lời mở đầu
trong những năm qua, Việt Nam đã có những bước tiến vững chắc trên con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, cho nên cần rất nhiều nguồn vốn. Trong đó viện trợ ODA của Nhật Bản cho Việt Nam, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. ODA của Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam tập trung vào 5 lĩnh vực cơ bản, cụ thể là: phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế; xây dựng và cải tạo các công trình giao thông và điện lực; phát triển nông ng
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1653 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Tình hình viện trợ ODA của Nhật Bản cho VN từ năm 1992 đến nay và một số kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp và xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn; phát triển giáo dục và đào tạo y tế; bảo vệ môi trường và đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên nguồn vốn ODA của Nhật Bản hiện nay ở Việt Nam còn nhiều khó khăn trong sử dụng.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn và tầm quan trọng nêu trên, em đã lựa chọn đề tài: "Tình hình viện trợ ODA của Nhật Bản cho Việt Nam từ năm 1992 đến nay và một số kiến nghị" làm đề tài tiểu luận thực tập tốt nghiệp. Mục đích của đề tài là tập trung phân tích vai trò của nguồn viện trợ ODA đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam và tình hình quản lý, sử dụng nguồn viện trợ ODA của Nhật Bản. Từ đó đưa ra một số kiến nghị để tăng cường thu hút nguồn vốn viện trợ này.
Nội dung tiểu luận: bao gồm 3 chương được trình bày theo bố cục sau:
chương I: Vai trò của ODA.
chương II: Tình hình viện trợ ODA của Nhật Bản cho Việt Nam từ năm 1992 đến nay.
chương III: Triển vọng và một số kiến nghị để thu hút viện trợ ODA của Nhật Bản.
Cuối cùng em xin bầy tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo Khoa Quan hệ Quốc tế đã giảng dậy, dìu dắt em trong quá trình học tập. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Ngọc Lan, giảng viên Trường Đại học Ngoại Thương đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình để em hoàn thành tiểu luận này.
Do sự mới mẻ của công tác nghiên cứu, cũng như sự hạn chế về thời gian và trình độ nên bài viết không tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn.
Hà Nội, ngày 20 thàng 3 năm 2003
Sinh viên
Phạm Văn Quân
chương I
vai trò của ODA
I. Khái niệm và các hình thức của ODA
Để hiểu được đúng đắn bản chất của ODA và vận dụng nó có hiệu quả, chúng ta cần nghiên cứu kỹ hoàn cánh ra đời và quá trình phát triển của nó. ODA ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II cùng với kế họach Marshall, để giúp các nước Châu âu phục hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Đểc tiếp nhận viện trợ của kế họach Marshall, các nước Châu âu đã đưa ra một chương trình phục hồi kinh tế có sự phối hợp và thành lập một tổ chức hợp tác kinh tế Châu âu, nay là (OECD).
Trong khuôn khổ hợp tác phát triển các nước OECD đã lập ra những uỷ ban chuyên môn, trong đó có Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC) nhằm giúp các nước đang phát triển trong việc phát triển kinh tế và nâng cao hiệu quả đầu tư. ODA bao gồm viện trợ không hoàn lại là 25%, còn 75% là cho vay. Lợi thế khi vay nguồn viện trợ ODA là nguồn vốn khá lớn, điều kiện vay thuận lợi, lãi xuất thấp. ODA là nguồn vốn rất quan trọng đối với các nước đang phát triển.
Cho đến nay chưa có định nghĩa hoàn chỉnh về ODA, nhưng sự khác biệt giữa các định nghĩa không nhiều, có thể thấy điều này qua một số ý kiến sau:
Theo PGS. TS Nguyễn Quang Thái ( viện chiến lược phát triển): Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi (về lãi suất thời gian ân hạn và trả nợ) của các cơ quan chính thức thuộc các nước và các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ (NGO).
Theo chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc: ODA là viện trợ không hoàn lại hoặc là cho vay ưu đãi của các tổ chức nước ngoài, với phần viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25% giá trị của khoản vốn vay.
Như vậy, hỗ trợ phát triển chính thức - ODA đúng như tên gọi của nó là nguồn vốn từ các cơ quan chính thức bên ngoài cung cầp (hỗ trợ) cho các nước đang và kém phát triển, hoặc các nước đang gặp khó khăn về tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của các nước này.
Măc dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng ODA có các đặc điểm chính đó là: Do chính phủ của một nước hoặc các tổ chức quốc tế cấp cho các cơ quan chính thức của một nước; không cấp cho những chương trình dự án mang tình chất thương mại, mà chỉ nhằm mục đích nhân đạo, giúp phát triển kinh tế, khắc phục khó khăn về tài chính hoặc nâng cao lợi ích kinh tế - xã hội của nước nhận viện trợ; tính ưu đãi chiếm trên 25% giá trị của khoản vốn vay.
