Lời mở đầu
Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) là nền tảng cơ bản an sinh xã hội của mỗi quốc gia. Ở nước ta, BHXH đã được thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập nước. Từ đó đến nay chính sách BHXH không ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Bảo hiểm xã hội là việc tạo ra nguồn thu nhập thay thế trong trường hợp nguồn thu nhập bình thường bị gián đoạn đột ngột hoặc mất hẳn, bảo vệ cho những người lao động làm công ăn lương trong xã hội. Trong các c
10 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1556 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu
Tính hợp lý của việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện hiện nay ở Việt Nam , để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơ chế chủ yếu của hệ thống an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội là trụ cột quan trọng nhất.
Ðể thực hiện hiệu quả chính sách BHXH theo cơ chế mới, ngày 16-2-1995, Chính phủ đã thành lập BHXH Việt Nam với chức năng, nhiệm vụ chính là giải quyết chế độ chính sách, tổ chức thu, chi BHXH; bảo toàn, đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH. 15 năm qua, BHXH Việt Nam đã không ngừng phát triển, đạt được những kết quả tích cực trên các lĩnh vực hoạt động. Phạm vi, số lượng đối tượng tham gia các loại hình BHXH, BHYT bắt buộc đã từng bước được mở rộng đến mọi người lao động ở các thành phần kinh tế, loại hình BHYT tự nguyện đã được thực hiện tiến tới BHYT cho toàn dân; Loại hình Bảo hiểm thất nghiệp cũng đã được triển khai. Thực tế mấy năm gần đây cho thấy, đối tượng tham gia BHXH, BHYT đã tăng rất nhanh. Năm 1996 đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là 2,85 triệu người, đến năm 2009 là 9.103.039 người. Năm 1999 số người tham gia BHYT đạt 13% dân số cả nước thì năm 2009 là 53,3 triệu người, chiếm 62% dân số. Ðiều đó minh chứng cho hướng đi đúng đắn, phù hợp xu thế phát triển của đất nước, cũng như nguyện vọng của nhân dân cả nước. Công tác thu, chi BHXH, BHYT và quản lý, bảo tồn quỹ BHXH, BHYT cũng đạt được những tiến bộ rõ rệt, nhất là việc giải quyết kịp thời, đúng chế độ, chính sách cho người lao động và nhân dân khi tham gia, thụ hưởng BHXH, BHYT.
I. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN.
1/. Đối tượng được tham gia BHXH tự nguyện.
gồm tất cả mọi người trong độ tuổi lao động mà không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc như: cán bộ không chuyên trách các xã, phường, thị trấn ; nông dân ; người lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ cá thể; xã viên chỉ góp vốn mà không làm việc trực tiếp tại HTX; người trước đây tham gia BHXH bắt buộc nay đã ngừng tham gia nhưng còn trong độ tuổi lao động và mọi người lao động tự tạo việc làm khác, kể cả người làm nội trợ tại gia đình còn trong độ tuổi laođộng. 2/.Về mức nộp BHXH tự nguyện.
Người tham gia BHXH tự nguyện được lựa chọn mức thu nhập để làm căn cứ đóng BHXH, thấp nhất bằng lương tối thiểu chung và cao nhất bằng 20 lần lương tối thiểu chung và được phân ra thành 205 mức để người lao động dể lựa chọn, phù hợp với thu nhập của mình. Khi cần, người LĐ có thể xin thay đổi mức thu nhập làm căn cứ nộp BHXH.
3/ Về quyền lợi được hưởng.
Người tham gia BHXHTN được hưởng lương hưu và được BHYT miễn phí khi đủ điều kiện hưu trí. Khi từ trần, kể cả người đang tham gia BHXHTN hoặc đang hưởng lương hưu, được trợ cấp mai táng phí và thân nhân được hưởng trợ cấp tuất 1 lần theo quy định. Riêng người tham gia BHXHTN mà dừng đóng nhưng chưa đủ điều kiện hưởng lương hưu thì được hưởng trợ cấp một lần.
