LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói, sự ra đời của Nghị định 100CP là bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự chấm dứt của cơ chế độc quyền nhà nước, tạo ra môi trường pháp lý cho việc phát triển một thị trường bảo hiểm mang tính cạnh tranh. Bên cạnh đó với sự phát triển ổn định của nền kinh tế cùng với các chính sách đầu tư trong và nước ngoài tạo ra một lượng tích lũy đáng kể về tài sản đã mang lại những cơ hội không nhỏ cho sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng. Bảo
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1385 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu tại Tổng Công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) (2000-2006), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiểm hàng hải là một trong những lĩnh vực bảo hiểm ra đời sớm nhất không những đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngành vận tải biển mà còn thúc đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới.
Cùng với sự phát triển đó thì tái bảo hiểm ra đời như một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo khả năng tài chính cho các công ty bảo hiểm. Mặc dù mới được triển khai không lâu nhưng cho đến nay nghiệp vụ bảo hiểm và tái bảo hiểm hàng hải đã có những bước đi dài, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển chung của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Trong thời gian thực tập tại Phòng Tái bảo hiểm Hàng hải của Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam,với những kiến thức đã được tích lũy và được sự giúp đỡ của các anh chị Phòng Tái bảo hiểm Hàng hải em đã hoàn thành luận văn với đề tài:
“Tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu tại Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) (2000-2006)”.
Nội dung luận văn gồm 3 chương, ngoài lời nói đầu và phần kết luận:
Chương I: Tổng quan về tái bảo hiểm và tái bảo hiểm vật chất thân tàu
Chương II: Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu tại VINARE (2000-2006)
Chương III: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu tại VINARE.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ TÁI BẢO HIỂM VÀ
TÁI BẢO HIỂM VẬT CHẤT THÂN TÀU
I. TỔNG QUAN VỀ TÁI BẢO HIỂM
1.1. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA TÁI BẢO HIỂM
1.1.1. Bản chất của tái bảo hiểm
Bảo hiểm là một phạm trù kinh tế, nó bao gồm các quá trình phân phối lại nhằm đáp ứng nhu cầu đảm bảo của xã hội. Đặc trưng của nó là việc thành lập mang tính chất tập thể một quỹ dự trữ tài chính thông qua sự vận động của các quy luật thống kê và các nguyên tắc cân đối cũng như việc phân phối mang tính chất riêng rẽ quỹ đó để có thể đáp ứng những nhu cầu có thể dự đoán được trong tương lai phát sinh ra từ những sự cố bất ngờ gây thiệt hại hay xẩy ra.
Do những đặc thù trên nên bảo hiểm có sự đóng góp nhất định vào việc đảm bảo tính liên tục, sự ổn định và hiệu quả của quá trình sản xuất,lưu thông và tiêu dùng của xã hội. Dựa vào các rủi ro được bảo hiểm, các ngành kinh tế khác nhau và các quá trình tiến hành bảo hiểm được chia thành nhiều loại và được tổ chức thành một hệ thống độc lập của nền kinh tế quốc dân (ở nhiều nước còn được gọi là ngành kinh tế bảo hiểm). Một trong loại hình đó là tái bảo hiểm.
Về khái niệm, tái bảo hiểm là một hình thức bảo hiểm lại những rủi ro đã được bảo hiểm (công ty bảo hiểm). Hay nói cách khác, tái bảo hiểm là bảo hiểm cho người bảo hiểm. Nhiệm vụ chủ yếu của tái bảo hiểm là phân chia các rủi ro đã được bảo hiểm của các công ty bảo hiểm gốc cho một tập thể các công ty tái bảo hiểm và thông qua đó sẽ tận dụng một cách tối ưu các quy luật thống kê quá. Với nhiệm vụ trên tái bảo hiểm ổn định kinh doanh cho các công ty bảo hiểm gốc và tạo điều kiện cho các công ty này có thể nhận bảo hiểm cho những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của mình.
Nhưng cho dù định nghĩa thế nào đi nữa thì bản chất của tái bảo hiểm cũng được thể hiện ở những nội dung sau:
+ Tái bảo hiểm là sự phân tán rủi ro cho nhà bảo hiểm, thay vì một nhà bảo hiểm phải gánh chịu tất cả tổn thất xảy ra với đối tượng bảo hiểm thì sẽ có nhiều nhà bảo hiểm khác cùng chia sẻ tổn thất đó với họ.Vì vậy giá trị tổn thất mà mỗi nhà bảo hiểm phải gánh chịu được giảm đi nhiều lần.
+ Tái bảo hiểm hoạt động trên cơ sở số lớn nhằm phân chia rủi ro giữa những nhà bảo hiểm với nhau.
+ Hoạt động tái bảo hiểm có tính chất quốc tế cao: Một hợp đồng bảo hiểm gốc trong nước có thể được tái bảo hiểm sang các công ty bảo hiểm khác ở nước ngoài.
Cơ chế hoạt động tái bảo hiểm:
Khách hàng ---> công ty BH gốc (công ty nhượng TBH) ---(nhượng tái)--> công ty nhận TBH
+ Khách hàng đến tham gia bảo hiểm ký hợp đồng trực tiếp với công ty bảo hiểm: nộp phí và nhận chi trả, bồi thường trực tiếp tại công ty bảo hiểm đó khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra hoặc đến kì đáo hạn.
+ Công ty bảo hiểm gốc sau khi hoàn tất hợp đồng với khách hàng nếu nhận thấy rủi ro cao có thể đi bảo hiểm lại rủi ro đó cho công ty bảo hiểm khác với một tỷ lệ nhất định. Khi đó công ty bảo hiểm gốc ban đầu được gọi là công ty nhượng tái bảo hiểm, công ty nhận bảo hiểm cho công ty bảo hiểm gốc gọi là công ty nhận tái bảo hiểm, phí công ty nhận tái thu gọi là phí nhượng tái. Sau này khi đáo hạn hoặc có sự kiện bảo hiểm xảy ra công ty bảo hiểm gốc sẽ chi trả cho khách hàng 100% số tiền bảo hiểm như đã ký trong hợp đồng bảo hiểm gốc, sau đó sẽ thu lại số tiền bồi thường nhượng tái bảo hiểm từ công ty nhận tái bảo hiểm theo đúng tỷ lệ đã cam kết trong hợp đồng tái bảo hiểm.
1.1.2. Vai trò của tái bảo hiểm
Tái bảo hiểm có tác dụng sau:
Phân tán rủi ro, góp phần ổn định tài chính cho công ty bảo hiểm gốc, đặc biệt là trong những trường hợp xảy ra các sự cố thảm họa hay tích lũy rủi ro;
Tăng cường khả năng nhận bảo hiểm của công ty bảo hiểm gốc đối với những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của nó: Các công ty bảo hiểm đặc biệt là những công ty nhỏ thông qua tái bảo hiểm có thể nhận được những hợp đồng bảo hiểm lớn, vừa đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật về biên khả năng thanh toán, vừa không phải từ chối khách hàng;
Giúp các công ty bảo hiểm nhỏ, mới thành lập ổn định và phát triển nhờ tư vấn về nghiệp vụ từ các công ty tái bảo hiểm;
Giúp các công ty bảo hiểm sửa chữa tính bất thường, đột biến của rủi ro - khả năng sai lệch giữa thực tế và dự đoán mà người bảo hiểm có được nhờ số liệu thống kê từ quá khứ;
Tái bảo hiểm là một công cụ quản trị rủi ro của chính những nhà bảo hiểm;
Góp phần thúc đẩy, phát triển quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước bởi tái bảo hiểm là hoạt động mang tính chất quốc tế: Các hoạt động nhận tái và nhượng tái diễn ra giữa các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm trong và ngoài nước nhằm san sẻ rủi ro và lợi nhuận;
Đảm bảo đời sống cho cán bộ nhân viên làm việc trong các công ty bảo hiểm gốc, góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động xã hội (tạo chỗ làm tại các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, công ty môi giới tái bảo hiểm, ...): Tái bảo hiểm là một trong những nhiệm vụ của các công ty kinh doanh bảo hiểm gốc vì vậy nó góp phần làm tăng quy mô và doanh thu cho doanh nghiệp. Còn đối với các công ty chuyên về tái bảo hiểm, nhận tái bảo hiểm là nhiệm vụ quan trọng và là hoạt động chính tạo nên doanh thu và lợi nhuận;
Tạo điều kiện cho công ty bảo hiểm khi muốn rút lui khỏi thị trường nào đó (khi nhận thấy không còn đủ khả năng để thực hiện một nghiệp vụ bảo hiểm nào đó hoặc khi muốn tập trung vào các nghiệp vụ khác mà công ty có thế mạnh..., công ty bảo hiểm này có thể nhượng tái bảo hiểm các đơn bảo hiểm thuộc loại nghiệp vụ này cho các công ty khác).
Đối với khách hàng tham gia bảo hiểm: Do bảo hiểm là một dịch vụ đặc thù cung cấp sự cam kết bồi thường trên cơ sở phí bảo hiểm đóng trước nên có thể nói tái bảo hiểm là công cụ giúp cho khách hàng yên tâm hơn trong việc bảo đảm khả năng thanh toán của các công ty bảo hiểm gốc. Nhờ có tái bảo hiểm mà khách hàng có thể nhận được bồi thường chính xác, đầy đủ và kịp thời;
Đối với Nhà nước: Góp phần ổn định thu chi của ngân sách Nhà nước, giữ lại tới mức tối đa lượng nội tệ và tăng thu ngoại tệ cho Nhà nước nhờ các hoạt động nhận và nhượng tái;
Đối với xã hội và nền kinh tế: Tái bảo hiểm không chỉ là sự phân tán rủi ro cho những nhà bảo hiểm mà còn là sự phân tán rủi ro giữa các quốc gia với nhau vì vậy những tổn thất lớn hoàn toàn có thể được chia sẻ với số lượng đông người tham gia bảo hiểm.
1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TÁI BẢO HIỂM
Thực tế cho thấy cũng như các ngành nghể khác, bảo hiểm và tái bảo hiểm ra đời luôn gắn liền trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Sự ra đời và phát triển của tái bảo hiểm có thể chia thành 4 giai đoạn sau:
1.2.1. Giai đoạn đầu phát triển của tái bảo hiểm
Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu, Italia là nước đầu tiên chứng kiến sự ra đời và phát triển của tái bảo hiểm. Bản giao ước cổ nhất được biết đến có tính chất pháp lý như một hợp đồng tái bảo hiểm được kí kết vào năm 1370 tại thành phố Genes. Đó là hợp đồng tái bảo hiểm hàng hải, liên quan tới chuyến hành trình bằng đường biển từ Cadiz (Tây Ban Nha) đến Sluys (Hà Lan). Sau này với sự phát triển rộng rãi của những quan hệ thương mại giữa các thành phố của Italia cũng như các nước Bắc Âu, đặc biệt là nước Anh dịch vụ tái bảo hiểm cũng phát triển theo. Tuy nhiên, sau khi có sự xuất hiện của những vụ lạm dụng có tính chất con buôn gây ra nhiều phản ứng chống lại bản chất của tái bảo hiểm đã dẫn đến việc ra đời của đạo luật cấm các hoạt động tái bảo hiểm hàng hải ở nước Anh. Trong một thời gian dài (1746-1864) đạo luật này vô hình chung đã tạo điều kiện cho tổ chức LLOYD’S phát huy ảnh hưởng của mình bằng đồng bảo hiểm. Sau năm 1864, nó trở thành thị trường tái bảo hiểm quan trọng nhất trên thế giới. Thời gian này cũng đã chứng kiến sự xuất hiện của các nghiệp vụ tái bảo hiểm khác như tái bảo hiểm cháy, ... với hình thức tái bảo hiểm duy nhất được áp dụng trong thời kỳ này là tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn cho từng rủi ro riêng biệt.
1.2.2. Giai đoạn từ giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỉ XX
Trong giai đoạn này, những thành tựu khoa học kỹ thuật đã được ứng dụng vào sản xuất làm nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa đã có những bước tiến nhảy vọt,quan hệ giao lưu hàng hóa giữa các nước ngày càng được mở rộng. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho thị trường tái bảo hiểm trưởng thành và phát triển. Tuy nhiên các công ty bảo hiểm vừa hoạt động bảo hiểm gốc, vừa hoạt động tái bảo hiểm tạo ra những hạn chế nhất định, đặt ra yêu cầu cần phải có công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp. Năm 1843, công ty tái bảo hiểm nội bộ đầu tiên ra đời là Weceler Re (Đức). Tuy nhiên, nó chỉ là công ty con của một công ty bảo hiểm địa phương, chủ yếu nhận các phần dôi của công ty mẹ.
Năm 1846 công ty tái bảo hiểm độc lập đầu tiên được thành lập tại Đức mang tên Cologe Re. Sau đó là sự ra đời hàng loạt của các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp có tên tuổi như:
Swiss Re – công ty tái bảo hiểm đầu tiên của Thụy Sỹ, thành lập năm 1863;
London Gurantee Reinsurance Co.Ltd (Luân Đôn) năm 1869;
Munich Re (Đức), thành lập năm 1880.