Quá trình cung cấp ODA đem lại lợi ích cho cả hai phía: bên các nước đang và kém phát triển có thêm khối lượng lớn vốn đầu tư từ bên ngoài để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế trong quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé của mình. Phía còn lại cũng đạt được những lợi ích trong các điều kiện bắt buộc kèm theo các khoản viện trợ cho vay, đồng thời gián tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho họat động của các công ty của mình khi thực hiện đầu tư tại các nước nhận viện trợ.
Mặt khác việnh trợ ODA mang tính nhân đạo, thể hiện nghĩa vụ đồng thời là sự quan tâm giúp đỡ của các nước giàu đối với các nước nghèo, tăng cường thúc đẩy mối quan hệ đối ngoại tốt đẹp giữa các quốc gia với nhau, giữa các tổ chức quốc tế với các quốc gia.
Các hình thức của ODA được chia làm 3 loại chính, trong mỗi loại lại được chia thành nhiều loại nhỏ.
Phân loại theo phương thức hoàn trả thì có: viện trợ không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận không phải hoàn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự thoả thuận giữa các bên; Viện trợ có hoàn lại (còn gọi là tín dụng ưu đãi): nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền( tuỳ theo quy mô và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ thích hợp; ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển, thậm chí có loại ODA vốn vay kết hợp tới 3 loại hình gồm một phần ODA không hoàn lại, một phần ưu đãi và một phần tín dụng thương mại.
Phân loại theo nguồn cung cấp thì có: ODA song phương: là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia ( nước phát triển viện trợ cho nước đang và kém phát triển) thông qua hiệp định được ký kết giã hai chính phủ; ODA đa phương: là viện trợ phát triển chính thức của một tổ chức quốc tế, hay tổ chức khu vực hoặc của chính một nước dành cho Chính phủ một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như UNDP ( Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc)…có thể các khoản viện trợ của các tổ chức tài chính quốc tế được chuyển trực tiếp cho bên nhận viện trợ.
Phân loại theo mục tiêu sử dụng có: Hỗ trợ cán cân thanh toán; tín dụng thương nghiệp; viện trợ chương trình; viện trợ dự án.
Hỗ trợ cán cân thanh toán là các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sách của Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao tiền tệ trực tiếp cho nước nhận ODA và Hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hoá); Tín dụng thương nghiệp: tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có kèm theo các điều kiện ràng buộc. Chẳng hạn nước cung cấp ODA yêu cầu nước nhận phải dùng phần lớn hoặc hầu hết vốn viện trợ để mua hàng ở nước cung cấp; Viện trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA. Điều kiện để được nhận viện trợ dự án là" phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng mục sẽ sử dụng ODA"; Viện trợ chương trình là nước viện trợ và nước nhận viện trợ ký hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định chính xác khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
II. Vai trò của ODA đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Kể từ năm 1986 là thời điểm bắt đầu công cuộc đổi mới ở Việt Nam, cho đến nay đất nước đã thu được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để có những bước phát triển lớn hơn thì vốn và công nghệ là những yếu tố không thể thiếu. Mặc dù đã trải qua hơn một thập kỷ trong sự nghiệp đổi mới nhưng Việt Nam vẫn mới được coi bắt đầu bước vào giai đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hoá. Do đó thu hút và sử dụng các nguồn vốn bên ngoài không chỉ có FDI mà cả ODA, đặc biệt là ODA Nhật Bản có vai trò rất quan trọng cho việc tạo đà phát triển của nền kinh tế nước nhà.
ODA của Nhật Bản vẫn được coi là một nguồn vốn hết sức quý giá cho tiến trình thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế ở Viêt Nam. Chính sách ODA của Nhật Bản trong khoảng một thập kỷ qua về cơ bản là đáp ứng được sự mong muốn của Chính phủ và nhân dân Việt Nam, và nó đã hỗ trợ tích cực cho sự phát triển hợp tác lâu dài giữa Viêt Nam và Nhất Bản đặc biệt trong các quan hệ ngoại giao và hợp tác kinh tế.
