Tình hình Xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO & những định hướng phát triển

Lời mở đầu Trong hơn thập kỷ qua, nông nghiệp nước ta đã phát triển với tốc độ cao, bình quân đạt trên 4,5%/năm. GDP ngành nông nghiệp năm 2000 tăng 5,3 lần so với năm 1990 (giá cố định 1994), trong khi đó GDP của ngành nông - lâm - thuỷ sản trong tổng GDP chung của toàn quốc đã giảm từ 38,7% (1990) xuống còn 24,1% năm 2003. Giá trị xuất khẩu trên giá trị sản xuất của ngành nông - lâm - thuỷ sản đã tăng từ 16,2% (1990) lên 27,5% (1995) và 35,4% (2003). Nông nghiệp đã hình thành nhiều vùng chuyê

doc58 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1648 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình Xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO & những định hướng phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n canh, sản xuất dư thừa nhiều loại nông sản phẩm, đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước về lương thực, thực phẩm, và tham gia xuất khẩu. Tỷ suất hàng hoá tăng nhanh tỷ lệ gạo xuất khẩu 20% sản lượng, cà phê 95%, cao su 80%, chè 60%. Năm 2003 có kim ngạch xuất khẩu nông sản trên 3 tỷ USD. Nông nghiệp của ta đã c bước tăng trưởng, song nông sản hàng hoá chất lượng cao chưa nhiều, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô, giá trị thấp. Tính cạnh tranh nông sản hàng hoá của ta trong khu vực và trên thị trường thế giới còn yếu, thị trường nông sản tổ chức chưa chặt chẽ, tính ổn định không cao. Cơ sở thương mại phục vụ tiêu thụ còn hạn chế, các hệ thống kênh thị trường hoạt động còn chưa thông suốt, hiệu quả thương mại chưa được cao cũng như sự mất cân đối trong phân phối hiệu quả, lợi nhuận giữa các bên tham gia thị trường trong từng loại nông lâm sản, và từng thị trường khu vực, đó là những thách thức lớn trong thời gian tới. Biến động giá xuất khẩu nông sản hết sức phức tạp, và nước ta hiện tại xuất khẩu với giá thấp hơn 30 - 40% giá nông sản thế giới, điều này cho thấy cần nghĩ tới cải tiến chất lượng thích ứng với thị trường và hạ chi phí tiêu thụ sản phẩm Bên cạnh đó, thị trường nông nghiệp nội địa mới hình thành, nông nghiệp xuất khẩu đang gặp sự cạnh tranh khốc liệt trong điều kiện nước ta sẽ gia nhập WTO trong năm tới, các chính sách liên quan đến thị trường nông lâm nghiệp còn ít, các ban thị trường cho trong nước và xuất khẩu cơ cấu và hoạt động chưa tốt, ...những điều kiện này đòi hỏi phải có sự nhìn tổng thể và định hướng phát triển chiến lược cho thị trường nông lâm sản trong điều kiện nền kinh tế nước ta mới thời kỳ sơ khai của nền kinh tế thị trường và tham gia tự do hoá thương mại. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO và những định hướng phát triển” Đề tài được kết cấu thành 3 phần: Phần I: Thực trạng thị trường nông sản Phần II : Các yếu tố ảnh hưởng đến tiêu thụ nông sản Phần III: Định hướng phát triển thị trường nông sản Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng do trình độ có hạn nên em rất mong các thầy cô thông cảm cho em Phần thứ nhất Thực trạng thị trường nông sản I. Khái quát các kênh thị trường nông sản hiện nay 1. Kênh thị trường các sản phẩm xuất khẩu 1.1. Mặt hàng cà phê a.Tinh hình sản xuất: Trong hơn 10 năm qua, ngành cà phê nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Sản lượng cà phê cả nước đã tăng nhanh từ khoảng 92 ngàn tấn niên vụ 1990/1991 lên 771,2 ngàn tấn năm 2003 nghĩa là tăng lên khoảng 8,4 lần. Thời kỳ phát triển cà phê nhanh nhất là 1995 - 2000: sản lượng tăng khoảng 3,8 lần. Thời kỳ này diện tích cà phê tăng nhanh ngoài sự kiểm soát của các cơ quan chức năng, nhiều diện tích đã được trồng trên cả những vùng không phù hợp về điều kiện sinh thái do chạy theo lợi nhuận và hậu quả là khi giá cà phê giảm như hiện nay nhiều diện tích bị chặt bỏ để thay thế các loại cây trồng khác. Từ năm 1998 đến nay, giá cà phê liên tục giảm, đặc biệt là từ năm 2000 ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất cà phê nước ta. Niên vụ năm 2003/2004 diện tích cà phê cả nước còn là 513,7 ngàn ha, sản lượng là 771,2 ngàn tấn (giảm so với năm 2000 là 31,1 ngàn tấn). Trong cơ cấu diện tích, cà phê vối chiếm 97,8%, diện tích cà phê chè không đáng kể chưa đầy 2,2% diện tích cà phê hiện có của niên vụ 2003/2004. Đây là một hạn chế lớn và ảnh hưởng nhiều tới giá xuất khẩu trên thị trường. b. Xuất khẩu cà phê Việt Nam sản xuất cà phê chủ yếu dành cho xuất khẩu, chiếm đến trên 90% khối lượng sản xuất ra hàng năm, trong đó có tới 90% là cà phê vối (Robusta). Số lượng cà phê xuất khẩu ngày càng tăng và đạt mức kỷ lục vào năm 2001 (sản lượng cả nước đạt gần 900.000 tấn và xuất khẩu 713.735 tấn), nhưng kỷ lục về kim ngạch xuất khẩu cà phê lại là năm 1998 đạt gần 600 triệu USD (đứng thứ 2 sau lúa gạo). Kết quả xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong thời gian qua được phản ánh qua biểu sau: Biểu 4. Khối lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu Năm Số lượng (tấn) Giá trị (1000USD) Giá bình quân (USD/tấn) 1982 4.140 5.000 1.207,7 1995 233.000 349.500 1.500,0 1996 235.000 430.000 1.829,8 1997 391.870 527.704 1.346,6 1998 445.415 569.500 1.293,1 1999 464.356 563.396 1.213,0 2000 705.308 464.342 658,4 2001 713.735 263.000 368,5 2002 718.600 322.300 448,5 2003 749.000 504.800 674,0 Nguồn: Niên giám thống kê. Thị trường xuất khẩu cà phê không ngừng được mở rộng, năm 1996 xuất khẩu sang 34 nước, năm 1999 xuất khẩu sang 40 nước. Hiện nay cà phê Việt Nam được xuất sang gần 60 nước ở 5 châu lục. Thị trường chính là các nước châu Âu, năm 2003 có hơn 20 nước nhập khẩu tới 65% lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam, trong đó đứng đầu là Đức (chiếm 16%), tiếp theo là Tây Ban Nha (8,3%) và Italia (6,9%), Pháp (5,5%), Ba lan (5%), Anh (4,8%), Hà Lan (3,9%), Bỉ (3,3%), Thuỵ Sỹ (2,8%) và một số thị trường khác. Châu á chiếm 18%, trong đó Hàn Quốc chiếm 4,7%, Nhật Bản 3,6%, Philippin 3,4%, Singapore 1,85% và một số nước khác. Châu Mỹ chiếm 13,8%, đứng đầu là Hoa Kỳ chiếm 13,4% còn các châu lục khác là 3,2%. Việt Nam là nước có khả năng cạnh tranh cao trong sản xuất và xuất khẩu cà phê do lợi thế về khí hậu, môi trường và chi phí lao động thấp. Năng suất cà phê Việt Nam cao nhất thế giới, sản xuất và xuất khẩu cà phê đứng thứ hai thế giới. Nhưng do công nghệ chế biến chậm phát triển và thương mại cà phê chưa được tổ chức hợp lý, thường buôn bán qua trung gian nên giá cà phê Việt Nam thường thấp hơn giá cà phê thế giới từ 150 - 200 USD/Tấn. Mặt khác, trong cơ cấu sản phẩm, cà phê Robusta chiếm tỷ trọng 90% tổng sản lượng sản xuất nên kim ngạch xuất khẩu cũng bị hạn chế một phần. Những năm qua, tuy khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tăng, nhưng kim ngạch xuất khẩu không tăng lên tương ứng, thậm chí còn giảm mạnh do giá cà phê xuất khẩu không ổn định và giảm xuống đến 7 lần so với giá năm cao nhất (368/2641 USD/tấn). Mặt khác do chất lượng cà phê nhân của Việt Nam còn thấp nên giá cà phê xuất khẩu của ta thua hơn so với giá bình quân trên thế giới từ 500 - 1000 USD/tấn (thấp hơn 30 - 45%). Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam tuy nhiều nhưng cũng không dàn trải, chưa thật tập trung vào một số bạn hàng lớn, chưa ổn định về số lượng, về giá cả xuất khẩu và về bạn hàng. Một số thị trường của ta chỉ là các thị trường trung gian, chứ ta chưa xuất khẩu được nhiều cà phê trực tiếp cho người tiêu dùng đích thực, vô hình chung chúng ta đã nhượng lợi ích xuất khẩu cho người khác hưởng. Việc nắm bắt và phân tích kịp thời các nguồn thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh cà phê thế giới, nhanh chóng có sự chỉ đạo kinh doanh đúng đắn sẽ góp phần tăng hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản nói chúng và mặt hàng cà phê nói riêng. Những nội dung này ở Việt Nam còn yếu kém. c. Kênh tiêu thụ cà phê Nhận xét: Người sản xuất chủ yếu vẫn là hộ gia đình nhưng đã xuất hiện một số doanh nghiệp tư nhân, liên doanh sản xuất lớn. Thiếu những sàn giao dịch hiện đại để nhà sản xuất, doanh nghiệp chế biến và công ty kinh doanh (cả xuất khẩu) giao dịch bình đẳng, công khai, minh bạch những lô hàng lớn, tiêu chuẩn hóa làm cơ sở kế hoạch hóa sản xuất, kinh doanh. Trình độ kinh doanh quốc tế quá kém, toàn bộ cà phê xuất khẩu đều bán qua chi nhánh hoặc đại diện các công ty nước ngoài đóng tại Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam chưa tiếp cận được thị trường Luân Đôn, New York; chưa tiếp cận nhà chế biến, công ty phân phối của nước ngoài (gần như là ủy thác xuất khẩu) cà phê Việt Nam hoàn toàn không có kinh nghiệm riêng trên thị trường quốc tế. 1.2. Mặt hàng cao su a. Tình hình sản xuất Trong các năm qua, Nhà nước đã dành sự quan tâm cho đầu tư phát triển ngành cao su. Tổng diện tích cao su năm 2003 đã lên tới 436,5 ngàn ha, đạt sản lượng khoảng 313,9 ngàn tấn mủ khô, gấp 2 lần về diện tích và 5,42 lần sản lượng (mủ khô) so với năm 1990. Cao su Việt Nam tập trung chủ yếu ở 2 vùng: Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Năm 2003, diện tích cao su của Đông Nam Bộ đạt khoảng 293,5 ngàn ha, sản lượng đạt 264,4 ngàn tấn chiếm 67,2 % về diện tích, 84,2% về sản lượng cao su toàn quốc. Bình Dương, Bình Phước là các tỉnh có sản lượng cao su lớn nhất nước ta. Năm 2003, sản lượng cao su Bình Dương đạt 91,8 ngàn tấn, chiếm 29,2%, Bình Phước đạt 76,5 ngàn tấn chiếm 24,3% về sản lượng cao su toàn quốc. Tây Nguyên năm 2003 đạt 104,6 ngàn ha, sản lượng đạt 41,2 ngàn tấn chiếm 23,9% diện tích, 13,1% về sản lượng cao su toàn quốc. b. Tình hình xuất khẩu Cao su Việt Nam sản xuất chủ yếu để xuất khẩu. Cao su là một trong những nông sản đóng góp một tỷ trọng không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam. Trong hơn 10 năm qua (1990 - 2003), Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 2,9 triệu tấn cao su, đạt kim ngạch trên 2,24 tỷ USD. Năm 1996, kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam lên tới mức đỉnh cao gần 250 triệu USD. Những năm sau đó giai đoạn 1997 - 1998, kim ngạch xuất khẩu giảm đáng kể do giá xuất khẩu giảm mạnh. Tuy nhiên trong một vài năm vừa qua, xuất khẩu cao su có hướng tăng mạnh về lượng và phục hồi dần về doanh thu. Năm 2003 xuất khẩu đạt 433,1 ngàn tấn, đạt kim ngạch 377,9 triệu USD. Biểu 5. Tình hình xuất khẩu cao su Việt Nam (1992 - 2003) Đơn vị: Lượng: 1000 tấn; Giá trị: triệu USD Năm Số lượng Kim ngạch XK 1992 81,9 74,29 1993 96,7 133,56 1994 135,5 192,23 1995 130,0 149,84 1996 149,5 143,50 1997 194,2 190,54 1998 191,0 127,47 1999 265,33 146,84 2000 273,40 166,02 2001 308,07 165,97 2002 444,0 263,00 2003 433,1 377,9 Nguồn: Niên giám thống kê. Thị trường xuất khẩu cao su ngày càng được mở rộng, năm 1996 xuất khẩu sang 23 nước, năm 2000 xuất khẩu sang 32 nước. Hiện nay đã xuất khẩu sang 35 nước. Thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam là các nước trong khu vực châu á như Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc. Giai đoạn 1995 - 1999, xuất khẩu cao su của Việt Nam sang thị trường châu á chiếm tới 85%, giai đoạn 2000 - 2003 chiếm 69% kim ngạch xuất khẩu. Châu Âu cũng là thị trường tiêu thụ cao su khá lớn của Việt Nam và ngày càng được mở rộng. Giai đoạn 1995 - 1999 chiếm trên 10%, giai đoạn 2000 - 2003 chiếm 22,1% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Các nước nhập khẩu cao su của Việt Nam chủ yếu là Đức, Nga; bên cạnh một số quốc gia khác nhập ít hơn là Anh, Italia, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ. Đối với thị trường Liên Bang Nga và các nước Đông Âu thì thông lệ mua bán lẻ rất phổ biến. Hiện nay cao su là nguồn thu ngoại tệ lớn thứ 3 của Việt Nam, sau gạo và cà phờ. 1.3. Mặt hàng điều a.Tình hình sản xuất Điều là cây trồng phát triển tự phát trong giai đoạn đầu sau đó mới của có quy hoạch của ngành. Nước ta trồng điều chủ yếu để xuất khẩu, năng suất vườn điều hiện nay rất thấp là do trước đây nông dân trồng giống xấu, ít quả, vườn điều lại không được chăm sóc bón phân như cây cao su và cà phê. Muốn có năng suất điều cao vấn đề chính hiện nay là tạo ra các giống điều có năng suất cao, thấp cây trồng thay thế các vườn điều giống cũ năng suất thấp. Chúng ta đã tạo ra các giống tốt, song hạn chế là số lượng giống mỗi năm có hạn, diện tích trồng bằng giống mới hàng năm không lớn. Diện tích trồng điều năm 1995 là 187,6 ngàn ha, sản lượng hạt 50,5 ngàn tấn. Từ năm 2000 đến nay diện tích trồng điều tăng nhanh là do giá hạt điều xuất khẩu cao, có những giống mới ngắn ngày hơn và cho năng suất khá cao cho nên diện tích trồng điều tăng nhanh. Năm 2000 diện tích là 195,5 ngàn ha, sản lượng 135 ngàn tấn, năng suất 8,9 tạ/ha. Năm 2003 sản lượng đạt 159,3 ngàn tấn tăng 3,1 lần so với năm 1995. b. Tình hình xuất khẩu Biểu 5. Tình hình xuất khẩu điều Việt nam Năm Lượng xuất khẩu (1000tấn) Giá trị (Triệu USD) 1992 51,70 39,2 1993 47,70 44,02 1994 49,50 37,37 1995 95,00 39,50 1996 16,60 75,60 1997 33,30 133,33 1998 25,20 116,95 1999 18,39 109,75 2000 34,20 167,32 2001 44,00 152,00 2002 62,80 212,00 2003 84,00 284,50 Đến tháng 8/2004 62,81 242,50 Nguồn: Niên giám thống kê. Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu điều lớn trên thế giới. Từ năm 1994 trở về trước, nước ta chủ yếu xuất khẩu hạt điều thô, giá cả biến động do người mua khống chế (chủ yếu là ấn Độ). Thị trường xuất khẩu điều trong những năm này thường bấp bênh phụ thuộc nhiều vào mức cung trong nước. Do đó kể từ năm 1995 đến nay, Việt Nam đã chuyển sang xuất khẩu hạt điều nhân chế biến nhằm tăng lợi nhuận và tạo công ăn việc làm cho dân cư địa phương. Từ năm 2000 trở lại đây, tình hình xuất khẩu điều của Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, năm 2000 xuất khẩu được 34,2 ngàn tấn đạt kim ngạch 167,32 triệu USD. Năm 2002, Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu điều (sau ấn Độ) sản lượng xuất khẩu là 62,8 ngàn tấn, kim ngạch xuất khẩu 212 triệu USD. Đến năm 2004 (tính đến tháng 8) đã xuất được 62,81 ngàn tấn, đạt giá trị kim ngạch 242,5 triệu USD. Năm 1996 nước ta mới xuất khẩu sang 16 nước. Năm 1999 đã xuất sang 23 nước. Đến nay đã có mặt trên 30 nước, Mỹ và Trung Quốc là hai thị trường nhập khẩu hạt điều lớn nhất của Việt Nam với tổng tỷ trọng trờn 50%. Lượng nhập khẩu của Hoa Kỳ năm 2003 tăng 28,4%,năm 2004 tăng 30,1% Trung Quốc tăng 16,6%, Canada tăng 80% so với năm 2002. c. Kênh tiêu thụ điều Do tính chất của mặt hàng xuất khẩu nên có một số tác nhân tham gia vào quá trình sản xuất, chế biến và xuất khẩu nhân điều Những tác nhân chính trong kênh tiêu thụ điều là nông dân (hay người trồng điều), người thu mua điều, người chế biến nhỏ, các công ty chế biến và xuất nhập khẩu điều nhân (tư nhân hay doanh nghiệp Nhà nước). Không giống như những mặt hàng nông sản khác như lúa gạo, rau quả, v.v... hạt điều sản xuất phục vụ thị trường nhưng chủ yếu không phải là tiêu thụ nội bộ (tiêu thụ gia đình, hộ). Hạt điều thô được tiêu thụ qua nhiều kênh khác nhau. Người nông dân (hay người trồng điều) có thể bán điều cho những người tư thương thu gom điều, các xưởng chế biến nhỏ trên địa bàn hoặc trực tiếp cho các nhà máy của các công ty chế biến hạt điều và từ đó hạt điều thô được chế biến phục vụ người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu Tại Việt Nam tất cả các công ty xuất nhập khẩu điều đều có nhà máy chế biến hạt điều riêng. Mỗi công ty thành lập những đại lý, xưởng thu gom nhằm huy động tốt nguồn nguyên liệu trong nước đáp ứng nhu cầu về chế biến. Một số công ty cũng đã phát triển vùng nguyên liệu riêng của mình thông qua việc đầu tư về diện tích khuyến khích nông dân trồng điều bằng