gian lao động để làm ra một rìu bằng thời gian lao động làm ra 20 kg thóc vì vậy tỷ lệ này là 1 và 20. Tóm lại: thông qua trao đổi hàng hoá (giá trị trao đổi) thì chúng ta phát hiện ra được thuộc tính thứ hai của hàng hoá đó là giá trị. Kế luận về thực thể giá trị: thực thể của giá trị hàng hoá (chất của giá trị hàng hoá) đó là lao động của người sản xuất hàng hoá được kết tinh ở trong hàng hoá, giá trị biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá hay có thể nói giá trị chính là một quan hệ xã hội. Một vật không phải là sản phẩm của lao động thì vật đó không có giá trị. Không phải bất kỳ lao động nào cũng tạo thành thực thể của giá trị mà chỉ trong kinh tế hàng hoá thì lao động của con người mới tạo thành thực thể lao động. a. Sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá: -Quá trình chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá. + Khái niệm sản xuất tự cung tự cấp: đó là một kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm của lao động làm ra để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của nội bộ của từng hộ gia đình, từng công xã hay từng cá nhân riêng lẻ. Sản xuất tự cung tự cấp hay còn được gọi là sản xuất tự túc tự cấp hoặc nền kinh tế tự nhiên. Đây là kiểu tổ chức khép kín tức là không có sự giao lưu với bên ngoài vì vậy nó thường gắn liền với sự bảo thủ, trì trệ, bị giới hạn bởi nhu cầu hạn hẹp, kỹ thuật thô sơ lạc hậu. Nền kinh tế tự nhiên tồn tại trong các giai đoạn phát triển thấp của xã hội: thời nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến. Nhưng ở nước ta hiện nay thì kinh tế tự nhiên vẫn còn tồn tại ở các vùng sâu, vùng xa, vùng núi phía bắc, tây nguyên,vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. + Sự xuất hiện của sản xuất hàng hoá. Trong quá trình sản xuất công cụ dần dần được cải tiến, lực lượng sản xuất phát triển làm cho sản phẩm sản xuất ra được nhiều nhiều hơn điều đó dẫn tới việc trao đổi hàng hoá và dẫn tới sự ra đời của nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá là nền sản xuất trong đó người ta sản xuất ra những sản phẩm để mang ra trao đổi trên thị trường. Sản xuất hàng hoá được ra đời khi có đầy đủ 2 điều kiện sau: Phải có sự phân công lao động sản xuất: đó là việc mỗi người sản xuất hoặc mỗi ngành sản xuất chỉ chuyên môn sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó cho nhu cầu của xã hội. Cho đến nay trong lịch sử đã diễn ra ba cuộc phân công lớn đó là: làm cho việc chăn nuôi ra khỏi trồng trọt, làm cho thủ công nghiệ tách ra khỏi nông nghiệp hình thành các ngành sản xuất độc lập như: rèn, gồm…, Dẫn tới làm xuất hiện ngành thương nghiệp. Sự phân công lao động dẫn tới kết quả là tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất bởi vì mỗi người sản xuất chỉ làm ra một loại sản phẩm nhất định nhưng trong đời sống của người đó phải cần đến nhiều loại sản phẩm vì vậy họ có nhu cầu cần trao đổi sản phẩm của mình với sản phẩm của những người khác. Ví dụ: trong điều kiện sản xuất tự cung, tự cấp một gia đình vừa trồng lúa, vừa tạo ra các công cụ lao động sản xuất như: xẻng, cuốc, cày, bừa. Khi có sự phân công lao động xã hội người nông dân chuyên môn hoá sản xuất còn việc chế tạo ra công cụ sản xuất thì do người thợ rèn đảm nhiệm. Người nông dân không chỉ cần có lương thực để ăn, mà còn phải có công cụ để sản xuất, người thợ rèn cũng vậy họ không thể sống bằng xẻng, cuốc, cày, bừa mà cần có lúa gạo. Điều đó làm cho người nông dân và người thợ rèn phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho nhau và phụ thuộc vào nhau. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Tức là tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu của từng cá nhân và vì vậy người ta có quyền chi phối đối với sản phẩm làm ra. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã làm cho những ngành sản xuất trở thành độc lập với nhau trong điều kiện đó để thoả mãn các nhu cầu khác của mình thì người sản xuất có quyền sử dụng sản phẩm của mình để trao đổi với các sản phẩm khác. Hai điều kiện trên làm cho những người sản xuất vừa phụ thuộc lẫn nhau và vừa độc lập đối với nhau. Đây là một quan hệ mang tính thuẫn và để giải quyết mâu thuẫn này người ta phải tiến hành trao đổi hàng hoá. Vì vậy muốn có sản xuất hàng hoá phải có đầy đủ cả hai điều kiện nêu trên. - Ưu thế của sản xuất hàng hoá. + Sản xuất hàng hoá làm cho phân công lao động ngày càng phát triển. Làm cho trình độ chuyên môn hoá, hợp tác hoá ngày càng nâng cao. Thiết lập mối liên hệ giữa các ngành, các vùng, các đơn vị sản xuất như vậy nó sẽ xoá bỏ được tính tự túc tự cấp sự bảo thủ trì trệ và góp phần vào việc đẩy mạnh quá trình sản xuất hàng hoá. + Sản xuất hàng hoá buộc những người sản xuất phải cạnh tranh trên thị trường bằng cách phải cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để hạ giá thành. Nâng cao chất lượng hàng hoá. Những việc làm đó có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sản xuất hàng hoá càng phát triển quy mô của nó càng lớn thì hiệu quả kinh tế của nó đối với xã hội càng lớn và ưu thế của nó so với sản xuất nhỏ cũng tăng lên. + Sản xuất hàng hoá góp phần vào việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất mở rộng giao lưu kinh tế trong nước và nước ngoài, hoà nhập vào kinh tế thế giới. Với những tác dụng kể trên hiện nay trên thế giới có nhiều nước (trong đó có nước ta) tập trung vào phát triển kinh tế hàng hoá. b. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ nói chung và ở Việt Nam - ở Anh, Đức kinh tế hàng hoá xuất hiện từ cuối chế độ cộng sản nguyên thuỷ và phát triển tới ngày nay. ở mỗi nước tính chất và phạm vi của kinh tế hàng hoá có mức độ khác nhau. Hiện nay hầu hết trên thế giới các nước đều thực hiện kinh tế hàng hoá đó là mô hình kinh tế mà giai đoạn phát triển cao là kinh tế thị trường. Kinh tế hàng hoá: là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi trên thị trường. Đây cũng chính là những điểm hoàn toàn khác biệt giữa sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá muốn có kinh tế hàng hoá phải có sản xuất hàng hoá. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá thời kỳ quá độ của Việt Nam là một trong những tất yếu khác quan vì điều kiện ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá vẫn được duy trì hoàn toàn giống như trên chỉ khác là Việt Nam đi từ thời kỳ phong kiến lên CNXH. Phân công lao động với tư cách là cơ sở của sự trao đỏi. - Nền kinh tế đa và đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Công nghệ mới, trình độ quản lý nhằm tạo cơ sở để phát triển hàng hoá. Trong thời kỳ quá độ từ TBCN lên XHCN, xét về mặt sở hữu đó là quá trình chuyển từ sở hữu tư nhân về TLSX lên sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. Cho nên trong nền kinh tế sẽ tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Do vậy ứng với nó là nền kinh tế nhiều thành phần do đặc điểm của thời kỳ quá độ: đặc điểm nổi bật nhất của nền kinh tế là sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần và ứng với nó là một xã hội có nhiều giai cấp. + Thành phần kinh tế: đó là những tổng thể kinh tế bao gồm những cơ sở về nền kinh tế với những quan hệ kinh tế có những đặc trưng nhất định và những quan hệ kinh tế này là do chế độ sở hữu TLSX quyết định. Khi cách mạng vô sản thành công thì chúng ta phải cải tạo nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu. Bao gồm hai loại chính sau: Tư bản lớn: Nguyên tắc cải tạo: phải quốc hữu hoá các tư liệu sản xuất và phải tiến hành qua nhiều giai đoạn trong 1 thời gian dài, tiến hành bằng nhiều biện pháp thích hợp. Vì vậy trong thời kỳ quá độ vẫn tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân và người ta hướng thành phần này theo con đường CNTB nhà nước. Tư hữu nhỏ: là tư hữu của những người sản xuất cá thể, những người sản xuất hàng hoá nhỏ. Với loại này về nguyên tắc thì không tịch thu các TLSX của họ mà cải tạo họ một cách dần dần thông qua công cuộc hợp tác hoá. Vì vậy trong thời kỳ quá độ tồn tại nền kinh tế hợp tác xã. Hiện