Nếu tính từ năm 1992 đến nay, Nhật Bản đã luôn là nước đứng đầu về viện trợ ODA dành cho Việt Nam với tổng số vốn cam kết lên tới 509,804 tỷ yên, tương đương trên 5 tỷ USD. Điều đó trước hết thể hiện đường lối mong muốn tăng cường hợp tác trên lĩng vực kinh tế với Việt Nam. Vốn ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam đã tăng năm sau lớn hơn năm trước. Điều đó có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ giữa hai nước, đặc biệt là quan hệ ngoại giao và kinh tế. Đồng thời nó cũng có tác độg không nhỏ tới các quan hệ đối ngoại khác của Việt Nam. Sau Nhật Bản thì một loạt các nước phát triển khác, các tổ chức quốc tế khác cũng đã nối lại và tăng cường viện trợ cho Việt Nam, hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam.
Nhìn một cách bao quát nhất, nguồn vốn ODA của Nhật Bản trước hết có vai trò bổ sung nguồn vốn trong nước. Việt Nam bước vào quá trình thực hiện cải cách với điều kiện cơ sở hạ tầng còn hết sức thấp kém. Việc cải tạo và phát triển nó đòi hỏi trước hết phải có một nguồn vốn rất lớn, đọi hỏi này mang tính tất yếu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước chậm phát triển như Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên việc huy động và sử dụng nguồn vốn trong nước còn rất nhỏ bé do mức tiết kiện trong nước còn thấp, tỷ lệ huy động vồn nhàn rỗi cho đầu tư cũng ở mức rất khiêm tốn sẽ không đảm bảo thoả mãn nhu cầu khách quan ấy.
Với ý nghĩa trên, ODA của Nhật Bản được xem như một trong các nguồn vốn cơ bản từ bên ngoài có thể thu hút để thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam. Ví dụ trong nhiều năm, đặc biệt năm 1998 nền kinh tề Việt Nam gặp nhiều khó khăn do chịu ảnh hưởng của cơn bão tài chính ở Châu á, Chính phủ đã phải sử dụng tới cả ODA như là một nguồn tài chính bổ sung cho ngân sách: 3% để hỗ trợ ngân sách, 17% dành cho giáo dục và đào tạo, 35% cho xây dựng cơ bản, 45% cho vay lại các dự án.
Có thể nhận thấy rằng bước vào thời kỳ đổi mới, đặc iệt trong thập kỷ 90 vừa qua, trợ giúp phát triển chính thức dưới dạng viện trợ không hoàn lại và trợ giúp kỹ thuật của Nhật Bản đã phần nào giúp Việt Nam tiềp thu những thành tựu khoa học và công nghệ mới, góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá rút ngắn thông qua chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Đây được cho là lợi ích căn bản, lâu dài mà ODA Nhật Bản dành cho Việt Nam trong thập kỷ qua.
Mặt khác, việc thu hút ODA Nhật Bản đã có một tác dụng như lực hút cho các nhà đầu tư tới thị trường Việt Nam. Việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam không chỉ đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá ở Việt Nam mà còn tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi cho phía Nhật Bản. ODA đã tạo sự tin cậy cho các nhà đầu tư bỏ vốn vào Việt Nam. Đây được xem như một hệ quả tất yếu của mối quan hệ tương tác giữa ODA và FDI của Nhật Bản tại Việt Nam.
Thực hiện theo các cam kết cấp cao giữa chính phủ hai nước, nguồn vốn ODA này đã giữ vai trò quan trọng trong việc triển khai công cuộc cải cách doanh nghiệp quốc doanh, tự do hoá thương mại, cải tạo hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia đặc biệt là ngân hàng ở Việt Nam. Kết quả của những cải cách đó sẽ giúp Việt Nam có thể hội nhập được với tiến trình phát triển chung của khu vực và thế giới.
Tóm lại, viện trợ phát triển của nhật Bản cho Việt Nam trong giai đoạn vừa qua về cơ bản là phù hợp với những ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đặc biệt là đã hỗ trợ cho Việt Nam cải thiện và phát triển cơ sở hạ tầng, từng bước nâng cao năng lực sản xuất và quản lý, góp phần chuyển giao công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, từ đó Việt Nam từng bước nâng cao vai trò của nền kinh tế và vị thế của đất nước.
chương II
tình hình viện trợ ODA của Nhật bản cho việt nam từ 1992 đến nay
I. Tình hình tiếp nhận và giải ngân ODA ở Việt Nam
Về tiềp nhận: trong chiến tranh chống Mỹ Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước XHCN và nhận được nhiều khoản viện trợ. Sau chiến tranh chúng ta vẫn tiếp tục nhận tài trợ ODA không những từ các nước XHCN mà cả từ các nước TBCN, đặc biệt từ thập kỷ 90 đến nay viện trơ ODA dành cho Việt Nam ngày càng tăng, có vai trợ quan trọng trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Các nhà tài trợ song phương và đa phương chính đó lạ:
Đa phương: Ngân hàng Thế giới (WB); Ngân hàng phát triển Châu á (ADB); Các tổ chức phi chính phủ (NGO) và Liên hợp quốc…
Song phương: Nhầt Bản, Hàn Quốc, úc, Thụy Điển, Đài Loan, Pháp, Bỉ và Canađa…Trong đó Nhật Bản luôn là nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam, với những hình thức cung cấp đa dạng và ưu đãi. Bên cạnh đó WB, ADB cũng là hai nguồn viện trợ lớn.