II. TÍNH HỢP LÝ KHI THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM TỰ NGUYỆN.Có thể khái quát chính sách BHXH tự nguyện dành cho người lao động không có quan hệ lao động (người lao động tự hành nghề hoặc người lao động tự do)... Người tham gia BHXH tự nguyện sẽ thực hiện hai chế độ dài hạn là hưu trí và tử tuất. BHXH tự nguyện trước hết là một loại hình BHXH, phản ánh đầy đủ bản chất của BHXH là sự bảo đảm của xã hội đối với yếu tố lao động của sản xuất - nhìn từ góc độ kinh tế - hoặc là hoạt động nhằm bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động trước những rủi ro xã hội - nhìn từ giác độ xã hội - mà trước hết là người lao động phụ thuộc (người lao động không có tư liệu sản xuất, người làm công hưởng lương, có quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động) và sau đó mở rộng đến những người tự hành nghề, người lao động tự do hay người làm việc độc lập. Người ta có thể nói vắn tắt rằng, BHXH là sự bảo đảm của xã hội được thực hiện thông qua một hệ thống pháp luật đối với người lao động và các thành viên của gia đình họ trước những rủi ro bằng phương thức đóng góp và tiếp nhận phúc lợi xã hội. Tính xã hội trong BHXH được hiểu là sự đồng nhất về phương thức đóng - hưởng và điều tiết xã hội trong phạm vi cả nước và do Nhà nước đứng ra chịu trách nhiệm. Đồng thời, tính xã hội của BHXH còn thể hiện ở chỗ không có sự phân biệt đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, thuộc các loại hình lao động khác nhau (lao động phụ thuộc hay lao động tự do) và do vậy, đối với chế độ hưu trí, tử tuất thì khi đóng góp theo phương thức giống nhau phải được hưởng thụ theo phương thức như nhau và đương nhiên chỉ đóng góp khác nhau mới hưởng thụ khác nhau.
Tính tự nguyện của loại hình BHXH tự nguyện thể hiện ở chỗ những người không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc được quyền lựa chọn và quyết định khi tham gia loại hình BHXH này. Đây là sự lựa chọn cần thiết của người lao động. Bởi lẽ trước đây, khi mà phạm vi đối tượng tham gia BHXH bắt buộc còn hạn hẹp thì nhiều doanh nghiệp bảo hiểm tư nhân (bảo hiểm mang tính thương mại) đã tung ra thị trường bảo hiểm những sản phảm thuộc lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ cũng mang tên là bảo hiểm hưu trí để thu hút nhu cầu tham gia bảo hiểm của những người lao động chưa được tham gia BHXH bắt buộc. Thậm chí, người ta còn quảng cáo rằng bảo hiểm hưu trí xã hội (hay BHXH theo pháp luật Nhà nước) chỉ dành cho những người hưởng ngân sách nhà nước và do vậy việc đưa ra các sản phẩm bảo hiểm hưu trí tư nhân là nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng hưu trí của đa phần những người chưa được tham gia BHXH bắt buộc. Cũng cần nói thêm rằng hoạt động bảo hiểm nhân thọ nói chung và sản phẩm bảo hiểm hưu trí tư nhân cũng là sự cần thiết trong xã hội và vẫn được khuyến khích phát triển ở nước ta, chỉ có điều người lao động sẽ lựa chọn tham gia khi hiểu đúng và đầy đủ về bản chất của nó. Cụ thể, khi tham gia bảo hiểm hưu trí tư nhân người ta sẽ lựa chọn một mức đóng cố định và tương ứng với nó sau một thời gian đóng góp nhất định sẽ nhận được một mức lương hưu cố định theo một danh mục đóng - hưởng tính sẵn. Thông thường lương hưu (ngay như mô hình BHXH nông dân Nghệ An) được tính bằng tổng số tiền đã đóng vào quỹ BHXH tự nguyện và tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư, trừ chi phí quản lý, chia cho số tháng bình quân hưởng lương hưu. Riêng đối với bảo hiểm hưu trí tư nhân còn phải trừ thêm phần lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm trước khi chia cho số tháng bình quân hưởng lương hưu. Còn khi tham gia BHXH hưu trí tự nguyện thì cũng như BHXH bắt buộc, “lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế” (Điều 53). Đây vừa là một ưu thế về quyền lợi cho người tham gia BHXH tự nguyện và vừa thể hiện tính ưu việt của phương thức hoạt động BHXH. Phương thức này không chỉ thuần tuý dựa trên cơ sở mức đóng để xác định mức hưởng mà còn gắn kết và điều chỉnh với các yếu tố kinh tế - xã hội vĩ mô theo từng thời kỳ. Tức là mức lương hưu trí của BHXH tự nguyện nói chung vẫn phải dựa trên cơ sở quan hệ tương quan với mức đóng và thời gian đóng nhưng quan hệ tỷ lệ này đã có sự điều tiết của xã hội trong từng giai đoạn nhất định, nó chịu sự tác động của một loạt các yếu tố kinh tế xã hội có liên quan khác như: tốc độ phát triển kinh tế quốc dân, thu nhập quốc dân hàng năm, dân số, mức sống xã hội và tuổi thọ bình quân xã hội... Hơn nữa, hoạt động BHXH tự nguyện cũng không chỉ giữ vai trò điều tiết xã hội trong từng thế hệ mà còn gắn kết giữa các thế hệ với nhau cả về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi. Người lao động tham gia chế độ hưu trí thì sự đóng góp của họ hôm nay là để được hưởng cho 20 - 30 năm và có khi 40 năm sau khi đến tuổi về hưu; đồng thời, mức sống của họ khi được hưởng trợ cấp hưu trí sẽ phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai. Chính hoạt động BHXH này đã liên kết lợi ích của các thành viên trong xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác và mọi thế hệ kế tiếp phải có trách nhiệm bảo vệ thể chế chính trị đó thì mới bảo vệ được lợi ích riêng của họ kể cả hiện tại và tương lai. Với mối quan hệ này, trong BHXH người ta thường gọi là “hợp đồng trách nhiệm giữa các thế hệ”.
Cũng như quỹ BHXH bắt buộc, quỹ BHXH tự nguyện cũng được Nhà nước bảo hộ, không bị phá sản ( Điều 6 điểm 2). Điều này đã thể hiện sự nhất quán trong cùng một phương thức quản lý quỹ BHXH và là chỗ dựa vững chắc cũng như tạo ra niềm tin cho người lao động tự do khi được tham gia BHXH tự nguyện - vì họ cũng nhận được sự bảo vệ của Nhà nước.
Nhóm đối tượng tham gia BHXH tự nguyện do tính chất độc lập trong lao động sản xuất kinh doanh sẽ tự giác lựa chọn mức thu nhập làm căn cứ đóng góp BHXH dựa trên cơ sở kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của bản thân họ trong từng tháng, từng năm và từng thời kỳ sau khi đã đảm bảo cuộc sống hiện tại của họ, cũng như lựa chọn phương thức đóng góp theo từng kỳ (hằng tháng, hằng quý, 6 tháng) cho phù hợp.
Đương nhiên khi tham gia BHXH tự nguyện thì người lao động cũng phải tuân thủ và đáp ứng đầy đủ những quy định về mức đóng và thời gian đóng thì mới đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí và tử tuất.
Sở dĩ chúng ta phải nhấn mạnh đến tính hoàn thiện của chính sách BHXH tự nguyện sắp được thực hiện vì trước hết nó đã khắc phục được những bất hợp lý được một số mô hình BHXH tự nguyện trước đây ở nước ta.Điểm lại những chính sách bảo hiểm mang tính xã hội những năm qua cho thấy, chúng ta đã thực hiện BHXH trong các HTX và các tổ hợp sản xuất tiểu thủ công nghiệp theo Quyết định số 292/BCN/LĐ ngày 15/11/1982 của Liên hiệp xã tiểu thủ công nghiệp Trung ương ban hành kèm theo Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với xã viên các HTX và các tổ hợp sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Chính sách này cũng chỉ duy trì được một thời gian ngắn đã vấp phải những khó khăn lớn về quản lý, tổ chức thực hiện và nguồn chi trả nên chỉ tồn tại đến những năm cuối thập kỷ 80 thì loại hình BHXH này đã chấm dứt.