nay ở nước ta còn tồn tại nhiều trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: hiện đại có, thô sơ có, nửa cơ khí có. Vì vậy việc thiết lập quan hệ sở hữu đối với TLSX cũng phải đa dạng do đó ở nước ta còn nhiều thành phần kinh tế. Trong quá trình xây dựng nên kinh tế mới thì có thể xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác: kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản nhà nước. + Cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Theo tư tưởng của Lênin và căn cứ vào điều kiện kinh tế của nước ta, tại Đại hội VIII của Đảng thì ở nước ta đang tồn tại 5 thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà nước (kinh tế quốc doanh) Thành phần kinh tế hợp tác xã Thành phần kinh tế tư bản nhà nước Thành phần kinh tế cá thể và tiểu thủ Thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Thành phần kinh tế nhà nước Khái niệm: đây là thành phần kinh tế tồn tại dựa trên chế độ sở hữu nhà nước đối với tư liệu sản xuất chủ yếu. Kinh tế nhà nước bao gồm 3 bộ phận sau: Các doanh nghiệp nhà nước: đây là bộ phận quan trọng và chủ yếu nhất của thành phần kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp này trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Các ngành kinh tế thuộc sở hữu nhà nước: những ngành này thì nó cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho xã hội. Bao gồm: hệ thống cơ sở hạ tầng: giao thông, bưu điện…. Nó bao gồm toàn bộ hệ thống ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các xí nghiệp liên doanh với các nước ngoài trong đó vốn của nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế 51% trở lên. Những lực lượng vật chất thuộc sở hữu nhà nước như là đất đai, các nguồn tài nguyên, khoáng sản, các vùng trời, vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Sự hình thành: các doanh nghiệp nhà nước được hình thành như sau: Nhà nước đầu tư vốn để xây dựng mới hoàn toàn từ đầu. Nhà nước góp vốn để liên doanh với nước ngoài với tỷ lệ 51% trở lên. Nhà nước quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản tư nhân. Vai trò của kinh tế nhà nước: trong thời kỳ quá độ và trong nền kinh tế nhiều thành phần thì thành phần kinh tế nhà nước cần phải giữ được vai trò chủ đạo: kinh tế nhà nước phải trở thành đòn bẩy để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Kinh tế nhà nước phải giữ vai trò là người mở đường hướng dẫn và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước phải trở thành lực lượng vật chất chủ yếu để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô toàn bộ nền kinh tế. Kinh tế nhà nước phải tạo được nền tảng cho chế độ xã hội mới tức là phải trở thành mẫu mực về mọi mặt. Năng suất lao động cao, phải tận dụng hết công suất, máy móc, công cụ, làm đủ trách nhiệm với nhà nước, bảo vệ tốt môi trường. Kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay mặc dù là nắm giữ một lượng tài sản tương đối lớn (chiếm 2/3 tài sản quốc gia, 80% lực lượng lao động lành nghề) nhưng kinh tế nhà nước hoạt động chưa hiệu quả: năng suất lao động thấp, chưa sử dụng hết máy móc, thiết bị, nhiều xí nghiệp là ăn thua lỗ, phá sản làm thất thoát vốn của nhà nước. Hiện nay nước ta có 600 doanh nghiệp nhà nước, 35% làm ăn có lãi còn lại 60% làm ăn không có lãi trong đó 25% liên tục bị lỗ. Vì vậy để củng cố thành phần kinh tế nhà nước thì: nhà nước phải đầu tư một cách đồng bộ cả vốn, công nghệ, nhân lực cho những nhân lực kinh tế đang nắm những khâu then chốt của nền kinh tế quốc dân. Ví dụ: ngành điện, dầu khí… Thành lập các Tổng công ty nhà nước để tạo thành những ngành mũi nhọn trong nền kinh tế. Tích cực đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước. Biến doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần. Đối với những doanh nghiệp thường xuyên làm ăn thua lỗ thì giải quyế bằng bán hoặc cho thuê hoặc cho tổ chức đấu thầu, khoán. Thành phần kinh tế hợp tác Khái niệm: đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất nó bao gồm các đơn vị kinh tế do cá nhân những người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Nó tồn tại dưới các dạng sau: hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng. Đặc điểm: các hợp tác xã được hình thành với những quy mô và mức độ khác nhau tuỳ theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Người lao động thì được tự do trong việc tham gia cũng như rút lui khỏi hợp tác xã. Nếu xét về hiệu quả kinh tế thì hợp tác xã ở nước ta làm ăn hiệu quả hơn. Nhiều hợp tác xã có doanh thu lớn, thu nhập xã viên cao, hàng hoá có sức cạnh tranh. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay vẫn còn những hợp tác xã làm ăn thua lỗ, hiệu quả kém, thu nhập thấp, nhiều tiêu cực tron quản lý. Phương pháp củng cố: phải giải quyết thoả đáng vấn đề tư hữu về tư liệu sản xuất. Nhất là đất đai trong nông nghiệp phải thực hiện giao quyền sử dụng lâu dài đối với đất, rừng, mặt nước cho các hộ sử dụng. Phát triển các hình thức hợp tác đa dạng trong nhiều lĩnh vực: giao thông vận tải, xây dựng chế biến nông lâm hải sản… Mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác nhưng phải triệt để theo đúng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng dân chủ và việc tổ chức các hợp tác xã này phải theo đúng luật hợp tác mới ban hành năm 1997. Nhà nước có những biện pháp cần thiết hỗ trợ, giúp đỡ các hợp tác xã về vốn, về nhân lực, về tiêu thụ sản phẩm. Thành phần kinh tế cá thể. Khái niệm: đây là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất dựa trên lao động của bản thân người sản xuất nên không có hiện tượng bóc lột lao động. Thành phần này chịu sự tác động của quy luật giá trị và tác động của thị trường. Đặc điểm: do làm chủ về tư liệu sản xuất và sức lao động nên thành phần này có thể nói là họ rất năng động, linh hoạt dễ thích nghi với thị trường, vì vậy thành phần này có thể khai thác triệt để các thế mạnh về vốn, về lao động, về tay nghề của từng cá nhân, từng gia đình hoặc từng cộng đồng để làm ra nhiều hàng hoá trong xã hội. Vị trí: trong suốt thời kỳ quá độ thì thành phần này giữ một vị trị rất quan trọng nó cùng với một số ngành công nghiệp nhẹ khác cung cấp những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân: lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia đình… Thực trạng phát triển: trước năm 1986 thành phần này bị phân biệt đối xử do đó không được phát triển. Sau năm 1986 thành phần này được coi trọng và được khuyến khích phát triển với tền gọi là kinh tế gia đình. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân Khái niệm: đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất có thuê mướn lao động nên có hệ thống bóc lột lao động làm thuê: Các xí nghiệp tư nhân của người Việt Nam, các xí nghiệp tư nhân của người Việt Nam và người nước ngoài cùng cộng tác, các công ty và các tổ chức làm dịch vụ. Thế mạnh: quá nhiều phương pháp linh hoạt để huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Nó có khả năng sử dụng khoa học kỹ thuật công nghệ mới và đổi mới nhanh các thiết bị. Nó có trình độ quản lý cao, có kinh nghiệm trong việc điều hành sản xuất vì vậy có thể nói thành phần này có vai trò lớn trong việc phát triển sản xuất. Nhược điểm: do chạy theo lợi nhuận tối đa nên nhiều doanh nghiệp tư bản tư nhân có việc làm trái pháp luật: bóc lột công nhân quá mức, bắt công nhân làm quá giờ, tăng ca. Họ kinh doanh những mặt hàng trái với đăng ký trong giấy phép, trốn thuế, gian lận trong thương mại. Thái độ của nhà nước ta: Một mặt vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế phát triển nhưng mặt khác cần phải tăng cường kiểm soát, giám sát những hành động của thành phần này đưa các thành phần này theo con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước Khái niệm: đây là thành phần kinh tế được ra đời dựa trên lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước của Lênin. Sự hình thành: được hình thành trên cơ sở nhà nước và các tư bản cùng góp vốn kinh doanh và nó tồn tại dưới các dạng sau: Các xí nghiệp công ty hợp doanh tồn tại ở nước