việc hỗ trợ về vốn, giống cây năng suất cao. Tuy nhiên, cuộc chiến về nguyên liệu điều thô đôi lúc trở lên khốc liệt về giá cả giữa các tác nhân trong kênh tiêu thụ. 1.4. Mặt hàng tiêu a. Tình hình sản xuất Sản lượng tiêu biến động không ổn định. Nếu năm 1991 sản lượng tiêu đạt: 8.900 tấn sau đó liên tục giảm đến năm 1994 mới tăng lên đạt 8.900 tấn (bằng năm 1991), tiếp đó sản lượng tăng đột biến từ 9.300 tấn năm 1995 lên 27.900 tấn năm 2000. Đến năm 2003, sản lượng tiêu cả nước đã đạt 70,1 ngàn tấn. Hiện nay tiêu được trồng chủ yếu ở các vùng: Đông Nam Bộ (sản lượng chiếm 70%), Tây Nguyên (sản lượng chiếm 26,8%), Bắc Trung Bộ ( sản lượng chiếm 2,3%). Các vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên có ưu thế về đất, cho năng suất cao, còn các vùng tiêu vùng ĐBSCL (Phú Quốc) và Bắc Trung Bộ lại có ưu thế về khí hậu giúp tiêu có hạt chắc và hương vị đặc trưng. b.Tình hình xuất khẩu Việt Nam sản xuất tiêu chủ yếu phục vụ xuất khẩu. Lượng xuất khẩu tiêu từ năm 1992 - 2003 có xu thế tăng nhưng không ổn định. Cụ thể như sau: Biểu 6. Tình hình xuất khẩu tiêu Việt Nam 1992 - 2003 Năm Lượng xuất khẩu (1000 tấn) Kim ngạch xuất khẩu (Triệu USD) 1992 22,35 15,29 1993 20,14 12,40 1994 19,50 18,00 1995 17,00 24,50 1996 25,30 46,75 1997 24,71 67,23 1998 15,00 64,50 1999 34,78 137,26 2000 37,00 145,93 2001 57,02 91,24 2002 77,00 108,00 2003 74,1 104,90 Tính đến tháng 8/2004 57,9 80,81 Nguồn: Niên giám thống kê. So sánh với khối lượng sản xuất thì tiêu xuất khẩu chiếm khoảng 90 - 95% tổng sản lượng. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu tiêu đạt 137,26 triệu USD (xếp thứ 4 sau gạo, cà phê, cao su) và sản lượng xuất khẩu của Việt Nam đứng thứ 3 trên thế giới (sau ấn Độ và Inđonêxia). Năm 2002, Việt Nam xuất khẩu tiêu đứng đầu thế giới (sản lượng xuất khẩu 77 ngàn tấn và kim ngạch xuất khẩu 108 triệu USD) vượt lên trên Inđônêxia (sản lượng xuất khẩu 63,2 ngàn tấn và kim ngạch xuất khẩu 89,197 triệu USD). Tính đến tháng 8 năm 2004, Việt Nam đã xuất khẩu được 57,9 ngàn tấn với kim ngạch 80,81 triệu USD. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu tiêu đen, tiêu trắng mới xuất khẩu từ năm 2003. Lượng tiêu trắng vẫn xuất khẩu rất ít so với tổng lượng xuất khẩu, năm 2003 đạt 4260 tấn, chiếm gần 6% sản lượng tiêu xuất khẩu. Thị trường tiêu đã và đang được mở rộng, năm 1999 Việt Nam đã xuất khẩu sang 34 nước trong đó đứng đầu là Singapore (chiếm 41%), sau đó là Brazin (19,6%), Hà Lan (8,9%) sản lượng tiêu xuất khẩu cả nước. Hiện nay hồ tiêu Việt Nam được xuất khẩu sang khoảng 40 nước, trong đó thị trường châu Âu (33%), châu á (24%), châu Mỹ (16,3%). Hạt tiêu đen nước ta đã khẳng định vị trí trên thị trường quốc tế cả về chất và lượng. Chúng ta có thể đáp ứng hoàn toàn các loại tiêu đen theo yêu cầu khách hàng. Hạt tiêu trắng hiện vẫn còn nhiều tiềm năng, thị trường đang rộng mở. c. Kênh tiêu thụ hồ tiêu ở mức độ thu gom trực tiếp này, tính cạnh tranh rất cao. Trước kia, các cơ sở thu gom chủ yếu nằm ở trung tâm thị trấn, nhưng sau một thời gian cạnh tranh, họ chuyển vào gần nông hộ hơn để mua được nhiều hơn. ở trung tâm chỉ còn lại các đại lý lớn thu gom tiêu từ các cơ sở nhỏ. Một xã có rất nhiều người thu gom đặt cơ sở cách nhau không xa. Như ở xã Anh Phú, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước, có đến 20 cơ sở thu gom nhỏ cố định, chưa kể người đi thu gom mua tận nhà của người trồng tiêu. Các cơ sở thu gom nhỏ thường mua tiêu dựa trên tiêu chuẩn dung trọng (trọng lượng/lít) đo bằng ống bơ và cân đồng hồ, không đo độ ẩm bằng máy như các cơ sở thu gom lớn. Giá mua vào của các cơ sở thu gom nhỏ được dựa trên chuẩn 450g/l. Khi bán ra cho các cơ sở lớn, cơ sở dựa trên dung trọng 450g/l và độ ẩm là 15%. Như vào thời điểm điều tra, loại 450g/l, độ ẩm 15% được giá là 18.400 đ/kg, giá giảm 200 đ/kg, nếu dung lượng giảm 10g/l. Độ ẩm tăng 1% tương đương dung lượng giảm 10g/l, nếu tiêu có dung trọng 450g/l mà độ ẩm 16% thì mua được với giá 18.200đ/kg. Các chủ cơ sở không có máy đo độ ẩm nhưng cũng ước chừng độ ẩm bằng cách cắn hạt tiêu (như hạt lúa) xem đã phơi già hay non. Họ cũng ước chừng độ lép, độ chắc của hạt khi nhìn và sờ qua lô hàng. Theo quan sát, những lô hàng lép thường được trả thấp hơn hẳn (6000đ/kg so với 18000đ/kg loại 450g/l). Mỗi cơ sở thu gom nhỏ đều trang bị một máy thổi rất đơn giản, trị giá khoảng 1 triệu đồng, có chức năng như cái quạt để thổi hạt lép. Hàng nhiều hạt lép thường không thổi, được phơi và bán riêng để tiêu thụ trong thị trường trong nước. Hàng chắc được phơi, thổi để bán với giá cao hơn cho đơn vị thu gom. Giá mua các cơ sở thu gom nhỏ công bố rất thống nhất với nhau và bằng giá chợ, do các cơ sở nay tham khảo giá chợ mỗi sáng và so sánh với giá mua của khách hàng của họ. Giá được phát ra từ các cơ sở thu gom lớn có giá trị theo buổi, sau mỗi buổi đều có liên lạc để chốt giá. Có những khi giá biến động bất thường, cơ sở lớn điện ngay cho cơ sở nhỏ để thay đổi giá. Giá tiêu ở mức nông hộ thay đổi liên tục, giá sáng khác giá trưa và khác giá chiều. Các cơ sở thu gom nhỏ hầu hết không lưu tiêu, sáng mua, chiều bán lại cho cơ sở lớn nên hầu hết không lỗ. Trong ngày thu mua cũng có độ hao do giảm độ ẩm hoặc mua phải tiêu mốc. Tuy nhiên, độ hao không nhiều, chỉ 1% với tiêu mốc, hộ đem trà với nước, phơi và vẫn bán được. Tính giá chênh lệch thì chỉ khoảng 100đ/kg, nhưng theo các nông hộ, họ có thể lãi hơn bằng cách đong đếm và xác định chất lượng tiêu có lợi hơn cho họ. Theo các chủ cơ sở thu gom lớn, các đơn vị thu gom nhỏ có thể lãi 200 - 300đ/kg. Các cơ sở không mất chi phí vận chuyển cũng như chi phí thuế kinh doanh do họ không đăng ký doanh nghiệp. Thông thường nông dân tự chuyển tiêu đến bằng xe máy và vào cuối ngày, họ có xe của cơ sở thu gom lớn đến gom hàng. Các cơ sở thu gom này cũng cho nông dân vay tiền mua vật tư. Lượng cho vay khoảng1 - 5 triệu đồng/hộ, phụ thuộc vào sản lượng tiêu của hộ. Một cơ sở cho 4 - 5 hộ vay. Chỉ có khoảng 50% số hộ vay bán lại tiêu cho cơ sở để trừ tiền. Thường, các cơ sở không lấy lãi và mua với giá mua thông thường để lấy nguồn hàng ổn định. Giá mua là giá khi giao hàng và thoả thuận không có hợp đồng chính thức, chỉ giao ước với nhau. Hiện tượng bán cả vườn tiêu và chạy làng cũng có, như năm 2003 có 3 trường hợp/xã. Các cở thu gom có ít nhất 3 -4 bạn hàng là cơ sở thu gom nhỏ thường xuyên cung cấp tiêu. Ngoài ra, họ thu mua được tiêu của những người bán không thường xuyên và cũng mua trực tiếp từ nông dân. Trong mùa tiêu, mỗi ngày họ thu mua ít nhất 2 tấn tiêu. Họ có xe ô tô và khi gom đủ 1 chuyến xe khoảng 8 - 9 tấn là có thể bán. Đối tượng khách hàng thường là đơn vị chế biến hoặc xuất khẩu. Điểm bán và thời điểm bán của các cơ sở này thường không có định, tuỳ theo phán đoán của họ và biến động của thị trường. Tuy nhiên, họ không găm tiêu lâu, thường bán nhanh để quay vòng vốn. Lãi trung bình của các cơ sở này chỉ khoảng 50đ/kg. Theo đánh giá của nhóm điều tra khảo sát, mức độ cạnh tranh giữa các cơ sở thu gom nhỏ và giữa các cơ sở thu gom lớn là rất cao. Quyền lực thị trường không tập trung vào một cơ sở nào và lãi xuất từ kinh doanh thu gom tiêu là nhỏ. 1.5. Mặt hàng chè a.Tình hình sản xuất chè Diện tích, năng suất và sản lượng chè Việt Nam trong 10 năm qua không ngừng gia tăng. Đến năm 2003, diện tích chè cả nước đạt 116 ngàn ha, trong đó có 85 ngàn ha cho sản phẩm, năng suất đạt 50 tạ/ha, sản lượng 425 ngàn tấn tăng hơn gấp 10 lần so với năm 1995. Tập trung chủ yếu các vùng: Trung du Miền núi Phía Bắc: diện tích là 76,3 ngàn ha, sản lượng là 259,3 ngàn tấn (chiếm 65,6% về diện tích, 70% về sản lượng so với cả nước). Tây Nguyên: diện tích là 26,7 ngàn ha, sản lượng là 127,2 ngàn tấn (chiếm 23% về diện tích, 29,9% về sản lượng so với cả nước). Ngành