Bảng1: Tổng vốn ODA cam kết vào Việt Nam (Tỷ USD)
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
tổng
Cam kết
1,88
1,94
2,26
2,43
2,40
2,40
2,70
2,8
18,81
Giải ngân
0,27
0,62
o,66
0,98
1,015
1,04
1,2
0,785
5,798
(Theo: Hỗ trợ phát triển chính thức ODA - NXB giáo dục - 2000)
Về giải ngân ODA nói chung và ODA nhật Bản nói riêng trong thời gian qua và hiện nay của chúng ta, qua các tư liệu tổng hợp cho thấy chiều hướng viện trợ chính thức cho Việt Nam tiềp tục tiến triển thuận lợi ở một số mặt quan trọng, song còn nhiều vấn đề thách thức.
Nếu tính từ tháng 11 năm 1992 tới năm 1997, trong gần 6 năm đầu Việt Nam được nối lại viện trợ đa phương (trong đó nguồn ODA của Nhật Bản đóng vài trò quan trọng nhất với tỷ trọng luôn chiếm trên 50%) với các mức cam kết rất cao, trung bình trên 2 tỷ USD/năm. Mức giải ngân cho tổng gói ODA nói chung đã tăng đáng kể khoảng 1 tỷ USD/năm trong các năm 1996, 1997 và 1998. Mặc dù chiều hướng giải ngân ODA tăng lên chủ yếu do những tiến bộ trong việc thực hiện các dự án và nó được triển khai trên một diện tương đối rộng, ở hầu hết các loại hình dự án ODA, kể cả các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và hỗ trợ kỹ thuật. Tuy nhiên, so với thực tế thì việc giải ngân còn nhiều vấn đề phải tính toán.
Xét riêng việc giải ngân vốn tín dụng ưu đãi ODA của Nhật Bản cho Việt Nam trong thời gian qua mới đạt mức trung bình tăng khoảng 4% năm. Mặc dù đây được thừa nhận là có sự cố gắng rất lớn của Việt Nam, năm 1992 mức giải ngân mới chỉ đạt khoảng 3%; năm 1996 đạt 6%; năm 1998 đạt 14,9%.
Trong thời gian qua đã có một số chương trình dự án ODA đã thực hiện xong và hiện đang phát huy tác dụng tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam như nhà máy nhiệt điện sử dụng khí thiên nhiên Phú Mỹ 2 -giai đoạn 1; một số đoạn đường, cầu trên các đường quốc lộ số 1, số 5; nhiều bệnh viện ở các thành phố và thị xã như bệnh viện Chợ Rẫy (Thành phố Hồ Chí Minh), Việt Đức (Hà Nội) và nhiều trường học cũng được xây dựng ở nhiều nơi.
Bên cạng những kết quả đạt được trong công tác huy động, tiềp nhận quản lý và sử dụng vốn ODA trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ không ít tồn tại ảnh hưởng tới hiêụ quả sử dụng vốn. Tốc độ giải ngân đối với các dự án sử dụng ODA các năm qua có tằng lên nhưng vẫn còn quá chậm do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, khâu khảo sát thiết kế, chuẩn bị dự án chất lượg không cao nên giai đoạn thực hiện dự án phải khảo sát, thiết kế lại, hoặc phải bổ sung thiết kế mất nhiều giời gian và chính sách giải quyết thủ tục về đất đai không được đồng bộ với chíng sách tín dụng.
Thứ hai, yêu cầu của các nhà tài trợ về việc chấp hành nguyên tắc đấu thầu khắt khe và phức tạp, nên việc triển khai đấu thầu chập, quy trình đấu thầu, xét thầu, giao thầu kéo dài hơn so với kế họach do có sự khác biệt giữa thủ tục trong nước và nước ngoài.
