Tình hình Xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua - Mục tiêu hướng về Xuất khẩu

ĐỀ CƯƠNG LỜI MỞ ĐẦU. PHẦN 1: CHIẾN LƯỢC “ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU” I. Xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân 1. Khái niệm xuất khẩu 2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân 3. Nhiệm vụ của xuất khẩu. II. Chiến lược “ Hướng về xuất khẩu” 1. Khái niệm. 2. Nội dung - Các chính sách thường sử dụng. 3. Ý nghĩa của chiến lược này đối với sự phát triển kinh tế. PHẦN 2: TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 2000. I. Các chín

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình Xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua - Mục tiêu hướng về Xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h sách và biện pháp mà Nhà nước ta đã và đang sử dụng. 1. Quá trình đổi mới cơ chế chính sách xuất khẩu. 2. Các chính sách và biện pháp cụ thể. II. Kết quả của hoạt động xuất khẩu trong giai đoạn 1986 - 2000. III. Những hạn chế , tồn tại và thách thức trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. PHẦN 3: MỘT VÀI HƯỚNG MỞ CHO THƯƠNG MẠI VIỆT NAM KHI PHÁT TRIỂN CHIẾN LƯỢC “ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU”. I. Chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” ở một số nước ASEAN và châu Á. 1. Quá trình thực hiện. 2. Các chính sách và biện pháp của các nước NICs châu Á. II. Một vài hướng mở cho thương mại Việt Nam khi phát triển chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” 1. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất. 2. Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. 3. Chủ động hội nhập quốc tế.. 4. Chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý. 5. Thị trường xuất khẩu. 6. Thực hiện xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu. KẾT LUẬN. PHỤ LỤC. TÀI LIỆU THAM KHẢO *** LỜI MỞ ĐẦU * Xét về mặt lý thuyết kinh tế, các quốc gia muốn tăng trưởng đều phải tùy thuộc vào 4 yếu tố: 1/ Bình quân thu nhập đầu người thực tế; 2/ Tỷ lệ tiết kiệm trên đầu lao động; 3/ Tỷ lệ vốn đầu tư trên đầu lao động; 4/ Tốc độ tăng dân số. Cả 4 yếu tố này có những tác động mạnh mẽ với nhau, cho nên bất kỳ quốc gia nào muốn tăng trưởng kinh tế thì nhất thiết phải đề ra được một loạt “ Những chính sách khôn ngoan ”. (những luận thuyết tân cổ điển). Đối với các quốc gia trên toàn thế giới, là nước phát triển hay nước đang phát triển, việc lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chiến lược phát triển thương mại nói riêng đều phải căn cứ vào thực trạng, những khó khăn, thách thức và đặc biệt phải dự đoán được những thay đổi có thể xảy ra trong tương lai 10, 15 hay 20 năm tới. Những thay đổi này bao hàm cả những cơ hội và thách thức, những tác động đa chiều của nó tới xã hội và nền kinh tế. Chiến lược tối ưu phải là mô hình sẵn sàng đáp ứng được các thách thức của môi trường đã, đang và sẽ tiếp tục thay đổi. Chiến lược đó phải dược trang bị đầy đủ các năng lực để vượt qua các khó khăn, thách thức hiện hành cũng như sáp tới để tiến lên. Tuy vậy để có một chiến lược phát triển hoàn hảo thì chiến lược phát triển phải là một sự đột phá, bao hàm cả xây dựng cái mới, loại bỏ các cũ không thích hợp, bao hàm cả sự tiếp thu cái bên ngoài thích hợp và khước từ cái bên ngoài xa lạ, đồng thời tạo ra sự cân bằng mới cho xử lý các thách thức, mâu thuẫn ... “ Sự thần kỳ ” của các nước NICs châu Á đạt dược trong mấy thập kỷ qua không phải là một sự ngẫu nhiên, mà là cả một quá trình tìm tòi thử nghiệm và phấn đấu kiên trì của các quốc gia đó. Trải qua những bước thăng trầm, thất bại và thành công, họ đã tìm ra được mô hình phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện của mỗi nước - mô hình “ Hướng về xuất khẩu ” chìa khóa giúp họ từ những quốc gia nghèo nàn, lạc hậu vươn lên thành những quốc gia có nền kinh tế phát triển, những con rồng châu Á vững vàng bước vào thế kỷ 21. Việt Nam là một nước đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu đến năm 2020 sẽ trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được mục tieu này, nước ta phải rất nỗ lực và xác định được hướng đi đúng đắn, phù hợp. Là một nước đi sau, qua những thực trạng, thách thức và kinh nghiệm của các nước đi trước (đặc biệt là các nước trong khu vực ASEAN và Châu Á ) chiến lược phát triển thương mại hiện nay của Việt Nam đó là chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ”. Trong phần trình bày của đề tài có các phần chính: - Phần 1: Chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” - Phần 2: Tình hình xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1986 - 2000. - Phần 3: Một vài hướng mở cho thương mại Việt Nam khi phát triển theo chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ”. Do năng lực còn hạn chế và tài liệu chưa có nhiều nên nội dung của các vấn đề được trình bày trong đề tài không thể tránh khỏi hạn chế và thiếu sót. Mong được sự đóng góp ý kiến và giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong khoa Thương mại. *** PHẦN 1 CHIẾN LƯỢC “ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU” I. XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN. 1. Khái niệm xuất khẩu: dưới góc độ kinh tế học, xuất khẩu được hiểu là hoạt động bán hàng hóa của các thương nhân Việt Nam cho các thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng bán hàng hóa. 2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân: xuất khẩu là cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Sau đây là một số vai trò quan trọng của xuất khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân: 2.1. Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu. Đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hóa vì vậy đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khâủ máy móc, thiết bị, kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn sau: + Liên doanh đầu tư ở nước ngoài. + Vay nợ, viện trợ, tài trợ. + Thu từ hoạt động dịch vụ, du lịch. + Xuất khẩu sức lao động ... Trong các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ ... cũng phải trả bằng cách này hay cách khác. Để nhập khẩu, nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. 2.2. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế đối ngoại. Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa ở nước ta là phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới. Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể được nhìn nhận theo các hướng sau: + Xuất khẩu những sản phẩm của nước ta ra nước ngoài. + Xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà các nước khác cần. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. + Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ: khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho việc phát triển các ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm hay khi phát triển việc đánh bắt thủy sản để xuất khẩu thì không chỉ phát triển ngành đánh bắt mà còn phát triển ngành công nghiệp chế biến thủy sản. + Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước. + Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Hay xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiến tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hóa nền kinh tế nước ta. + Thông qua xuất khẩu, hàng hóa Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường. + Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. 2.3. Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân: ví dụ: ngành thủ công mỹ nghệ: trước đây chủ yếu chỉ là các sản phẩm đơn sơ, chỉ nhằm phục vụ cho thị trường trong nước, nhưng từ khi đất nước ta mở cửa cùng với việc phát triển các nền kinh tế nói chung thì ngành thủ công mỹ nghệ cũng đã phát triển rất mạnh với các đơn đặt hàng từ nước ngoài đã tạo ra rất nhiều công ăn việc làm cho người dân, tăng thu nhập cho họ, cải thiện đời sống nhân dân và ngoài yếu tố kinh tế thì còn giữ gìn được các ngành nghề thủ công truyền thống của dân tộc Việt Nam. 2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Ví dụ với việc phát triển xuất khẩu các loại hàng hóa sẽ thúc đẩy các mối quan hệ tín dụng, vân tải quốc tế... và chính các hoạt động hay quan hệ đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. 3. Nhiệm vụ của xuất khẩu. - Khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trên cơ sở phân công lao động chuyên môn hoá của từng quốc gia . - Mở rộng thị trường ,đa phương hoá đối tác - Hình thành các vùng,ngành sản xuất hàng xuất khẩu,tạo các chân hàng vững chắc ,phát triển hệ thống thu mua hàng xuất khẩu - Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu theo hướng nâng cao hàm lượng kỹ thuật và công nghệ. - Xây dựng các danh mục các mặt hàng chủ lực ở phạm vi chiến lược từ đó có các kế hoạch phát triển và mở rộng mặt hàng chủ lực II. CHIẾN LƯỢC “ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU ” . 1. Khái niệm. Chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” là một chiến lược phát triển kinh tế nhằm mục tiêu tăng trưởng thông qua sản xuất để xuất khẩu hay lấy quan hệ kinh tế đối ngoại làm đòn bẩy cho chương trình công nghiệp hóa quốc gia. Chiến lược này là giải pháp để các nước đạt đến trình độ trưởng thành về kỹ thuật, dẫn các nước đến địa vị nước công nghiệp hóa đầy tiềm năng, các nước có thể đạt được mục tiêu vì “ nền kinh tế độc lập và có thể tự duy trì được tăng trưởng ”. Chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” khởi đầu ở Mỹ Latinh từ thập kỷ 30, nhưng đến những năm 60, chiến lược này mới được áp dụng ở các quốc gia, lãnh thổ công nghiệp mới châu Á. 2. Nội dung - các chính sách thường được sử dụng trong chiến lược “Hướng về xuất khẩu” . 2.1. Nội dung: Chiến lược :Hướng về xuất khẩu” bắt đầu được đưa ra và thực hiện thành công từ đầu những năm 60 của thế kỷ 20 ở các nước công nghiệp mới NICs (Hàn Quốc. Singapore, Đài Loan, Hong Kong). Sau đó đến những năm 70 các nước ASEAN và một số nước phát triển khác cũng áp dụng mô hình chiến lược này. Về cơ bản, các nước khi phát triển nền kinh tế “ Hướng về xuất khẩu” đều muốn dựa vào thị trường quốc tế rộng lớn để tạo ra một sự nhảy vọt trong khi phát triển kinh tế. Nhưng với những nước khác nhau, trong những điều kiện kinh tế khác nhau thì mô hình chiến lược “Hướng về xuất khẩu” lại có những sắc thái riêng. * Chiến lược “Hướng về xuất khẩu” của các nước NICs. Chiến lược “Hướng về xuất khẩu” đầu tiên của các nước NICs đặc biệt là các nước NICs châu Á (Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Hồng Kông). Những nước này thực thi chiến lược hướng nội từ đầu những năm 50 .Sau nửa thập kỷ theo đuổi chiến lược này ,họ đã gặp phải những hạn chế .