chè hiện nay đang có chương trình lớn là đưa chè có chất lượng cao như giống chè Đài Loan, Nhật Bản vào trồng, phát triển chè đặc sản ở vùng cao, tăng cường đầu tư chế biến cho 1 kg chè xuất khẩu. Trong 1 - 2 năm tới diện tích chè có thể đạt 120.000 ha, chè sẽ là cây thứ 6 có giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD/1năm. b. Tình hình xuất khẩu Việt Nam là 1 trong những nước xuất khẩu chè lớn trên thế giới. Lượng xuất khẩu chè của nước ta có xu thế tăng liên tục trong 10 năm qua. Cụ thể như sau: Biểu 7. Tình hình xuất khẩu chè Việt nam (1992 - 2003) Năm Lượng xuất khẩu (1000 tấn) Kim ngạch xuất khẩu (Triệu USD) 1992 12,97 16,12 1993 16,20 20,00 1994 17,30 19,00 1995 15,00 15,00 1996 20,80 29,00 1997 32,90 48,81 1998 33,21 50,50 1999 36,44 45,15 2000 55,66 69,61 2001 68,22 78,41 2002 75,00 82,70 2003 59,80 59,80 Nguồn: Niên giám thống kê. Những năm cuối thập kỷ 80, thị trường xuất khẩu chè của ta là Liên Xô (cũ) và khối SEV (80 - 85%), thị trường Hồng Kông, Singapore, Trung Quốc (15 - 20%) nhưng thị phần đã giảm mạnh vào đầu những năm 1990. Đến năm 1996 mức xuất khẩu chè đen của nước ta đã phục hồi so với những năm trước đó, sản phẩm chè của ta đã xuất đi 22 nước với lượng xuất khẩu là 20,8 ngàn tấn, kim ngạch xuất khẩu 29 triệu USD. Trong đó Irắc là thị trường lớn nhất chiếm 22,7%, sau đó đến Đài Loan 10,4%, HồngKông 8,8%, Singapore 5,3% lượng xuất khẩu chè của Việt Nam. Đến năm 1999 là năm thứ 3 liên tiếp xuất khẩu chè Việt Nam tăng mạnh, sản phẩm chè đã xuất đi 30 nước với lượng xuất khẩu là 36,44 ngàn tấn đạt kim ngạch xuất khẩu 45,15 triệu USD, đã nâng thị phần chè Việt Nam trên thế giới từ 1,7% những năm 1995 - 1996 lên 3,2 - 3,4% các năm 1997 - 1998 và năm 1999 là 4%. Trong đó thị trường chính vẫn là Irắc (31,7%) chủ yếu là chè đen, Đài Loan (25% - chủ yếu chè xanh cao cấp), Vương Quốc Anh (5,7% chủ yếu chè đen) ... lượng xuất khẩu chè Việt Nam. Năm 2002, xuất khẩu chè Việt Nam đứng thứ 8 trên thế giới về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp đã tự chủ động tìm kiếm và trực tiếp tham gia thị trường chè thế giới. Cả nước xuất khẩu được 75 ngàn tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu 82,7 triệu USD, tăng 9,6% về lượng và 5,2% về kim ngạch xuất khẩu so với năm 2001. Các thị trường nhập khẩu chính chè của Việt Nam là Irắc (chiếm 28% về kim ngạch), tiếp đến là Đài Loan (19%), Liên bang Nga (4%), Nhật Bản (4%), Đức (4%)... Năm 2003, cả nước xuất khẩu 59,8 ngàn tấn, đạt giá trị kim ngạch là 59,8 triệu USD so với năm 2002 bằng 79,7% về lượng và 72,3% về giá trị. Nguyên nhân chính Việt Nam cũng như một số nước xuất khẩu chè khác đang gặp nhiều khó khăn trong tiêu thụ nội tiêu cũng như xuất khẩu. Cuộc chiến Irắc đã ảnh hưởng lớn tới xuất khẩu chè của Việt Nam. Ngoài Irắc, xuất khẩu chè sang các nước khác cũng giảm như: Nga, Hồng Kông, Singgapore, Hà Lan, Oxtraylia, Anh, Hàn Quốc, Hoa Kỳ và đặc biệt là ở thị trường Inđonêxia, các tiểu vương quốc ả Rập thống nhất giảm hơn 50%. Mặc dù xuất khẩu gặp nhiều khó khăn nhưng có định hướng chuyển dịch, đa dạng và mở rộng thị trường nên đã chuyển phần lớn khối lượng dự kiến xuất khẩu vào Irắc sang các thị trường khác. Năm 2003 có một số thị trường mạnh là: Bỉ, Philippin, Pháp. Tuy đã có định hướng chuyển dịch thị trường, tận dụng và khai thác triệt để các thị trường truyền thống, nhưng nhìn chung thị trường chè Việt Nam chưa thật ổn định, chủ yếu do chè Việt Nam chưa có thương hiệu, công tác xúc tiến thương mại chưa hiệu quả, chất lượng chưa cao, giá thành cạnh tranh kém. Đến năm 2004, do chương trình cắt giảm sản lượng của các nước sản xuất chính vì vậy nguồn cung cấp chè trên thế giới sẽ hạn hẹp, các nước nhập khẩu chè như Nga, Mỹ, Anh đều tăng nhu cầu, bên cạnh đó thị trường Irắc cũng đã tương đối ổn định vì vậy xuất khẩu chè năm nay sẽ được cải thiện. Tính đến tháng 8 năm 2004, nước ta đã xuất khẩu 40,3 ngàn tấn đạt kim ngạch xuất khẩu 39,6 triệu USD. c. Kênh tiêu thụ chè 1.6. Mặt hàng rau quả a. Tình hình sản xuất * Sản xuất quả: Từ năm 1995 đến nay, diện tích cây ăn quả tăng nhanh và ổn định với tốc độ bình quân hàng năm là 9,6%. Nếu như vào năm 1995 diện tích cây ăn quả các loại chỉ có 346,4 nghìn ha thì năm 2000 lên tới 565 nghìn ha và đạt 719,5 ngàn ha vào năm 2003. Tốc độ tăng trưởng vải, nhãn, chôm chôm là cao nhất so với bất kỳ một cây trồng nào khác trong cùng giai đoạn. Nhờ đó, hiện nay vải - nhãn - chôm chôm đã trở thành nhóm cây ăn quả quan trọng nhất về diện tích, chiếm 32,3% tổng diện tích các loại. Sản lượng hàng năm của vải nhãn chôm chôm tăng nhanh từ 223,2 ngàn tấn năm 1995 lên mức 617 ngàn tấn vào năm 2000 và 799,9 ngàn tấn vào năm 2003. Sản lượng dứa từ 292 nghìn tấn năm 2000, đến năm 2003 là 338 ngàn tấn, trong khi đó sản lượng chuối hầu như không tăng. Sản lượng xoài đạt 305,7 nghìn tấn, còn cam, quýt đạt sản lượng 500,4 nghìn tấn. * Sản xuất rau: Rau thường chia làm 3 nhóm chính: rau ăn lá (bắp cải, rau muống, các loại cải), đậu rau và củ (hành, cà rốt, khoai lang, củ cải, khoai tây). Trong đó được trồng phổ biến nhất ở Việt Nam là rau ăn lá. Rau được trồng nhiều nhất ở ĐBSH chiếm 30,3%. ĐBSCL cũng là nơi trồng rau quan trọng chiếm khoảng 27% sản lượng năm 2003. Đà Lạt thuộc tỉnh Lâm Đồng chủ yếu chuyên canh về rau cao cấp phục vụ xuất khẩu và thị trường thành phố Hồ Chí Minh. b. Tình hình xuất khẩu Biểu 8. Tình hình xuất khẩu rau quả 1992 - 2003 Năm Lượng xuất khẩu (1000 tấn) Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 1992 32,30 1993 23,60 1994 20,80 1995 56,10 1996 90,20 1997 71,20 1998 347 53,40 1999 920 104,90 2000 1912 213,56 2001 4771 329,87 2002 201,00 2003 151,5 Nguồn: Số liệu thống kê. Từ năm 1996 đến nay, kim ngạch xuất khẩu rau quả của nước ta có nhiều khởi sắc, đạt tốc độ tăng bình quân 7,6%/năm. Duy nhất, trong thời gian đó chỉ có năm 1998 đạt giá trị xuất khẩu tương đối thấp ở mức 53,4 triệu USD là do hiện tượng El Ninno gây nắng kéo dài và hạn, năng suất và chất lượng của nhiều loại quả giảm mạnh. Trong năm 2001, giá trị ngoại tệ thu được từ xuất khẩu rau quả là 329,87 triệu USD, chiếm xấp xỉ khoảng 12% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản, đứng thứ tư trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu chính sau gạo, cà phê và lâm sản. Ghi nhận một bước tăng trưởng khá cao so với những năm trước. Tuy nhiên, do khó khăn về thị trường cũng như những hạn chế về công nghệ chế biến nên xuất khẩu rau quả có xu hướng giảm. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ còn 151 triệu USD. Thị trường xuất khẩu rau quả của nước ta ngày càng mở rộng, năm 1996, xuất khẩu sang 36 nước, trong đó thị trường lớn nhất là Singgapore (19%), Đài Loan (13,3%)... kim ngạch xuất khẩu rau quả. Hiện nay, các mặt hàng rau quả của ta đã có mặt ở gần 50 nước, trong đó chủ yếu là thị trường châu á (92,3%), trong đó Trung Quốc + Hồng Kông chiếm 46,7%, thị trường châu Âu 19,%; châu Mỹ chiếm 6,86%. Tuy nhiên, số thị trường ta có kim ngạch xuất khẩu khoảng 10 triệu USD trở lên còn ít chỉ có 4 thị trường gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Xuất khẩu rau quả sang thị trường Nga và Đông Âu đã giảm rõ rệt so với đầu những thập kỷ 1990, do vậy tuy đã được khôi phục vài năm trở lại đây nhưng còn chiếm tỷ trọng quá nhỏ trong kim ngạch xuất nhập khẩu rau quả của ta. Nếu như trước đây, thị trường các nước này chiếm phần lớn lượng xuất khẩu rau quả ở Việt Nam. Trong số đó, chỉ có lượng xuất khẩu rau quả sang Nga là đáng kể nằm trong khoảng từ 1 triệu USD năm 1999 đến 4,6 triệu USD năm 2000 và năm 2003 là 8,2 triệu USD. Cơ cấu thị trường xuất khẩu cho thấy một mặt rau quả Việt Nam vẫn chưa thâm nhập vào các thị trường tiêu thụ rau quả chính trên thế giới như Mỹ, EU, Nhật Bản, Việt Nam mới chỉ dừng ở mức độ tận