Ở Anh, công ty tái bảo hiểm đầu tiên là The Reinsurance Company Ltd, thành lập năm 1867 và vào thời gian đó, trên thế giới mới chỉ tồn tại 10 công ty tái bảo hiểm. Tuy nhiên, công ty này đã đóng cửa vì phá sản vào năm 1871. Một số công ty tái bảo hiểm khác đã được thành lập nhưng không tồn tại được lâu. Năm 1907, công ty tái bảo hiểm Vương quốc Anh thành lập, mang tên Mercantile & General Reinsurance. Một năm sau, năm 1908, công ty tái bảo hiểm Bristish & European ra đời.
Ở Mỹ, công ty tái bảo hiểm đầu tiên được thành lập năm 1912 với tên The First Reinsurance Company of Hartford khi mà các công ty tái bảo hiểm nước ngoài đã hoạt động tại Mỹ một số năm trước đó.
Vào những năm 1920, người ta cũng chứng kiến sự ra đời của các tập đoàn tái bảo hiểm địa phương như Uruguay, Chiles, Banco del Estado, ... Ban đầu, những công ty này không tìm kiếm dịch vụ ngoài những dịch vụ của địa phương bị bắt buộc nhượng cho họ.
Cùng với sự phát triển của thị trường tái trong giai đoạn này nhiều hình thức và phương pháp tái bảo hiểm được xây dựng như tái bảo hiểm số thành, tái bảo hiểm mức dôi ...
Tuy nhiên, chiến tranh thế giới thứ II đã làm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và tái bảo hiểm nói riêng. Trên thực tế hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm bị ngừng trệ, thậm chí một số nước các nhà cầm quyền còn trưng dụng cả quỹ bảo hiểm để phục vụ chiến tranh gây ra tổn thất lớn cho các nhà bảo hiểm đặc biệt là các công ty ở những nước Châu Âu.
1.2.3. Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến năm 1990
Sau chiến tranh thế giới thứ II năm 1945 cục diện thế giới thay đổi, hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời và phát triển, phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa thắng lợi, các nước tư bản rơi vào khủng hoảng làm cho nền kinh tế nói chung và ngành bảo hiểm – tái bảo hiểm nói riêng có nhiều thay đổi:
Các nước tư bản chủ nghĩa đang trong quá trình phục hồi, đồng thời với nhiều công ty tái bảo hiểm mới được thành lập tạo nên thị trường tái bảo hiểm cạnh tranh dưới nhiều hình thức;
Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ra đời thực hiện độc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm và tái bảo hiểm, hạn chế với các nước tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên các nghiệp vụ nhận tái bảo hiểm chỉ mang tính chất đối ngoại là bảo hiểm hàng hóa nhập khẩu và bảo hiểm thân tàu thủy;
Năm 1970-1980 các tập đoàn tái bảo hiểm vùng ra đời như: Tập đoàn tái bảo hiểm Châu Phi, tập đoàn tái bảo hiểm Châu Á, tập đoàn tái bảo hiểm Asean. Các tập đoàn này vận hành dựa trên cơ sở nhượng tái bắt buộc hay tự nguyện với nhau giữa các thành viên.
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Năm 1990 sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa tạo tiền để cho thị trường tái bảo hiểm quốc tế được mở rộng và phát triển. Mối quan hệ giữa các nước ngày càng được củng cố đánh dấu giai đoạn phát triển cao của thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm. Tuy nhiên những năm đầu của thế kỷ XX thị trường tái bảo hiểm quốc tế phải đối mặt lớn với thảm họa và rủi ro do thiên nhiên và con người gây ra.
Năm 2001, với thảm họa khủng bố giáng xuống nước Mỹ ngày 11-9, các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm phải gánh chịu những khoản tổn thất nặng nề chưa từng có với tổng tổn thất được bảo hiểm lên tới 40,2 tỷ USD, dẫn tới sự phá sản tụt hạng của một số công ty tái bảo hiểm hàng đầu thế giới, và đến nay với hàng loạt tổn thất do thiên tai gây ra đặc biệt là tổn thất nặng nề do sóng thần vào thời điểm cuối năm 2004 tại các nước Nam Á làm cho tình hình thị trường tái bảo hiểm quốc tế trở nên rất phức tạp.
1.3. CÁC HÌNH THỨC TÁI BẢO HIỂM
1.3.1. Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn
Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất. Theo hình thức này, công ty nhượng toàn quyền lựa chọn toàn bộ hay một số rủi ro cần phải tái đi và công ty nhận (nhà tái bảo hiểm) có quyền nhận hay từ chối toàn bộ hay một số rủi ro đó.
Để thực hiện tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn, công ty nhượng phải thông báo cho nhà tái bảo hiểm một dịch vụ nào đó mà họ cần tái đi dưới hình thức một bản đề nghị (hay bản chào tái), trong đó ghi rõ các đặc điểm chính của rủi ro được tái bảo hiểm, chẳng hạn như:
+ Tên và địa chỉ của người được bảo hiểm;
+ Tính chất của rủi ro được bảo hiểm;
+ Ngày bắt đầu và ngày chấm dứt;
+ Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, phần giữ lại của công ty nhượng;
+ Thủ tục phí tái bảo hiểm;
+ Phương thức tái, thủ tục thanh toán, bồi thường; .....
Sau khi nhận được đề nghị, nhà tái bảo hiểm có quyền lựa chọn nhận toàn bộ hay một phần tỷ lệ nào đó hoặc một số tiền cố định trên cơ sở rủi ro được đề nghị. Nhà tái bảo hiểm xác nhận phần tham gia của mình vào một phiếu đề nghị và gửi lại cho công ty nhượng, đồng thời, nhà tái bảo hiểm có thể yêu cầu cung cấp thêm thông tin cần thiết. Chỉ khi được thông báo chấp nhận, dịch vụ tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn mới có hiệu lực và cũng tự động chấm dứt vào ngày đến hạn nếu không có bổ sung thêm.
Ưu điểm của hình thức này:
+ Giúp các công ty nhượng tái đặc biệt là các công ty mới thành lập còn ít kinh nghiệm có thể hoàn thành việc nhận bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro có giá trị lớn, vượt quá khả năng tài chính của họ bằng việc sử dụng chuyên môn và khả năng của thị trường tái bảo hiểm quốc tế;
+ Giúp công ty nhượng tái có điều kiện loại bỏ được những rủi ro đặc biệt lớn hoặc nguy hiểm mà một khi tổn thất thuộc đơn vị này xảy ra có thể làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mình trong năm nghiệp vụ bảo hiểm riêng biệt nào đó;
+ Giúp cho công ty nhượng có thể chủ động trong việc chấp nhận bảo hiểm phục vụ nhu cầu của người được bảo hiểm về những loại rủi ro mà có thể không được chấp nhận trong các hợp đồng bảo hiểm bắt buộc truyền thống của mình, chẳng hạn như: rủi ro động đất, ngập lụt, đình công, chiến tranh, bạo loạn hoặc những rủi ro tương tự khác;
+ Tạo điều kiện cho công ty nhượng tái cải thiện sự thăng bằng của các hình thức tái bảo hiểm bắt buộc, cải thiện vận may rủi trong việc đạt được những lợi ích tối đa theo các điều kiện quy định trong các hợp đồng tái bảo hiểm đó của họ (ví dụ: điều kiện về chia lãi, thủ tục phí tái bảo hiểm theo thang lũy tiến, thủ tục phí tái bảo hiểm theo lãi, ...).
Nhược điểm:
+ Công ty nhượng tái phải thông báo đầy đủ, chi tiết về nghiệp vụ bảo hiểm gốc dẫn đến có thể bị tiết lộ thông tin có lợi cho đối thủ cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm gốc;
+ Không đảm bảo thời gian và sự chắc chắn trong việc phân tán rủi ro tái bảo hiểm do đó có thể sẽ bị mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm hoặc không có khả năng để nhận bảo hiểm cho rủi ro có giá trị lớn, hay ít nhất cũng làm cho công ty nhượng tái mất uy tín vì sự chậm trễ trả lời người được bảo hiểm;
+ Chi phí hành chính, thủ tục giấy tờ tốn kém do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của hợp đồng;
+ Thường xuyên phải đàm phán tái lập lại hợp đồng tái bảo hiểm trước khi quyết định ký kết hợp đồng bảo hiểm gốc với khách hàng mà trong nhiều trường hợp đáng lẽ không cần thiết phải thay đổi hay hủy bỏ hợp đồng đã ký;
+ Trong nhiều trường hợp hình thức tái bảo hiểm này chỉ được thực hiện với mức phí cao hơn mức phí gốc hoặc thủ tục phí ít hơn khi khả năng nhận của thị trường tái bảo hiểm quốc tế đã đạt gần tới mức tối đa, hoặc khi phí bảo hiểm gốc quá thấp so với phí trung bình của thị trường.
1.3.2. Tái bảo hiểm bắt buộc
Tái bảo hiểm bắt buộc là sự thỏa thuận giữa công ty nhượng tái và nhà tái bảo hiểm trong đó công ty nhượng bắt buộc phải nhượng cho nhà tái bảo hiểm tất cả các đơn vị rủi ro gốc mà hai bên đã thỏa thuận từ trước. Ngược lại, nhà tái bảo hiểm cũng buộc phải chấp nhận toàn bộ các đơn vị rủi ro đó.
Ở đây, công ty nhượng tái toàn quyền trong việc chấp nhận bảo hiểm gốc, định phí, ... mà không phải thông qua ý kiến của nhà tái bảo hiểm. Công ty nhượng đơn phương thanh toán các vụ tổn thất có liên quan đến những rủi ro được bảo hiểm với mục đích bảo vệ quyền lợi chung của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm. Ngược lại, nhà tái bảo hiểm chia sẻ rủi ro với công ty nhượng tái và sẽ chấp nhận thanh toán tổn thất thuộc phạm vi hợp đồng tái bảo hiểm đã thỏa thuận mà công ty nhượng thay mặt họ giải quyết.
Như vậy, hình thức tái bảo hiểm bắt buộc là thỏa thuận ràng buộc các bên với nhau một cách chặt chẽ hơn là hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn.
Ưu điểm:
+ Công ty nhượng sẽ được toàn quyền quyết định phí bảo hiểm cho nên hợp đồng sẽ được ký kết rất nhanh;
+ Các nhà tái bảo hiểm hoàn toàn chia sẻ vận may rủi với công ty nhượng tái đồng thời rất thoải mái chấp nhận rủi ro một cách tự nguyện bởi vì đến lượt mình họ cũng có quyền làm như vậy;
+ Đây là hình thức rất chặt chẽ bởi vì mọi thỏa thuận đã được thảo luận từ trước khi ký kết hợp đồng, vì vậy phí bảo hiểm mà các bên thu được cũng là cao nhất.
Nhược điểm:
+ Đối với những nghiệp vụ bảo hiểm mới triển khai, các nhà tái bảo hiểm không lường hết được mức độ rủi ro cũng như xác xuất rủi ro vì vậy việc kí kết hợp đồng ít nhiều sẽ mang tính mạo hiểm;
+ Vì mọi rủi ro đều phải tái đi cho nên, đứng về phía công ty nhượng tái, những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ vẫn phải đem đi tái trong khi khả năng tài chính của họ vẫn có thể đảm đương được.
1.3.3. Tái bảo hiểm kết hợp tùy ý lựa chọn - bắt buộc
Đây là hình thức tái bảo hiểm mà công ty nhượng tái không bắt buộc phải nhượng tất cả các dịch vụ mà mình nhận bảo hiểm nhưng công ty nhận bắt buộc phải nhận các dịch vụ mà công ty nhượng đưa vào thỏa thuận này với điều kiện là những dịch vụ đó phải phù hợp với nội dung điều khoản đã quy ước của hợp đồng tái bảo hiểm thỏa thuận.
- Đối với công ty nhận tái bảo hiểm: So với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn, nhà nhận tái bảo hiểm bất lợi hơn vì không có quyền từ chối những rủi ro mà họ không muốn nhận. Công ty nhận tái bảo hiểm có điều kiện thu nhập nguồn phí tái bảo hiểm lớn hơn và có phần thăng bằng hơn so với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn. Ở đây công ty nhượng không được lợi dụng hình thức này để lựa chọn tái đi những rủi ro có khả năng xảy ra tổn thất lớn với mục đích đẩy phần bất lợi cho nhà tái bảo hiểm. Để đề phòng trường hợp này xảy ra, công ty nhận tái phải nắm vững ý đồ của công ty nhượng, xem xét kỹ các rủi ro mà công ty nhượng đem tái bảo hiểm và thường xuyên phải canh chừng diễn biến của thỏa ước mà mình đã ký kết. Sử dụng hình thức tái bảo hiểm này, công ty nhượng có điều kiện để đem chào tái bảo hiểm từng phần trách nhiệm thặng dư của khả năng tự giữ lại của mình cho một hay một số ít các nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn, thay cho việc phải đem tất chia tất cả các phần thặng dư cho các nhà tái bảo hiểm nếu đem tái theo hình thức bắt buộc. Tuy nhiên, cách tái bảo hiểm như thế thường chỉ có các công ty nhận có tiềm lực thật lớn vì họ là những người có khả năng nhận các rủi ro có giá trị bảo hiểm cao và như vậy sẽ không đòi hỏi phân tán cho quá nhiều nhà tái bảo hiểm, do vậy đỡ tốn kém chi phí.