Đặc biệt là sự gia tăng các khoản nợ nước ngoài và còn có một điểm giống nhau, đó là nguồn tài nguyên nghèo nàn của đất nước và thị trường trong nước nhỏ hẹp. Do vậy, ngay từ đầu những năm 60 những nước này đều tìm cách chuyển hướng chiến lược. Họ nhận thấy rằng để khắc phục những vấn đề về nợ nước ngoài, nguồn tài nguyên và thị trường nhỏ hẹp trong nước chỉ còn cách dựa vào thị trường quốc tế rộng lớn . Nội dung chiến lược “Hướng về xuất khẩu” của các nước NICs là sản xuất những mặt hàng xuất khẩu sử dụng nhiều nhất những yếu tố có sẵn trong nước ,thực hiện nhất quán chính sách giá cả: Giá hàng trong nước phải phản ánh sát với giá hàng trên thị trường quốc tế và phản ánh được sự khan hiếm của các yếu tố trong nước . Phần lớn các nước đang phát triển nguồn lao động dồi dào trong khi nguồn vốn lại khan hiếm, chính sách của nhà nước là tiền lương và các chi phí khác về nhân công phải thấp và lãi suất phải cao nhằm khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động vừa mang lại lợi nhuận, vừa tạo ra nhiều công ăn việc làm ,góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp của đất nước. Do vậy, đối với các nước NICs trong thời kỳ đầu thực hiện chiến lược hướng ngoại thường tập trung vào sản xuất hàng công nghiệp và dịch vụ sử dụng nhiều lao động làm cho chi phí sản xuất sẽ tương đối thấp so với thị trường quốc tế * Chiến lược “Hướng về xuất khẩu” của các nước ASEAN và các nước đang phát triển khác. Những năm 50 và suốt những năm 60 phần lớn những nước ASEAN cũng thực hiện chiến lược hướng nội. Hạn chế họ gặp phải là nền kinh tế tăng trưởng chậm, cơ cấu kinh tế mất cân đối, nợ nước ngoài gia tăng. Bên cạnh đó là kinh nghiệm chuyển hướng chiến lược thành công của các nước NICs. Do vậy, vào đầu những năm 70 các nước ASEAN đều lần lượt chuyển sang chiến lược hướng ngoại Điểm khác biệt của các nước ASEAN so với các nước NICs thứ nhất phần lớn các nước ASEAN có dân số tương đối đông, tạo ra thi trường tiêu dùng trong nước rộng lớn; thứ hai các nước ASEAN đều có những nguồn tài nguyên thiên nhiên đáng kể .Do vậy nội dung chiến lược hướng ngoại của các nước ASEAN có những nét khác so với các nước NICs. Nội dung chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” của các nước ASEAN là tận dụng lợi thế so sánh để sản xuất những mặt hàng xuất khẩu, khuyến khích sản xuất những sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu trong nước và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên để thúc đẩy quá trình tích luỹ ban đầu của đất nước . Do vậy thực chất chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” của các nước ASEAN là chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” mang tính chất tổng hợp. Bởi vì trong chiến lược phát triển kinh tế ngày nay các nước đều đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế mở, coi đó là một quan điểm chủ đạo của chiến lược, trong đó thương mại quốc tế ngày càng gữi vai trò quan trọng nó tạo điều kiện cho các nước phát huy được lợi thế so sánh của mình. Lý do thứ hai là hướng phát triển của các ngành sản xuất phục vụ thị trường trong nước cũng phải tiến đến hội nhập với thị trường quốc tế về chất lượng và giá cả sản phẩm. Vì vậy đối với những sản phẩm còn được bảo hộ của Nhà nước cũng phải có những điều kiện nhất định để nhanh chóng đạt tới yêu cầu của thị trường quốc tế .Lý do thứ ba là đối với các nước ASEAN cũng như với nhiều nước đang phát triển, trong tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu, tỷ trọng sản phẩm thô vẫn gữi vai trò quan trọng, góp phần đáng kể vào tích luỹ ban đầu cho đất nước. Như các sản phẩm cao su, dầu cọ và thiếc của Malaixia; gạo của Thái Lan; dầu mỏ và gỗ của Inđônêxia. 2.2. Các chính sách thường sử dụng. Để thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng xuất khẩu cũng cần có sự trợ giúp của Nhà nước, nhưng sự trợ giúp này không mang tính chất bảo hộ như đối với chiến lược thay thế hàng nhập khẩu (bảo hộ thuế quan danh nghĩa, bảo hộ thuế quan thực tế, hạn ngạch), mà nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào thị trương quốc tế, đặc biệt trong thời kỳ đầu khi công nghiệp trong nước chưa quen với môi trường kinh doanh quốc tế. Vì vậy sau đây là một số chính sách thường được sử dụng: * Đầu tiên là chính sách tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ chuyển đổi đơn vị tiền tệ từ nước này ra những đơn vị tiền tệ của nước khác, tỷ giá này phản ánh giá trị đồng tiền trong từng thời kỳ, tỷ giá hối đoái có tác động lớn tới quan hệ ngoại thưong, khi đồng tiền trong nước giảm giá thì hàng hóa nhập khẩu vào nước đó sẽ đắt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa. Ngược lại nếu đồng tiền trong nước lên giá thì hàng hóa nước ngoài nhập vào sẽ rẻ hơn và hàng hóa xuất khẩu sẽ đắt hơn tạo cơ hội cho các nhà nhập khẩu. Do đó khi thực hiện chiến lược này, điều cần thiết là duy trì tỷ giá hối đoái sao cho các nhà sản xuất trong nước có lãi khi bán các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ của họ trên thị trường quốc tế. * Hai là, cần trợ cấp cho một số sản phẩm xuất khẩu để khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào hàng xuất khẩu. Việc xâm nhập vào các thị trường xuất khẩu có nhiều rủi ro hơn là sản xuất sau các hàng rào bảo hộ cho thị trường trong nước: sự cạnh tranh về giá cả lớn hơn, tiêu chuẩn chất lượng cao hơn và đòi hỏi Marketing tốt hơn. Tuy nhiên khi các nhà sản xuất đã biết cách thích ứng với thị trường quốc tế thì sẽ mở ra cơ hội lớn trong kinh doanh. Sự trợ cấp của Nhà nước có thể dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp: - Trợ cấp trực tiếp như miễn, giảm thuế, hoàn thuế cho nguyên, vật liệu và vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu; cho người sản xuất hàng xuất khẩu được hưởng giá rẻ điện, nước, cước phí vận tải, trợ giá xuất khẩu. - Trợ cấp gián tiếp như sử dụng ngân sách Nhà nước để giới thiệu, quảng cáo, tổ chức hội chợ, đào tạo chuyên gia về công tác xuất khẩu, tạo điều kiện cho các giao dịch tìm bạn hàng xuất khẩu ... * Ba là, chính phủ cần tạo ra sức hấp dẫn cho việc sản xuất hàng xuất khẩu. Nếu chính phủ muốn các nhà sản xuất hướng ra thị trường quốc tế thì cần giảm bớt sức hấp dẫn tương đối của việc sản xuất đẻ tiêu thụ ở thị trường trong nước. Điều này đòi hỏi phải giảm thuế quan bảo hộ đối với các ngành công nghiệp được ưu đãi và giảm hạn ngạch lượng hàng nhập khẩu. Do các nhà đầu tự thường tìm kiếm cơ hội có lợi nhất nên lợi nhuận của việc thay thế nhập khẩu phải được giữ ở mức độ phù hợp với lợi nhuận xuất khẩu. Muốn vậy bảo hộ bằng thuế không được cao hơn mức trợ cấp xuất khẩu. 3. Ý nghĩa của chiến lược này đối với sự phát triển kinh tế. Một cách tổng quát, có thể dự báo xu thế hòa bình và hợp tác phát triển trên thế giới và trong khu vực ngày một mạnh mẽ. Trình độ phát triển ngày cang cao của lực lượng sản xuất cũng như kinh tế nói chung của thế giới đã tạo ra những cơ hội hợp tác, hội nhập để khai thác những nguồn lực quốc tế phục vụ cho nhu cầu phát triển của các quốc gia. Mỗi nước với trình độ phát triển khác nhau đều có thể tận dụng các lợi thế của mình thông qua các quan hệ kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, chiến lược phát triển kinh tế “Hướng về xuất khẩu” mang lại những ý nghĩa quan trọng đối với các quốc gia: - Chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” tạo ra khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, năng động. Sự phát triển của các ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu đã tác động đến các ngành công nghiệp cung cấp đầu vào tạo ra “ mối liên hệ ngược ” thúc đẩy sự phát triển của các ngành này. Bên cạnh đó khi tích lũy của nền kinh tế được nâng cao thì sản phẩm thô sẽ tạo ra “ mối liên hệ xuôi ” là nguyên liệu cung cấp đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến và “ mối liên hệ xuôi ” này được tiếp tục phát triển. Sự phát triển của tất cả các ngành này sẽ làm tăng thu nhập của những người lao động, tạo ra “ mối liên hệ gián tiếp ” cho sự phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ. - Chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bởi vì chiến lược này làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc vào thị trường thế giới nhiều hơn là thị trường trong nước, do vậy các doanh nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh thì phải dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế. Thời kỳ đầu có thể có sự trợ giúp của Nhà nước, song muốn tiếp tục tồn tại thì phải tự khẳng định được vị trí của mình. Mặt khác thị trường thế giới rộng lớn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu được hiệu quả nhờ quy mô sản xuất lớn. - Chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” còn tạo ra nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Nguồn thu nhập này vượt xa các nguồn thu nhập khác kể cả vốn vay và đầu tư của nước ngoài. Đối với nhiều nước ngoại thương đã trở thành nguồn tích lũy vốn chủ yếu trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa. Đồng thời có ngoại tệ sẽ tăng được khả năng nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị và nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển các ngành công nghiệp. PHẦN 2: CÁC CHÍNH SÁCH, BIÊN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU VÀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 2000 I. CÁC CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP MÀ NHÀ NƯỚC TA ĐÃ VÀ ĐANG SỬ DỤNG. 1. Quá trình đổi mới cơ chế chính sách xuất khẩu. Với nghị định 40/NĐ-CP ngày 07/02/1980 của Chính phủ về quy định một số chính sách và biện pháp khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, từ chỗ chỉ có một vài doanh nghiệp lớn thuộc Bộ Ngoại thương độc quyền xuất khẩu đã mở rộng hoạt động xuất khẩu đến các DN quốc doanh thuộc các tỉnh, thành phố trọng điểm và các Bộ khác ngoài Bộ Ngoại thương lúc bấy giờ. Cho đến năm 1989, với nghị định 64/NĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính phủ), ngày 10/06/1989 đã thực sự bắt đầu thời kỳ đổi mới toàn diện cơ chế chính sách xuất khẩu từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, lần đầu tiên các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm do mình làm ra. Trong quá trình thực hiện, Nhà nước không ngừng xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách xuất khẩu làm cho nó ngày càng thông thoáng và phù hợp dần với thông lệ quốc tế. - Ngày 07/04/1992 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 114/NĐ-HĐBT đã mở rộng đến tất cả các doanh nghiệp sản xuất thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt quy mô sản xuất được quyền xuất khẩu các sản phẩm do mình sản xuất ra. Còn các DN kinh doanh thuần túy nếu có đủ vốn lưu động từ 200 ngàn USD trở lên và lãnh đạo DN đáp ứng tiêu chuẩn quy định cũng được quyền xuất khẩu hàng hóa. Nếu như Nghị định 64 là bước “ đột phá ” đổi mới cơ chế chính sách điều hành hoạt động xuất khẩu thì Nghị định 57/1998/NĐ-CP ra ngày 31/07/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài là bước “ ngoặt lịch sử ” chuyển sang cơ chế thị trường của hoạt động xuất khẩu. Điểm nổi bật của sự đổi mới là mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế, khuyến khích mạnh mẽ sản xuất hàng xuất khẩu và xuất khẩu thông qua các chính sách thuế, tín dụng ưu đãi ... Từ chỗ chỉ có 50 doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước chỉ định nắm độc quyền kinh doanh xuất nhập khẩu năm 1986 đến cuối tháng 7/1998 (trước nghị định 57/NĐ-CP) toàn quốc đã có 2.250 doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu theo nghị định 114/NĐ-HĐBT, trong đó có 654 doanh nghiệp dân doanh và 1.596 doanh nghiệp Nhà nước. Theo nghị định 57/NĐ-CP thì tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật đều được phép xuất nhập khẩu hàng hóa theo ngành nghề đã đăng ký trong giấy chứng nhận đưng ký kinh doanh và trước khi tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu chỉ cần đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố nới doanh nghiệp đóng trụ sở . Nhờ vậy mà số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu tăng lên nhanh chóng. Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan thì đến hết tháng 11/2000 đã có 10 ngàn doanh nghiệp đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu, chiếm gần 20% tổng doanh nghiệp của cả nước. Trong đó có 4.500 doanh nghiệp Nhà nước, chiếm gần 90% số doanh nghiệp Nhà nước hiện có và có 5.500 doanh nghiệp dân doanh, chiếm hơn 12% tổng số doanh nghiệp dân doanh. Có thể nói cùng các văn bản pháp quy hướng dẫn của các Bộ, ngành có liên quan như Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan ... đến nay, hệ thống cơ chế chính sách điều hành hoạt động xuất khẩu nói riêng và xuất nhập khẩu nói chung đã được hình thành khá đồng bộ, thông thoáng và phù hợp dần với các thông lệ quốc tế. 2. Các chính sách và biện pháp cụ thể đã được sử dụng: 2.1. Cơ chế quản lý: nói chung chính sách thương mại của Việt Nam mang tính bảo hộ khá cao qua việc thực hiện nhiều biện pháp phi thuế quan như cấm nhập khẩu tạm thời, hạn chế số lượng, hạn chế hạn ngạch nhập khẩu và điều chỉnh tỷ giá hối đoái ... Và tỷ lệ thuế nhập khẩu trung bình trong ba năm gần đây đã tăng 0,8%. Mặc dù, thông qua các chính sách bảo hộ đã giúp bảo vệ trực tiếp các nhà sản xuất Việt Nam.trong việc cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngoài và phát triển, chiếm lĩnh thị trường trong nước nhưng do còn mang tính bảo hộ khá cao và hơn nữa là sự kéo dài việc thực hiện bảo hộ đã là nguyên nhân gây ra tác động xấu cho nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, như: * Thứ nhất, người tiêu dùng bao gồm những người tiêu dùng cho các sản phẩm chịu thua lỗ do việc họ phải mua hàng hóa với mức giá cao hơn giá thế giới. * Hai là, chính sách bảo hộ thương mại làm tăng chi phí của các sản phẩm được làm từ các nguyên liệu trong nước.Ví dụ giá cả đắt như sắt, thép, xi măng ... làm tăng chi phí của các công trình và sản phẩm xây dựng ... Chính sách bảo hộ thương mại gây bất lợi cho ngành công nghiệp chế biến của Việt Nam mà ngành này là đặc trưng của một đất nước công nghiệp hóa và hiện đại hóa. * Hầu hết các nhà đầu tư bao gồm cả các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam cũng muốn được bảo vệ và có khuynh hướng đầu tư vào những ngành công nghiệp được bảo hộ cao vì vậy họ quan tâm đến chính sách thay thé nhập khẩu và không quan tâm đến sự cạnh tranh sản phẩm của họ với doanh nghiệp nước ngoài. * Lợi thế so sánh của Việt Nam của các hàng hóa chủ lực bị giảm sút, vì thực tế do giá cả của chúng, nếu so với giá trung bình của thế giới khá đắt từ 30% đến trên 2 lần. 2.2. Quyền kinh doanh xuất khẩu: để nhận được giấy phép kinh doanh xuất khẩu một doanh nghiệp phải có ít nhất một khoản vốn bảo đảm 200.000 USD (theo nghị định 114/HĐBT 4/1992). Từ đầu năm 1993 điều kiện vốn đã được nới lỏng, vì vậy số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đã tăng lên. Khoản vốn bảo đảm 200.000 USD quả thực là một khó khăn đối với các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. Bên cạnh đó các doanh nghiệp chỉ có thể xuất khẩu những hàng hóa được đăng ký trong giấy phép của họ. Có thể nói trước năm 1998 thương mại quốc tế của Việt Nam chịu sự độc quyền của khu vực nhà nước. Về phần các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tư nhân, Nhà nước có thể huỷ bỏ giấy phép kinh doanh của họ bất cứ lúc nào. Điều này, vì vậy, tạo nên môi trường kinh doanh không ổn định và không công bằng. Luật thương mại được thông qua vào đầu năm 1997 dẫn đến việc thay đổi một số thay đổi trong cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.cụ thể ; Đến năm 1998, theo nghị định 55/QĐ- TTg của Thủ tướng chính phủ 3/1998, tất cả các doanh nghiệp có thể tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất nhập khẩu mà không cần phải có bất cứ điều kiện nào, trừ việc đăng ký mã mặt hàng kinh doanh tại cơ quan Hải quan. Từ 7/1998 sự điều chỉnh này đã được áp dụng cho hàng xuất, nhập khẩu theo nghị định 57/1998/NĐ-CP của Thủ tướng chính phủ, cung cấp chỉ dẫn, quy định chi tiết thi hành luật Thương mại. Theo nghị định này các doanh nghiệp Việt Nam được phép hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa theo ngành nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi đã đăng ký mã số tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố và không phải xin giấy phép từ Bộ trưởng Bộ Thương mại, thủ tục cũng được rút gọn và việc cấp giấy phép cho các sản phẩm gia công đã được bãi bỏ. Sự thay đổi rõ ràng trong quyền xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài, Theo nghị định 10/1998/NĐ-CP của Chính phủ (23/01/1998) về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể xuất khẩu và thực hiện việc xuất khẩu các hàng hóa không phải do họ sản xuất ra, loại trừ 12 loại hàng hóa trong sự điều chỉnh của Nhà nước (xuất khẩu theo đúng với các giấy phép đầu tư). Theo nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và kinh doanh chứng khoán, người nước ngoài được phép có đến 30% cổ phần trong công ty Việt Nam nhất định. Điều này đã tạo nên loại công ty kinh doanh xuất khẩu khác với vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp. Với những sự sửa đổi trên về quyền kinh doanh xuất nhập khẩu là cở sở tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc đàm phán các hiệp định thương mại với các nước và việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). 2.3. Giấy phép xuất khẩu, hạn chế số lượng và hạn chế hạn ngạch. Trong suốt thời kỳ trước năm 1991 hạn ngạch xuất khẩu được phân bổ cho 100 mặt hàng. Từ tháng 4/1991, hạn ngạch được chỉ áp dụng cho 4 mặt hàng xuất khẩu (gạo, cà phê, cao su và gỗ) và từ năm 1992 gạo là mặt hàng duy nhất cần hạn ngạch xuất khẩu. Một số điều khoản đưa ra cho hạn ngạch và giấy phép xuất khẩu giảm đột ngột vào năm 1998 sau khi có quyết định 11/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. 2.4. Các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu: xuất khẩu, trong phạm vi hội nhập thế giới, không chỉ được giới hạn trong việc kinh doanh hàng hóa hữu hình qua biên giới quốc gia mà còn bao gồm cả việc thực hiện các dịch vụ thông qua các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Để phát triển xuất nhập khẩu và để tăng khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp có khuynh hướng sử dụng ngày càng nhiều dịch vụ hỗ trợ. Các dịch vụ đó là đòn bẩy quan trọng làm tăng giá trị của hàng hóa hữu hình xuất khẩu của các doanh nghiệp. Cho đến bây giờ, có các hình thức hỗ trợ xuất khẩu khác nhau ở Việt Nam. Bao gồm: * Dịch vụ cung cấp thông tin: cung cấp cho các công ty thông tin về thị trường, giá cả, đối thủ cạnh tranh, xu hướng của thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại (quảng cáo, xúc tiến bán, tuyên truyền, bán hàng cá nhân). Dịch vụ này đã ra đời được một vài năm nhưng nó vẫn chưa có sự phát triển một cách mạnh mẽ và chủ yếu do các tổ chức của Nhà nước (một số Bộ, các ngành công nghiệp trung tâm và địa phương), đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài và một số tổ chức phi Chính phủ khác (NGOs) như Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam ... Nói chung, các doanh nghiệp phải tìm kiếm thông tin trên thị trường, về đối thủ cạnh tranh thông qua phương tiện thông tin đại chúng, sách báo ... Còn đại diện thương mại của Việt Nam và cơ quan đại diện và chi nhánh của các doanh nghiệp ở nước ngoài vẫn chưa thể hiện được vai trò của mình trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Hiện nay, thông tin thương mại từ Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam có lẽ là nguồn cung cấp quan trọng của các doanh nghiệp. * Dịch vụ quảng cáo và triển lãm: nhằm giúp giới thiệu về các doanh nghiệp và sản phẩm của họ, cung cấp cho các đối tác nước ngoài thông tin về các doanh nghiệp và sản phẩm của họ, vì vậy làm tăng sự hợp tác buôn bán và mở rộng thị trường xuất khẩu. Vào năm 1995, Việt Nam có khoảng 15 tổ chức thực hiện dịch vụ triển lãm, 55 đơn vị dịch vụ quảng cáo và 15 cơ quan nước ngoài đang làm hoạt động quảng cáo. Có khoảng 20 đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài và một số tổ chức hợp tác quốc tế, thông tin quan trọng thuộc về 18 Bộ, ngành, cơ quan trung ương và địa phương. Thông qua các tổ chức đó các doanh nghiệp Việt Nam có thể nhận được các dịch vụ như: trưng bày sản phẩm ở các hội chợ thương mại, trao đổi thô._.ng tin ở các hội nghị thương mại, tìm kiếm cơ hội để thúc đẩy buôn bán, đầu tư được dễ dàng và tham gia các dự án kinh doanh. Nhưng cho đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu tự quảng cáo bằng việc in các tờ rơi để giới thiệu các sản phẩm của họ hay bằng các nhân viên marketing hay ở các phòng trưng bày của họ ... Hình thức khác của quảng cáo như: phương tiện thông tin đại chúng, panô, áp phích quảng cáo ... hay đang được quảng cáo bởi các tổ chức và các công ty khác mà đã từng ít được sử dụng .. Hiện nay, vẫn có một lượng lớn các doanh nghiệp mà không sử dụng dịch vụ quảng cáo, triển lãm hay hội chợ thương mại để cải thiện hoạt động xuất khẩu. Đối với các doanh nghiệp đó, chi phí cho các dịch vụ đó quá cao. Những lí do khác có thể là các doanh nghiệp vẫn chưa tìm được các dịch vụ thích hợp. * Các dịch vụ tài chính và bảo hiểm: các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng sử dụng các dịch vụ tài chính và bảo hiểm để hướng dẫn các hoạt động tài chính và thanh toán, để được trợ giúp tài chính và bảo hiểm cho sản phẩm và hoạt động xuất khẩu. Hiện nay Việt Nam có khoảng 4.200 tổ chức tín dụng và tài chính trong đó: 10 công ty bảo hiểm, 18 công ty kiểm toán và 4 công ty mua và bán tài chính. Nhưng, việc sản xuất cho xuất khẩu và các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu phần lớn được giúp đỡ tài chính bởi các Ngân hàng thương mại Nhà nước. Trong thời hạn tín dụng các doanh nghiệp đó có thể hưởng các chính sách ưu đãi như: - Vay vốn (cả vay trung và dài hạn). - Lãi suất thấp (lãi suất ngắn hạn cho các doanh nghiệp thường xuyên thấp hơn khoảng 20-25% hơn so với các dự án kinh doanh khác. Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu chủ yếu thực hiện bởi 2 loại: một là để mua quyền bảo hiểm sau một thời gian mở thư tín dụng (L/C) và thứ hai là để ký hợp đồng của cả gói bảo hiểm hàng năm hay cho hàng hóa lớn được vận chuyển trong nhiều chuyến. Các doanh nghiệp có thể có quyền lựa chọn trong việc mua bảo hiểm: bảo hiểm mọi rủi ro, bảo hiểm đặc biệt, bảo hiểm chỉ những rủi ro chính ... Các doanh nghiệp Việt Nam thường mua hàng hóa với giá CIF và bán với giá FOB, chỉ 30% doanh thu nhập khẩu và 5% doanh thu xuất khẩu được bảo hiểm. * Dịch vụ nghiên cứu và kiểm định: dịch vụ này được thực hiện bởi các công ty kiểm định nhất định để cấp phát giấy chứng nhận hàng hóa và chứng nhận về nguồn gốc. Công việc này nhằm cung cấp các bản điều tra, nghiên cứu để đáp ứng các mong muốn của đối tác kinh doanh về chất lượng, số lượng, sự nhận biết, bao bì, mất mát của hàng hóa ... Sự giám sát, kiểm định hoạt động xuất nhập khẩu bao gồm kiểm định cả hàng hóa và phi hàng hóa mà trước đây là dịch vụ cung cấp chủ yếu của các cơ quan kiểm định của Việt Nam (chiếm khoảng 70% thu nhập của họ) trong khi gần đây bao gồm cả khảo sát, kiểm định biển, xây dựng và hệ thống máy móc (khoảng 30% doanh thu). Trình độ giám sát, kiểm định xuất nhập khẩu của Việt Nam còn thấp so với thế giới, còn nhiều điểm yếu, cả trong công việc giám sát, kiểm định trước và sau sản xuất và các trang thiết bị giám sát, kiểm định nghèo nàn. Bởi vì những yếu kém đó, trong một vài trường hợp hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam bị phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài. Cho đến nay, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và một vài cơ quan giám sát, kiểm định khác của nhà nước đã quan tâm đến cấp giấy chứng nhận hàng hóa và giấy chứng nhận nguồn gốc. Liên quan đến các bản điều tra, có 7 tổ chức (3 là của Nhà nước) thực hiện loại dịch vụ này. * Dịch vụ giao hàng và vận chuyển hàng: chỉ 20% hàng hóa của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam được vận chuyển do các công ty Việt Nam trong khi phần còn lại được làm bởi các công ty nước ngoài. Lý do chính là các đội tàu Việt Nam yếu, kém phá triển, chi phí cao và sức cạnh tranh kém. Hầu hết các doanh nghiệp thường mua với giá CIF và bán với giá FOB vì theo phương thức mua bán theo hai điều kiện thương mại này thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không phải thuê tàu chuyên chở mà phần trách nhiệm này thuộc về các đối tác của các doanh nghiệp Việt Nam, như vậy