dụng tương đối tốt lợi thế về vị trí địa lý của mình để khai thác thị trường Trung Quốc. Các chủng loại rau tươi hoặc ướp lạnh xuất khẩu gần đây chủ yếu là: cải bắp, đậu quả, hành, tỏi, khoai tây, khoai sọ, một số rau gia vị... Nói chung lượng rau quả tươi xuất khẩu chiếm tỷ trọng nhỏ trong._. kim ngạch xuất khẩu rau quả. Phần lớn đều đã qua sấy khô hay chế biến để xuất khẩu dười nhiều dạn: muối, đóng hộp, sấy khô, nước quả, nghiền... Mặc dù các chủng loại rau quả xuất khẩu dưới các dạng tươi và chế biến tuy tương đối phong phú, nhưng chưa hình thành được chủng loại rau quả nào có khối lượng xuất khẩu lớn vài chục ngàn hoặc hàng trăm ngàn tấn/năm. c. Kênh tiêu thụ rau quả - Xuất khẩu chiếm 15-20% tổng sản phẩm: (trong đó 85-90% là rau quả chế biến) - Tỉ lệ hàng hoá trong tổng thu hoạch của quả là 74%; của rau là 63%. * Nhận xét: - Tiêu thụ chủ yếu rau quả tươi, tỉ lệ chế biến thấp, trình độ chế biến chưa cao - Công nghệ bảo quản, vận chuyển hoa quả tươi cũng lạc hậu, thiếu thốn (mới có 17% nhà kinh doanh sử dụng xe lạnh vận chuyển sản phẩm. - Tại các đô thị lớn việc buôn bán rau quả tươi thường tập trung tại chợ đầu mối, trong chợ các chủ vựa nắm quyền phân phối sản phẩm cho hệ thống bán lẻ. - Rau quả chủ yếu tiêu dùng tươi sống, sản phẩm lại có thời vụ nên giá rau quả biến động lớn và thường xuyên gặp cảnh “được mùa mất giá” hoặc ngược lại “được giá mất mùa” - Sản xuất phân tán, manh mún, sản phẩm kém chất lượng lại không đồng đều, đồng loại. Thông tin thị trường trong, ngoài nước rất thiếu. Kinh doanh theo kiểu thu gom hàng có sẵn không có kế hoạch hợp đồng đặt hàng với số lượng lớn. - Quan hệ giữa sản xuất và chế biến rất khập khễnh, tình trạng ăn tươi thì thừa, nhưng nhà máy chế biến lại thiếu nguyên liệu. - Điểm yếu rõ nhất của ngành rau quả VN là công nghệ sau thu hoạch chưa phát triển, mức độ liên kết giữa các khâu sản xuất, các ngành, các cấp, các địa phương và các doanh nghiệp còn yếu. Đó là chưa kể tới các yếu tố như kế hoạch và chuyên môn hóa chưa cao, chất lượng sản phẩm và việc kiểm tra chất lượng chưa đồng đều. Cuối cũng là yếu tố thị trường, kỹ thuật canh tác, ứng dụng khoa học mới và hiện đại; cơ sở hạ tầng, chất lượng giống, vốn, năng suất và sản lượng. 2. Thị trường tiêu thụ trong nước Thị trường nông lâm sản trong nước đã và đang có sự chuyển biến tích cực, nguồn hàng hoá ngày càng dồi dào, mẫu mã đa dạng, chất lượng được nâng cao. Hiện nay, thị trường trong nước tiêu thụ khoảng 70% lượng nông sản làm ra. Tuy nhiên, có sự khác biệt lớn về tỷ lệ tiêu thụ nội địa giữa các ngành hàng: những ngành đạt tỷ lệ tiêu dùng trong nước cao là ngô, đậu tương, bông, trứng, sữa (100%), đường gần 100%, sản phẩm chăn nuôi trên 95%, lúa gạo khoảng 75 - 80%, rau quả 85%; những ngành có tỷ lệ thấp là cà phê, hạt tiêu, hạt điều (trên dưới 5%), cao su (15%), chè (30 - 35%). Trong những năm qua, kinh tế đất nước liên tục phát triển, các tầng lớp dân cư ở tất cả các vùng đã và đang được hưởng lợi từ các chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, mức sống ngày càng được nâng cao. Số liệu các cuộc điều tra mức sống trong giai đoạn 1992 - 2002 của Tổng cục Thống kê cho thấy: thu nhập bình quân trên cả nước năm 1997 - 1998 là 3.389 ngàn đồng/người/năm, gấp 3 lần so với năm 1992 - 1993, hiện nay đạt 356 ngàn đồng/người/tháng (tương đương 4.272 ngàn đồng/người/năm), tăng 20,6% so với năm 1999. Cùng với mức tăng thu nhập, mức chi tiêu cho đời sống cũng được tăng lên, mức chi tiêu bình quân đầu người năm 1997 - 1998 gấp 1,4 lần so với năm 1992 - 1993, năm 2001 - 2002 đạt 269 ngàn đồng/người/tháng (3.228 ngàn đồng/người/năm), tăng 21,7% so với năm 1999, bình quân thời kỳ năm 1999 - 2002 tăng 8,6%/năm, cao hơn mức tăng 6,6% trong thời kỳ 1996 - 1999. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực sức mua trên thị trường nội địa của Việt Nam vẫn ở mức thấp do hạn chế về thu nhập. Tỷ trọng chi tiêu cho ăn uống trong chi tiêu cho đời sống tuy vẫn còn ở mức khá cao nhưng đã giảm từ 66% năm 1993 xuống còn 63% năm 1999 và 57% năm 2001 - 2002, điều đó chứng tỏ mức sống của mọi tầng lớp dân cư được cải thiện, giữa các nhóm hộ giàu và nghèo, năm 2001 - 2002, tỷ lệ chi tiêu ăn uống trong chi tiêu cho đời sống ở thành thị là 52%, trong khi ở nông thôn là 60%, của nhóm hộ giàu nhất là 50% trong khi nhóm hộ nghèo nhất là 70%. Mức chi cho lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng trên 40% chi tiêu cho đời sống; năm 1997 - 1998 là 40,23%, năm 2001 - 2002 là 43,21% (trong đó, ở vùng thành thị là 34,89%, ở vùng nông thôn là 48,71%). Theo kết quả khảo sát Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, hiện nay gần 22% bình quân chi tiêu cho ăn uống của các hộ gia đình là tự túc, còn lại là mua, đổi, tỷ lệ này thay đổi theo từng vùng, những vùng có tỷ lệ tự túc cao là vùng Tây Bắc (51,6%), Đông Bắc (43,1%), Bắc Trung Bộ (34,7%), một số vùng tiêu dùng chủ yếu thông qua thị trường nên tỷ lệ này thấp hơn như vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ (17,8%), ĐBSCL (16,3%), Đông Nam Bộ (4,7%). Như vậy, lượng cầu về lương thực, thực phẩm giao dịch trên thị trường bình quân trên cả nước chỉ chiếm chưa đến 80% và có sự khác nhau giữa các vùng, tuy nhiên tỷ lệ này đã tăng so với mức 75% năm 1997 - 1998. Điều đó chứng tỏ rằng thị trường các mặt hàng nông sản trong nước đã và đang được mở rộng. Mức tiêu thụ nông sản trong nước phát triển theo hướng cơ cấu bữa ăn hợp lý, cải thiện chất lượng như: giảm dần số lượng tiêu thụ lương thực, tăng dần mức tiêu dùng các mặt hàng có giá trị dinh dưỡng cao. Cũng theo số liệu điều tra của Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp theo các vùng, trung bình mức tiêu dùng gạo bình quân đầu người 1 tháng giảm từ 12,5 kg năm 1997 - 1998 xuống còn 12 kg năm 2003, trong đó khu vực thành thị giảm từ 10kg xuống còn 9,6 kg, khu vực nông thôn từ 13,2 kg xuống 12,8 kg. Trong khi đó, lượng tiêu thụ bình quân đầu người 1 tháng các mặt hàng thịt, đường, sữa, ... tăng lên với mức tiêu thụ như sau: 1,28 kg thịt các loại; 0,41 kg đường sữa... Nhờ có các chính sách lưu thông thông thoáng, giảm bớt các thủ tục phiền hà trong kinh doanh, khuyến khích sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, việc tiêu thụ nông sản trong nước ngày càng được cải thiện. Giá cả nhiều mặt hàng nông sản biến động theo hướng có lợi cho người nông dân, cánh kéo giá cả giữa hàng công nghiệp và nông nghiệp bước đầu được thu hẹp. Cân đối cung cầu được bảo đảm, hàng hoá phong phú, mua bán thuận tiện. Các hình thức kinh doanh thương mại được mở rộng, góp phần cải thiện cấu trúc thị trường dần theo hướng đa dạng, văn minh kết hợp với hiện đại hoá. Mạng lưới chợ được nâng cấp và mở rộng hơn trước, một số chợ chuyên doanh nông sản (chợ giống cây trồng, vật nuôi, chợ lúa gạo...) đã và đang hình thành... có tác dụng tích cực trong tiêu thụ sản phẩm và mở rộng giao lưu hàng hoá giữa các vùng. Tuy nhiên, do chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn còn chậm, vai trò của thị trường nội địa chưa được quan tâm đúng mức, thị trường thiếu ổn định, khả năng cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp và nhiều loại hàng hoá còn thấp nên thường gặp khó khăn ngay trên “sân nhà”. Cơ sở hạ tầng và dịch vụ phục vụ tiêu thụ nông sản hàng hoá tuy có cải thiện, nhưng so với yêu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Mạng lưới các chợ bán buôn chưa nhiều; kinh doanh bán lẻ chủ yếu theo hình thức buôn bán truyền thống, cơ sở hạ tầng các chợ phần lớn còn rất sơ sài, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu trao đổi hàng hoá; các chợ đạt tiêu chuẩn kiên cố chỉ chiếm 11,6%, chợ lều quán và ngoài trời còn chiếm 56,7%... là những nguyên nhân gây hạn chế trong lưu thông hàng hoá nông lâm sản. Trên