ta sau năm 1954 ở Miền Bắc và sau 1975 ở Miền Nam. Các liên doanh nước ngoài: sản xuất ô tô, lắp ráp xe máy, sản xuất các mặt hàng điện tử. Nhà nước cho thuê tài sản: cho thuê đất. Vai trò và tác dụng: trong thời kỳ quá độ ở nước ta thành phần này giữ vai trò là những hình thức kinh tế giữ sinh ra để chuyển biến từ những thành phần kinh tế phi XHCN thành thành phần kinh tế XHCN: nó tạo thêm công ăn việc làm, làm tăng thêm sản phẩm xã hội và nó là điều kiện để chúng ta tiếp xúc với công nghệ mới, cách thức quản lý mới và qua đây ta hoà nhập được với thế giới. ii. tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta Đại hội VI Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định: "cần có chính sách sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế …Đó là giải pháp có ý nghĩa chiến lược, là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ". Hội nghị lần thứ 6, Đảng ta xác định rõ hơn: "chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên XHCN…" Tới Đại hội toàn quốc lần thứ VII qua thực tiến 5 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước" coi đó là một trong những phương hướng mà Đảng và nhà nước ta nắm vững trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Tổng kết 10 năm đổi mới, tại Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta một lần nữa lại khẳng định: "tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN" Nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại và phát triển ở nước ta là tất yếu khách quan bởi vì: nền kinh tế nhiều thành phần là một cái tồn tại khách quan của lịch sử và trong thời kỳ quá độ thì có những thành phần kinh tế vẫn có lợi cho sự phát triển đất nước: kinh tế cá thể. Phát triển như vậy nhằm thực hiện nhu cầu của quy luật mà là quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là nhằm cho sản xuất phát triển liên tục không bị gián đoạn. Phát triển như vậy là nhằm tạo ra sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường hiện nay 1. Do yêu cầu của việc phát triển lực lượng sản xuất và thực chất của nó là chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn (XHCN). Về phương diện kinh tế, có thể khái quát rằng lịch sử phát triển sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì của con người. Nó được bó hẹp trong mỗi quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên. kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung, tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội: Cộng sản nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị kinh tế. Kinh tế tự nhiên, hiện vật,sinh tồn, tự cung, tự cấp, gắn liền với kém phát triển và lạc hậu. Kinh tế hàng hoá bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá đơn giản, ra đời từ khi chế độ công sản nguyên thuỷ, dựa trên hai tiền đề cơ bản đó là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh dấu bước phát triển rất lớn của lực lượng sản xuất, bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá là quá trình kinh tế khách quan. Nó bắt đầu khi kinh tế tự nhiên phát triển với trình độ làm xuất hiện những tiền đề của kinh tế hàng hoá. Trong lịch sử những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ hàng hoá tồn tại đan xen và mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá cũng chính là sự xuất hiện tiền đề phủ định kinh tế tự nhiên và khẳng định kinh tế hàng hoá. Mỗi bước phát triển của kinh tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy, trong quá trình vận động và phát triển kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên như vậy trong quá trình vận động và phát triển, kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên và khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội độc lập. Quá trình xuất hiện, vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn ra với sự tác động mạnh mẽ của những tiền đề sau: phân công lao động xã hội, sự độc lập tương đối về kinh tế giữa mọi người, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ, hệ thống thông tin và giao thông