các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không chỉ không phải thuê tàu, mà theo hai điều kiện thương mại này thì họ cũng được bảo đảm về quyền lợi trong việc mua, bán hàng hóa.. Hiện nay, có khoảng 20 công ty Việt Nam thực hiện kinh doanh vận chuyển và giao hàng, bao gồm các hàng hóa nhập xuất khẩu bình thường, hàng hóa trưng bày, vật liệu xây dựng, hàng hóa EMS và theo kiểu door-to-door thông qua các đại lý gửi hàng, đóng gói, kiểm tra và bốc dỡ, bảo quản hàng hóa; hoàn thành thủ tục hải quan cho các hàng hóa của họ, mua bảo hiểm và thực hiện các thủ tục khác có liên quan đến giao hàng và vận chuyển hàng. * Dịch vụ tư vấn pháp luật: bao gồm các các dịch vụ về hòa giải, thương lượng. cung cấp các thông tin chính xác về thuế, ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, hải quan ... các chỉ dẫn để làm các hợp đồng kinh tế, hợp đồng nhập xuất khẩu, lựa chọn và chuyển giao công nghệ và giúp đỡ các doanh nghiệp trong các cuộc tranh chấp và bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp tại các toà án và trọng tài kinh tế. Cho đến nay ở Việt Nam có 25 công ty pháp luật và trên 200 phòng và trung tâm tư vấn, 25 công ty nước ngoài và 45 chi nhánh của các công ty pháp luật nước ngoài đang hoạt động. Mặc dù đã có những cố gắng nhưng về chất lượng, số lượng và kinh nghiệm của các công ty tư vấn pháp luật vẫn còn rất kém. Vì vậy mà dịch vụ này ít được sử dụng trong các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Kết quả của nhiều cuộc nghiên cứu gần đây trong các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ ra rằng hầu hết các doanh nghiệp được phỏng vấn ít hay nhiều đều muốn và cần sử dụng các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu. Các dịch vụ đó theo ước lượng của họ có thể chỉ đáp ứng một phần nhu cầu của họ hay ở mức dưới trung bình. Các dịch vụ bưu điện, phương tiện truyền hình, phương tiện vận chuyển được đánh giá là các dịch vụ cung cấp tốt trong khi ngân hàng và lĩnh vực thông tin thì còn kém. Chí phí cho việc sử dụng các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu trong các doanh nghiệp còn thấp, vì thiếu vốn, hầu hết các chi phí được dùng cho các dịch vụ bắt buộc phải làm, không thể tránh khỏi như phương tiện vận chuyển, ngân hàng và dịch vụ thanh toán. Việc sử dụng các dịch vụ mới như: nghiên cứu, thực nghiệm (R&D), chuyển giao công nghệ, marketing, thông tin thị trường và dịch vụ bảo hiểm với một quy mô vừa phải. Hiện nay, hệ thống các dịch vụ xuất khẩu được chiếm phần lớn bởi các công ty và cơ quan nhà nước do khả năng vốn, các mối quan hệ và kinh nghiệm của họ ... Nhưng có thể nói rằng các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu nên là “ mảnh đất ” của khu vực tư nhân vì các doanh nghiệp tư nhân mặc dù không có lợi thế về vốn và các mối quan hệ với các bạn hàng và kinh nghiệm bằng các doanh nghiệp Nhà nước nhưng do các doanh nghiệp này tự đứng ra để hoạt động nên khả năng năng động, nhanh nhậy với sự phát triển và thay đổi của thị trường, chủ động đón trước các sự thay đổi đó để có thể đáp ứng được các nhu cầu trên thị trường thế giới, nhưng hiện nay sự hạn chế của hệ thống luật pháp của VIệt Nam vẫn chưa thể hiện được năng lực của chúng. 2.5. Các chính sách khuyến khích xuất khẩu: để làm giảm bớt tác động của cuộc khủng hoảng khu vực và đặc biệt là để khuyến khích các doanh nghiệp trong việc sản xuất phục vụ xuất khẩu Chính phủ Việt Nam đã ban hành một số chính sách để khuyến khích xuất khẩu, bên cạnh các biện pháp mở rộng quyền kinh doanh để khai thác các khả năng của tất cả các khu vực kinh tế. Bao gồm: a. Khuyến khích xuất khẩu thông qua thuế: Việc sửa đổi Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998, tạo ra sự ưu đãi cho các ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu chủ lực. Theo Luật này thuế ưu đãi đưa ra cho sản phẩm xuất khẩu và đầu tư kinh doanh là: * Các doanh nghiệp sản xuất các hàng hóa xuất khẩu chủ lực thuộc sự giúp đỡ dặc biệt của Luật có thể được hưởng thuế ưu đãi như giảm hay miễn thuế thu nhập (từ 2 đến 4 năm miễn thuế và từ 2 đến 7 năm giảm thuế, tùy thuộc vào từng trường hợp) * Hơn nữa, các doanh nghiệp đó có thể được hưởng một trong các sự ưu đãi cho thuế thu nhập xuất khẩu như: - Giảm 50% thuế thu nhập trong các trường hợp: + Trong năm đầu tiên thực hiện xuất khẩu trực tiếp. + Xuất khẩu các sản phẩm mới của công nghệ kinh tế riêng khác với các sản phẩm xuất khẩu trước. + Xuất khẩu các sản phẩm đến các nước và khu vực mới, khác với các thị trường trước. - Giảm 50% thuế thu nhập từ thu nhập thêm của các doanh nghiệp trong trường hợp thu nhập xuất khẩu của một năm cao hơn năm trước. - Giảm 20% thuế thu nhập từ các thu nhập thêm của các doanh nghiệp trong các trường hợp: + Thu nhập xuất khẩu tăng thêm của các doanh nghiệp đạt được nhiều hơn 50% tổng thu nhập. + Doanh nghiệp có thể làm ổn định thị trường xuất khẩu và giá trị xuất khẩu trong ba năm liên tiếp. - Giảm 25% thuế thu nhập nếu doanh nghiệp đưa ra quá trình hoạt động các kế hoạch đầu tư của mình trong các khu vực kinh tế - xã hội khó khăn như trong điều khoản 1, 2, 3 của Luật khuyến khích đầu tư trong nước (danh sách B ) - Được miễn thuế thu nhập nếu doanh nghiệp thực hiện các kế hoạch đầu tư của mình trong các khu vực kinh tế - xã hội khó khăn như trong điều khoản 1, 2, 3 của Luật khuyến khích đầu tư trong nước ( danh sách C ). - Hoàn lại thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu thô, phụ hay bán thành phẩm để sản xuất các hàng hóa. - Hoãn thu thuế nhập khẩu cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu thô đẻ sản xuất (hiện nay trong thời gian là 9 tháng). - Miễn thuế cũng được áp dụng cho các hàng hóa tạm nhập khẩu để tái xuất khẩu để khuyến khích dịch vụ loại này. c. Thành lập Quỹ thưởng xuất khẩu: Quỹ thưởng xuất khẩu được thành lập và hoạt động theo quyết định 764/QĐ-TTg 24/08/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Mục tiêu của quỹ thưởng này bao gồm các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật: doanh nghiệp Nhà nước, Công ty cổ phần, Hợp tác xã, Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân và cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để khuyến khích họ tham gia vào quá trình thay đổi của kết cấu xuất khẩu của nước ta. Các phần thưởng cho các doanh nghiệp được dựa theo 5 tiêu chuẩn sau: * Xuất khẩu mặt hàng (hoặc một chủng loại của mặt hàng) sản xuất tại Việt Nam mà lần đầu tiên được tiêu thụ ở thị trường nước ngoài, và/ hoặc lần đầu tiên tiêu thụ dc ở thị trường mới có hiệu ủa ( xuất khẩu thu được vốn, có lãi) với kim ngạch đạt từ 100.000 USD/năm trở lên. * Mở rộng thị trường xuất khẩu đã có hoặc mở thêm các thị trường mới, có hiệu quả với mức kim ngạch xuất khẩu tăng trên 20%.so với năm trước, đối với các hàng hóa trong danh sách các sản phẩm được khuyến khích xuất khẩu theo hướng dẫn hàng năm của Bộ thương mại.. * Các mặt hàng xuất khẩu có chất lượng cao đạt huy chương tại các triển lãm - hội chợ quốc tế tổ chức ở nước ngoài hoặc được các tổ chức quốc tế về chất lượng hnàg hóa được cấp chứng chỉ hoặc xác nhận bằng văn bản. * Xuất khẩu các hàng hóa được gia công - chế biến bằng các nguyên vật liệu trong nước chiếm 60% trị giá trở lên hoặc xuất khẩu các mặt hàng thu hút nhiều lao động trong nước, như: hàng thủ công mỹ nghệ, hàng nông lâm thủy hải sản chế biến (như tương ớt, chuối sấy, thức ăn chế biến sẵn ...), hàng may mặc (không kể hàng xuất theo hạn ngạch) với mức kim ngạch xuất khẩu đạt từ 10 triệu USD/ năm trở lên, riêng đối với các sản phẩm mỹ nghệ là từ 5 triệu USD/năm trở lên. * Xuất khẩu các hàng hóa không thuộc danh sách có hạn ngạch xuất khẩu hay nằm ngoài những mục tiêu kế hoạch được phân giao đạt kim ngạch từ 50 triệu USD mỗi năm. - Thực tiễn và sự hoạt động của Quỹ thưởng xuất khẩu: thuận chiều với sự gia tăng của xuất khẩu, số doanh nghiệp được thưởng về xuất khẩu ngày một nhiều. Năm Số DN được khen thưởng Tổng số tiền (tỷ đồng) 1998 66 4,6 1999 106 6,2 2000 158 10,5 Nguồn: Bộ Thương mại. 5 tiêu chuẩn đặt ra xét thưởng đều có doanh nghiệp đạt được. Đó là 42 trường hợp được thưởng theo tiêu chuẩn 1: có mặt hàng mới, thị trường mới; 124 trường hợp được thưởng theo tiêu chuẩn 2: về tốc độ tăng trưởng; 5 đơn vị được thưởng theo tiêu chuẩn 3: hàng xuất khẩu đạt chất lượng xuất sắc; 49 trường hợp thưởng về tiêu chuẩn 4: xuất khẩu các mặt hàng đặc biệt khuyến khích; và tiêu chuẩn 5 về quy mô lớn có 10 doanh nghiệp đạt được. Theo mật độ đạt được các tiêu chuẩn, dẫn đầu là Công ty sản xuất xuất nhập khẩu Tổng hợp Hà Nội đạt cả 5 tiêu chuẩn, mức thưởng cao nhất. Xí nghiệp chế biến thủy sản súc sản xuất khẩu Cần Thơ dạt 4 tiêu chuẩn, 15 đạt 3 tiêu chuẩn, 35 doanh nghiệp đạt 2 tiêu chuẩn và 106 doanh nghiệp đạt 1 tiêu chuẩn. Bắt đầu từ năm 1999, có quy chế khen thưởng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), năm 2000 cũng có 8 doanh nghiệp thuộc loại hinh này được thưởng. Kinh nghiệm của các doanh nghiệp được thưởng là trên mặt trận xuất khẩu ở nước ta, bên cạnh các doanh nghiệp lớn, có truyền thống là khá đông các doanh nghiệp với số vốn không lớn, quy mô vừa phải, kinh nghiệm chưa nhiều, thị phần khiêm tốn, nhưng nếu biết tìm tòi sáng tác mẫu mã mới, mạnh dạn đầu tư đúng hướng, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất, kiểm định nghiệm thu sản phẩm, sôi sục tìm bạn hàng, khai phá thị trường xa, thiết lập quan hệ tín nhiệm, bền vững ... sẽ biến cơ hội thành hiện thực. d. Hỗ trợ xuất khẩu bằng tín dụng, lãi suất. Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực và các doanh nghiệp thưong mại có thể được hỗ trọ từ quỹ Hỗ trợ xuất khẩu, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các quỹ đầu tư phát triển: cung cấp các tín dụng ưu đãi hay bảo đảm tín dụng xuất khẩu để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển các sản phẩm, việc kinh doanh và các thị trường. Giới hạn tín dụng ưu đãi và bảo đảm tín dụng áp dụng cho các sản phẩm xuất khẩu chủ lực và kế hoạch, dự án mua bán được đề cập rõ ràng trong nghị định 7/1998/NĐ-CP (15/01/1998) quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi): - Doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được quyền trực tiếp xuất khẩu hàng hoá do mình sản xuất. Mức vốn lưu động tối thiểu quy định cho các doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu đăng ký hoạt động tại các vùng thuộc Danh mục B hoặc Danh mục C được giảm 50% so với mức vốn lưu động chung. - Cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu hoặc sản xuất nguyên liệu, phụ liệu trực tiếp làm hàng xuất khẩu thuộc diện ưu đãi đầu tư theo Danh mục A hoặc B hoặc C thì được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển và các ngân hàng thương mại quốc doanh bảo lãnh hoặc cho vay tín dụng xuất khẩu, kể cả cho vay mua hàng xuất khẩu và cho vay đầu tư mở rộng cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu. Nếu các ngân hàng này không đủ vốn để cho vay thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm cho các ngân hàng nói trên vay tái cấp vốn theo quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Riêng đối với một số mặt hàng xuất khẩu quan trọng thuộc diện ưu tiên phát triển theo danh mục do Chính phủ quy định, trong trường hợp giá thị trường thế giới xuống tháp hoặc giá thị trường trong nước đối với các nguyên liệu, vật tư để sản xuất hàng xuất khẩu đó lên cao gây thua lỗ lớn cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, thì Nhà nước sẽ xem xét trợ giúp thông qua Quỹ bình ổn giá. - Doanh nghiệp có dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng của các khu công nghiệp hoặc khu chế xuất, khu công nghệ cao được giảm 50% tiền thuê đất của Nhà nước trong thời hạn 5 năm kể từ ngày ký hợp đồng thuê. - Các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu hoặc sản xuất nguyên liệu, phụ jiệu trực tiếp làm hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu được: + Các ngân hàng thương mại quốc doanh cho vay tín dụng xuất khẩu với lãi xuất ưu đãi; + Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia bảo lãnh cho các khoản tín dụng xuất khẩu; + Rút ngắn 50% thời gian khấu hao tài sản cố định được sử dụng vào sản xuất, chế biến hoặc lắp ráp hàng xuất khẩu. Nói tóm lại, nếu các nhà đầu tư tiến hành xuất khẩu trực tiếp thì họ có thể được giúp đỡ cả từ quỹ của Nhà nước để khuyến khích đầu tư và Quỹ hỗ trợ xuất khẩu về những hoạt động về sau sẽ có thể được cung cấp tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, lãi suất mà có thể thỏa mãn 70% nhu cầu tín dụng xuất khẩu của hợp đồng. Hơn nữa, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu có thể bảo đảm , sau khi cân nhắc, khoảng 80% tín dụng quy định cho việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Trong khi Quỹ hỗ trợ tín dụng vẫn chưa được thành lập, Bộ trưởng Bộ Thương mại đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xin sự chấp nhận của chính phủ cho việc sử dụng Quỹ bình ổn giá để hỗ trợ các sản phẩm xuất khẩu chủ lực và các doanh nghiệp thương mại. 2.6. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu: mọi thành phần kinh tế đều được vay. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng, là một trong các công cụ của Chính phủ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trong năm nay và các năm sau. Theo số liệu thống kê, xuất khẩu đóng góp đến 45% GDP. Mặt khác nếu không xuất khẩu, không chen chân vào thị trường thế giới thì khi hội nhập Việt Nam sẽ ở thế bị động, trở thành thị trường của các nước. Với tinh thần đó, Quỹ hỗ trợ phát triển phối hợp với Bộ tài chính, xây dựng Quy chế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu với nội dung đề cập tương đối toàn diện các hoạt động tín dụng nói chung. Cụ thể là Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu có 3 hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu chính là: cho vay ưu đãi, bao gồm cho vay chung và dài hạn đối với chủ đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu; hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; bảo lãnh tín dụng, bao gồm cả bảo lãnh tín dụng đầu tư, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng ... Phạm vi, đối tượng cho vay của Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu cũng sẽ được mở rộng hơn so với các chính sách tín dụng ưu đãi hiện hành. Quỹ cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư , bảo lãnh tín dụng đầu tư đối với các dự án đầu tư phát triển sản xuất, chế biến, gia công, dịch vụ xuất khẩu . Đối với cho vay đầu tư, không chỉ dừng ở việc cho vay vốn đầu tư trung dài hạn mà thực hiện cả cho vay vốn lưu động, kể cả cho vay đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thanh toán chậm. Phạm vi tín dụng cũng được mở rộng, ngoài việc cho vay, hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín dụngđầu tư cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất, chế biến, gia công, kinh doanh hàng xuất khẩu, Quỹ cũng được mở rộng việc cho vay đối với cả các hoạt động dịch vụ được coi là xuất khẩu tại chỗ như các lĩnh vực xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ lớn như du lịch, đóng tàu vận tải hàng hóa. Đối tượng được hỗ trợ từ Quỹ là tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều được vay vốn, hỗ trợ tín dụng. Bao gồm: doanh nghiệp Nhà nước, kể cả doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa, công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã và cả các thương nhân là doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân và tổ hợp tác có đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu ... Đơn vị xuất khẩu có các dự án đầu tư sản xuất, gia công, chế biến, dịch vụ thuộc các lĩnh vực mà phương án tiêu thụ sản phẩm của dự án đạt kim ngạch xuất khẩu ít nhất bằng 30% doanh thu hàng năm được vay vốn từ Quỹ. * * * II. KẾT QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG GIAI ĐOẠN 1986 - 2000. Sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế đã phát triển nhanh chóng từ kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sản xuất không đủ tiêu dùng, đã chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng mạnh về xuất khẩu. Nếu năm 1990, cả nước mới có bốn mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch từ 100 triệu USD/mặt hàng trở lên thì, đến nay đã có hàng trăm mặt hàng xuất khẩu, với 12 mặt hàng chủ lực, trong đó có năm mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu ở mức một tỷ USD trở lên. Thị trường truyền thống tạm thời gặp khó khăn thì cả nước phát triển, tìm kiếm thêm thị trường mới, trước hết là các nước trong khu vực châu Á, kế đến là châu Mỹ, châu Phi... Và đến nay, cả thị trường EU và các thị trường mới, cùng phát triển gắn liền với các đối tác nước ngoài, cùng cạnh tranh và hợp tác làm ăn trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu. Nhờ vậy, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng đều qua các năm. Riêng xuất khẩu hàng hóa năm 2000 đạt 14,3 tỷ USD, tăng sáu lần so với 10 năm trước đó. Nhập siêu cơ bản được khống chế ở mức hợp lý, loại trừ được những tác động xấu do cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực dội tới. Kinh tế không những đã ra khỏi tình trạng bị bao vây cô lập mà còn mở rộng, phát triển đáng mừng. Hiện Việt Nam có quan hệ thương mại với 165 nước và vùng lãnh thổ, có hiệp định thương mại với hơn 70 nước. Đồng thời, Việt Nam đã bước đầu hội nhập với các thể chế thương mại khu vực và thế giới, với việc tham gia: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức dầu mỏ thế giới (APEC) và Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), xúc tiến đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). 1. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng khá nhanh (xem bảng 1), năm 1986 đạt 789,1 triệu USD, đến năm 2000 đạt 14,3 tỷ USD. Tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm bình quân đạt 23,92%. Giai đoạn 1986-1996 (trừ năm 1991) tỷ trọng xuất khẩu tăng mạnh, từ năm 1997 đến nay có xu hướng tăng chậm lại. Giai đoạn 1975-1985, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng năm chỉ là 10%, tổng kim ngạch xuất khẩu quá nhỏ, đạt thấp, bình quân mỗi năm chiếm 26% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, cán cân thương mại luôn bị thâm hụt trầm trọng. Giai đoạn 1986-1990, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 7,0317 tỷ Rúp - USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân hàng năm là 30,74% (trong khi tốc độ tăng GDP bình quân là 4,35%/năm), giữa các năm tốc độ tăng trưởng không đều, xuất khẩu chỉ bù đắp được một phần cho nhập khẩu. Giai đoạn 1991-1996, giá trị tổng kim ngạch xuất khảu đạt 24,4 tỷ USD, tốc độ tăng trung bình là 21,60% (trong khi tốc độ tăng GDP bình quân là 8,4%/năm) tốc độ tăng trưởng này đã góp phần cân đối nguồn ngoại tệ cho nhu cầu nhập khẩu vật tư, nguyên liệu, thiết bị, hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, hạn chế lạm phát, bình ổn giá cả. Từ năm 1997 đến nay, kim ngạch xuất khẩu dao động với biên độ lớn, năm 1997 tốc độ tăng 26,6%, năm 1998 tốc độ tăng là 1,9% đến năm 1999 là 23,1% (nguyên nhân chủ yếu của tình hình này là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở châu Á; đồng thời do giá cả của các nguyên liệu và sản phẩm thô dành cho xuất khẩu trên thị trường thế giới rất bất lợi). Tuy nhiên, năm 1999 lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vượt qua mốc 10 tỷ USD (11,52 tỷ USD), tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao gấp 5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kết quả này, một mặt, do xuất khẩu được đầu tư đúng mức, mặt khác, kinh tế khu vực châu Á đã có sự phục hồi, tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Và tổng giá trị xuất khẩu của cả nước trong 7 tháng đầu năm 2001 ước đạt 9.585 triệu USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước trong đó phần của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng 1.681 triệu USD (không kể dầu thô), tăng 6,4%. Mặc dù mức gia tăng kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 1986 - 2000 chưa cao bằng Đài Loan, Hàn Quốc ... ở giai đoạn đầu khi họ tiến hành công nghiệp hóa, nhưng cũng khá cao so với một số đang phát triển khác. Tốc độ gia tăng xuất khẩu bình quân hàng năm vượt xa tốc độ gia tăng nhập khẩu (23,9%/15,70%), so với tốc độ tăng GDP hàng năm (6,49%) thì tốc độ gia tăng xuất khẩu cao gấp 3,68 lần. Kim ngạch xuất khẩu bình quân trên đầu người tăng nhanh trong những năm gần đây. Mức xuất khẩu trên đầu người đã tăng từ 31 USD/ người (năm 1991), 96 USD/ người (năm 1996), 150 USD/ người (năm 1999) (trong khi con số tương ứng ở các năm 1996 và 1999 của Thái Lan là 930 USD/ người và 943 USD/ người; Philippin là 285 USD/ người và 344 USD/ người). BẢNG 1: GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1985 - 2000. Đơn vị : triệu USD TT NĂM GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU TỐC ĐỘ TĂNG (+), GIẢM (-) 1 1986 789,1 + 13,00 2 1987 854,2 + 8,25 3 1988 1038,4 + 21,57 4 1989 1946,0 + 87,40 5 1990 2398,0 + 23,23 6 1991 2086,0 - 13,01 7 1992 2580,0 + 23,68 8 1993 2985,0 + 15,70 9 1994 3893,0 + 30,42 10 1995 5449,0 + 39,97 11 1996 7256,0 + 33,16 12 1997 9185,0 + 26,58 13 1998 9361,0 + 1,92 14 1999 11540,0 + 23,28 15 2000 14300,0 + 23,92 16 9/2001 11600,0 Nguồn: Bộ Thương mại. BIỂU ĐỒ 1: TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG XUẤT KHẨU GIAI ĐOẠN 1986 - 2000 Đơn vị tính: % Nguồn: số liệu bảng 1. 2. Thị trường xuất khẩu đã có những thay đổi khá lớn (bảng 2) trong đó kim ngạch xuất khẩu sang các nước châu Á tăng nhanh. Giai đoạn 1986-1990 tỷ trọng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa vẫn chiếm ưu thế lớn như: thị trường Liên Xô chiếm từ 64 - 78% kim ngạch xuất khẩu, tiếp theo là Đức, Tiệp Khắc ... Đối với khu vực tiền tệ chuyển đổi tự do, thị trường xuất khẩu chủ yếu là Nhật Bản chiếm từ 10 - 15% kim ngạch xuất khẩu, sau đó là Singapore. Tỷ trọng hàng xuất khẩu sang thị trường châu Á đã tăng từ 43% năm 1990 lên 77% vào năm 1991 và luôn dao động trong khoảng 72 - 73% suốt thời kỳ 1992 - 1996. Đến năm 1996, thị trường châu Á chiếm 70,9% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó Nhật Bản chiếm 21,3%, ASEAN: 24,5%, NIEs Đông Á (trừ Singapore): 19%, Trung Quốc: 4,7%. Tỷ trọng xuất khẩu sang các thị trường châu Âu mà chủ yếu là thị trường Tây Âu (từ 17,1% năm 1991 lên 27,7% năm 1998), châu Mỹ (từ 0,16% năm 1991 lên 4,4% năm 1996), châu Úc (từ 0,3% năm 1991 lên 1% năm 1996). Từ năm 1997 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở châu Á, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, Việt Nam đã chuyển hướng sang các thị trường có đồng tiền ổn định hơn như châu Mỹ, Úc, EU, Nga ... Nước ta đã ký nhiều hiệp định xuất khẩu với EU. Hiệp định buôn bán hàng dệt may ký năm 1992 được đàm phán sửa đổi lần thứ ba năm 2000 tăng thêm 26% hạn ngạch, sớn hơn quy định 1 năm. Hiệp định khung hợp tác kinh tế, thương mại ký 1995 với quy chế tối huệ quốc; Thỏa thuận về buôn bán giày dép ký năm 1999 và tháng 11/1999 EU đã ra quyết định xếp Việt Nam vào danh sách 1, công nhận 40 doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu thủy sản nhuyễn thể vào EU. Cả năm 2000 tổng kim ngạch xuất nhập khẩuđạt 5,5 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 4,4 tỷ USD. Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ chính trị với 165 nước, thị trường xuất khẩu được mở rộng, từ quan hệ ngoại thương với 40 nước năm 1990 lên 154 nước và các công ty của 70 nước và khu vực lãnh thổ, trong đó có nhiều thị trường mới, có nền công nghệ cao và nguồn vốn lớn như Nhật Bản, Mỹ, EU, NIEs Đông Á ... Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN (ngày 28/71995) và bình thường hóa quan hệ với Mỹ (năm 1995), gia nhập APEC (năm 1998), ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ (7 - 2000) ... đã mở ra triển vọng khả quan trong hoạt động xuất nhập khẩu. BẢNG 2: CÁC THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM. Đơn vị : % THỊ TRƯỜNG 1996 1997 1998 1999 2000 Châu Á 70,9 63,8 61,2 ASEAN 24,5 21,2 25,1 Nhật Bản 21,3 17,7 15,8 Đài Loan 7,4 8,5 7,1 Hong Kong 4,3 5,2 3,4 Hàn Quốc 3,4 3,9 2,5 Trung Quốc 4,7 5,7 5,1 Châu Âu 15,4 22,7 27,7 COMECON 2,3 2,3 2,0 Các nước EU 11,0 16,8 22,5 Bắc Mỹ 3,3 3,7 5,9 Mỹ 2,8 3,0 5,0 Nam Mỹ 0,0 0,1 0,6 Châu Phi 0,2 0,1 0,2 Châu Úc 1,0 2,2 5,3 Nguồn: Bộ Thương mại. 3. Việt Nam đã xuất hiện một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Năm 1991 Việt Nam đã xuất hiện một số mặt hàng xuất khẩu “ chủ lực ”: dầu thô, thủy hải sản, gạo, dệt may nhưng cơ cấu xuất khẩu vẫn chưa có sự chuyển dịch lớn. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có những thay đổi quan trọng, bắt đầu hình thành những nhóm hàng, mặt hàng chủ lực và đến năm 2000 đã có thêm 11 nhóm, mặt hàng là: cà phê, cao su, giầy dép, than đá, hàng điện tử và linh kiện máy tính, nông sản chế biến, hạt tiêu, hạt điều, chè, lạc nhân, hàng thủ công mỹ nghệ. Cấu trúc hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được phân chia làm 3 nhóm: nhóm 1: các sản phẩm nông nghiệp - rừng - hải sản và đồ thủ công (bao gồm: cà phê, cao su, chè, gạo, hạt điều, lạc, rau, hải sản và đồ thủ công); nhóm 2: các nguyên liệu thô (bao gồm: dầu thô và than đá và nhóm 3: hàng hóa kỹ thuật (quần áo, giầy dép, máy móc, các linh kiện điện tử và máy tính) và các hàng hóa khác (các hàng hóa còn lại). Qua cấu trúc đó, nhóm các hàng hóa nông nghiệp - rừng - hải sản và nhóm nguyên liệu thô chiếm tỷ trọng chủ yếu về giá trị xuất khẩu (Bảng 3). Tỷ trọng của sản phẩm khai khoáng từ 9% năm 1986 tăng lên 25% năm 1990, hàng nông, lâm, hải sản từ 56% năm 1986 xuống xấp xỉ 59% năm 1990. Sở dĩ có sự thay đổi này là do sản phẩm dầu thô tăng nhanh. Trên thực tế đã hình thành các nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu Rúp - USD như: hàng may sẵn (214,7 triệu), gạo (304,6 triệu), tôm đông lạnh (154 triệu) và dầu thô (408,4 triệu) (năm 1990). Hoạt động xuất khẩu dịch vụ như du lịch, vận tải biển, hàng không, bưu điện, xuất khẩu sức lao động ... bắt đầu sôi động và có những bước tiến đáng kể. BẢNG 3: CẤU TRÚC XUẤT KHẨU CỦA CÁC NHÓM HÀNG HÓA CÓ GIÁ TRỊ CAO. Đơn vị: triệu USD Các nhóm hàng hóa Hàng hóa 1997 1998 1999 2000 Giá trị Giá trị Giá trị Giá trị 1 1. Gạo 870,1 1024,0 1025,1 668 2. Cà phê 490,9 593,8 585,2 485 3. Cao su 190,9 127,5 146,8 170 4.Hạt điều 133,3 117,0 109,8 5.Rau quả 68,3 53,4 104,9 205 6. Hạt tiêu 62,8 64,5 137,3 7. Chè 47,9 50,5 45,2 8. Lạc 44,7 42,1 32,8 9. Hải sản 780,8 818,0 951,1 1475 10.TCMN 121,3 111,2 168,2 235 Tỷ trọng 30% 32% 30,5% 2 1. Dầu thô 1413,4 1232,2 2091,6 3582 2. Than đá 110,8 101,5 96,0 Tỷ trọng 16% 14% 20% 3 1.Quần áo 1413,4 1351,4 1747,3 1815 2.Giày dép 965,4 1000,8 1391,6 1402 3.Máy móc, linh kiện 400,9 472,29 790 Tỷ trọng 25% 29% 33% Các hàng hóa khác 29% 25% 16,5% Nguồn: Bộ Thương mại Tổng giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu đã tăng từ 298,4 triệu Rúp - USD năm 1985 (trong đó xuất khẩu hàng công nghiệp nặng và khoáng sản là 62,9 triệu USD và hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp là 235,5 triệu USD) lên 6036 triệu USD năm 1998 (trong đó xuất khẩu hàng công nghiệp nặng và khoáng sản là 2609 triệu USD và hàng công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp là 3427,6 triệu USD) (bảng 4) III. NHỮNG HẠN CHẾ, TỒN TẠI._.hát triển, đây là điều kiện cần thiết để thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. - Tiếp tục xây dựng và kiện toàn hệ thống chính sách thuế phù hợp với điều kiện trong nước và với thông lệ quốc tế, đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt sắc thuế áp dụng giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo tính ổn định, lâu dài của chính sách thuế trong đó: đối với thuế xuất khẩu, cần có mức thuế ưu tiên đặc biệt cho các mặt hàng xuất khẩu và không nên áp dụng một mức thuế cho toàn bộ nhóm sản phẩm giúp cho các doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong cạnh tranh trên thị trường thế giới. Có thể chuyển nguồn phụ thu chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá vốn trong nước ( trong trường hợp giá thị trường cao đột biến hoặc giảm thấp xuống dưới giá thành) từ quỹ khuyến khích xuất khẩu sang bộ chủ quản hoặc Hiệp hội ngành hàng quản lý, sẽ sớm khắc phục tình trạng trợ cấp không kịp thời cho xuất khẩu. Đối với các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu và doanh nghiệp sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu, cần được hưởng chế độ hoàn thuế nhập khẩu đã nộp khi xuất khẩu và nếu tỷ lệ xuất khẩu cao thì được hưởng mức thuế thu nhập ưu đãi. áp dụng thuế suất hập khẩu thấp đối với các loại hàng hóa nguyên liệu đầu vào cho phục vụ các hàng hóa xuất khẩu: phân bón, thuốc trừ sâu, vải phụ liệu ... - Để khuyến khích mạnh việc xuất khẩu cần xây dựng mức bảo hộ khác nhau cho các nhóm sản phẩm khác nhau. Mức bảo hộ cho nhóm có khả năng cạnh tranh phải thấp hơn mức bảo hộ cho các nhóm sản phẩm khác. Chẳng hạn mức bảo hộ cho các nhóm sản phẩm có khẳ năng cạnh tranh có thể ở mức thuế suất tối đa là 50 - 60%; nhóm có khả năng cạnh tranh cao hơn ở mức thuế suất 20%. Tuy nhiên với việc gia nhập AFTA và từng bước thực hiện kế hoạch cắt giảm thuế quan trong chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) và đặc biệt là khi sẽ gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì bên cạnh việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh xuất khẩu, chúng ta phải từng bước giảm dần hàng rào bảo hộ. Đối với những mặt hàng chiến lược, những mặt hàng đã và sẽ được đầu tư cần được bảo hộ trong một thời hạn nhất định, nhưng nếu không có các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh thì việc kéo dài thời gian bảo hộ cũng có nghĩa là kéo dài tình trạng trì trệ và ỷ lại vào Nhà nước cuả doanh nghiệp. Nên chăng, áp dụng mức thuế nhập khẩu thấp đối với nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất các mặt hàng xuất khẩu và có khả năng cạnh tranh, tăng khă năng chiếm lĩnh thị trường quốc tế của các doanh nghiệp do đưa ra các mức giá cạnh tranh. Tập trung đổi mới chính sách và cơ chế quản lý, điều hành xuất khẩu thích hợp theo yêu cầu quốc tế, hạn chế biện pháp hành chính đơn thuần, đơn giản hóa thủ tục, xây dựng một hệ thống chính sách và biện pháp khuyến khích xuất khẩu, cần cụ thể trong mỗi giai đoạn, giúp cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp ngày càng thông thoáng đồng thời đảm bảo hiệu lực quản lý của Nhà nước. Đối với Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và Quỹ bảo lãnh xuất khẩu cần điều chỉnh mức lãi suất ưu đãi thích hợp và cơ chế điều chỉnh mức lãi suất cho vay linh hoạt hơn trong điều kiện kinh doanh thay đổi nhanh. 4. Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Bên cạnh chính sách đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu thì các nước cũng có chính sách xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực để tạo ra các mũi nhọn trong xuất khẩu. Hàng chủ lực là loại hàng chiếm vị trí quyết định trong kim ngạch xuất khẩu do có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất tương đối ổn định. Việt Nam là một nước có thế mạnh về các sản phẩm nông nghiệp về số lượng, đa dạng hóa về chủng loại. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực trong nước khá dồi dào tuy nhiên trình độ kỹ năng còn thấp và hạn chế, do vậy có điều kiện để phát triển nhiều ngành nghề và sản phẩm xuất khẩu đòi hỏi nhiều lao động. . Nhận thức được những đặc điểm trong nước nên chính phủ Việt Nam từ khi mở cửa cho đến nay đã ban hành rất nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi để sản xuất một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước như: dầu thô, hàng dệt may, giày dép, thủy sản và gạo. Sở dĩ nhà nước ta xác định 5 mặt hàng trên là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực vì các mặt hàng này có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định tại các châu lục trên thế giới. Và các mặt hàng này được sản xuất trên cơ sở sử dụng những lợi thế của Việt Nam do vậy có khả năng cạnh tranh so với hàng hóa cùng loại của các nước khác. Mặt khác, các mặt hàng này có nguồn lực sản xuất trên cơ sở sử dụng nhân công dồi dào trong nước nên chi phí cho sản xuất tương đối thấp, giải quyết vấn đề việc làm. Hơn nữa, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đóng vai trò là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho nước ta với kim ngạch xuất khẩu hàng năm trên 1 tỷ USD. Vì vậy việc xây dựng cácmặt hàng xuất khẩu chủ lực có ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy trong thời gian tới để nền kinh tế tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững thì nhà nước ta cần phải xây dựng thêm một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực: Ví dụ như: ngành rau quả - lý do để chọn rau quả sẽ là mặt hàng xuất khẩu chủ lực bởi vì Việt Nam có tiền năng lớn về xuất khẩu rau quả: nước ta có khí hậu nắng, ẩm, mưa nhiều, độ ẩm cao cho phép Việt Nam phát triển một nền nông nghiệp phong phú, đa dạng với nhiều loại hoa quả khác nhau. Để phát triển ngành rau quả chúng ta phải thực hiện đồng bộ các biện pháp: có các chính sách ưu đãi thông thoáng hơn để có thể thu hút được nhiều vốn đầu tư tham gia vào quá trình sản xuất để phục vụ xuất khẩu đồng thời tăng cường việc nâng cao hơn nữa chất lượng của các mặt hàng xuất khẩu để có thể cạnh tranh, chiếm lĩnh các thị trường trên thế giới về các mặt hàng mình có thế mạnh. 5. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện các cam kết hoặc đàm phán với các nước và tổ chức quốc tế. Triển khai có hiệu quả Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trên cơ sở xây dựng chiến lược thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI), cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm thu hútnhiều hơn nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tranh thu công nghệ nguồn, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu và sản phẩm công nghệ cao. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho các mục tiêu kinh tế - xã hội. Từng bước xóa bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật đối với đầu tư trong và ngoài nước, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho doanh nghiệp và tư nhân muốn đầu tư phát triển sản xuất. Tập trung tạo ra sự chuyển biến có tính chất đột phá trong quá trình đổi mới và phát triển của các doanh nghiệp. Cải cách mạnh mẽ khu vực kinh tế nhà nước, cần tạo điều kiện phát triển khu vự kinh tế tư nhân - khu vực kinh tế năng động và về lâu dài sẽ đóng vai trò không nhỏ trong quá trình tăng trưởng và hội nhập quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý tạo dl cho các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ thật sự bình đẳng khi tiếp cân các nguồn lực và tham gia xuất khẩu. 6. Tỷ giá hối đoái: với một nền kinh tế hướng ngoại thì vấn đè về chính sách tỷ giá hối đoái trở nên rất quan trọng. Tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng quyết định đến khă năng cạnh tranh, tới tổng chi phí cũng như tổng mức lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp . Một nước có thể có nhiều bạn hàng buôn bán. Cho nên khi đưa chỉ số giá cả nước ngoài vào tính toán tỷ giá hối đoái cần cân nhắc kỹ. Để có sự đánh giá chính xác về vị trí cạnh tranh của đất nước, có thể cần phải tính toán các TGHĐ song phương đối với từng bạn hàng thương mại quan trọng nhất. Điều mà nhiều nước đã làm trong trường hợp tỷ giá hối doái thực tế thay đổi là kiểm soát nhập khẩu và kiểm soát hối đoái để hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên biện pháp này không đem lại được lợi ích gì cho nhập khẩu. Do vậy, có xu hướng là nền kinh tế phải nhập khẩu ít đi khi nguồn thu nhập khẩu giảm, thậm chí còn đẩy giá lên cao do mức cung sản phẩm cho nền kinh tế giảm sút. Sự thiếu hụt ngoại hối không chỉ giảm nhập khẩu mà thậm chí còn làm giảm mức sản xuất ( vì thiếu đầu vào sản xuất ). Trong các nền kinh tế nhỏ như Việt Nam, việc kiểm soát nhập khẩu đó sẽ thiếu hụt ngoại hối, có thể đẫn đến việc bảo hộ một nền sản xuất kém hiệu quả bởi trong nước không có nhiều nhà sản xuất đủ để tạo ra sức cạnh tranh nội bộ dẫn tới hiện tượng độc quyền. Thậm chí việc kiểm soát nhập khẩu còn thường đẫn đế nạn tham nhũng, hối lộ và hình thành các chợ đen .Bởi đối tượng cần ngoại hối sẽ tăng cường mua chuộc các quan chức phụ trách kiểm soát để có được ngoại hối. Không thể ngăn ngừa vấn đề này nều những tác nhân kích thích đủ lớn, ngay cả khi các chính phủ biết quản lý tốt. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trong việc phát triển nhanh xuất khẩu là ý chí và sự khéo của chính phủ trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái, thuế quan và trợ cấp để duy trì tỷ giá thực tế kích thích xuất khẩu về lâu dài và ngăn ngừa tỷ giá nhập khẩu trượt lên cao so với tỷ giá xuất khẩu . Đối với điều kiện kinh tế hiện nay của Việt Nam, để thúc đẩy hơn nữa chiến lược công nghiệp hướng về xuất khẩu nên chăng thực hiện giải pháp sau: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại tệ và điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng thị trường, hạ giá trị đồng nội tệ, thực hiện chính sách tỷ giá hợp lý. Nhất là khi chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) trong khuôn khổ ASEAN ( thuế nhập khẩu 0-5%) có hiệu lực và những áp lực cạnh tranh từ bên ngoài khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), công cụ bảo hộ bằng thuế quan không còn hiệu lực nữa, thì khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam có thể bị ảnh hưởng rất lớn nó không chỉ khó chiếm lĩnh thị trường trong nước mà còn hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế . Cho nên việc thả nổi tỷ giá hối đoái theo sát với giá thị trường có lợi cho xuất khẩu sẽ trở thành công cụ để bảo hộ sản xuất trong nước đồng thời khuyến khích xuất khẩu 7. Chính sách thị trường xuất khẩu. -Tổ chức việc nghiên cứu chiến lược thị trường xuất khẩu; chủ động, tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị phần trên những thị trường truyền thống, tranh thủ mọi cơ hội mở rộng thị trường mới; đa dạng hóa thị trường, đảm bảo thị trường lâu dài, có quy mô thích hợp. Tập trung khai thác các thị trường có khả năng tiêu thụ lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản. - Huy động mọi thành phần kinh tế vào việc mở rộng thị trường du lịch, xuất khẩu lao động và các dịch vụ thu ngoại tệ khác. -Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động xuất khẩu ( môi giới, tổ chức, khai thác thị trường ...). -Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại đối với từng mặt hàng. Từng bước hiện đại hóa phương thức kinh doanh phù hợp với xu thế mới của thương mại thế giới, đặc biệt là thương mại điện tử. Xây dựng hệ thống thông tin dự báo thị trường; hỗ trợ về thông tin, tìm kiếm khách hàng ... cho các doanh nghiệp. Để góp sức thúc đẩy xuất khẩu chúng ta cần tìm hiểu thông tin từ thị trường ngoài nước. Muốn vậy Nhà nước và các doanh nghiệp cần phải thực hiện một số việc sao cho phù hợp với từng thị trường: * Thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là thị trường có giá trị nhập khẩu lớn nhất của Việt Nan trong nhiều năm qua, khoảng 17-18% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Hàng hóa xuất khẩu sang thị trương Nhật Bản bao gồm hải sản, vải sợi và quần áo (chủ yếu là hàng dệt kim), giầy dép và các sản phẩm bằng da, than, cao su, cà phê, rau, đồ hộp, chè, đồ gốm sứ và đồ gỗ.Trong đó,các mặt hàng chúng ta có lợi thế chủ yếu là nguyên liệu thô ,hay hàng hoá hợp đồng phụ.Các hàng hoá được ưa chuộng là sản phẩm nông nghiệp,đồ ăn, đò thủ công ...Tuy nhiên, các sản phẩm đòi hỏi nhiều công nghệ như các linh kiện điện tử và máy tính hầu hết được xuất khẩu bởi các công ty 100% của Nhật Bản. Mặt khác, có thể nói rõ rằng Nhật Bản là một nước có thuận lợi về công nghệ với các công nghệ gốc, là nhà xuất khẩu chủ yếu các máy móc và trang thiết bị công nghệ cao sang Việt Nam. Vì vậy, dể thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của nước ta sang thị trường này bao gồm cả việc tăng giá trị xuất khẩu và mở rộng số lượng hàng hóa, thời gian tới cần phải được sự quan tâm đến các vấn đề: - Soạn thảo các chính sách khuyến khích để thu hút các nhà đầu tư Nhật Bản, sao cho việc xuất khẩu sang thị trương này sẽ được tốt hơn bởi các công ty liên doanh hay 100% vốn nước ngoài; các chính sách về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cho phép chuyển giao công nghệ trong việc chế biến và gia công, đặc biệt trong ngành điện, điện tử, máy tính và ôtô. Quan trọng hơn nữa, các quy định để điều hành hoàn toàn sự thực hiện các chính sách bảo vệ các ngành này nên được thiết lập. - Hiện nay, các hàng hóa xuất khẩu của chúng ta vẫn chư được hưởn một cách đầy đủ quy chế MFN, dẫn đến sự cạnh tranh yếu hơn các hàng hóa tương tự của các nước được hưởng MFN (ví dụ như các đồ thủ công). Vì vậy, trong các cuộc đàm phán của Chính phủ nên được quan tâm để có thể ký được hiệp định được hưởng toàn bộ quy chế MFN của Nhật Bản đối với hàng hóa của Việt Nam. - Cải tiến các hạot động xúc tiến thương mại ở thị trương Nhật Bản trong khuôn khổ của sự hợp tác kinh tế song phương và đa phương, như chương trình xúc tiến thương mại và khuyến khích đầu tư mà Nhật Bản đã mở ra cho ASEAN. * Thị trường EU: đay là một thị trường lớn và giá trị xuất khẩu của nước ta sang EU đã tăng đáng kể trong giai đoạn 1991-1999. Xuất khẩu sang EU chủ yếu là giầy dép, quần áo và vải sợi, cà phê, hải sản, cao su, than, hạt điều, hoa quả; mặt hàng có giá trị xuất khẩu chủ yếu là quần áo và vải sợi, giầy dép và hải sản. Gần đây, qua các thông tin thống kê cho thấy rằng xuất khẩu sang EU chiếm 70-75% tổng giá trị xuất khẩu cảu nước ta. Đặc điểm quan trọng nhất của thị trường EU đó không chỉ là nhà nhập khẩu các sản phẩm trên mà còn là nhà cung cấp các máy móc và trang thiết bị cho việc sản xuất các sản phẩm, đặc biệt là vải sợi, quần áo và các sản phẩm da. Với kết quả đó để duy trì và mở rộng xuất khẩu sang EU - một thị trường với các quy định phức tạp và đòi hỏi cao, thì sau đây là một số vấn đề cần giải quyết: - Đối với các yêu cầu về chất lượng và giảm giá cả đối với sự kiểm tra vệ sing thực phẩm về hải sản và các thực phẩm chế biến sạch, nó là rất cần thiết để ban hành các chính sách để lập ra kỹ thuật nâng cao chất lượng cho các hệ thống của các cục kiểm tra chất lượng và vệ sinh và được chứng nhận theo tiêu chuẩn quốc tế. - Có nhiều cuộc tranh luận rằng với vị trí hiện nay của ngành dệt Việt Nam, việc duy trì việc quản lý về hạn ngạch của EU là có lợi hơn là có hại đối với quần áo và vải sợi của Việt Nam bởi vì nếu thực hiện tự do hóa được cho phép, nó có thể phù hợp với quần áo và vải sợi của Việt Nam không có đủ khả năng để thâm nhập vào thị trường này. Do dó, chúng ta nên cố gắng đàm phán với EU để tăng hạn ngạch xuất khẩu và đồng thời làm tăng thêm quá trình đàm phán để tăng sự trao đổi hạn ngạch về vải dệt và quần áo trên thị trường ASEAN và EU. - Việc thu thập các thông tin về các quy định phức tạp của EU nên được củng cố, tăng cường để phổ biến chúng cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cũng nên sử dụng các công ty lậut của nước ngoài hoạt động ở Việt Nam để cho các công ty đó có thể cung cấp chúng với các dịch vụ tư vấn hợp pháp cho hoạt động xuất khẩu tới các thị trường với hệ thống luật pháp chặt chẽ như EU. * Thị trường Mỹ: đây là nhà nhập khẩu hàng đầu trên thế giới (giá trị xuất khẩu hàng năm trên 1000 tỷ USD) với nhu cầu nhiều loại khác nhau, khoa học kỹ thuật và công nghệ và nhiều mặt hàng chất lượng vừa phải của Châu á và Nam Mỹ được nhập khẩu với số lượng lớn hàng năm. Các mặt hàng nông sản, hải sản, nguyên vật liệu thường không bị đánh thuế hoặc thuế thấp. Vì thế hàng Việt Nam vào rất nhanh với số lượng tăng hàng năm. Các mặt hàng công nghệ phẩm, may mặc, giầy dép, mỹ nghệ, cơ khí nhiều khả năng lớn nhưng vì chưa được hưởng Quy chế tối huệ quốc (MFN) nên các mức thuế nhập khẩu khá cao. Cà phê, giày dép và hải sản các loại mặt hàng Việt Nam rất có triển vọng tại thị trường Mỹ. Sau khi có MFN Việt Nam có thể xuất khẩu sang Mỹ mỗi năm tăng thêm 1 tỷ USD. Với sự phân tích trên Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng xuất khẩu sang thị trường Mỹ, đặc biệt khi tham gia đầy đủ quy chế MFN. Điều này có thể được chứng minh bằng thực tế, trong năm 1999 giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ là 500-600 triệu USD với chủ yếu là cà phê (100 triệu USD), tôm đông lạnh (150 triệu USD), giầy dép (150 triệu USD), quần áo và vải sợi (70 triệu USD). Do quy định mức thuế 0% giá trị xuất khẩu hải sản đã tăng một cách nhanh chóng. Hiên nay có 30 doanh nghiệp trong cả nước đã được cấp giấy phép để xuất khẩu hải sản sang Mỹ. Mặc dù đang phải chịu mức thuế cao nhất, quần áo, giầy dép, hàng dệt kim của Việt Nam vẫn có mặt ở thị trường này và giá trị xuất khẩu của chúng gần đây đã tăng dần. Đây là một dấu hiệu tốt cho khả năng thâm nhập và mở rộng của Việt Nam sang thị trường này khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ được chấp nhận. Để có được những cơ hội trên, ngay bây giờ chúng ta phải : - Tập trung các Bộ và các cơ quan đặc biệt là Bộ Thương mại cần có sự nghiên cứu toàn diện về hệ thống luật của Mỹ và thị trường để phổ biến chúng cho các doanh nghiệp để họ có thể có đầy đủ các thông tin của thị trường để chuẩn bị từng bước thích hợp tham gia vào thị trường. Hơn nữa, điều đó nên được các chính sách khuyến khích và các biện pháp giúp cho các DN dễ dàng hơn trong việc thâm nhập vào thị trường Mỹ, về hệ thống phân phối là một nhân tố quan trọng cho hoạt động xuất khẩu. Như đã phân tích, khó khăn cho xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai là thiếu một hệ thống phân phối ở nước ngoài. - Cần thiết lập hệ thống trung tâm thương mại: để thúc đẩy xuất khẩu, ngoài các chính sách và biện pháp chung, đối với thị trường Mỹ cần phải lập hệ thống các trung tâm thương mại tại một số các thành phố lớn như New York, Los Angeles, San Francisco, Chicago ... tạo cầu nối và giảm chi phí giao dịch cho các công ty Việt Nam. Các trung tâm này có thể do Nhà nước ta bảo trợ hoặc kết hợp với các công ty Mỹ và Việt Kiều hoặc kết hợp giữa một số doanh nghiệp mạnh trong nước sang mở các phòng trưng bày, giao dịch giới thiệu và ký hợp đồng. Qua hệ thống này, hàng hóa của Việt Nam có thể được truyền bá và quảng cáo. Điều này có thể là một bước thực nghiệm cho hàng hóa của Việt Nam để thâm nhập và thị trường Mỹ. * Thị trường các nước ASEAN: ASEAN là một thị trường tiềm năng với dân số 500 triệu, vị trí thuận lợi đối với việc buôn bán với Việt Nam. Thị trường ASEAN chiếm khoảng 25% tổng giá trị xuất khẩu của nước ta. Nhân tố quan trọng nhất là sự thuận lợi trong ưu đãi thương mại (bao gồm cả thuế và phi thuế) thông qua hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) trong AFTA. Mặc dù các ưu đãi chung đó giữa các nước ASEAN sẽ làm tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm bên trong thị trường, chúng cũng làm