cơ sở nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng, có thể phân loại thị trường trong nước theo từng khu vực như sau: Thị trường thành phố, đô thị: Năm 2003, dân cư thành thị 20,5 triệu người, chiếm 25,4% dân số cả nước.Theo Tổng Cục Thống Kê, hiện nay thu nhập bình quân ở khu vực thành thị đạt 622 ngàn đồng/người/tháng, tăng 18,4% so với năm 1999 trong khi khu vực nông thôn đạt 275 ngàn đồng/người/tháng, tăng 22,3%. Đời sống ngày càng được nâng cao, song vẫn còn có sự cách biệt về thu nhập và mức sống giữa các vùng thành thị và nông thôn. So với khu vực nông thôn, thu nhập của hộ gia đình thành thị vẫn cao hơn nhiều: thu nhập bình quân đầu người tính theo tháng năm 1993, 1999 và 2001 - 2002 ở khu vực thành thị tương ứng gấp 2,34; 2,30 và 2,26 lần khu vực nông thôn. Theo Tổng Cục Thống Kê, mức chi tiêu bình quân đầu người ở thành phố năm 1997 - 1998 là 434,2 ngàn đồng/người/tháng, gấp 3,26 lần so với mức chi tiêu của người nông dân nông thôn (192,1 ngàn đồng/người/tháng); năm 2002, mức chi tiêu ở khu vực nông thôn bình quân đạt 211 ngàn đồng/người/tháng (tăng 9,8% so với năm 1997 - 1998) trong khu khu vực thành thị đạt 461 ngàn đồng/người/tháng (tăng 6,2% so với năm 1997 - 1998 và gấp 2,2 lần khu vực nông thôn). Hơn nữa, so với vùng nông thôn, hệ thống kinh doanh trên thị trường các thành phố với số lượng các trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn... ngày càng tăng, lượng hàng hoá phong phú, phương thức phục vụ ngày càng văn minh... có nhiều ưu việt hơn cũng là nguyên nhân làm tăng mức tiêu thụ hàng hoá, trong đó có hàng nông sản. Người dân thành thị chủ yếu mua hàng hoá trên thị trường, tỷ trọng mức mua, đổi trong tổng chi tiêu ăn uống ở vùng thành thị khoảng 96% trong khi tỷ trọng này chỉ trên 68% ở vùng nông thôn. Các thành phố lớn thường có mức thu nhập bình quân đầu người cao: TP Hồ Chí Minh (904,13 ngàn đồng/người/tháng), Hà Nội (620,98 ngàn đồng/người/tháng), Đà Nẵng (462,58 ngàn đồng/người/tháng), Hải Phòng (410,16 ngàn đồng/người/tháng), ... nên mức tiêu dùng cao hơn hẳn so với khu vực nông thôn. Mức chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người 1 tháng tương ứng với từng thành phố là: 665,98 ngàn đồng, 518,03 ngàn đồng, 422,81 ngàn đồng, 319,75 ngàn đồng... (Theo Kết quả điều tra năm 2002 của TCTK). Nhu cầu và cơ cấu lương thực thực phẩm cho thị trường thành phố đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, chủng loại, tính đa dạng, tính sẵn có và tính thuận tiện phù hợp với lối sống công nghiệp. Theo kết quả cuộc điều tra nói trên, có thể thấy sự khác biệt khá rõ về mức tiêu thụ bình quân đầu người đối với một số mặt hàng lương thực, thực phẩm giữa hai vùng thành thị và nông thôn: Biểu 10. Mức tiêu thụ bình quân 1 người 1 tháng một số mặt hàng lương thực - thực phẩm hiện nay Mặt hàng Thành thị Nông thôn - Gạo các loại (kg) 9,56 12,78 - Thịt các loại (kg) 1,81 1,12 - Mỡ, dầu ăn (kg) 0,28 0,22 - Trứng gia cầm (quả) 3,36 1,87 - Đậu phụ (kg) 0,48 0,32 - Đường sữa, bánh mứt kẹo (kg) 0,55 0,37 - Lạc vừng (kg) 0,05 0,07 - Rau các loại (kg) 2,75 2,35 - Quả chín (kg) 1,11 0,73 Theo kết quả điều tra Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp: + Gần 75% số hộ được hỏi trả lời khi thu nhập tăng lên đã mua gạo ngon để ăn. + Cơ cấu tiêu thụ thịt lợn: bình quân người dân thành thị tiêu thụ khoảng 92,3% tổng số là thịt lợn tươi, còn lại là thịt chế biến, trong khi số thịt lợn tươi chiếm 93,9% tổng số thịt lợn người dân nông thôn tiêu thụ. Dân thành thị mua 27,3% số thịt là thịt nạc mông, trong khi dân nông thôn chỉ mua 9,4% tổng số thịt là loại thịt này. Qua các số liệu trên cho thấy, tuy dân thành thị hiện nay chỉ bằng1/3 dân số nông thôn, nhưng sức mua và mức tiêu thụ cao hơn nhiều so với khu vực nông thôn. Nhu cầu rất đa dạng, phong phú và đòi hỏi chất lượng cao, an toàn vệ sinh thực phẩm, sản phẩm chế biến sẵn ngày càng được sử dụng phổ cập, phục vụ cho tác phong công nghiệp. Thị trường nông thôn Dân số nông thôn năm 2003 là 60,16 triệu người, bằng 74,6% dân số cả nước. Mặc dù đời sống người dân nông thôn hiện nay đã được cải thiện rất nhiều, nhưng nhìn chung thu nhập vẫn thấp, chưa bằng một nửa mức thu nhập của người dân thành thị. Theo số liệu thống kê điều tra mức sống 1997 - 2002 thu nhập của 1 người dân nông thôn là 3.300 ngàn đồng/năm, tăng 22,3% so với năm 1999, tốc độ tăng nhanh hơn khu vực thành thị. Đồng thời với việc tăng thu nhập, mức chi tiêu cho đời sống cũng tăng lên. Mức chi tiêu bình quân đầu người dân nông thôn là 211 ngàn đồng/người/tháng (2.532 ngàn đồng/năm), chiếm 76,7% thu nhập. Người dân nông thôn chủ yếu có tập quán tiêu dùng nông lâm sản tươi, chưa qua chế biến, yêu cầu chất lượng không quá khắt khe. Do thu nhập thấp, họ thường theo hướng "ăn chắc, mặc bền", tiêu thụ lương thực là chính, do đó mức tiêu thụ phần lớn các mặt hàng (trừ gạo) của dân nông thôn thường thấp hơn so với người dân thành thị. Trừ những người sản xuất phi nông nghiệp (công nghiệp chế biến, làng nghề,...) còn hầu hết những người nông dân thường tự sản tự tiêu, chỉ mua một số ít hàng hoá thiết yếu. Với chủ trương và chính sách của Đảng và Chính phủ phát triển kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại, người nông dân từng bước làm quen với sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trường. Nông thôn ngày càng có nhiều đổi mới, song so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì kinh tế nông nghiệp, nông thôn vẫn còn nhiều yếu kém và thách thức, đặc biệt đối với vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá. Nhìn chung, thị trường nông thôn còn kém phát triển, hoạt động thương mại kém năng động, nguồn cung không ổn định nên giá cả nông sản thường biến động mạnh (khi vào vụ thu hoạch giá thường giảm mạnh, khi giáp hạt lại tăng cao), ảnh hưởng đến thu nhập và gây tâm lý bất an cho người nông dân. Hơn nữa, cơ cấu đầu tư vào khu vực nông thôn chỉ mới nặng vào đầu tư sản xuất, chưa chú trọng đến đầu tư cơ sở hạ tầng thương mại, dịch vụ. Cơ sở hạ tầng thương mại hàng nông sản như chợ, cửa hàng hợp tác xã, kho tàng, bến bãi, đường giao thông, phương tiện vận chuyển... còn thiếu nhiều. Trừ một số trung tâm thương mại và chợ ở các thị trấn, thị tứ,... hầu hết các chợ ở nông thôn đều tạm bợ, quy mô nhỏ, cơ sở vật chất nghèo nàn; chưa hình thành được mạng lưới liên kết, đồng bộ trong tiêu thụ hàng nông sản giữa các địa phương. Tất cả những nguyên nhân trên đã hạn chế việc mở rộng và phát triển thị trường nông sản ở khu vực nông thôn. Thị trường miền núi Địa bàn miền núi chiếm khoảng 3/4 diện tích đất đai của cả nước, đa số dân cư có thu nhập thấp, sống rải rác ở những vùng đồi núi cao, kết cấu hạ tầng kém phát triển, đường sá đi lại khó khăn. So với các vùng khác, thu nhập và chi tiêu của người dân miền núi thường thấp hơn nhiều. Theo kết quả điều tra mức sống năm 2001 - 2002, thu nhập bình quân đầu người ở vùng Tây Bắc đạt mức thấp nhất (196,95 ngàn đồng/tháng), vùng Tây Nguyên ( 244,03 ngàn đồng) trong khi ở vùng Đông Nam Bộ đạt 619,68 ngàn đồng, ĐBSCL 371,31 ngàn đồng, ĐBSH 353,12 ngàn đồng. Tương ứng, mức bình quân chi tiêu cho đời sống là: 178,97 ngàn đồng/người/tháng ở vùng Tây Bắc và 201,83 ngàn đồng ở vùng Tây Nguyên; các vùng khác là 447,59; 258,38; 271,23 ngàn đồng. Trong tổng mức chi tiêu cho đời sống, chi cho gạo ở vùng miền núi chiếm tỷ lệ khá cao (40,9% với mức 13,53 kg/người/tháng ở vùng Tây Bắc, 33,47% với mức 12,51 kg/người/tháng ở vùng Tây Nguyên), tương ứng mức chi cho thịt là 21,96% (1,11 kg/người/tháng) và 19,62% (0,95 kg/người/tháng), rau 2,57% (1,69 kg/người/tháng) và 2,66% (1,39 kg/người/tháng). Người dân miền núi, đặc biệt ở phía Bắc thường tự túc phần lớn các khoản chi tiêu cho ăn uống, lượng mua đổi trên thị trường chiếm tỷ lệ rất