Thứ ba, năng lực của các cơ quan thực hiện dự án còn hạn chế, trình độ năng lực quản lý nợ của các cán bộ còn yếu kém, chính sách của nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, thủ tục hành chính còn rườm rà. Chính vì vậy việc giải ngân ODA thấp và gây ra một số bất lợi cho Việt Nam, đó là các công trình thực hiện không đúng tiến độ ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm hiệu quả sử dụng vốn, ảnh hưởng tới thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội đã họach định. Từ thực tế trên, để tăng cường quản lý, tăng tốc độ giải ngân, sử dụng nguồn vốn ODA hiệu quả, chúng ta cần có những biện phát hữu hiệu hơn để phát huy được hiệu quả của nguồn vốn này trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
II. Viện trợ ODA Nhật Bản cho Việt Nam - những kết quả đạt được và những khó khăn tồn tại.
Nhật Bản là nước có quan hệ viện trợ cho Việt Nam từ rất sớm và chính thức được phát triển từ năm 1975, nhưng đến năm 1979 Nhật Bản đình chỉ vốn ODA cho Việt Nam. Tháng 11 năm 1992 Nhật chính thức công bố nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam và bắt đầu cho Việt Nam vay 45,5 tỷ yên với lãi suất ưu đãi 1%/ năm trong vòng 30 năm, trong đó 10 năm đầu không phải trả lãi.
Quyết định của Nhật Bản khôi phục viện trợ ODA cho Việt Nam có một ý nghĩa quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ hợp tác trên rất nhiều lĩng vực giữa hai quốc gia.
Về phía Nhật Bản, quyết định này phản ánh ý chí mạnh mẽ của Nhật nhằm đóng vai trò lớn hơn và độc lập hơn trong việc tạo lập một hệ thống mới những mối quan hệ quốc tế trong khu vực và trên thế giới, một vai trò tương ứng với tầm vóc kinh tế của Nhật Bản trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Quyết định này cũng được xem như một dấu hiệu về việc công khai sự ủng hộ của Nhật đối với chính sách đổi mới toàn diện của Việt nam, giúp Việt Nam nhanh chónh hoà nhập với cộng đồng quốc tế mà trước hết là với tổ chức ASEAN, thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam; thiết lập các mối quan hệ về thương mại và đầu tư lâu dài với giới kinh doanh Nhật Bản.
Về phía Việt Nam, trong thực tế việc Nhật Bản quyết định viện trợ ODA trở lại cho Việt Nam vào thời điểm khi Mỹ vẫn chưa xoá bỏ lệnh cấm vận của họ với Việt Nam và tiếp tục gây áp lực ngăn cản Nhật Bản mở rộng viện trợ cho Việt Nam, do vậy nối lại viện trợ là một nguồn động viên hết sức to lớn cho Việt Nam. Nhật Bản viện trợ ODA trở lại không những chỉ giúp kích thích sự phát triển trên các mặt kinh tế, xã hội của Việt Nam, thu hút nhiều nguồn viện trợ và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố và phát triển mở rộng quan hệ thương mại cũng như hợp tác kinh tế giữa hai nước, mà còn đóng góp vào việc khái thác các nguồn viện trợ đa phương, tạo ra những cơ hội cho liên doanh với nước ngoài ở Việt Nam và tạo ra động lực để cải thiện và mở rộng các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Cùng với việc cấp trở lại ODA song phương cho Việt Nam, Nhật Bản đã đóng vai trò tích cực trong việc giúp Việt Nam khai thác các nguồn viện trợ khác từ các tổ chức tài chính và tiền tệ quốc tế như Ngân háng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các tổ chức quốc tế khác. Nhật Bản là nước cung cấp viện trợ lớn nhất trong số 23 nước và 17 tổ chưc quốc tế tham dự Hội ghị các nhà tài trợ cho Việt Nam được tổ chức lần đầu tiên trong lịch sử tại Paris vào tháng 11 năm 1993 nhằm mục đích thảo luận phương hướng trợ giúp đối với quá trình khôi phục kinh tế ở Việt Nam.
Năm 1992 là năm đánh dấu bước ngoặt trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, đặc biệt thể hiện ở quan hệ viện trợ phát triển. Việt Nam trở thành 1 trong 10 nước đứng đầu danh sách nhận viện trợ ODA song phương của Nhật Bản với số vốn là 281,24 triệu USD, đứng thứ 6 sau các nước như Inđônêxia là 1356,71 triệu USD, Trung Quốc: 1050,76 triệu USD, Philippin: 1030,67 triệu USD, ấn Độ: 425,29 triệu USD và Thái Lan: 413,97 triệu USD. Nhật Bản cũng đã trở thành nước cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam, tiếp theo là Thụy Điển: 59,01 triệu USD, Italia: 26,35 triệu USD và Pháp: 19,62 triệu USD.