Người tham gia BHXH tự nguyện được tham gia với mức đóng góp như người tham gia BHXH bắt buộc (đương nhiên người lao động không có quan hệ lao động - không có quan hệ với chủ sử dụng lao động thì mặc nhiên họ phải đóng góp toàn bộ cả phần của người lao động và người sử dụng lao động) thì họ được hưởng thụ theo các quan hệ tương thích như người tham gia BHXH bắt buộc. Đây là cơ sở kinh tế để đảm bảo sự bình đẳng giữa mọi người lao động trước các chính sách xã hội trong đó có chính sách BHXH. Cũng từ nền tảng này đã tạo ra sự kết nối, liên thông giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện, tạo ra sự an tâm cho người lao động không bị ảnh hưởng đến quyền lợi khi chuyển từ loại hình lao động phụ thuộc sang loại hình lao động độc lập. Đây là một nhu cầu hết sức khách quan xuất phát từ biến động thường xuyên trên thị trường lao động ở nước ta đặt ra. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện đang trong quá trình phát triển với nhiều diễn biến thay đổi liên tục thì việc người lao động phải di chuyển tìm kiếm việc làm khi thì thuộc thành phần kinh tế này, lúc thì chuyển sang thành phần kinh tế khác, khi thì có quan hệ lao động, lúc thì phải tự hành nghề để kiếm sống - đó là tác động của yếu tố khách quan - là điều khó tránh khỏi cho một bộ phận lớn lao động xã hội. Có thể nói, sự kết nối liên thông giữa hai loại hình BHXH bắt buộc và tự nguyện đã phản ánh tính khoa học và logic của hệ thống chính sách BHXH ở nước ta.
Nếu nhìn từ góc độ phát triển khách quan của hệ thống an sinh xã hội, từ những nhu cầu và đòi hỏi bức bách về BHXH của người lao động thì chính sách BHXH tự nguyện là giải pháp mở rộng phạm vi đối tượng tham gia BHXH, nhằm thực hiện mục tiêu BHXH cho mọi người lao động. Thực tế cho thấy, đến nay mới chỉ có khoảng 12% trong tổng số lao động xã hội (trong độ tuổi lao động) được tham gia BHXH bắt buộc trong đó chủ yếu vẫn là lao động trong khu vực quốc doanh, số còn lại là lao động làm việc trong khu vực ngoài quốc doanh, số này chiếm khoảng 20% lao động ngoài quốc doanh thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc. Đây là một con số còn quá khiêm tốn so với số người lao động bắt buộc cần phải được tham gia BHXH. Mặt khác, do đặc điểm nền kinh tế của nước ta hiện nay phát triển chưa cao - cũng như đặc trưng của những nước kinh tế đang phát triển khác - một bộ phận lớn lao động còn làm việc trong nông nghiệp dưới hình thức tự quản: họ được chia ruộng đất và chủ động trồng trọt, chăn nuôi trên mảnh đất của mình hoặc làm thêm các nghề phụ, dịch vụ khi không vào thời vụ; một bộ phận lao động không nhỏ ở thành thị hoạt động theo hình thức tự hành nghề, lao động tự do hoặc họ có thể tham gia sản xuất nhỏ; mở cửa hàng kinh doanh, buôn bán nhỏ hoặc hoạt động dịch vụ phục vụ xã hội - loại hình lao động này rất đa dạng và phổ biến ở các điểm tập trung dân cư, thị trấn thị xã hay thành phố - quan hệ lao động chưa phát triển. Riêng nhóm đối tượng chưa có quan hệ lao động hiện nay còn chiếm tới 80% nguồn lao động xã hội. Chính sách BHXH tự nguyện đã là giải pháp hợp lý cho 80% nguồn lao động xã hội này được tham gia chế độ hưu trí và tử tuất.