thấp: ở Hà Giang là 36,9%; Lai Châu 37,7%; Tuyên Quang 45,9%; Cao Bằng 47,5%; Sơn La 49,9%. Từ khi Đảng và Chính phủ có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, thương mại hàng hoá ở các tỉnh miền núi phát triển hơn trước với sự tham gia ngày càng tăng của lực lượng tư nhân (chủ yếu là các hộ kinh doanh nhỏ). Tuy nhiên, các chợ tập trung chủ yếu ở các thị xã, thị trấn, đáp ứng phần lớn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng và vật tư nông nghiệp đồng thời tiêu thụ nông sản hàng hoá do nông dân làm ra. Do đặc điểm địa lý và tập quán sinh sống, chợ vừa là nơi mua bán trao đổi hàng hoá vừa là nơi giao lưu văn hoá. Chính phủ đã và đang có những chính sách như: chương trình 135; chính sách trợ giá, trợ cước vận chuyển một số mặt hàng thiết yếu; chính sách phát triển thương mại miền núi, giao cho các tỉnh quy hoạch phát triển hợp lý các chợ ở trung tâm cụm xã thuộc khu vực miền núi, biên giới, vùng đồng bào dân tộc... để cải thiện đời sống đồng bào dân tộc miền núi, vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên, dịch vụ thương mại trên địa bàn miền núi vẫn còn rất nghèo nàn, lạc hậu, chưa thực sự đáp ứng nhu cầu sinh sống của dân cư. II. Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ tiêu thụ nông sản Biểu 11. Hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm thương mại kinh doanh nông sản năm 2004 ĐVT: cái Khu vực Chợ bán lẻ, bán buôn (nhỏ hoặc hỗn hợp) Chợ đầu mối Siêu thị, trung tâm thương mại ĐBSH 1.820 4 66 Đông Bắc 1.730 1 3 Tây Bắc 470 Bắc Trung Bộ 1.510 1 2 DHNTB 620 2 Tây Nguyên 450 1 1 ĐNB 530 11 74 ĐBSCL 1.140 2 2 TÔNG CÔNG 8.270 20 150 Nguồn: Viện Nghiên cứu Thương Mại - Bộ Thương Mại. 1. Hệ thống chợ 1.1. Chợ bán lẻ, bán buôn loại nhỏ hoặc hỗn hợp bán lẻ, bán buôn - Số lượng: Năm 1995 cả nước mới chỉ có hơn 4.000 chợ, đến năm 2004 con số này khoảng gần 8300. Trung bình mỗi chợ ở thành thị có diện tích xấp xỉ 4.000 m2, ở nông thôn khoảng 2.300 m2. Hiện nay, chỉ có hơn 10% tổng số chợ được xây dựng kiên cố, trên 30% được xây dựng bán kiên cố, còn lại là chợ họp ngoài trời. Mặc dù đã khá lớn về số lượng, song hệ thống chợ hiện còn nhiều bất cập từ cơ sở vật chất, qui mô, mật độ phân bổ đến phương thức buôn bán, hiệu quả, quản lý. - Số người bán hàng: có khoảng 2 triệu; tỉ lệ người bán hàng cố định ở chợ thành thị là 59%, còn ở nông thôn là 47%. 1.2. Chợ đầu mối Khác với chợ truyền thống, cấu trúc của loại hình chợ này là ngoài khu vực phục vụ quản lý, dịch vụ.... phải có các khu vực chức năng chủ yếu như: khu dành cho các hoạt động giao dịch buôn bán; khu trưng bày giới thiệu hàng hoá; khu cung ứng vật tư hàng hoá và các dịch vụ kỹ thuật khác cho nông dân, khu dự trữ bảo quản hàng hoá; khu vực thông tin thị trường và tư vấn kinh doanh (có bản thông tin điện tử, bản tin hàng tuần, tờ rơi hàng ngày, giao dịch qua điện thoại, truy cập qua mạng Internet...). Chợ đầu mối nông sản hiện tập trung chủ yếu ở TP Hồ Chí Minh và Hà Nội: - Tại TP Hồ Chí Minh: Hai chợ Cầu Muối và Cầu Ông Lãnh đã được di dời điểm ra chợ đầu mối nông sản thực phẩm Thủ Đức (chợ Thủ Đức) và chợ đầu mối nông sản thực phẩm Hóc Môn (chợ Hóc Môn). Chợ Thủ Đức có tổng diện tích 20,3 ha, tổng vốn đầu tư 182 tỷ đồng (nhà nước hỗ trợ 41 tỷ đồng xây dựng cơ sở hạ tầng) với gần 600 tiểu thương kinh doanh có hiệu quả, không còn sạp nào tại chợ bị bỏ trống. Gần 300 tiểu thương kinh doanh tại chợ cũng dần đi vào nề nếp, lượng hàng chợ bình quân đạt 600 - 650 tấn/ngày. Cả hai chợ đầu mối nông sản thực phẩm Thủ Đức và Hóc Môn đều đi vào hoạt động từ cuối năm 2003 nhưng doanh thu lại có sự khác nhau do cơ cấu tổ chức và quy mô hoạt động khác nhau. Riêng chợ đầu mối nông sản thực phẩm lớn nhất nước là chợ Bình Điền (quận 8) - do Tổng Công ty Thương Mại Sài Gòn là chủ đầu tư với diện tích 65 ha, tổng vốn đầu tư khoảng 1000 tỷ đồng đón nguồn hàng nông sản thực phẩm từ các tỉnh miền Tây đang còn ở giai đoạn triển khai thi công. Khi đi vào hoạt động, khu vực này sẽ tiếp nhận tiểu thương từ 8 chợ đầu mối nông sản thực phẩm còn lại trong nội thành di dời ra. - Tại Hà Nội:Gần 3 năm kể từ khi khai trương, chợ đầu mối nông sản - thực phẩm Xuân Đỉnh (huyện Từ Liêm, Hà Nội) vẫn trong cảnh vắng lặng. Các hộ kinh doanh chỉ trụ vài ngày rồi bỏ đi vì không buôn bán được. Các chợ đầu mối Đền Lừ, Bắc Thăng Long, chợ Sóc Sơn hiện nay cũng trong tình trạng vắng vẻ. Các chợ đầu mối ở Hà Nội đang gặp khó khăn bởi quy hoạch có nhiều bất cập. Phần lớn chợ xây dựng từ năm 2000, không phù hợp với tình hình phát triển kinh tế hiện nay. Theo Sở Thương Mại, hướng giải quyết thời gian tới là đưa các chợ đầu mối đủ điều kiện trở thành trung tâm thương mại như chợ Đền Lừ, chợ Xuân Đỉnh và thành trung tâm bán buôn nhu chợ Bắc Thăng Long. Ngoài ra, Sở sẽ khai thác chợ và tổ chức cho hộ kinh doanh tiếp xúc với UBND quận, huyện chủ quản để đưa ra phương án tổ chức kinh doanh. - Khu vực Bắc Miền Trung: Bộ Thương Mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với Sở Thương Mại Nghệ An vừa khởi công xây dựng chợ đầu mối nông sản khu vực Bắc Miền Trung, với tổng mức đầu tư dự án giai đoạn I là 32 tỷ 173 triệu đồng. Dự kiến tháng 4/2005 công trình này sẽ đi vào hoạt động. Dự án do Sở Thương Mại Nghệ An là chủ đầu tư, có diện tích 7 ha tại xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc (Nghệ An) nằm phía Bắc thị trấn Quán Hành. Chợ đầu mối nông sản Bắc Trung Bộ hoàn thành sẽ là loại hình chợ hiện đại bán buôn với phương thức sàn giao dịch trực tiếp cho người sản xuất có nông sản hàng hoá cần lưu thông xuất khẩu với các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu nông sản khu vực. Đây cũng sẽ là trung tâm bảo quản, chế biến nông sản với hệ thống kho bảo ôn, thiết bị chế biến hiện đại. Chợ đầu mối còn thiết lập một hệ thống trung tâm thông tin và cơ sở dịch vụ nhằm phục vụ trực tiếp cho nông dân khai thác các nhu cầu về thị trường, giá cả, kiến thức sản xuất và khuyến nông... qua mạng thông tin điện tử. 2. Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại Nhìn chung, hiện nay mặt hàng nông sản trong các siêu thị và trung tâm thương mại còn chiếm tỉ lệ thấp. Tuy nhiên, do thu nhập dân cư tăng nhanh và đòi hỏi về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm được nâng lên, tiêu thụ loại mặt hàng này tại các siêu thị và trung tâm thương mại sẽ ngày càng cao. 2.1. Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại ở Thành phố Hồ Chí Minh Một số hệ thống siêu thị và trung tâm thương mại điển hình tại TP. Hồ Chí Minh: Siêu thị: Hệ thống siêu thị COOP Mart Hệ thống siêu thị Citi mart Hệ thống siêu thị Maximart Hệ thống siêu thị Metro Hệ thống siêu thị Sài Gòn. Trung tâm thương mại: TTTM Diamon Plaza TTTM Sài Gòn tourist TTTM Savico - Kinh Đô TTTM Tax. Từ năm 1996, chính sách mở cửa kinh tế của Nhà nước đã tác động mạnh mẽ đến đời sống, thu nhập và mức tiêu dùng của dân cư. Trước yêu cầu của cư dân Thành phố, tháng 2/1996, Liên hiệp Hợp tác xã thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (Saigon Co-op) đã cho ra đời siêu thị Co-op Mart Cống Quỳnh. Đây là hình thức bán lẻ mới , văn minh, hiện đại, phù hợp với xu thế công nghiệp hoá và đô thị hoá đang diễn ra nhanh chóng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2003, doanh thu của hệ thống Co-op Mart đạt mức 1.000 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2002. Thông qua hệ thống Co-op Mart, hàng ngàn mặt hàng được bày bán với chất lượng và VSATTP được đảm bảo, phong cách phục vụ được thực hiện theo hướng “văn minh thương nghiệp” nên được nhiều người tiêu dùng hưởng ứng, kể cả những người có mức thu nhập trung bình hoặc có mức thu nhập thấp. Cùng với hệ thống siêu thị của Saigon Co-op, từ những năm 1996-1997 đến nay, ở Thành phố Hồ Chí Minh đã xuất hiện nhiều siêu thị khác với quy mô lớn về diện tích và số lượng mặt hàng bày bán như: Maxi mart, Vinamart... Gần đây, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã xuất hiện một số siêu thị gần đạt tiêu chuẩn của một “supermarket” với diện tích kinh doanh khoảng 3.000 - 4.000 m2, có khoảng 5.000 - 6.000 mặt hàng bày bán và doanh thu đạt vài trăm triệu đồng/ngày như: Maximart, Vinamart, Saigon Superbowl...