vận tải. 2. Do nước ta hiện nay tồn tại nhiều thành phần kinh tế. //////////////////Nền kinh tế nước ta trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI gắn liền với việc thực thi chính sách công cộng hoá, hiện vật hoá trong cơ chế quản lý hành chính tập trung. Cùng với thời gian, tính chất và cơ chế quản lý đó ngày càng bộc lộ thêm nhiều khuyếm khuyết. Vì vậy, đến Đại hội VII, quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được thực hiện trên thực tế trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế đổi mới. Đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tất yếu đưa đến sự cấu trúc lại nền kinh tế, từng bước chuyển nền kinh tế thuần khiết chủ yếu với hai thành phần kinh tế là nhà nước và tập thể sang nền kinh tế thị trường hỗn hợp gồm nhiều thành phần, nhiều khu vực kinh tế và nhiều hình thức sở hữu tồn tại đan xen lẫn nhau. Sở dĩ nước ta hiện nay tồn tại nhiều thành phần kinh tế vì: hiện nay ở nước ta còn tồn tại nhiều trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: hiện đại có, thô sơ có, nửa cơ khí có vì vậy việc thiết lập quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất cũng phải đa dạng do đó ở nước ta còn nhiều thành phần kinh tế. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới thì có thể xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác: kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản nhà nước. ở nước ta hiện nay, quan hệ, hình thức, quy mô sở hữu đối với tư liệu sản xuất luôn là căn cứ cho việc phân định các thành phần kinh tế khác nhau. ở dạng tổng quát nhất, có thể nói rằng trong nền kinh tế nước ta đang tồn tại 3 hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu nhà nước (toàn dân), sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp (gồm giữa nhà nước với nước ngoài, giữa nhà nước với tư nhân nước ngoài và trong nước, giữa nhà nước và tư nhân trong nước, giữa tư nhân với tư nhân, giữa nhà nước vói tư nhân và người lao động..). Từ ba hình thức sở hữu tư bản đó đã hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và những loại hình doanh nghiệp đa dạng và phong phú. 3. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta nó đòi hỏi phải nâng cao đời sống nhân dân: Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Bởi vậy chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và sự yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác thế giới vẫn đang nằm trong thời đại qúa độ từ CNTB lên CNXH, cho nên sự phát triển kinh tế xã hội nước ta phải theo định hướng XHCN là cần thiết, khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự rút ngắn. Sự nghiệp "dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh" vừa là mục tiêu, vừa là nội dung nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo đinh hướng XHCN ở nước ta. Đảng và nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giầu một cách hợp pháp. Dân có giầu thì nước mới mạnh, nhưng dân giầu phải làm cho nước mạnh, đảm bảo độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Nhà nước ta quản lý nên kinh tế là nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước của dân do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế hàng hoá vận hành trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế trên thế giới, nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhà nước công nông. Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dước sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bàn lĩnh, khả năng và đang đổi mới để bảo đảm và giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất nhà nước là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác hiện có trên thế giới. Mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là một nội dung quan trọng của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường ở nước ta. Quá trình phát triển của nó đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở của phát triển nền kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28273.doc
Tài liệu liên quan