Đến năm 1993, Việt Nam xếp thứ 9 trong số các nước nhận viện trợ không hoàn lại của Nhật Bản với số tiền là 6720 triệu yên, sau Bănglađét với 19287 triệu yên rồi đến Philippin, Trung Quốc, Cămpuchia, Hylạp, Inđonêxia, Nêpan và Pakistan.Trong năm 1993 nhật Bản đã cam kết các khoản cho vay hàng hoá và cho vay dự án giúp Việt Nam xây dựng lại cơ sở hạ tầng về kinh tế và ký văn bản nghi nhớ vào tháng 1 năm 1994.
tháng 11 năm 1993 một nhóm chuyên gia Nhật Bản được cử sang Việt Nam giúp soạn thảo Bộ luật Dân sự và cải cách hệ thống quản lý điều hành chính ở các chính quyền địa phương. Tháng 8 năm 1994, Thủ tướng Nhật Bản Tomiichi Myazawa sang thăm hữu nghị chính thức Việt Nam đã ký các văn kiện về việc viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 7733 triệu yên.
Năm 1994 Việt Nam đứng số 12 trong số các nước nhận viện trợ không hoàn lại của Nhật Bản với số tiền là 58,76 triệu USD. Ngoài ra, Nhật còn viện trợ hợp tác kỹ thuật cho Việt Nam trị gia 24,46 trriệu USD. Việt Nam đứng thứ 16 trong số các nước nhận viện trợ song phương của Nhật Bản. Đến đầu năm 1995, Nhật Bản đã cho Việt Nam vay 165 tỷ yên, bao gồm cả 97,8 tỷ yên từ khi khôi phục viện trợ vào năm 1992.
Đi đôi với việc nối lại viện trợ ODA song phương cho Việt Nam, Nhật Bản còn đóng vai trò tích cực giúp Việt Nam khai thác nguồn viện trợ từ các tổ chức quốc tế. Ngân hàng xuất khẩu Nhật Bản cùng với 8 ngân hàng khác và Ngân hàng Thương mại của Pháp đã cho Việt Nam vay 85 triệu USD để thanh toán các khoản nợ tín dụng của Quỹ Tiền tệ quốc tế, do vậy Việt Nam đã được Quỹ Tiền tệ quốc tế cho vay 223 triệu USD vào năm 1993.
Năm 1995 khi Việt Nam đã thực sự hội nhập vào các quan hệ hợp tác khu vực, những cải cách thị trường đã trở nên hớp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư Nhật, ví dụ độ rủi ro cho các khoản đầu tư trực tiếp ít đi và Nhật Bản đã thúc đẩy mạnh mẽ ODA cho Việt Nam. Ngày 21 - 4 - 1995, trong chuyến thăm Nhật Bản của Tổng Bí thư Đỗ Mười, Nhật Bản và Việt Nam đã ký một hiệp định tín dụng trị giá 58 tỷ yên cho 8 dự án của Việt Nam, bao gồm: các dự án về xây dựng nhà máy nhiện điện và thuỷ điện. Viện trợ không hoà lại để cải tạo hệ thống cấp nước khu vực Gia Lâm là 6,5 triệu yên, trang bị lại Khoa Nông nghiệp Trường Đại học Cần Thơ là 788 triệu yên, trang bị máy móc y tế cho thành phố Hà Nội 590 triệu yên. Đây là khoản tín dụng ưu đãi với lãi suất 1,8%/ năm, thời gian vay 30 năm, trong đó 10 năm đầu không phải trả lãi. Hai nước cũng đã ký được một hiệp định viện trợ văn hoá với trị giá 42 triệu yên để trang bị cho phòng học tiếng Nhật của Trường Đại học Ngoại thương. Đồng thời Nhật Bản cũng cam kết viện trợ không hoàn lại 3 tỷ yên để hỗ trợ công cuộc cải cách ở Việt Nam.
Tháng 6 năm 1995, trong chuyến thăm Việt Nam của Thứ trưởng Ngoại giao Nhật Bản, phía Nhật Bản đã cam kết viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 1947 triệu yên ( khoảng 23 triệu USD) để thực hiện giai đoạn hai, xây dựng cảng cá Vũng Tàu; 238 triệu yên (khoảng 2,6 triệu USD) để thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng; và 85000 USD hỗ trợ cho Việt Nam tham gia một số họat động của ASEAN. Tính chung trong năm 1995, Nhật Bản đã thoả thuận cho Việt Nam vay 70 tỷ yên.
Trong chuyến thăm hữu nghị chính thức của Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản vào ngày 27 - 7 - 1996, phía Nhật Bản đã cam kết viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 3,557 tỷ yên (khoảng 35 triệu USD) cho dự án xây dựng cầu nông thôn và miền núi phía bắc, và 45,1 triệu yên (khoảng 450.000 USD) viện trợ văn hoá nhằm cung cấp thiết bị nghe nhìn cho Khoa tiếng Nhật Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.