- Đối với công ty nhượng: Với hình thức này, công ty nhượng có điều kiện đem chào tái bảo hiểm từng phần trách nhiệm thặng dư của khả năng giữ lại cho một hay một số nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn thay vì phải phân chia tất cả các phần thặng dư của khả năng tự giữ lại của mình cho các nhà tái bảo hiểm theo hình thức bắt buộc.
Hình thức tái bảo hiểm này thường chỉ có thể thực hiện được bằng cách chào tái cho các nhà tái bảo hiểm có tiềm lực lớn, có khả năng nhận được các đơn vị rủi ro có giá trị cao như vậy sẽ giảm bớt chi phí do phải phân tán rủi ro cho nhiều nhà tái bảo hiểm.
Trong trường hợp công ty nhượng tái có quá nhiều đơn vị rủi ro cần phải đem đi tái thì chi phí hành chính cho việc áp dụng hình thức tái bảo hiểm này sẽ rất tốn kém vì những rủi ro cần tái bảo hiểm đó thường đòi hỏi các điều kiện tái bảo hiểm khác nhau, công tác tính toán phí và sổ sách kế toán sẽ phức tạp, khó khăn hơn.
1.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁI BẢO HIỂM
Các hình thức tái bảo hiểm như đã trình bày ở trên được áp dụng theo hai phương pháp chính là:
+ Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (tái bảo hiểm theo tỷ lệ);
+ Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường (tái bảo hiểm phi tỷ lệ).
1.4.1. Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm
Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm là một phương pháp tái bảo hiểm mà trong đó trách nhiệm của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm đối với mỗi đơn vị rủi ro được bảo hiểm được phân bổ theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên trên cơ sở số tiền bảo hiểm. Vì lẽ đó các dịch vụ tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm còn được gọi là tái bảo hiểm theo tỷ lệ.
Phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ được chia làm hai dạng chính:
+ Tái bảo hiểm số thành;
+ Tái bảo hiểm mức dôi.
1.4.1.1. Tái bảo hiểm số thành
Theo phương thức này, công ty nhượng giữ lại cho mình một tỷ lệ nhất định so với số tiền bảo hiểm, phần còn lại tái đi. Vì vậy phí bảo hiểm và số tiền bồi thường cũng được phân bổ giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm theo tỷ lệ tương ứng.
Ưu điểm:
+ Tính toán đơn giản, dễ xử lý, chi phí hành chính và cách quản lý đơn giản, ít tốn kém;
+ Đối với nhà tái bảo hiểm, dạng tái bảo hiểm này có tính cân đối và dễ chấp nhận hơn so với dạng tái bảo hiểm mức dôi, có khả năng phân tán rủi ro tốt hơn so với các loại tái bảo hiểm khác. Nhà tái bảo hiểm có điều kiện tham gia vào mọi rủi ro mà công ty nhượng nhận bảo hiểm, đồng thời công ty nhượng có thể yên tâm nhận mọi rủi ro có giá trị nằm trong phạm vi hạn mức khống chế tối đa đã quy ước vì mọi rủi ro này đều được chia sẻ cho nhà tái bảo hiểm cùng hưởng và cùng chịu với công ty nhượng. Điều này đảm bảo cân đối thu chi cho cả hai bên: công ty nhượng và nhà nhận tái bảo hiểm.
+ Thủ tục phí tái bảo hiểm của dạng này cao nhất,ngoài ra các điều kiện về phí tạm giữ cũng có tỷ lệ cao, nhờ đó công ty nhượng có điều kiện sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các việc khác.
Nhược điểm:
+ Công ty nhượng tái phải tái đi mọi đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc theo một tỷ lệ định trước nên không khai thác hết khả năng của công ty;
+ Đồng thời công ty nhượng tái không khống chế được tỷ lệ bồi thường đối với mức giữ, không có khả năng làm giảm hệ số biến thiên của phần tổn thất thuộc mức giữ lại làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của công ty;
Tái bảo hiểm số thành thường được ứng dụng trong những trường hợp sau:
+ Khi công ty nhượng có ý định thu xếp tái bảo hiểm dưới hình thức trao đổi dịch vụ lẫn nhau giữa các công ty bảo hiểm này với các công ty bảo hiểm khác;
+ Đối với các công ty bảo hiểm “ non trẻ ” việc áp dụng tái bảo hiểm số thành là rất phù hợp. Khi công ty nhượng mới bắt đầu triển khai bảo hiểm một nghiệp vụ mới mà họ còn chưa có kinh nghiệm và thiếu số liệu thống kê phân tích khả năng tiến triển của loại nghiệp vụ đó. Với phương pháp này, công ty nhượng có điều kiện đảm bảo ổn định kinh doanh của mình, nhất là trong những năm đầu tiên vì lúc này “ quy luật số lớn “ chưa có tác động nhiều trong nghiệp vụ. Thêm vào đó, nhà nhận tái hầu hết được coi như công ty bảo hiểm gốc cùng chia sẻ rủi ro, vận may với công ty nhượng, có điều kiện gần gũi và giúp đỡ công ty nhượng tái nhiều hơn về mặt chuyên môn, kỹ thuật, cố vấn cho công ty nhượng tái tích cực hơn;
+ Đối với các loại nghiệp vụ bảo hiểm mà công ty nhượng tái có khó khăn trong việc phân định thế nào là một rủi ro đơn (đặc biệt trong các loại bảo hiểm về nông nghiệp);
+ Nhằm giảm nhẹ khả năng nguy hiểm của công ty nhượng tái đối với các hợp đồng bảo hiểm về rủi ro thiên tai;
+ Đối với các loại nghiệp vụ mà phạm vi tác động và quy mô của tổn thất không chắc chắn, mặc dù các hợp đồng bảo hiểm loại này có thể có giới hạn trách nhiệm.
Tái bảo hiểm số thành thường được sử dụng trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự, xe ô tô, giông bão, mưa đá, bảo hiểm vận chuyển hàng hóa và thường kết hợp với tái bảo hiểm mức dôi.
1.4.1.2. Tái bảo hiểm mức dôi
Tái bảo hiểm mức dôi là dạng tái bảo hiểm tỷ lệ cổ xưa và phổ biến nhất. Trong tái bảo hiểm mức dôi, công ty nhượng ấn định mức giữ lại là một số tuyệt đối,số vượt quá tái đi. Với phương pháp này,trách nhiệm của người nhận được xác định theo lớp là bội số của mức giữ lại. Phí bảo hiểm và số tiền bồi thường được phân bổ theo tỷ lệ tương ứng với trách nhiệm giữa công ty nhượng và nhà nhận tái.
Ưu điểm:
Phương pháp tái bảo hiểm này giúp khai thác hết khả năng của công ty nhượng tái do chỉ tái đi những rủi ro vượt quá mức giữ lại, đảm bảo lợi ích kinh tế cao hơn tái bảo hiểm số thành, đồng thời phương pháp này còn giúp công ty nhượng có điều kiện giữ lại một khối lượng kim ngạch bảo hiểm lớn và do đó có mức phí thu nhập lớn không cần phải tái bảo hiểm.
Nhược điểm:
Việc tính toán lại phức tạp hơn, chi phí tốn kém hơn, sử dụng nhiều nhân lực (nhất là đối với những nước không có điều kiện áp dụng máy tính điện tử) và có ảnh hưởng lớn đến kinh doanh trong trường hợp tổn thất rơi nhiều vào những rủi ro dưới mức giữ lại của công ty nhượng tái.
Tái bảo hiểm mức dôi thông thường được áp dụng khi khối lượng dịch vụ gồm nhiều rủi ro có những số tiền rất chênh lệch được bảo hiểm như: tái bảo hiểm cháy, tai nạn thân thể và nhân thọ...
1.4.1.3. Tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi
Đây không phải là dạng tiếp theo của hình thức tái bảo hiểm theo tỷ lệ mà thực chất là sự kết hợp giữa hai dạng số thành và mức dôi. Dạng kết hợp này tỏ ra rất phù hợp và thường được áp dụng với các công ty bảo hiểm mới thành lập. Với các công ty này khối lượng dịch vụ mà họ nhận bảo hiểm chưa đủ ổn định để tránh khỏi trường hợp không may có rủi ro tổn thất lớn xảy ra. Để đảm bảo có thể đứng vững trên thị trường và đáp ứng những nhu cầu khác nhau của khách hàng mua bảo hiểm, công ty nhượng tái cần thiết phải có tái bảo hiểm theo hình thức mức dôi. Đồng thời vì mới thành lập nên công ty nhượng thường chưa đủ số tiền dự trữ đảm bảo để đương đầu với những chu kì biến thiên của tổn thất, vì vậy cần phải bảo vệ phần giữ lại gộp của mình bằng một hợp đồng tái bảo hiểm số thành.
Thông thường khi áp dụng dạng tái bảo hiểm kết hợp này, công ty nhượng đem tái bảo hiểm cho cùng một số nhà tái bảo hiểm và trong đó dạng tái bảo hiểm số thành là hợp đồng cơ sở và dạng tái bảo hiểm mức dôi làm hợp đồng bổ sung tự động.
Tái bảo hiểm theo phương pháp kết hợp này phát huy được những ưu điểm và hạn chế được những nhược điểm của từng phương pháp tái bảo hiểm số thành hoặc tái mức dôi.
Ưu điểm:
Giúp công ty nhượng tái đảm bảo khả năng gia tăng về phần trách nhiệm bảo hiểm một cách tự động mà không ảnh hưởng đến mức giữ lại của bản thân công ty (không phải tăng mức giữ lại), đồng thời việc phân tán rủi ro sẽ dễ dàng hơn, hợp đồng tái bảo hiểm số thành sẽ ổn định hơn.
Nhược điểm:
Thủ tục và chi phí điều hành phức tạp hơn hợp đồng số thành thuần túy, thủ tục phí tái bảo hiểm thu được từ hợp đồng mức dôi thấp hơn so với thủ tục phí đưa vào hợp đồng số thành (vì tỷ trọng giữa phí và trách nhiệm thấp).
1.4.2. Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường
Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường là một hình thức tái bảo hiểm trong đó công ty nhượng tái ấn định một giới hạn bồi thường bằng một số tiền mà họ có thể tự gánh chịu cho mỗi tổn thất thuộc trách nhiệm của mình (điểm tự bồi thường hoặc mức tự bồi thường), phần tổn thất vượt quá hạn mức đó được chuyển giao cho nhà tái bảo hiểm gánh chịu (giới hạn trách nhiệm bồi thường của nhà tái bảo hiểm).
Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường có những đặc điểm sau:
+ Trách nhiệm của công ty nhượng tái và nhà tái bảo hiểm đối với tổn thất không chia sẻ theo tỷ lệ về phí, trách nhiệm cũng như về bồi thường. Vì thế hình thức tái bảo hiểm này còn được gọi là là tái bảo hiểm phi tỷ lệ;
+ Số tiền bồi thường tổn thất là tiêu chuẩn cơ bản để phân định trách nhiệm giữa các bên;
+ Công ty nhượng tái phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những tổn thất bằng hoặc dưới điểm tự bồi thường;
+ Nhà tái bảo hiểm chỉ bồi thường cho phần tổn thất chênh lệch của những tổn thất vượt quá điểm tự bồi thường của công ty nhượng tái cho tới một hạn mức tối đa đã có sự thỏa thuận trước trong hợp đồng tái bảo hiểm, hạn mức này được gọi là “ hạn mức trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm”.
Ưu điểm
+ Là hình thức tái bảo hiểm chỉ bảo vệ ch._.o những trường hợp có tổn thất quá lớn và được bảo vệ 100% mức tổn thất vượt quá “điểm tự bồi thường” nên công ty nhượng tái có thể khống chế mức bồi thường tối đa của mình bằng một mức tiền nhất định;
+ Công ty nhượng tái sẽ có thu nhập phí bảo hiểm lớn hơn vì nhà tái bảo hiểm không có trách nhiệm bồi thường cho những vụ tổn thất có số tiền thấp hơn “điểm tự bồi thường” của công ty nhượng;
+ Chi phí hành chính ít tốn kém do công ty nhượng tái không phải phân loại từng đơn vị rủi ro bảo hiểm, tính toán mức giữ lại, phí tái bảo hiểm, mức tái bảo hiểm...
Nhược điểm
+ Phương pháp tính phí phức tạp và khó chính xác, đòi hỏi kinh nghiệm và kỹ thuật tính toán cao, đặc biệt đối với những rủi ro thảm họa lớn;
+ Mức tự bồi thường nếu tính quá cao thì có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty nhượng tái nhưng nếu quá thấp thì lại làm tăng chi phí hành chính của nhà tái bảo hiểm;
+ Gây khó khăn cho công ty nhượng tái trong việc thanh toán phí tái bảo hiểm vì phí tái bảo hiểm thường phải đóng trước;
+ Phải trả thêm phí tái bảo hiểm trong trường hợp có bồi thường thuộc trách nhiệm hợp đồng tái bảo hiểm và có điều khoản tái lập trách nhiệm bảo vệ.
Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường có các dạng sau:
+ Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ;
+ Tái bảo hiểm vượt quá tỷ lệ bồi thường;
+ Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo thảm họa.
1.4.2.1. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ
Dạng tái bảo hiểm này bao gồm hai loại: loại đảm bảo nghiệp vụ không hạn mức và loại đảm bảo nghiệp vụ có hạn mức từng sự cố.
a. Loại đảm bảo nghiệp vụ không hạn mức
Là loại đảm bảo nghiệp vụ áp dụng cho từng đơn vị rủi ro gốc và không hạn chế tổng số tiền bồi thường trong trường hợp có nhiều tổn thất xảy ra từ một sự cố. Trong loại tái bảo hiểm này, nhà tái bảo hiểm bồi thường không hạn định số vụ và tổng số tiền của các vụ tổn thất xảy ra dù là một tổn thất riêng biệt hay là một sự cố tổng hợp. Mục đích của việc thu xếp tái bảo hiểm theo dạng này là để giảm bớt hay thay thế cho các dạng tái bảo hiểm theo tỷ lệ thông thường.
b. Loại đảm bảo nghiệp vụ có hạn mức từng sự cố
Là loại “đảm bảo nghiệp vụ” bổ sung cho loại trên, trong đó mức bồi thường của nhà tái bảo hiểm ngoài việc phải chịu trách nhiệm đối với những tổn thất tính riêng từng đơn vị rủi ro vượt quá điểm vượt mức bồi thường, nó còn được khống chế ở một mức tối đa ấn định trong trường hợp nhiều rủi ro xảy ra trong cùng một sự cố có tổng số tiền bồi thường quá lớn.
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ thường được sử dụng trong các loại tái bảo hiểm về tài sản (vật chất). Các loại nghiệp vụ về trách nhiệm ít áp dụng dạng này vì thông thường bảo hiểm về trách nhiệm ít bị tổn thất do thảm họa khốc liệt gây nên. Ngoài ra trong bảo hiểm hàng hải, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm hàng và tàu kết hợp thường áp dụng dạng này.
1.4.2.2.Tái bảo hiểm vượt quá tỷ lệ bồi thường
Là dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ mà nhà tái bảo hiểm chỉ có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp khi kết quả toàn bộ nghiệp vụ của công ty nhượng tái có một tỷ lệ bồi thường vượt quá một tỷ lệ hoặc một mức tiền định trước. Tái bảo hiểm theo dạng này nhằm mục đích bảo vệ công ty nhượng chống lại một sự gia tăng đột biến của tỷ lệ bồi thường trong một ngành bảo hiểm hay một dạng dịch vụ bảo hiểm nhất định trong một khoảng thời gian nhất định.
Khoảng thời gian này thường là năm tài chính và tỷ lệ bồi thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm giữa tổn thất phải bồi thường và số phí đã thu hoặc đã được hưởng của năm tài chính hoặc cũng có thể được biểu thị bằng một số tiền nhất định.
Tỷ lệ bồi thường = Tổng số tiền bồi thường / Tổng phí thu.
1.4.2.3. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo tai họa khốc liệt
Là dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ để đảm bảo cho công ty nhượng tránh được những trường hợp tổn thất quá mức bồi thường. Mục đích trước hết của loại đảm bảo này là bảo vệ đối với sự tích tụ nhiều tổn thất xảy ra từ cùng một sự cố hay một sự việc có tính chất thật quan trọng hay khốc liệt.
Điểm tính mức bồi thường có thể thay đổi tùy thuộc một phần vào thực lực tài chính về mức tự bồi thường của công ty nhượng tái. Trên thế giới, dạng tái bảo hiểm này được sử dụng rất rộng rãi trong tất cả các loại nghiệp vụ bảo hiểm.
II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT THÂN TÀU
2.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA BẢO HIỂM THÂN TÀU
Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày cũng như trong lao động sản xuất kinh doanh mặc dù không muốn nhưng con người luôn đứng trước những nguy cơ rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào đe dọa tới sự an toàn tính mang, sức khỏe, tài sản của con người. Để đối phó với những nguy cơ rủi ro đó con người đã đưa ra nhiều biện pháp trong đó có bảo hiểm. Bảo hiểm là một trong những biện pháp tài trợ rủi ro bù đắp thiệt hại về mặt tài chính khi rủi ro bất ngờ xảy ra, nó được coi là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra có hiệu quả nhất. Hoạt động của các ngành kinh tế nói chung và hàng hải nói riêng không thể tách rời với hoạt động của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng.
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các phương tiện giao thông vận tải cũng ngày một được cải tiến và hiện đại hơn góp phần quan trọng vào sự phát triển giao lưu thương mại quốc tế. Ngành vận tải biển được đánh giá đóng một vai trò quan trọng được coi là mạch máu lưu thông của thương mại quốc tế. Theo số liệu thống kê có tới 90% lượng hàng hóa được chuyên chở bằng đường biển, vì vận chuyển bằng đường biển có nhiều điểm thuận lợi như chở được khối lượng hàng hóa lớn, cồng kềnh như các hàng siêu trường, siêu trọng, chở được nhiều chủng loại hàng khác nhau từ đó dẫn tới giá thành vận chuyển rẻ so với những ngành vận tải khác. Tuy nhiên, lại có nhược điểm lớn là hành trình thường kéo dài, tốc độ vận chuyền chậm, dễ chịu tác động của các rủi ro tự nhiên gây ra tổn thất với giá trị lớn. Do hoạt động gần như độc lập, lênh đênh trên biển nên việc ứng cứu, hạn chế tổn thất gặp nhiều khó khăn. Ngành vận tải biển vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong ngành vận tải thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng mặc dù theo thống kê của các hãng sản xuất và sửa chữa hàng năm trên thế giới có khoảng 7.000 vụ tai nạn tàu biển làm thiệt hại hàng tỷ đôla.
Hiện nay, đội tàu biển quốc gia Việt Nam có khoảng 970 tài với tổng trọng tải đạt 2,85 triệu USD, xếp thứ 60/152 quốc gia có tàu mang quốc tịch và xếp thứ 4/11 nước ASIAN. Con số 970 tàu mang quốc tịch Việt Nam này không phải là nhiều song cũng không hẳn là quá ít. Ngành vận tải biển Việt Nam đã góp phần vận chuyển được khoảng trên dưới 14% khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu. Những vụ tổn thất xảy ra đã gây không ít khó khăn cho các chủ tàu làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ và để giúp các chủ tàu ổn định kinh tế khi không may gặp rủi ro, tạo cho các chủ tàu khôi phục và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới, để góp phần tăng thu cho ngân sách, tăng nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế ... hoạt động bảo hiểm thân tàu đã ra đời rất sớm.
2.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM VẬT CHẤT THÂN TÀU
2.2.1. Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm vật chất thân tàu là toàn bộ con tàu bao gồm thân vỏ tàu, máy móc, trang thiết bị trên con tàu đó có liên quan đến hoạt động của con tàu. Như vậy, thực chất bảo hiểm thân tàu là bảo hiểm giá trị của con tàu đó bao gồm giá trị vỏ tàu, máy móc và trang thiết bị.
2.2.2. Phạm vi bảo hiểm
Việc xác định phạm vi bảo hiểm là xác định những rủi ro được bảo hiểm làm căn cứ để xét bồi thường. Phạm vi bảo hiểm vừa có liên quan đến người tham gia, vừa liên quan đến người bảo hiểm.
Phạm vi bảo hiểm thân tàu thường liên quan đến các rủi ro chính như mắc cạn, chìm đắm, đâm va, hỏng máy, hỏng neo và chân vịt, cháy nổ, ... (Đâm va ở đây được giới hạn trong phạm vi: Đâm va giữa tàu với tàu, tàu với các công trình kiến trúc được xây dựng trên biển, trên cảng ..., đâm va giữa tàu với các vật thể nổi, vật thể di động ...). Phạm vi bảo hiểm thân tàu còn bao gồm tàu mất tích do mọi lý do, tàu hư hại do lỗi lầm của thủy thủ đoàn, do cướp biển ....
Người được bảo hiểm có thể xem xét bảo hiểm thêm những rủi ro có thể bảo hiểm nếu người tham gia (chủ tàu) yêu cầu và nộp thêm phí. Chẳng hạn chủ tàu yêu cầu bảo hiểm thêm trường hợp tàu đi chệch hướng, thay đổi hành trình hoặc chậm trễ hành trình, ... người bảo hiểm phải xem xét rất cụ thể từng trường hợp để chấp nhận bảo hiểm hay không.
Phạm vi bảo hiểm thường gắn kết với chế độ bảo hiểm. Trong bảo hiểm vật chất thân tàu người ta áp dụng hai chế độ bảo hiểm: Chế độ bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên và chế độ bảo hiểm miễn thường (vượt mức giới hạn) gồm miễn thường chung, miễn thường tổn thất do rủi ro phụ gây ra và miễn thường do tàu vi phạm quy định (không thông báo tổn thất).
2.2.3. Các điều kiện bảo hiểm
2.2.3.1. Điều kiện bảo hiểm tổn thất toàn bộ (TLO)
Theo điều kiện này, người bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường:
a. Tổn thất toàn bộ thực tế
Tổn thất toàn bộ thực tế là tổn thất toàn bộ con tàu khi bị đắm, bị nổ tung, bị phá hủy hay phải phá hủy, bị tước quyền sở hữu do bị cướp, bị bắt vì buôn lậu, chở hàng trái phép, ... Khi bị tổn thất toàn bộ, bảo hiểm bồi thường tổn thất toàn bộ theo số tiền bảo hiểm và không tính mức miễn thường.
b. Tổn thất toàn bộ ước tính
Tổn thất toàn bộ ước tính là dạng tổn thất tuy ở mức độ tổn thất toàn bộ nhưng khó có thể tránh khỏi hoặc muốn tránh khỏi phải bỏ ra một số chi phí lớn hơn số tiền bảo hiểm của con tàu đó.
Các dạng tổn thất toàn bộ ước tính:
+ Tàu bị cháy, bị mắc cạn, bị đắm nếu chi phí để sửa chữa, để đưa tàu ra khỏi cạn, ... sẽ lớn hơn số tiền bảo hiểm;
+ Tàu bị mất tích, bị cướp không xác định được giá trị thực tế do đó sẽ bồi thường theo tổn thất toàn bộ;
+ Tàu bị hư hỏng nghiêm trọng, chi phí để sửa chữa lớn hơn số tiền bảo hiểm.
Việc xác định tổn thất toàn bộ ước tính phải căn cứ vào đơn bảo hiểm hoặc Luật bảo hiểm quốc tế. Nếu tổn thất toàn bộ ước tính xảy ra, người được bảo hiểm từ bỏ con tàu một cách hợp lý và nhận bồi thường toàn bộ.
c. Chi phí cứu nạn
Chi phí cứu nạn là những chi phí phát sinh để cứu tàu khi gặp tai nạn trong trường hợp khẩn cấp như chi phí kéo tàu ra khỏi cạn, lai dắt tàu hỏng, ... Chi phí này được phân bổ theo giá trị tàu được cứu kể cả hàng hóa chở trên tàu đó.
Tóm lại, điều kiện bảo hiểm tổn thất toàn bộ (TLO) có phạm vi hẹp nhất, nó chỉ được bảo hiểm khi tàu bị tổn thất toàn bộ thực tế hoặc nằm trong nguy cơ tổn thất toàn bộ thực tế là không tránh khỏi hoặc tránh khỏi bằng cứu nạn.
2.2.3.2. Điều kiện bảo hiểm loại trừ tổn thất bộ phận thân tàu (FOD)
Điều kiện bảo hiểm FOD có phạm vi rộng hơn TLO. Cụ thể:
+ Bảo hiểm mọi tổn thất và chi phí mà TLO gánh chịu: (a+b+c);
+ Bảo hiểm thêm các tổn thất và chi phí:
d. Chi phí tố tụng, đề phòng và hạn chế tổn thất, với điều kiện chi phí này phát sinh do rủi ro, tổn thất được bảo hiểm.
e. Chi phí trách nhiệm đâm va
Chủ tàu được bảo hiểm phải bồi thường trách nhiệm cho chủ tàu hoặc chủ tài sản khác do tàu mình đâm va gây thiệt hại cho họ và mình có lỗi, chi phí đó được bảo hiểm gánh chịu nếu chủ tàu tham gia bảo hiểm theo điều kiện FOD.
f. Chi phí đóng góp tổn thất chung
Tổn thất chung chỉ xảy ra trên biển. Tổn thất chung sau khi đã tính toán được phân bổ cho chủ tàu theo quyền lợi chủ tàu được cứu. Chi phí đóng góp vào tổn thất chung này được bảo hiểm bồi thường lại cho chủ tàu theo điều kiện FOD.
2.2.3.3. Điều kiện bảo hiểm loại trừ tổn thất riêng về thân tàu (FPA)
Điều kiện bảo hiểm FPA vừa chính chịu mọi tổn thất và chi phí của FOD vừa đảm trách thêm:
g. Tổn thất bộ phận của tàu do hành động tổn thất chung và chỉ hạn chế trong một bộ phận nhất định của tàu như những bộ phận dễ hư hỏng do tổn thất chung gây ra. Chẳng hạn hệ thống đèn điện, máy ướp lạnh, nồi hơi phụ, tời, buồm neo.
h. Tổn thất riêng, tổn thất bộ phận của tàu do va chạm với tàu khác trong khi cứu nạn hay do cứu hỏa trên tàu.