Đặc biệt, siêu thị Saigon Superbowl (liên doanh giữa Việt Nam với Singapore) là một tổ hợp bao gồm các khu kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, các khu thể thao và vui chơi giải trí...Khách hàng đến đây không chỉ đạt được mục đích duy nhất là mua sắm hàng hoá mà cùng một lúc họ còn có thể đạt được nhiều mục đích khác như: Thể thao, giải trí, thư giãn... Cùng tham gia hoạt động kinh doanh siêu thị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh còn có siêu thị Miền Đông được bố trí đầy đủ các khu bày bán hàng hoá, nhà hàng, khu giả trí, bãi đỗ xe...trên tổng diện tích khoảng 10.000 ha. Siêu thị này hiện đang có doanh thu khá cao do lượng khách đến mua sắm và tiêu dùng dịch vụ hàng ngày rất lớn. 2.2. Siêu thị tại tỉnh Đồng Nai Siêu thị tại khu công nghiệp Biên Hoà thuộc tỉnh Đồng Nai, một đại siêu thị với tổng diện tích là 20.000 m2, tổng vốn đầu tư là 20 triệu USD, với 20.000 mặt hàng được bày bán theo tiêu chuẩn của hệ thống siêu thị trên thế giới đã được đưa vào hoạt động. Đó là tại siêu thị Cora của tập đoàn Bourbon (Pháp). Các siêu thị này hiện đang có doanh thu khá cao do thu hút một lượng khách hàng rất lớn, chủ yếu là người nước ngoài và người Việt Nam ở khu vực này. Trong tương lai, tập đoàn Bourbon sẽ đầu tư xây dựng thêm nhiều siêu thị khác theo mô hình của Cora ở Việt Nam. 2.3. Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại ở Hà Nội Trên địa bàn thành phố Hà Nội có khoảng 60 siêu thị, trung tâm thương mại. Phần lớn các siêu thị, trung tâm thương mại được xây dựng trên quy mô nhỏ hẹp. Nhiều siêu thị, trung tâm thương mại có cơ sở vật chất chưa được nâng cấp đồng bộ. Các siêu thị, trung tâm thương mại đều tận dụng tối đa diện tích để giới thiệu, bày bán hàng hoá nên có nhiều siêu thị chưa đạt theo tiêu chuẩn đã đề ra như diện tích yêu cầu tối thiểu, khu vệ sinh cho khách... Theo tiêu chuẩn diện tích: - Siêu thị tổng hợp loại 1 có diện tích kinh doanh từ 5.000m2 trở lên, có danh mục hàng hoá kinh doanh từ 20.000 tên hàng trở lên. Nếu là siêu thị chuyên doanh loại 1 có diện tích từ 1.000m2 trở lên với 2.000 tên hàng trở lên. - Siêu thị tổng hợp loại 2 có diện tích kinh doanh từ 2.000m2 trở lên, có 10.000 tên hàng trở lên. Nếu là siêu thị chuyên doanh loại 2 có diện tích từ 500m2 trở lên với 1000 tên hàng trở lên. - Siêu thị loại 3 tổng hợp phải có diện tích 500m2 trở lên, có 4.000 tên hàng hoá trở lên. Nếu là siêu thị chuyên doanh loại 3 phải có diện tích từ 250m2 trở lên với 500 tên hàng trở lên. - Ngoài ra các siêu thị loại 1, 2,3 phải có nơi trông xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh siêu thị, có hệ thống kho, thiết bị bảo quản, sơ chế, đóng gói, tổ chức theo ngành hàng, nhóm hàng, công tác phòng cháy chữa cháy. Trung tâm thương mại loại 1 phải có diện tích kinh doanh từ 50.000m2 trở lên, loại 2 là 30.000m2 trở lên; loại 3 là 10.000m2 trở lên. Như vậy theo quy chế ở Hà Nội chỉ có 1 trung tâm thương mại; 1 - 2 siêu thị loại 1; 3 - 4 siêu thị loại 2. Phần lớn là các siêu thị loại 3. Bên cạnh đó còn có 17 siêu thị không đạt tiêu chuẩn siêu thị. Ngoài Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, siêu thị cũng đã xuất hiện ở các Thành phố và các khu đô thị ở các tỉnh, Thành phố khác để phục vụ nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng như: Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Thành phố Vinh (Nghệ An), Huế, Đà Nẵng....Tuy nhiên, số lượng và quy mô của siêu thị không lớn, hàng hoá bày bán không phải là các loại hàng đắt tiền, đối tượng phục vụ chủ yếu là người nước ngoài và người Việt Nam có thu nhập cao hoặc công nhân các nhà máy trước yêu cầu của nếp sống công nghiệp. Phần thứ hai Các yếu tố ảnh hưởng đến tiêu thụ nông sản I. sức cạnh tranh mặt hàng cà phê xuất khẩu 1. Lợi thế cạnh tranh trong sản xuất của ngành cà phê Việt Nam Việt Nam sản xuất và xuất khẩu cà phê chủ yếu là Robusta nên sự canh tranh sẽ diễn ra khá quyết liệt giữa các nước trồng và xuất khẩu nhiều cà phê Robusta trên thế giới như: Inđonêxia, Cote divoa, Brazin... trước tiên là với các nước trong khu vực, đó là Inđonêxia, Philippin. So với cà phê Việt Nam thì ngành cà phê Inđônêxia có một số điểm mạnh hơn: - Về diện tích gieo trồng cà phê lớn hơn nước ta, năm 2000 đã đạt trên 900 ngàn ha, trong khi đó Việt Nam là 588,3 ngàn ha. Năm 2003 diện tích Inđônêxia đạt 1 triệu ha, Việt Nam là 500 ngàn ha (theo FAO, 2003). - Về khối lượng cà phê xuất khẩu trước năm 1998 thường cao hơn lượng xuất khẩu của Việt Nam (đạt 400.000 - 450.000 tấn). Do vậy tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cà phê Inđonêxia luôn cao hơn kim ngạch xuất khẩu cà phê nước ta. Mấy năm gần đây do cháy rừng và hạn hán, do giá cà phê giảm sút nên lượng cà phê xuất khẩu của Inđonêxia đã giảm xuống. Tuy vậy, Inđonêxia vẫn là một nước có thế mạnh về sản xuất và xuất khẩu cà phê trên thế giới và là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam. Biểu 16. So sánh tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam và Inđonêxia Năm Khối lượng xuất khẩu (1000 tấn) Giá trị xuất khẩu (triệu USD) Việt Nam Inđonêxia VN/Indo Việt Nam Inđonêxia VN/Indo 1990 89 426 20,9 92 371,0 24,8 1991 93 343 27,1 76 362,0 20,9 1992 116 270 42,9 85 264,0 32,2 1993 122 331 36,8 91 345,0 26,4 1994 176 262 37,2 211 747,0 28,2 1995 212 269 78,8 560 650,0 86,1 1996 233 363 64,2 422 609,0 69,3 1997 346 350 98,8 414 510,7 81,0 1998 390 285 136,8 594 581,0 102,2 1999 480 304 157,9 585 459,1 127,4 2000 645 312 208,0 491 312,2 157,3 2001 874 245 253,3 381 182,9 208,3 2002 718 322,7 222,4 322,3 218,9 147,2 2003 749 504,8 148,3 Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - FAO, Commodity Market Review 2003. Số liệu so sánh cho ta thấy: trước năm 1998 chưa có năm nào khối lượng xuất khẩu và giá trị kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt nam vượt hơn cà phê Inđonêxia. Điều đó chứng tỏ rằng Inđonêxia có một số lợi thế hơn Việt nam. Tuy nhiên, những năm gần đây, cà phê Việt Nam đã có nhiều lợi thế hơn hẳn tạo ra sức cạnh tranh mới so với cà phê Inđonêxia. + Lợi thế lớn nhất trong sản xuất cà phê Việt Nam là năng suất cao Năng suất cà phê Việt Nam hiện nay cao nhất thế giới. Năng suất bình quân năm 1995 là 21,8tạ/ha, năm 2000 đạt gần 24 tạ/ha cao gấp 3 - 4 lần so với năng suất cà phê Inđonêxia. Nhưng từ năm 2000 trở lại đây, do giá cà phê xuống thấp, đầu tư chăm sóc kém nên năng suất có xu hướng giảm xuống. Trên thực tế đã xuất hiện nhiều mô hình đạt năng suất cà phê rất cao bình quân đạt trên dưới 30 tạ/ha trên diện rộng với quy mô hàng chục ngàn ha như ở các nông trường Eachurcap, Iasao, Thắng Lợi, Tháng 10, Drao và ở hàng vạn hộ nông dân vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Trong vài năm nữa, để đạt năng bình quân chung cả nước ở mức 20 - 24tạ/ha cà phê nhân không phải là điều khó khăn gì đối với ngành cà phê Việt nam. Năng suất cây trồng cao là điều kiện tiên quyết cho việc hạ giá thành sản phẩm, tạo thế cạnh tranh cao hơn Biểu 17. So sánh cà phê Việt Nam với Inđônêxia và thế giới Năm Năng suất cà phê (tạ/ha) So sánh (%) Việt Nam Inđô Châu á Thế giới VN/Inđô VN/Ch.á VN/TG 1991 1.370 561 421 469 244,2 325,4 292,1 1996 1.450 559 770 552 259,4 188,3 262,7 1998 1.750 927 818 604 188,8 213,4 289,7 1999 1.900 930 780 680 204,3 243,6 2._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0551.doc
Tài liệu liên quan