Nhìn chung viện trợ phát triển chính thức của Nhật Bản cho Việt Nam đã tăng khá nhanh. Trong thời gian 8 năm, từ 1992 đến 1999 Nhật Bản đã cam kết cho Việt Nam vay 6.335 triệu USD, đặc biệt năm 1998 và 1999, mặc dù vẫn còn rất khó khăn về kinh tế do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, nhưng Nhật Bản vẫn cam kết cho Việt Nam vay 835 triệu USD (năm 1998) và 1,1 tỷ USD (năm 1999, chiếm hơn một nửa trong tổng số 2,1 tỷ USD mà các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết cho Việt Nam vay).
Bảng 2: Quy mô ODA của Nhật Bản cug cấp cho Việt Nam
(đơn vị tính:100 triệu yên)
Năm/ Loại hình
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Viện trợ không hoàn lại
19,19
75,86
80,47
121,48
125,47
125
143
Tín dụng ưu đãi
455
523,04
580
700
810
850
880
Lãi suất
1%
1%
1,8%
2,3%
2,3%
2,3%
2,3%
(Theo: Hỗ trợ phát triển chính thức ODA…NXB giáo dục - 2000)
Bước sang thế kỷ XXI, trong năn 2001 Chính phủ Nhật Bản đã chính thức ký Hiệp định tài trợ cho các dự án quan trọng như đường dây tải điện 500KV Phú Mỹ - Nhà Bè - Phú Lâm (114,15 triệu USD), cầu Cần Thơ (216,04 triệu USD), viện trợ không hoàn lại 13,63 triệu USD…cũng trong năm 2001 do nền kinh tế bị suy thoái và ý kiến trong nước phản đối việc gia tăng lượng ODA ngày một cao, đồng thời nhằm hạn chế bớt khoản nợ chính phủ vốn đã rất cao (130% GDP), Chính phủ Nhật Bản buộc phải cắt giảm ngân quỹ dành cho ODA. Tuy vậy mức ODA cam kết cho Việt Nam trên cơ sở đồng yên vẫn tăng 8% với mục đích nhằm hỗ trợ Việt Nam xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội như: Sân bay Tân Sơn Nhất, cầu Bãy Cháy, cầu Thanh Trì, nhà máy nhiệt điện Ômôn v v…Tổng số ODA trong năm 2001 gần 700 triệu USD.
Trong bài phát biểu của Thủ Tướng Nhật hồi giữa năm 2001, Nhật Bản đã cam kết thúc đẩy viện trợ cho Việt Nam. Ngày 28 - 11 - 2001, nhân lễ kỷ niệm lần thứ 10 Nhật nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam, hai bên đã thoả thuận 5 lĩnh vực cơ bản mà nguồn vốn ODA sẽ tẩp trung vào: 1- Đào tạo con người và xậy dựng cơ chế thúc đẩy việc dịch chuyển sang nền kinh tế thị trường; 2 - Nâng cầp cơ sở hạ tầng kinh tế như điện lực, vận tải; 3 - Phát triển nông nghiệp nông thôn; 4 - Giáo dục và chữa bệnh; 5 - Môi trường.
Nhìn chung hình thức chủ yếu trong viện trợ ODA của Nhật Bản cho Việt Nam là dạng tín dụng ưu đãi, chiếm 90%. Tỷ lệ viện trợ không hoàn lại trong ODA của Nhật Bản cho Việt Nam còn tương đối thấp, khoảng 10%. Hiện tại các khoản vay lớn nhất là khoản vay hàng hoá (53%), điện và khí đốt (28%), giao thông vận tải và thông tin liên lạc (khoảng19%). Các hàng hoá này được sử dụng cho mục đích ngắn hạn, nhưng việc trả nợ lại là dài hạn, do đó chúng cần được sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
Các khoản ODA của Nhật Bản cũng như các tổ chức quốc tế khác đều chủ yếu hướng vào các dự án cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới hạ tầng cơ sở của Việt Nam như nâng cấp đường quốc lộ xuyên Việt, xửa chữa đường xe lửa Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh, nân cấp cảng Hải Phòng, cải tạo và hoàn chỉnh các hệ thống cấp thoát nước của một số tỉnh và thành phố.