Mặc dù điều kiện PFA loại trừ tổn thất riêng nhưng vẫn bảo hiểm tổn thất riêng trong 2 trường hợp khẩn cấp, đó là trường hợp cứu hỏa và cứu nạn gây đâm va với tàu khác.
2.2.3.4. Điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro (ITC)
Ngoài các rủi ro mà FPA đã bảo hiểm, ITC còn bảo hiểm thêm:
i. Tổn thất bộ phận của tàu do hành động tổn thất chung gây ra ngoài những bộ phận nhất định đã kể ở điểm (g).
j. Tổn thất riêng, tổn thất bộ phận của tàu và máy móc thiết bị trên tàu do tai nạn bất ngờ gây ra ngoài điểm (h).
Điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro là điều kiện bảo hiểm rộng nhất, bao gồm tất cả mọi tổn thất và chi phí liên quan đến tổn thất. Hai điểm (i) và (j) bổ sung thêm để bao hàm hết các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm.
2.2.4. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
2.2.4.1. Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm của tàu là tổng giá trị của tàu lúc bắt đầu bảo hiểm, kể cả máy móc, trang thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, đồ đạc, đồ dự trữ, lương thực, thực phẩm cho thủy thủ, tiền lương ứng trước, các chi phí cần thiết để chuẩn bị cho chuyến đi, cộng với phí bảo hiểm toàn bộ tàu.
Giá trị bảo hiểm của cước phí là tổng tiền cước vận chuyển cộng với phí bảo hiểm. Ở Việt Nam, giá trị bảo hiểm của tàu được xác định trên cơ sở giá trị thực tế của tàu, giá trị thực tế của tàu được xác định theo giá tàu thuyền trên thị trường trong nước hoặc thị trường quốc tế cùng loại.
Giá trị bảo hiểm ghi trên hợp đồng bảo hiểm là giới hạn trách nhiệm cao nhất mà người bảo hiểm nhận trách nhiệm bồi thường đối với một vụ tổn thất.
2.2.4.2. Số tiền bảo hiểm
Bảo hiểm thân tàu là dạng bảo hiểm tài sản, cho nên số tiền bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị theo giá thị trường của đối tượng bảo hiểm. Điều đó có nghĩa là số tiền bảo hiểm bao gồm giá trị vỏ tàu, máy móc và trang thiết bị trên con tàu. Thông thường, chủ tàu bảo hiểm thấp hơn giá trị con tàu vì thực tế tàu ít khi gặp tổn thất toàn bộ. Trong trường hợp chủ tàu tham gia bảo hiểm theo điều kiện “Bồi thường tổn thất đầu tiên” khi có tổn thất phát sinh, nếu các tổn thất nhỏ hơn hoặc bằng số tiền bảo hiểm, bảo hiểm sẽ bồi thường theo thiệt hại thực tế, nếu tổn thất lớn hơn số tiền bảo hiểm, bảo hiểm sẽ bồi thường bằng số tiền bảo hiểm.
Chủ tàu không chỉ đăng ký bảo hiểm con tàu mà còn đăng ký bảo hiểm cước phí chuyên chở hàng hóa, chi phí điều hành, quản lý.
Cước phí chuyên chở hàng hóa là số tiền cước mà chủ tàu phải trả lại cho chủ hàng do chủ tàu không đưa hàng về đến bến (bị thất lạc, tổn thất). Theo quy định, số tiền bảo hiểm cước phí cao nhất bằng 25% số tiền bảo hiểm thân tàu.
Chi phí điều hành là những chi phí quản lý, lãi kinh doanh ... Chủ tàu bảo hiểm thêm chi phí điều hành nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh, số tiền bảo hiểm chi phí điều hành cao nhất bằng 25% số tiền bảo hiểm thân tàu (theo quy định của ITC sửa đổi ngày 01/10/1983).
Vậy số tiền bảo hiểm thân tàu gồm: số tiền bảo hiểm thân con tàu, số tiền bảo hiểm cước phí chuyển chở và số tiền bảo hiểm chi phí điều hành.
2.2.5. Phí bảo hiểm thân tàu
2.2.5.1. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là số tiền mà người tham gia (chủ tàu) nộp cho công ty bảo hiểm trên cơ sở số tiền bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm thân tàu bao gồm:
+ Phí bồi thường cho tổn thất toàn bộ;
+ Phí bồi thường tổn thất bộ phận gồm các chi phí sửa chữa tạm thời, chính thức và chưa sửa chữa.
+ Phụ phí bao gồm chi phí quản lý, chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, chi phí tuyên truyền quảng cáo, ...
Vậy:
Phí bảo Phí bồi Phí bồi Phụ
hiểm = thường tổn + thường tổn + phí
thân tàu thất toàn bộ thất bộ phận khác.
Phí bồi thường tổn thất toàn bộ = STBH * Tỷ lệ phí.
Tỷ lệ phí phụ thuộc vào độ tuổi, tầm vóc và trang thiết bị của tàu. Tàu càng già (trên 15 năm), tầm vóc càng lớn, trang thiết bị càng kém hiện đại, ... thì tỷ lệ phí càng cao.
Phí bồi thường tổn thất bộ phận phụ thuộc vào tình trạng bảo dưỡng sửa chữa, vào tuyến đường và phạm vi hoạt động của tàu, vào tình trạng tổn thất các năm trước đó của đội tàu, ....
Phụ phí khác thì phụ thuộc vào chi phí quản lý điều hành, chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, lập quỹ dự phòng, tỷ lệ lạm phát mất giá của đồng tiền, ...
Cũng như các nghiệp vụ khác, phí bảo hiểm vật chất thân tàu phải đóng ngay sau khi hợp đồng có hiệu lực. Nếu tàu ngừng hoạt động liên tục (30 ngày trở lên) sau khi đã đóng phí, bảo hiểm sẽ hoàn lại phí (do tàu ngừng hoạt động). Mỗi nước có quy định riêng về tỷ lệ hoàn phí bảo hiểm cho tàu ngừng hoạt động liên tục (30 ngày trở lên) phù hợp với điều kiện bảo hiểm nước đó.
Số phí hoàn lại = Số phí BH đóng cả năm * Tỷ lệ phí hoàn lại * Số ngày tàu ngừng hoạt động / Số ngày trong năm (365).
2.2.5.2. Tỷ lệ phí bảo hiểm
Tỷ lệ phí bảo hiểm hàng năm áp dụng cho các loại tàu, nhóm tàu do người bảo hiểm tính toán phù hợp với từng điều kiện bảo hiểm trên cơ sở cân đối chung tình hình tổn thất của các đội tàu tham gia bảo hiểm bởi người bảo hiểm. Tỷ lệ phí sẽ thông báo cho người được bảo hiểm vào tuần đầu tháng 12 của năm trước năm bảo hiểm.
Tỷ lệ phí sẽ được điều chỉnh tăng cho các tàu có tỷ lệ bồi thường tổn thất lớn và điều chỉnh giảm cho các tàu, chủ tàu có tỷ lệ bồi thường thấp hoặc không có tổn thất. Tuy vậy về nguyên tắc tỷ lệ phí bảo hiểm sẽ do hai bên thỏa thuận.
2.2.6. Những quy tắc bồi thường trong bảo hiểm thân tàu
2.2.6.1. Quy tắc bồi thường theo rủi ro đầu tiên
Số tiền bồi thường tổn thất của từng đợt: Tổn thất bao nhiêu bồi thường bấy nhiêu nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm hoặc giá trị bảo hiểm nếu số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm. Tổn thất bộ phận các đợt kế tiếp nhau diễn ra trong thời hạn bảo hiểm cộng lại có thể lớn hơn số tiền bảo hiểm. Trong tai nạn đâm va người bảo hiểm ngoài bồi thường tổn thất đâm va cho thân tàu như quy tắc này còn bồi thường trách nhiệm đâm va.
2.2.6.2. Quy tắc áp dụng mức miễn thường
Miễn thường chung áp dụng cho các tổn thất khi xét bồi thường trừ tổn thất toàn bộ và tổn thất bộ phận do 4 rủi ro chính gây ra (theo ITC mức miễn thường là 15% số tiền bảo hiểm cho tổn thất thực tế, không cộng các tổn thất riêng, tổn thất chung, chi phí tố tụng, chi phí cứu nạn, chi phí đề phòng hạn chế một vụ tai nạn để đạt mức miễn thường).
Miễn thường tổn thất gây ra do rủi ro phụ, ẩn tỳ, bất cẩn (ITC quy định là 10% giá trị tổn thất thực tế sau khi đã trừ miễn thường chung). Rủi ro phụ được hiểu là tai nạn trong lúc xếp dỡ, do di chuyển hàng hóa, nhiên liệu, do nổ ngay trên tàu hoặc nơi nào khác. Ẩn tỳ được hiều là những hiện tượng thiết bị nguyên tử hay phản lực của tàu bị hư hỏng như nổ nồi hơi, gãy trục cơ, hỏng ngầm máy móc hoặc vỏ tàu.
Sơ suất lỗi lầm bao gồm sự bất cẩn của thủy thủ đoàn, hoa tiêu, của người sửa chữa trước đó nhưng không phải là người được bảo hiểm hoặc người có cổ phần góp vốn mua hoặc thuê tàu đó.
Việc đề ra mức miễn thường này là ràng buộc trách nhiệm của người được bảo hiểm, phải chăm sóc, bảo quản, sử dụng con tàu hợp lý, mẫn cán hơn để đề phòng hạn chế tổn thất.
Miễn thường khi tàu vi phạm quy định thông báo tổn thất. Khi chủ tàu hoặc người khai thác được cung cấp tin tức về rủi ro tổn thất mà không thông báo ngay cho người bảo hiểm thì mức miễn thường là 15% số tiền tổn thất thực tế được bảo hiểm.
III. TÁI BẢO HIỂM VẬT CHẤT THÂN TÀU
3.1. LÝ DO
Tàu thủy là một phương tiện vận tải có giá trị rất lớn và phạm vi hoạt động rất rộng bởi vậy trong quá trình hoạt động tàu thường gặp nhiều tai nạn rủi ro gây thiệt hại không những cho bản thân con tàu và còn cho cả người khác, làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ tàu, do vậy các nghiệp vụ liên quan đến bảo hiểm tàu thủy ra đời từ rất sớm, trong đó có nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân tàu. Nghiệp vụ bảo hiểm này ra đời tích cực góp phần làm ổn định tài chính, ổn định sản xuất kinh doanh cho các đội tàu và những người đi trên tàu.
Kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh rủi ro thông qua việc xác định phí bảo hiểm đóng trước dựa trên xác suất rủi ro dự tính theo số liệu thống kê quá khứ, tuy nhiên nhà bảo hiểm có thể phải đối mặt với rủi ro của chính mình khi xác suất rủi ro dự tính không đúng với xác suất rủi ro thực tế dẫn đến phí bảo hiểm thu được không đáp ứng khả năng chi trả, bồi thường vì vậy để bảo vệ cho chính mình. Các công ty bảo hiểm đã sử dụng các hình thức phân tán rủi ro, đó là đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm, trong đó có tái bảo hiểm vật chất thân tàu vì trong nghiệp vụ bảo hiểm này mỗi khi có rủi ro xảy ra thiệt hại sẽ là rất lớn. Hình thức này sẽ làm giảm chi phí bồi thường cho công ty bảo hiểm gốc, rủi ro sẽ được phân tán cho các nhà bảo hiểm, đồng thời cũng tạo tâm lý an toàn cho người tham gia bảo hiểm.
3.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁI BẢO HIỂM ÁP DỤNG
Hiện nay thị trường tái bảo hiểm Việt Nam áp dụng cả hai phương pháp tái bảo hiểm như trên:
+ Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (gồm tái bảo hiểm số thành,tái bảo hiểm mức dôi,tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi);
+ Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường (gồm tái bảo hiểm vượt mức bồi thường, tái bảo hiểm vượt quá tỷ lệ bồi thường và tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo tai họa khốc liệt).
Tái bảo hiểm cố định Tái bảo hiểm tạm thời
Số thành Mức dôi Vượt mức bồi thường
Tỷ lệ theo số tiền bảo hiểm Theo số tiền bồi thường
Trên lý thuyết hợp đồng tái bảo hiểm được thực hiện theo hai loại hợp đồng: Hợp đồng cố định và bảo hiểm tạm thời.
Hợp đồng cố định là hợp đồng thực hiện tái và nhận tái bắt buộc theo quy định của nhà nước do đó hợp đồng tái bảo hiểm cố định có khối lượng rất lớn và tương đối ổn định.
Ưu điểm: Đỡ tốn kém về mặt chi phí và thời gian trong việc đánh giá và quản lý hợp đồng, khối lượng hợp đồng tái lớn và tương đối ổn đinh qua các năm.
Nhược điểm: Do bắt buộc phải nhận tất cả các hợp đồng theo cam kết nên đôi khi phải nhận cả những hợp đồng có tính rủi ro rất cao mà không thể từ chối.