Nếu nhìn rộng hơn thì việc thực hiện chế độ BHXH mới từ năm 1995 đã tạo ra bước đột phá quan trọng về sự bình đẳng của người lao động trong xã hội. Nó phá vỡ hàng rào ngăn cách giữa sự bất bình đẳng về mặt chính sách xã hội giữa người lao động trong khu vực Nhà nước với người lao động ngoài khu vực Nhà nước, giữa lao động trong biên chế và lao động hợp đồng. Đồng thời, cũng xóa bỏ quan niệm “bao cấp” cho rằng, BHXH như là một chế độ ưu ái riêng có của lao động thuộc khu vực Nhà nước trước đây. Đến nay, việc ban hành chính sách BHXH tự nguyện lại một lần nữa tiếp tục phá vỡ sự phân biệt giữa người lao động phụ thuộc trong các cơ quan, tổ chức, các doanh nghiệp... với người lao động tự do, tự hành nghề. Mọi người lao động có việc làm trong khuôn khổ pháp luật cho phép, có thu nhập từ lao động, đều được bình đẳng về mặt pháp lý như nhau trước các chính sách xã hội. Như vậy, mọi người lao động, không phân biệt theo thành phần kinh tế, không phân biệt nghề nghiệp, không phân biệt tính chất lao động khi có việc làm đều là bộ phận của lao động xã hội, sản phẩm và dịch vụ do lao động của họ tạo ra cũng là bộ phận cấu thành nên tổng sản phẩm xã hội. Đồng thời, thu nhập từ lao động của họ cũng được tham gia vào quá trình điều tiết phân phối lại chung của toàn xã hội thông qua hoạt động BHXH. Đó là cơ sở đảm bảo sự bình đẳng cho mọi người lao động trước những chính sách xã hội, trong đó có chính sách BHXH. Sự phân biệt các thành phần kinh tế, loại hình công việc... nhằm để có các chính sách quản lý cho phù hợp chứ không phải là căn cứ phân biệt về chính sách, chế độ về quyền lợi xã hội đối với người lao động.
KẾT LUẬN
Chính sách BHXH tự nguyện đã mở ra một cơ hội mới cho số đông người lao động; mặt khác rất phù hợp với cơ chế thị trường, bởi có cơ chế tham gia, mức đóng, phương thức đóng thuận tiện, đáp ứng nhu cầu của đông đảo người dân.
Ngành BHXH đang tiến hành triển khai trực tiếp cho người lao động từ ngày 1/7/2008 tại các quận huyện trên toàn quốc, dù triển khai có chậm so với quy định, nhưng người lao động sẽ được đóng truy thu từ 1/1/2008 nếu có nhu cầu theo đúng lộ trình của Luật BHXH.
Lý giải cho việc triển khai khá chậm của ngành BHXH đó là khi thực hiện BHXH bắt buộc cho người lao động chỉ triển khai tới từng đơn vị, bây giờ triển khai BHXH tự nguyện là triển khai tới từng người lao động, từng người tham gia, phải xây dựng cho được một quy trình quản lý mới. Quy trình này vừa phải quản lý được quỹ chặt chẽ, vừa phải đơn giản, thuận lợi, linh hoạt, chính xác cho người tham gia, bởi vì những người tham gia hôm nay, nhưng đến tận 20 năm hoặc hơn nữa họ mới thụ hưởng.
Thời gian tới sẽ có nhiều người đang bảo lưu chế độ BHXH bắt buộc tham gia BHXH tự nguyện, vấn đề kỹ thuật là làm sao để hai quỹ khi thực hiện liên thông cho người lao động thuận lợi và đơn giản về thủ tục cho người lao động, vì hiện nay 2 quỹ đang hoạt động độc lập với nhau.
Do thời gian hạn hẹp, nên đề tài về “Tính hợp lý của việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện hiện nay ở Việt Nam ” số liệu còn hạn chế và còn thiếu sót nhiều kính mong sự hướng dẫn và góp ý của cô giáo để cho đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26178.doc