cho các sản phẩm có sức cạnh tranh hơn so với các sản phẩm được nhập khẩu từ các nưóc ngoài khu vực ASEAN nhờ có việc giảm thuế. Với kết quả đó, chúng ta phải bắt đầu tận dụng các cơ hội kinh doanh được mang lại bởi CEPT/AFTA để duy trì và mở rộng phần thị thị trường của chúng ta ở các nước ASEAN qua việc: - Sớm thông báo kế hoạch cát giảm thuế đến năm 2006 đến các doanh nghiệp, bắt đầu tạo ra các phương thức sản xuất và các kế hoạch và chiến lược của các doanh nghiệp là một cách để chúng ta tận dụng các cơ hội cho các hàng hóa xuất khẩu được hưởng ưu đãi trong các nước ASEAN một cách tối ưu. - Hợp tác một cách chặt chẽ với các thành viên của ASEAN trong các lĩnh vực kinh tế khác như tìm kiếm các đối tác để thực hiện chương trình hợp tác cho việc thúc đẩy xuất khẩu như AICO. * Thị trường Trung Quốc: là một thi trường lớn, có vị trí địa lý tiếp giáp Việt Nam. Trung quốc là thị trường dễ tính đối với một số loại hàng của Việt Nam như hải sản, cao su, dầu thực vật (lạc, vừng) và đặc biệt là rau hoa quả. Ví dụ: quả Thanh long của ta nếu bán sang Trung quốc ở Bắc Kinh có giá 100 NDT/ quả tức là vào khoảng 160.000đ/ quả. Hơn nữa, đây là một nước có sức cạnh tranh cao và vì vậy Trung Quốc vừa là bạn hàng tiềm năng và quan trọng, vừa là đối thủ cạnh tranh của chúng ta. Hơn nữa, Trung Quốc gia nhập WTO có tác động trực tiếp đến xuất khẩu của nước ta bởi vì hàng hóa của Trung Quốc có được chỗ đứng trên các thị trường lớn như: Mỹ và các nơi khác. Một nghiên cứu của Jose Tongzon ở trường đại học quốc gia Singapore chỉ ra rằng việc Trung Quốc gia nhập WTO có tác động đến sự phát triển của ngành thuốc lá và đồ uống của Việt Nam, nhưng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các ngành này là rất yếu kém. Vì vậy rất khó khăn để nắm bắt được các cơ hội này. Dựa trên vấn đề này và sự phân tích tác động của việc gia nhập WTO của Trung Quốc, các chính sách nên được tính toán: - Xúc tiến quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư để nắm bắt được các cơ hội kinh doanh và thu hút đầu tư. - Sự hợp tác mạnh mẽ bên trong ASEAN: thực hiện nghiêm túc CEPT/AFTA và các cam kết AIA để thu hút đầu tư nước ngoài. Tạo ra sức mạnh bên trong ASEAN để cạnh tranh và thực hiện thành công chiến lược phát triển theo một phương hướng chung. Hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau để phát triển kỹ thuật, đặc biệt trong khu vực về công nghệ thông tin có thể được qua hình thức dự án kinh doanh chung. Nhanh chóng hình thành hệ thống phân chia quyền lợi. - Giữ gìn mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc, một thị trường lớn và tiềm năng với thế mạnh là sự dồi dào về lao động với mức chi phí rẻ hơn nhiều so với nước ta. Chúng ta không thể cạnh tranh với Trung Quốc trong lĩnh vực này và vì vậy sự hợp tác dưới hình thức các dự án kinh doanh chung nên được thúc đẩy để xuất khẩu. - Cải thiện sức cạnh tranh về các hàng hóa có sự cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc. Một trong các nhân tố cho sự cải thiện sức cạnh tranh là phải được đưa vào tính toán là cải thiện quan điểm về tiếng tăm, danh tiếng các loại hàng hóa của Việt Nam trên thị trường thế giới. Vì vậy, ngay bây giờ sự thiết lập và đăng ký danh tiếng của loại hàng hóa như quảng cáo về tiếng tăm của doanh nghiệp cũng như các loại hàng hóa và truyền thống của doanh nghiệp trên cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. - Nhanh chóng xuất khẩu một số hàng hóa có khả năng thâm nhập vào thị trường Trung Quốc như: hải sản, rau, quả ... - Điều chỉnh cơ cấu sản xuất của xuất khẩu theo hướng đầu tư tập trung trước tiên các công nghệ cho các ngành có tiềm năng để cải thiện năng suất lao động và chỉ đạo nghiên cứu và phát triển một số sản phẩm xuất khẩu mới như: tàu biển ... - Cần tìm hiểu kỹ đối tác khi ký hợp đồng. Thị trường Trung quốc là “ cái gì cũng có giá, giá nào cũng có ”. Nếu làm ăn với các tập đoàn lớn của Trung Quốc thì yên tâm về chất lượng. Tuy nhiên để tránh rủi ro, các DN nên tìm hiểu kỹ các đối tác, tốt nhất là tìm các bạn hàng lâu dài, ổn định. Thứ hai là mua bán, trao đổi hàng phải ký hợp đồng và trong hợp đồng đó phải có dấu đỏ. Đó là những cơ sở pháp lý để nếu xảy ra tranh chấp hoặc đối tác “xù nợ ” thì có thể kiện ra tòa án Trung Quốc. Tòa án phía Trung Quốc có sức cưỡng chế rất mạnh. Nhiều doanh nghiệp của ta cũng muốn tìm các doanh nghiệp lớn để mở thư tín dụng (L/C) nhưng rất khó vì chính sách quản lý ngoại hối của Trung Quốc rất chặt. * Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp về pháp lý: thị trường Nga có một số các đặc điểm: - Thuế nhập khẩu rất cao so với thế giới (hàng tiêu dùng 20-30%). - Hàng dệt may vào các thị trường đó có tiền thuế cao . - Tình trạng gian lận thuế, giá C/O (giấy chứng nhận xuát xứ hàng hóa xuất khẩu) để được hưởng ưu đãi đang phổ biến nên hàng chính ngạch không thể cạnh tranh được. Mặc dù thị trường các nước Đông Âu mà đặc biệt là Nga vẫn được coi là dễ tímh, tuy nhiên hàng nhập khẩu vẫn phải cấp chứng nhận chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn của các thị trưòng này. Hàng thực phẩm, dược phẩm còn thêm quy định về vệ sịnh do Cục vệ sinh chứng nhận. Những quy định chặt chẽ quá lại sinh ra gian lận, chứng nhận giả (xảy ra các hoạt động “hành lang” nhằm đạt được các giấy tờ cần thiết). Hàng của ta xuất sang thị trường Đông Âu thuận lợi ít, khó khăn nhiều do việc tổ chức thị trường kém hơn các nước khác. Xúc tiến thương mại rất yếu, kể cả tham gia các hội chợ, triển lãm. Có tình trạng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam ở Nga không về nước đặt hàng mà lại sang Trung Quốc đặt vì chi phí vân tải, giá thành rẻ và trả tiền trước 20%. Chúng ta đang có lợi thế là có hàng trăm ngàn người Việt tại các nước này tuy nhiên phần lớn họ không có tư cách pháp lý. Bộ lao động một số nước trong đó có Nga đang có dự thảo luật quyền lao động tạm thời, trong đó có những phần quy định hợp lý hóa những trường hợp lao động ở Nga. Nhà nước ta cũng phải tạo điều kiện cho doanh nghiệp hai bên sang làm ăn. Các doanh nghiệp Việt Nam tự bỏ vốn đầu tư làm các kho ngoại quan, cửa hàng, trung tâm thương ở các nước này cũng rất cần Nhà nước hỗ trợ về mặt pháp lý. * Thị trường úc: Một phương châm “đừng thấy nhỏ mà không làm”. Các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu vào úc có 3 vấn đề: - Một là thị trường này rất nhỏ (18,5 triệu dân), khâu trung chuyển, tạm nhập tái xuất không đáng kể, chủ yếu là tiêu thụ trong nước. Do đó có trường hợp phía bạn đặt hàng cho doanh nghiệp Việt Nam khoảng 3000 chiếc khăn mặt, thì doanh nghiệp lại kêu khó, không làm. - Hai là hàng Việt Nam phải bảo đảm chất lượng, vệ sinh dịch tễ rất cao. Nước này bị các nước khác trên thế giới đánh giá về chính sách kiểm dịch, kiểm dịch hà khắc nhất. Đặc biệt là các nước ASEAN luôn kêu ca về chế độ khắc nghiệt này đối với các sản phẩm nhập vào. - Ba là về giá cả, phải hiểu được tập quán của người tiêu dùng ở đây rất bảo thủ. Bất kể một loại hàng nào mới vào thì phải thấp hơn hàng cùng chủng loại ít nhất là 5% mới được chấp nhận. Đã có những lô hàng của Việt Nam phải giảm đến 15% so với giá thị trường. Hiện nay, ngoài mặt hàng dầu thô là chủ lực, ta có thể xuất khẩu sang thị trường này thủy sản, cà phê, hàng may mặc, giày dép, đồ nhựa gia dụng, đồ gỗ ... Chúng ta cũng có những thuận lợi là kim ngạch xuất khẩu vào úc 6 năm liền tăng trưởng, đang dần trở thành một nước xuất khẩu lớn vào thị trường này. Với những phân tích trên, dưới điều kiện sự cạnh tranh tăng lên mạnh mẽ ở các thị trường lớn và để nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu của các thị trường, việc thăm dò, tìm kiếm các thông tin ... về các thị trường thích hợp cần phải được tính toán hơn nữa là để cải thiện khả năng sản xuất bởi việc mở rộng quy mô sản xuất để giảm chi phí sản xuất đặc biệt trong các ngành chế biến. Để tìm kiếm các thị trường đó cần thiết phải tạo ra các sản phẩm mới hay có giá trị cao cho các sản phẩm hiện nay. Tính khả thi cho việc đáp ứng các yêu cầu này là việc vân dụng các biên pháp quảng cáo và thúc tiến thương mại tốt và đặc biệt có sự nghiên cứu đặc điểm của từng thị trường để có thể đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của các thị trường đó đặc biệt là các thị trường lớn và tiềm năng của Việt Nam. 8. Thực hiện hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu. 6.1. Thành lập các cơ quan xúc tiến thương mại Việt Nam ở nước ngoài: - Việc thực hiện này nhằm mục đích đánh giá một cách chính xác thực trạng công tác xúc tiến thương mại (XTTM) ở Việt Nam, trên cơ sở đó tiến hành xây dựng và phát triển một mạng lưới XTTM hữu hiệu trên toàn quốc. Với việc thực hiện này sẽ giúp Việt Nam xây dựng một chiến lược XTTM có hiệu quả và tăng cường năng lực để thực hiện chiến lược hội nhập trong kế hoạch phát triển 2001-2010, tham gia hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa. Đặc biệt đúng vào lúc Việt Nam đang bắt đầu ký kết hay đàm phán về những điều kiện tham gia trong các hiệp định thương mại toàn cầu, khu vực. Tăng cường năng lực XTTM và phát triển xuất khẩu là một yêu cầu cấp bách để cho phép Việt Nam tranh thủ một cách đầy đủ, nhanh chóng và công bằng cơ hội do các hiệp định thương mại mang lại. - Và để thúc đẩy xuất khẩu hàng Việt Nam, hoà nhập với thị trường quốc tế thì cần phải có các cơ quan xúc tiến thương mại Việt Nam ở các nưóc khác. Mặc dù hiện nay chúng ta đã có một vài trung tâm thương mại ở nước ngoài nhưng chỉ làm một chức năng trưng bày, giói thiệu hàng hóa Việt Nam mà chưa triển khai đầu đủ nhiệm vụ xúc tiến thương mại. Do vậy việc hỗ trợ để mở rộng thị trường xuất khẩu, môi giới buôn bán... còn rất nhiều hạn chế, nhất là trong lúc này mặt hàng nông sản đang rất cần đầu ra. Do vậy việc sớm hình thành các tổ chức của Nhà nước ta ở nước ngoài có những chức năng xúc tiến thương mại là rất cần thiết. Các tổ chức này có thể là văn phòng hoặc là trung tâm hay có thể gọi là cơ quan xúc tiến thương mại song có nhiệm vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh bằng cách tìm kiếm, cung cấp các thông tin về thị trường, giá cả, nguồn hàng, đối tác cho các doanh nghiệp, trưng bày hàng hóa Việt Nam và hàng hoá các nước có thể trao đổi với Việt Nam, chắp nối cho các doanh nghiệp tìm đến làm ăn với nhau ... 6.2. Hoạt động xúc tiến thương mại trong nước: - Việc tăng cường năng lực cho ba cấp đối tưọng: Chính phủ, các cơ quan hỗ trợ thương mại của Nhà nước và tư nhân các doanh nghiệp xuất khẩu; thiết lập quy trình và cơ chế để Chính phủ, các cơ quan hỗ trợ thương mại và khu vực doanh nghiệp có thể phối hợp xác định vai trò của các bên. - Đồng thời tăng cường sự phối hợp các hoạt động thưong mại khác do các nhà tài trợ khác hỗ trợ, thông qua việc thiết lập cơ chế chia sẻ thông tin một cách thường xuyên. Từ đó, góp phần xây dựng và quản lý một cách có hiệu quả và hiệu lực các hoạt động XTTM ở Việt Nam, mang lại khả năng đáp ứng nhanh và hiệu quả đối với các cơ hội và thách thức của hệ thống thương mại toàn cầu. TÀI LIỆU THAM KHẢO * Công nghiệp hóa hướng ngoại - “ Sự thần kỳ” của các nước NICs Châu Á - Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Tạp chí Phát triển kinh tế Tạp chí Tài chính số 1+2/1998 Tạp chí Thương mại số 2+3/2001, 10/2001, 24/2001 Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 271/2000 Tạp chí Viet Nam Economic Review số 9/1999 Tạp chí Kinh tế và dự báo số 10, 11/2000 Báo Thời báo Kinh tế năm 2001 Tài liệu của cuộc hội thảo “Sự nghiên cứu chung giữa Việt Nam và Nhật Bản” (3 - 9/12/2000 tai Hà Nội). 10. Giáo trình Thương mại quốc tế - Đại học Kinh tế quốc dân. 11. Kinh tế ngoại thương - Nguyến Thành Thu. 12. Nghị định 7/1998 về quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0535.doc
Tài liệu liên quan