Hợp đồng tạm thời là hợp đồng nằm ngoài phạm vi của các hợp đồng cố định, dịch vụ từ những hợp đồng này thường là dịch vụ của những công ty mới thành lập chưa có hợp đồng cố định.
Ưu điểm: Công ty nhận tái có thể từ chối nhận những hợp đồng có tính rủi ro cao.
Nhược điểm: Loại hợp đồng này thường có chi phí rất tốn kém, mất nhiều thời gian trong việc đánh giá và quản lý hợp đồng.
Tuy nhiên trên thực tế hiện nay chỉ tồn tại loại hợp đồng cố định, hợp đồng tạm thời giờ hầu như không có.
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ TÁI BẢO HIỂM VẬT CHẤT THÂN TÀU TẠI VINARE (2000-2006)
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VINARE
Ra đời ngay sau nghị định 100/CP, Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam là doanh nghiệp bảo hiểm đầu tiên được thành lập theo quyết định số 920TC/QĐ/TCCB của Bộ Tài Chính và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 01/01/1995.
Sau hơn 10 năm hoạt động với những thành tích xuất sắc đáng tự hào và vinh dự được nhận huy chương lao động hàng nhì, công ty đã hoàn thành hoạt động dưới mô hình công ty nhà nước và chính thức chuyển đổi hoạt động theo mô hình cổ phần hóa với tên gọi mới Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển mới của công ty trong giai đoạn mới.
Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam được chuyển đổi theo quyết định số 2288/QD-BTC, 2299/QD-BTC và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 01-01-2005 với mức vốn điều lệ là 500 tỷ trong đó nhà nước giữ vai trò chi phối cùng với sự tham gia góp vốn chủ yếu từ các doanh nghiệp bảo hiểm gốc đang có mặt trên thị trường.
Sơ đồ bộ máy tổ chức tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam
Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam được thành lập với những chức năng, nhiệm vụ chính sau:
Kinh doanh nhận và nhượng tái bảo hiểm ở thị trường trong và ngoài nước.
Điều tiết thị trường bảo hiểm trong nước, hạn chế chuyển dịch vụ và ngoại tệ ra nước ngoài.
Là đầu mối cung cấp thông tin thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm trong nước và nước ngoài.
Tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm.
Đầu tư vốn nhàn rỗi.
Cơ chế hoạt động của VINARE là:
TBH mức dôi tại VINARE
(13-14%)
Tái trong nước
(6-7%)
Bảo hiểm gốc (80%)
20% cố định phải tái qua VINARE
Cơ chế hoạt động của Vinare được miêu tả ở hình vẽ trên : Tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm của các công ty bảo hiểm gốc trên thị trường đều phải tái bảo hiểm qua VINARE với tỷ lệ bắt buộc cố định 20%, chỉ được giữ lại 80% của bảo hiểm gốc. 20% VINARE nhận được sẽ ưu tiên phân tán rủi ro cho các công ty bảo hiểm trong nước đến mức tối đa, thường là với tỷ lệ 6-7% trong 20% đã nhận. Số còn lại VINARE sẽ áp dụng phương pháp tái bảo hiểm mức dôi, mức giữ lại khoảng 40-50% của số còn lại đó, phần còn lại sẽ được tái ra nước ngoài. Như vậy với những rủi ro có số tiền bảo hiểm không vượt quá mức giữ lại đó, VINARE sẽ phải bồi thường toàn bộ đối với hợp đồng nhận tái của mình. Qua đây chúng ta thấy được vai trò của VINARE đối với thị trường là chia sẻ dịch vụ để tăng mức giữ lại trong nước, giúp các công ty nhận được dịch vụ mà mình không trực tiếp khai thác được và đặc biệt là phân tán rủi ro cho các công ty khi có tổn thất xảy ra.
II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA VINARE (2000-2006)
2.1. HOẠT ĐỘNG NHẬN VÀ NHƯỢNG TÁI BẢO HIỂM
2.1.1. Hoạt động nhận tái bảo hiểm
Có thể nói, với đặc thù là công ty chuyển nhượng tái do vậy mà những thuận lợi và khó khăn chung của thị trường bảo hiểm trong nước và nước ngoài luôn là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, với sự cố gắng, nỗ lực, phấn đấu của công ty sau hơn 10 năm hoạt động, kết quả đạt được là con số không nhỏ. Sau đây là bảng kết quả kinh doanh nhận tái bảo hiểm của công ty:
Bảng 1: Doanh thu phí nhận tái của VINARE giai đoạn 2000-2006
(đơn vi: Triệu đồng)
Năm
Phí nhận tái bảo hiểm bắt buộc
Phí nhận tái bảo hiểm tự nguyện
Tổng phí nhận tái bảo hiểm
Tổng phí giữ lại
2000
138.259
124.881
263.140
70.500
2001
195.718
222.275
417.993
75.094
2002
253.537
277.348
530.885
86.373
2003
303.536
313.722
617.258
992.96
2004
349.470
363.735
713.205
112.000
2005
399.900
425.800
825.700
143.000
2006
458.594
324.250
782.844
157.000
Tổng
2.098.814
2.052.212
4.151.026
743.663
(Nguồn: VINARE)
Biểu đồ 1: Tỷ lệ phí giữ lại so với phí nhận của VINARE giai đoạn 2000-2006
Nhìn vào biểu đồ cho thấy doanh thu phí nhận tái bảo hiểm của VINARE tăng đểu và ổn định qua các năm ( trừ năm 2006 giảm 5,19% ) với mức tăng trưởng bình quân năm đạt 21,37% , trong đó cao nhất là gần 60% năm 2001.
Tổng doanh thu phí nhận tái của VINARE trong 10 năm hoạt động đã đạt được trên 5.088 tỉ VNĐ trong đó chỉ riêng giai đoạn 2000-2004 doanh thu tăng mạnh đạt được là 2.542 tỉ đồng.
Theo bảng cơ cấu phí, cơ cấu phí nhận có sự thay đổi giữa phí tự nguyện và phí bắt buộc, phí nhận tái bảo hiểm tự nguyện của công ty có tỷ trọng tăng dần trung bình chiếm 49,35% phí nhận tái bảo hiểm giai đoạn 2000-2006. Kết quả đó đạt được là do những nỗ lực của công ty trong việc thu xếp các điều kiện, điều khoản phí, giá phí trong hợp đồng tái tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Đồng thời sự hỗ trợ của công ty cho khách hàng (Công ty bảo hiểm gốc và khách hàng tham gia bảo hiểm) trong các lĩnh vực khai thác, định giá, giải quyết bồi thường, chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ, ... được tiến hành một cách chuyên nghiệp, qua đó tạo được lòng tin, tín nhiệm của khách hàng.
Bên cạnh việc nhận tái từ thị trường trong nước, ngay từ những năm 1996, công ty đã thực hiện kinh doanh nhận tái bảo hiểm từ thị trường nước ngoài với mục đích hỗ trợ nhau trong việc thu xếp tái bảo hiểm, thu hút dịch vụ nước ngoài quảng bá thương hiệu, ... Trong điều kiện mới thành lập, vốn ít và còn những hạn chế nhất định về thông tin, trình độ nghiệp vụ nên việc nhận các dịch vụ của công ty được tiến hành một cách thận trọng trên nguyên tắc an toàn, hiệu quả.
Cũng trên biểu đồ trên cho thấy: tỷ lệ phí giữ lại của công ty tăng đều qua các năm. Cho đến hết năm 2006 tổng phí giữ lại của VINARE đã lên tới hơn 743 tỷ VNĐ trong đó phí giữ lại năm 2006 gấp 7,5 lần phí giữ lại của năm 1995 (20,7 tỷ) tức là 157 tỷ VNĐ. Việc tăng đều đặn của doanh thu phí giữ lại tại VINARE qua các năm là do bản thân công ty đã chủ động tăng mức giữ lại cho từng nghiệp vụ.
2.1.2.Hoạt động nhượng tái bảo hiểm
Do khả năng tài chính còn hạn chế, với số vốn nhỏ nên phần lớn các hợp đồng tái đều được chuyển nhượng. Sau đây là bảng cơ cấu phí chuyển nhượng tái của VINARE:
Bảng 2: Tình hình chuyển nhượng phí tái bảo hiểm của VINARE
( Đơn vị: Triệu đồng )
Năm
Phí nhượng tái bảo hiểm trong nước
Phí nhượng tái bảo hiểm nước ngoài
Tổng phí nhượng tái bảo hiểm
2000
36.600
153.130
189.730
2001
57.310
285.480
342.790
2002
70.460
374.300
444.780
2003
97.630
420.330
517.960
2004
129.240
473.880
603.120
2005
152.900
529.800
682.700
2006
198.800
427.044
625.844
Tổng
742.940
2.663.964
3.406.904
( Nguồn: VINARE )
Với chức năng ban đầu được giao khi mới thành lập là thực hiện vai trò điều tiết thị trường bảo hiểm, nâng cao phần dịch vụ giữ lại cho thị trường, hạn chế tái bảo hiểm bằng ngoại tệ ra thị trường nước ngoài, do vậy ngay từ khi bắt đầu thành lập, công ty đã cố gắng bằng mọi cách cải tiến thu xếp các hợp đồng chuyển nhượng tái cho thị trường trong nước với các điều kiện, điều khoản ưu đãi hơn chuyển nhượng dịch vụ ra nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể chia sẻ dịch vụ.
Bảng số liệu trên cho thấy tổng phí chuyển nhượng cho thị trường trong nước từ VINARE giai đoạn 2000-2006 đạt 742,94 tỷ đồng chiếm trung bình 21,8% tổng phí nhượng tái. Bên cạnh đó ta có thể thấy sự thay đổi trong cơ cấu chuyển nhượng tái giữa nhượng tái trong nước và nhượng tái nước ngoài: tỷ trọng phí nhượng tái trong nước có xu hướng tăng lên đồng nghĩa với việc giảm tỷ trọng của phí nhượng tái ra nước ngoài. Nếu như năm 1995-1998 tỷ lệ phí nhượng ra nước ngoài chiếm tỷ trọng cao khoảng 90% phí nhận tái thì cho đến giai đoạn 2000-2006 tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 78,2%. Đây là điều đáng mừng cho thị trường bảo hiểm Việt Nam bởi việc giảm phí chuyển nhượng tái ra nước ngoài đồng nghĩa với việc nâng mức giữ lại của thị trường trong nước.
2.2. CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁC
2.2.1 Hoạt động đầu mối cung cấp thông tin ._.ả các nghiệp vụ của tổng công ty, nó thể hiện sự phụ thuộc rất lớn vào quy định về tái bảo hiểm bắt buộc do Bộ Tài Chính ban hành.
Mặc dù đã rất cố gắng song tình hình kết quả kinh doanh của nghiệp vụ nói chung là đều bị lỗ, thậm chí có những năm kết quả kinh doanh là rất xấu. Kết quả kinh doanh thường không ổn định , khó dự đoán do chịu ảnh hưởng rất lớn từ tình hình tổn thất và phương án nhượng tái.
Hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin, các điều khoản, điều kiện phục vụ tái bảo hiểm chưa tiêu chuẩn hóa và đồng bộ do vậy có những khó khăn nhất định trong việc thực hiện hợp đồng.
Do hạn chế về thông tin, thời gian cũng như kiến thức thực tế nên việc phân tích tình hình triển khai hoạt động tái bảo hiểm vật chất thân tàu tại VINARE giai đoạn 2000-2006 vẫn chỉ dừng lại trong phạm vi hẹp, mang tính trực quan. Tuy nhiên có thể khẳng định rằng với tiềm năng và những nỗ lực không ngừng của các cán bộ nghiệp vụ, tái bảo hiểm vật chất thân tàu sẽ đạt được các kết quả tích cực hơn trong tương lai và sẽ là một trong những nghiệp vụ dẫn đầu trong hoạt động kinh doanh của tổng công ty.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẲM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NGHIỆP VỤ TÁI BẢO HIỂM VẬT CHẤT THÂN TÀU TẠI VINARE
I. MỤC TIÊU CỦA VINARE TRONG THỜI GIAN TỚI
Đứng trước những thách thức trong quá trình hội nhập,VINARE đã xác định riêng cho mình mục tiêu chiến lược và những mục tiêu trước mắt. Cụ thể như sau:
- Mục tiêu chiến lược: Xây dựng công ty tái bảo hiểm Việt Nam thành tổng công ty cổ phần đứng đầu tái bảo hiểm trong nước và khu vực. Trung tâm điều tiết dịch vụ bảo hiểm của thị trường bảo hiểm Việt Nam,nhà đầu tư tài chính đa ngành, đa lĩnh vực.
- Những mục tiêu đến năm 2010 của VINARE:
+ Thực hiện tổ chức bộ máy theo mô hình tổ chức hiện đại, gọn nhẹ, hiệu quả.
+ Hệ thống công nghệ thông tin hiện đại.
+ Tiềm năng tài chính đủ mạnh, đảm bảo khả năng thanh toán, đủ sức đảm nhận vai trò đứng đầu nhận tái bảo hiểm trong nước và khu vực.
+ Đẩy mạnh hoạt động đầu tư tài chính. Ưu tiên hoạt động góp vốn vào các công ty bảo hiểm mới thành lập.
+ Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ theo phương châm “ Giỏi chuyên môn tái bảo hiểm - am hiểu chuyên môn gốc – tôn chỉ hành động: “Sự thành đạt của doanh nghiệp là sự thành đạt của người lao động”.
+ Phấn đấu vào năm 2010 tổng doanh thu nhận tái đạt 1.721 tỷ VNĐ.
+ Phí giữ lại trên tài sản thuần năm 2010 là 57%
+ Kết dư dự phòng nghiệp vụ 500 tỷ VNĐ
+ Phí giữ lại thị trường thông qua hoạt động của VINARE giai đoạn 2007-2010 đạt 2500 tỷ VNĐ.
+ Tổng thu nộp ngân sách giai đoạn 2007 – 2010 trên 300 tỷ VNĐ.
+ Vốn điều lệ thực góp năm 2010 đạt tối thiểu 500 tỷ VNĐ.
+ Tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế bình quân năm 2010 là 1000 tỷ VNĐ.
Bảng kế hoạch lợi nhuận và cổ tức năm 2008 – 2009
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2009
KH
(%) tăng so với 2007
KH
(%) tăng so với 2008
Vốn điều lệ
750
0%
750
0%
Doanh thu thuần
452,2
49,63%
524,4
15.96%
Lợi nhuận sau thuế
120,2
45,84%
121,1
0.74%
LN sau thuế / doanh thu thuần
26,58%
23,09%
LN sau thuế / Vốn điều lệ
16,02%
16,14%
Cổ tức tính trên mệnh giá (%)
13%
13%
Ghi chú: QI/2008 Tổng công ty được giảm 50% thuế TNDN.
- Kế hoạch của phòng tái bảo hiểm hàng hải:
+ Tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng phí nhận tái bảo hiểm, cụ thể năm 2008 doanh thu phí nhận tái đạt 150 tỷ VNĐ.
+ Tăng mức giữ lại nghiệp vụ, dự kiến của phòng tái bảo hiểm hàng hải trong thời gian tới sẽ nâng mức giữ lại từ 1 triệu $ lên 1 triệu $ cho các thiệt hại vật chất và từ 1 triệu $ lên 1,5 triệu cho các thiệt hại vật chất kèm gián đoạn kinh doanh.
II. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ TÁI BẢO HIỂM VẬT CHẤT THÂN TÀU TẠI VINARE TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1. CƠ HỘI
2.1.1. Từ thị trường bảo hiểm
Theo đà chuyển biến tích cực của nền kinh tế với sự tăng trưởng cao và ổn định (trên 8,4%) tạo tiền đề cho thị trường bảo hiểm Việt Nam có thể duy trì tốc độ tăng trưởng mạnh. Bên cạnh đó với chính sách đẩu tư trong và nước ngoài đã tạo ra được một lượng tích lũy đáng kể về tài sản. Đầu tư hàng năm của ngân sách trên 200.000 tỷ đồng, đầu tư nước ngoài, hoạt động đầu tư ồ ạt của khu vực kinh tế tư nhân diễn ra trong nước những năm gần đây cho thấy những cơ hội rất lớn cho ngành bảo hiểm, tái bảo hiểm nói chung và cho bảo hiểm vật chất thân tàu nói riêng.
Những nỗ lực không ngừng của các công ty bảo hiểm gốc trong nước như mở rộng thị trường, mở rộng đối tượng khách hàng, những thay đổi trong điều kiện, điều khoản của hợp đồng bảo hiểm vật chất thân tàu nhằm mục đích thu hút khách hàng bảo hiểm cho ta những dự đoán sự ra tăng khối lượng dịch vụ trong thời gian tới.
Ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam phát triển một cách đồng đều trên tất cả các lĩnh vực, bao gồm đóng mới tàu, sửa chữa tàu, công nghiệp phụ trợ và vận tải hàng hải. Điều này sẽ tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm tăng trưởng trên nhiều lĩnh vực từ bảo hiểm rủi ro của người đóng tàu, bảo hiểm trách nhiệm chủ xưởng sửa chữa tàu, bảo hiểm xây dựng lắp đặt đến bảo hiểm tàu biển hoạt động... Nhìn chung, sự phát triển này sẽ đảm bảo duy trì mức độ tăng trưởng của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải cao hơn so với mức tăng trưởng chung của thị trường bảo hiểm, ước khoảng 20% mỗi năm.
Chế độ bảo hiểm bắt buộc được thực thi là một điều kiện rất thuận lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ thực hiện khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân tàu.
Chính sách “mở cửa” của Đảng và nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài có cơ hội tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam mang lại sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng thúc đẩy thị trường bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân tàu nói riêng.
2.1.2. Từ phía tổng công ty
Có thể nói, trong năm 2004 việc triển khai và hoàn tất kế hoạch chuyển đồi từ doanh nghiệp nhà nước thành tổng công ty cổ phần đã mang lại bước đột phá mới trong hoạt động của doanh nghiệp. Cụ thể như sau:
Từ 40 tỷ VNĐ cho đến thời điểm này vốn điều lệ của VINARE lên tới 343 tỷ đồng (lên 500 tỷ VNĐ trong năm 2010). Có thể nói giải pháp cổ phần hóa là bước đi đúng đắn và thiết thực, đáp ứng những đòi hỏi khách quan trước những bất cập về khả năng cạnh tranh và sức ép của quá trình hội nhập. Việc tăng thêm vốn đồng nghĩa tăng khả năng giữ lại của doanh nghiệp, qua đó củng cố, tạo tiền đề để tổng công ty giữ vai trò nhà đứng đầu tái bảo hiểm trong nước và khu vực. Đồng thời tăng cường vai trò điều tiết dịch vụ cho thị trường trong nước.
Bản thỏa thuận nhượng tái bảo hiểm cho VINARE theo tỷ lệ tối thiểu 20% trên những dịch vụ có tái của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ tham gia góp vốn (bao gồm 13 doanh nghiệp) là điều kiện vô cùng thuận lợi bởi nó là giải pháp cho tổng công ty khi hiệp định Thương Mại Việt Mỹ có hiệu lực vào năm 2010 thực thi xóa bỏ chế độ tái bảo hiểm bắt buộc.
Mô hình hoạt động mới tạo ra bước đột phá trong phương thức điều hành và quản lý, việc phối hợp xử lý công việc giữa các phòng ban trong công ty ngày càng chặt chẽ, tinh thần đoàn kết nội bộ ngày càng cao, với đội ngũ cán bộ nhân viên nghiệp vụ đang trong quá trình trưởng thành tích lũy được nhiều kinh nghiệm khai thác và quản lý đồng thời được sự giúp đỡ và ủng hộ của các tổ chức tái bảo hiểm quốc tế và các công ty bảo hiểm trong nước giúp VINARE có bước đi dài trong quá trình hội nhập.
2.2. THÁCH THỨC
Xuất phát từ những tồn tại của nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu là tình trạng cạnh tranh hạ phí đã, đang và sẽ diễn ra theo chiều hướng xấu và phức tạp nên sẽ gây không ít những khó khăn và trở ngại cho VINARE trong việc thu xếp tái bảo hiểm trong thời gian tới.
Tình hình thị trường tái bảo hiểm quốc tế diễn biến hết sức phức tạp, diễn biến với chiều hướng xấu gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu ở VINARE. Nếu như 6 tháng đầu năm 2004 tổn thất thiên tai chỉ khoảng 2,69 tỷ $ (đây là kết quả thấp nhất trong vòng một thập kỷ qua) nhưng đến 6 tháng cuối năm 2004 các cơn bão Charley, Frances, Ivan ở Mỹ và Songda, Chaba tại Nhật, đặc biệt là trận động đất và sóng thần xảy ra ngày 26-12-2004 đã tàn phá nặng nề ở các khu vực Đông Nam Á và Nam Á đã gây ra những thiệt hại nặng nề cho thị trường bảo hiểm tài sản quốc tế. Có thể nói năm 2004 đã trở thành năm thiệt hại kỷ lục của ngành bảo hiểm tài sản khi các thiên tai liên tiếp xảy ra với tổn thất mà các nhà bảo hiểm và tái bảo hiểm phải trả là khoảng 40 tỷ $.
Tỷ lệ bồi thường trong giai đoạn 2000-2006 là rất cao, trung bình 130% / năm, do đó những tổn thất xấu trên thị trường trong nước và nước ngoài như đã nói ở trên, cùng với tình hình cạnh tranh giảm phí nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân tàu vẫn tiếp tục diễn ra khiến cách nhìn của các nhà nhận tái cân nhắc thận trọng hơn khi xem xét các dịch vụ nhận từ thị trường Việt Nam.
Xu hướng tăng hoa hồng nhận tái bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân tàu nói riêng gây ra những khó khăn nhất định cho VINARE trong thời gian tới. Do vậy điều chỉnh mức hoa hồng như thế nào là một công việc cần phải tính toán nhằm mục đích thu hút được nhiều khách hàng song vẫn phải đảm bảo kết quả kinh doanh của nghiệp vụ.
Xuất phát từ những tồn tại của cơ sở vật chất còn yếu kém, hệ thống quản trị rủi ro chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong việc ngăn ngừa cũng như giảm thiểu rủi ro. Công tác quản lý rủi ro chưa thực sự mang lại hiệu quả, chưa chú trọng một cách đúng mực và thường xuyên. Do vậy nguy cơ tổn thất về rủi ro là rất lớn.
Hệ thống số liệu thống kê phục vụ cho công tác tính phí nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân tàu vẫn chưa hoàn thiện, đặc biệt là với những tàu già, mặc dù đây là nghiệp vụ đã triển khai được khá lâu song cho đến nay biểu phí của nghiệp vụ vẫn dựa vào số liệu thống kê từ thị trường bảo hiểm vật chất thân tàu nước ngoài như Anh, Trung Quốc, .... do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của nghiệp vụ.
Mặc dù có nhiều điều chỉnh và sửa đổi song cho đến thời điểm này khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm vẫn thực sự chưa đồng bộ, còn nhiều vấn đề cần giải quyết do vậy hoạt động kinh doanh của tổng công ty chịu không ít những ảnh hưởng.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KẾT QUẢ NGHIỆP VỤ TÁI BẢO HIỂM VẬT CHẤT THÂN TÀU TẠI VINARE
3.1. ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC
Thứ nhất: Hoàn thiện cơ chế chính sách, củng cố hệ thống pháp luật, tạo môi trường kinh doanh ổn định và lành mạnh.
Có thể nói, Luật kinh doanh bảo hiểm cùng với các văn bản hướng dẫn khác được ban hành tạo ra khuôn khổ pháp lý tương đối đủ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Song cho đến nay, trong quá trình quản lý và hoạt động nhiều vấn để bất cập đã nảy sinh. Cụ thể:
Sự thiếu đồng bộ, chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật.
Hệ thống pháp luật còn thiếu. nhiều vấn đề cấp bách chưa được thể chế hóa hoặc không phù hợp như các quy định về xử phạt hành chính, quy định về chỉ tiêu giám sát hoạt động của các doanh nghiệp, ... dẫn tới việc các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện một cách không đồng bộ và thống nhất.
Từ những hạn chế trên một yêu cầu đặt ra là các cơ quan ban hành pháp luật và quản lý nhà nước về bảo hiểm cần phối hợp chặt chẽ để đưa ra một số văn bản cần thiết trong thời gian sớm nhất nhằm ổn định, thống nhất và lành mạnh hóa thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và bảo hiểm vật chất thân tàu nói riêng.
Thứ hai: Thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm
Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu cho sự phát triển chung về kinh tế và xã hội. Bởi như chúng ta đã biết trong bất cứ ngành nghề nào, hội nhập quốc tế cũng thúc đẩy sự phát triển của thị trường thông qua sự cạnh tranh mang tính lành mạnh. Do vậy, để tiếp tục đẩy mạnh công tác hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm, Nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau đây:
Tiếp tục mở cửa thị trường bảo hiểm phù hợp với tiến trình hội nhập, từng bước nới lỏng các điều kiện ra nhập thị trường và mở rộng phạm vi hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài trên các phương diện: Cho phép các ngân hàng, công ty tài chính thành lập các công ty liên doanh với các đối tác nước ngoài tại Việt Nam, mở rộng phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài về đối tượng khách hàng, nghiệp vụ và địa bàn, giảm dần và đi tới xóa bỏ các giới hạn về tỷ lệ đầu tư, góp vốn,...
Giảm dần sự bảo hộ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, tiến tới xây dựng môi trường pháp luật bảo đảm tính minh bạch, bình đẳng giữa mọi thành phần doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Tăng cường hợp tác quốc tế và liên kết trong khuôn khổ song phương và đa phương, đôi bên cùng có lợi dưới nhiều hình thức trao đổi thông tin, kinh nghiệm, trợ giúp kỹ thuật giữa các cơ quan bảo hiểm, tái bảo hiểm, hiệp hội bảo hiểm các nước, ...
Thứ ba: Đổi mới công tác quản lý, tăng cường kiểm tra các hoạt động của các doanh nghiệp.