Bên cạnh những thành tựu đã nêu trên, Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều khó khăn bởi vì quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA ở Việt Nam còn đang rất mới mẻ, chúng ta vừa học tập vừa thực hành trong điều kiện có nhiều khác biệt về quy định giữa trong nước và nước ngoài, có nhiều khác biệt trong thủ tục cung cấp ODA giữa các nhà tài trợ…chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót trong khâu tiếp nhận và sử dụng cụ thể là:
Cơ chế quản lý và sử dụng các nguồn viện trợ còn nhiều điểm chồng chéo, rườm rà nên đôi lúc dẫn đến tình trạng chậm trễ trong việc thành lập các Ban quản lý dự án. Ví dụ như một dự án thuộc lĩnh vực lâm nghiệp khi đã có hiệu lực 3 tháng mà vẫn không mở được taì khoản do thiếu nhân lực, sau 5 tháng dự án này mới rút được một khoản tiền tạm ứng để họat động.
Theo các chuyên gia nước ngoài, sự thống nhất giữa các cơ quan liên quan với cấp Bộ và Ban quản lý dự án chưa được chú trọng; từng hiệp định cụ thể thì do rất nhiều Bộ, ngành ký nhưng bộ tài chính lại không theo dõi chung được các nguồn vốn vay hoặc viện trợ cũng như nội dung sử dụng từng nguồn.
Thực tế cho hấy các thủ tục xem xét và trình tự duyệt dự án còn phức tạp, phải qua nhiều cấp; nhất là khâu đấu thầu và chấm thầu khiến cho thời gian thực hiện dự án bị chậm lại. Như dự án " Cảng Sài Gòn" có hai gói thầu 7 và 8 để mua cần cẩu được trình duyệt từ tháng 7 năm 1997, mà đến tháng 8 năm 1998 mới thực hiện được. Quá trình xem xét và lựa chọn nhà thầu của dự án "Cung cấp nước ở Thành phố Hồ Chí Minh" cũng gặp khó khăn khi nhà thầu tham gia không tuân thủ điều kiện của nhà tài trợ.
Nhìn chung thiếu dự án đã mang lại hiệu quả kinh tế nhất định; hàng ngàn cán bộ, công nhân Việt Nam được đào tạo hoặc tái đào tạo về những kỹ năng chuyên môn hoặc quản lý thông qua các chương trình, dự án ODA có kết qủa cao. Tuy nhiên nhìn một cách toàn diện nguồn viện trợ không hoàn lại bị phân tán, dàn trải quá nhiều, chưa tập trung vào những lĩnh vực có lợi thế tương đối và có khả năng tác động thúc đẩy sự phát triển các ngành khác của nền kinh tế.
Hơn nữa, nhiều người vẫn coi viện trợ là của "trời cho", vì vậy việc sử dụng và quản lý các nguồn viện trợ thường không được đảm bảo đúng chế độ tài chính, thậm chí còn rất lãng phí và tuỳ tiện. Điều đó cũng góp phần làm giảm hiệu quả ử dụng nguồn vốn ODA.
Nhiều dự án do thiếu vốn đối ứng (Phần vốn trong nước tối thiểu phải có theo yêu cầu của nhà tài trợ), nên việc cấp vốn của đối tác cho vay chưa phù hợp với tiến độ thực hiện dự án. Ngoài ra giá đền bù để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng có thể bị thay đổi - vì một lý do nào đo so với tính toán ban đầu càng gây khó khăn cho các dự án khi triển khai; hoặc gây tốn kém thời gian, làm chậm khả năng rút vốn.
Về năng lực và khả năng làm việc của các nhân viên trong môi trường ODA: theo đánh giá của nhiều nhà phân tích trong và ngoài nước, mặc dù ta đã qua một thời gian khá dài tiếp nhận nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, nhưng nhân sự và kỹ năng nhân sự trong công tác điều hành - sử dụng nguồn vốn ODA ở những cấp khác nhau hiện đang thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, họ còn quá yếu so với yêu cầu quốc tế và yêu cầu của các nhà tài trợ. Đây là một vấn đề đã được nhiều người quan tâm xem xét nhưng tốc độ khắc phục những yếu kém này còn quá chậm.
Hậu quả là các khâu trong quá trình tiếp nhận và sử dụng viện trợ đều có hững sai lầm lặp lại nhiều lần, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn vay và uy tín của Việt Nam trong lĩnh vực huy động và tiềp nhận ODA. Đó là những hạn chế nổi bật đòi hỏi Việt Nam từng bước khắc phục để nguồn vốn ODA sử dụng có hiệu quả hơn.
Tóm lại quan hệ kinh tế của Nhật Bản và Việt Nam đã có những bước phát triển đáng mừng, đặc biệt là viện trợ phát chính thức ODA của Nhật Bản đa giúp Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế nói riêng và trong quan hệ hai nước Việt Nam - Nhật Bản nói ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24252.doc