Như chúng ta đã biết, quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm chưa theo kịp sự phát triển của thị trường. Phương thức kiểm tra, giám sát còn nặng về hành chính, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhà nước. Hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá rủi ro về vốn, về hoạt động tài chính, kinh doanh của doanh nghiệp còn thiếu. Kỹ thuật công nghệ lạc hậu, chưa có hệ thống phần mềm quản lý và nối mạng với các doanh nghiệp để phục vụ quản lý được kịp thời. Đội ngũ cán bộ quản lý còn yếu kém so với yêu cầu. Do vậy Nhà nước cần đổi mới phương thức quản lý:
Tăng quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp trong các hoạt động điều hành và thực hiện các quy định của pháp luật.
Đơn giản hóa thủ tục hành chính như các vấn đề thay đổi vốn, nội dung và phạm vi hoạt động, bầu cử, bãi miễn giám đốc, ... song vẫn phải đảm bảo tính minh bạch và chính xác.
Bên cạnh việc tăng tính chủ động cho mỗi doanh nghiệp thì các hoạt động thanh tra, kiểm tra vẫn phải được tiến hành một cách thường xuyên, cụ thể như:
+ Thanh tra định kỳ, đột xuất trên hồ sơ và thanh tra tại hiện trường của doanh nghiệp bảo hiểm, phân tích đánh giá hệ thống quản lý và giám sát của các doanh nghiệp để từ đó có thể ngăn ngừa, hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật.
+ Giám sát và kiểm tra các hoạt động của doanh nghiệp trong hoạt động cung cấp thông tin cho khách hàng, bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho khách hàng.
+ Đánh giá các chỉ tiêu tài chính của các doanh nghiệp một cách thường xuyên để kịp thời có thể phát hiện tình hình mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Thứ tư: Nghiên cứu một biểu phí bảo hiểm vật chất thân tàu một cách cụ thể, rõ ràng.
Có thể nói, trong lĩnh vực bảo hiểm phí nhân thọ trong đó nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân tàu là một trong những ví dụ điển hình biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh vẫn còn tồn tại và đang diễn ra theo chiều hướng xấu. Cạnh tranh vẫn tập trung vào việc hạ phí bảo hiểm, tăng hoa hồng bảo hiểm, đôi khi còn dùng các áp lực hành chính để giành dịch vụ, mà chưa quan tâm đến công tác đánh giá rủi ro, đề phòng và hạn chế tổn thất, giám định, bồi thường kịp thời và đầy đủ cho khách hàng. Sở dĩ có hiện tượng trên là do ta chưa có biểu phí rõ ràng và chế tài xử phạt nào được ban hành. Do vậy nghiên cứu một hệ thống biểu phí phù hợp là một vấn đề cấp thiết đối với thị trường bảo hiểm vật chất thân tàu Việt Nam, việc đưa ra mức phí hợp lý, đảm bảo hoạt động kinh doanh có hiệu quả sẽ thu hút được khách hàng. Rủi ro trong bảo hiểm thân tàu phụ thuộc rất nhiều vào tình hình thời tiết nên khi xác định phí bảo hiểm, phải lưu ý đến tính mùa vụ, vào những thời điểm thiên nhiên có những biến động lớn thì mức độ rủi ro cũng tăng theo, tổn thất xảy ra thường xuyên hơn, nên phí bảo hiểm phải cao hơn. Ở đây khi xây dựng biểu phí bên cạnh mức giá trần và giá sàn cho từng loại rủi ro ta cần phải tính đến yếu tố thời gian, tính phù hợp của nó trong tương lai, tránh tình trạng khi xây dựng xong thì các văn bản pháp luật không có tính khả thi. Bên cạnh đó phải ban hành biểu thuế phù hợp với nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu để tạo ra thị trường toàn diện và đầy đủ.
Thứ năm: Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
Để nâng cao và thực hiện tốt vai trò là cầu nối và đại diện cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước trước cơ quan quản lý nhà nước và công chúng, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Mở rộng phạm vi hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm về phạm vi đào tạo, trao đổi thông tin, hợp tác kinh doanh, đánh giá rủi ro, tính phí bảo hiểm, đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm, đề phòng rủi ro, hạn chế tổn thất.
Xem xét, sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm, các công ty môi giới tham gia Hiệp hội, gắn quyền lợi và trách nhiệm của các doanh nghiệp với Hiệp hội.
Củng cố tổ chức bộ máy lãnh đạo và các ban chuyên ngành của Hiệp hội. Xây dựng cơ chế tiền lương, tiền thưởng cho các cán bộ của Hiệp hội, tạo động lực cho các cán bộ lao động cống hiến cho ngành bảo hiểm.
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm và Hiệp hội để kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các thỏa thuận giữa các hội viên, xử lý kịp thời các trường hợp không tuân thủ quy chế hợp tác và các hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
3.2. ĐỐI VỚI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN TÁI BẢO HIỂM QUỐC GIA VIỆT NAM
Trên cơ sở những thuận lợi, thách thức và những mục tiêu đặt ra, VINARE cần phải xác định cho mình những bước đi thích hợp trong từng giai đoạn nhất định nhằm có thể tận dụng tối đa những cơ hội và hạn chế bớt những thách thức do môi trường khách quan đem lại. Cụ thể, tổng công ty cần tiến hành các giải pháp sau:
3.2.1. Hoàn thiện các sản phẩm bảo hiểm
Tổng công ty cần nghiên cứu và có phương án chuẩn hóa cho từng nghiệp vụ bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu nói riêng đảm bảo hiệu quả, hấp dẫn, cạnh tranh và an toàn cho doanh nghiệp bảo hiểm gốc thông qua các giải pháp cụ thể sau:
a. Tăng tỷ lệ hoa hồng
Có thể nói một thực tế hiện nay không chỉ ở riêng nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu mà còn ở các nghiệp vụ tái khác là tỷ lệ hoa hồng nhượng tái mà VINARE trả cho các công ty bảo hiểm gốc trong nước khi tái dịch vụ thường thấp hơn so với các công ty tái bảo hiểm nước ngoài ít nhất là 5%, điều này là nguyên nhân chính dẫn tới việc giảm tỷ trọng phí tự nguyện nhận trong cơ cấu phí trong những năm gần đây. Như vậy, để tăng cường tính cạnh tranh trong thời gian tới, đặc biệt khi thực hiện xóa bỏ quy định tái bảo hiểm bắt buộc, VINARE cần phải đưa ra tỷ lệ hoa hồng mang tính cạnh tranh cao hơn, tăng hoa hồng cho các công ty bảo hiểm tái nhiều và ổn định.
Mặt khác, tăng tỷ lệ hoa hồng cũng giúp tổng công ty tạo dựng hình ảnh, uy tín, mối quan hệ lâu dài với các công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài.
Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay tăng tỷ lệ hoa hồng lên bao nhiêu cần phải tính toán một cách kỹ lưỡng và có sự thống nhất chung của ban lãnh đạo nhằm đảm bảo kết quả kinh doanh của nghiệp vụ.
b. Tăng mức giữ lại, bổ sung và hoàn thiện các điều kiện, điều khoản, phạm vi bảo hiểm một cách thích hợp
Đây là công việc cần thiết nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả nghiệp vụ. Như chúng ta đã biết, vốn điều lệ tăng lên là một trong những điều kiện vô cùng thuận lợi của VINARE. Bên cạnh đó tổng công ty cần phải xem xét lại các phương án tái cũng như phạm vi bảo hiểm, các điều khoản, điều kiện trong hợp đồng một cách thích hợp nhằm đem lại hiệu quả nghiệp vụ cao nhất.
3.2.2. Phát triển dịch vụ khách hàng và chính sách khách hàng
Xây dựng chính sách khách hàng một cách hợp lý là một trong những mục tiêu chiến lược hàng đầu của VINARE nhằm mục đích thu hút lượng dịch vụ từ phía công ty bảo hiểm gốc. Do vậy, để đạt được mục tiêu trên, tổng công ty cần phải thực hiện các biện pháp sau:
Với tư cách là công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp duy nhất trên thị trường Việt Nam, do vậy VINARE cần phải xác định các dịch vụ trọng điểm, phức tạp để tiến hành tư vấn cho khách hàng từ khâu xác định rủi ro, đánh giá rủi ro, phạm vi bảo hiểm, phí bảo hiểm, các điều kiện, điều khoản, ... trước khi thực hiện các hợp đồng bảo hiểm. Bên cạnh đó, VINARE cần phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm gốc để tham mưu, tư vấn, hỗ trợ các vấn đề về kỹ thuật nghiệp vụ, công tác đề phòng hạn chế tổn thất, thu thập các thông tin về đội tàu nhằm giảm thiểu tối đa nguy cơ rủi ro vật chất thân tàu có thể xảy ra.
Phối hợp chặt chẽ với công ty bảo hiểm gốc nhằm giải quyết nhanh, bồi thường mau chóng, chính xác cho các khách hàng bảo hiểm để giúp họ khắc phục hậu quả, ổn định kinh doanh. Có thể nói, đây là khâu rất quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, bởi cũng như nghiệp vụ bảo hiểm gốc, khâu giải quyết bồi thường thể hiện được niềm tin của khách hàng đối với các công ty bảo hiểm. Vì vậy để hỗ trợ các công ty chi trả bồi thường được nhanh chóng, VINARE có thể tăng phí tạm giữ cho các công ty bảo hiểm gốc, nhanh chóng xem xét các thủ tục bồi thường.
Thường xuyên tổ chức hoặc phối hợp với các công ty bảo hiểm trong nước tổ chức đào tạo hoặc đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ nghiệp vụ thông qua các hình thức như tham gia các khóa học, hội thảo trong nước và nước ngoài. Trong tương lai, VINARE cần tập trung hơn nữa cho công tác này bởi những yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ không chỉ dừng lại trong phạm vi trong nước, mà còn tiến xa hơn trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Thành lập phòng tư vấn và nghiên cứu sản phẩm mới. Đây là bước đi chiến lược trong giai đoạn mới của tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam với một bộ phận chuyên sâu, am hiểu thị trường và có những chiến lược Marketting phù hợp trong từng giai đoạn, tổng công ty có thể khai thác được tối đa khả năng của thị trường.
Tiếp tục và nâng cao việc tổng hợp và cung cấp thông tin thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm trong nước và quốc tế cả về số lượng và chất lượng. Qua đó, giúp cho các tổ chức bảo hiểm có một cái nhìn khái quát hơn về tình hình bảo hiểm trên thị trường, từ đó có những kế hoạch phát triển phù hợp nhằm mở rộng thị phần doanh nghiệp của mình.
3.2.3. Thực hiện chính sách mở rộng thị trường nhận tái bảo hiểm
Với mục tiêu chiến lược là xây dựng VINARE trở thành tổng công ty cổ phần đứng đầu tái bảo hiểm trong nước và khu vực, do vậy mở rộng thị trường là một giải pháp đúng đắn và cần thiết. Trong giai đoạn trước mắt VINARE cần làm những việc sau:
Tìm kiếm những giải pháp chiếm lĩnh thị trường tái bảo hiểm trong nước.
Chú trọng hợp tác khu vực đặc biệt trong khu vực Đông Nam Á.
Xem xét khả năng mở văn phòng đại diện, chi nhánh ở nước ngoài.
Nghiên cứu khảo sát thị trường quốc tế, tăng cường khả năng xâm nhập, đa dạng hóa các mối quan hệ kinh doanh bằng cách trao đổi dịch vụ với các công ty nhận tái bảo hiểm nước ngoài trong điều kiện tổng công ty vẫn có nguồn nhận tái bảo hiểm bắt buộc trong nước.
3.2.4. Tiếp tục tăng thêm nguồn vốn kinh doanh
Như chúng ta đã biết, vốn thể hiện năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đối với các nhà tái bảo hiểm khác. Cho đến giai đoạn này như đã phân tích trong phần thuận lợi vốn điều lệ của VINARE đã lên tới 334 tỷ đồng. Tuy nhiên một vấn đề đặt ra khi xây dựng đề án cổ phần hóa là việc xác định mức vốn huy động hợp lý, phù hợp trong từng thời kỳ nhằm tối ưu hóa khả năng nhận dịch vụ, khả năng giữ lại và khả năng điều tiết cho thị trường trong nước, do vậy trong giai đoạn tới VINARE cần phải tiếp tục thực hiện các biện pháp nhằm tăng mức vốn của mình, phấn đấu đến năm 2010 đạt 500 tỷ VNĐ. Các biện pháp cụ thể như sau:
Thực hiện niêm yết cổ phiếu trên sở giao dịch chứng khoán. Như chúng ta đã biết, cho đến nay thị trường chứng khoán là nơi huy động vốn từ dân chúng và các tổ chức có hiệu quả nhất, hiện nay cổ phiếu của VINARE đã có mặt trên sàn giao dịch, do vậy trong tương lai VINARE cần phải phát hành thêm nhiều cổ phiếu hơn nữa, đồng thời phải có những chiến lược kinh doanh hiệu quả để các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn.
Huy động vốn bằng cách liên doanh, liên kết với các ngân hàng. Mô hình này chúng ta đã thấy nhiều ở các nước phát triển, các hãng bảo hiểm thường kết hợp với các ngân hàng hay các tổ chức tín dụng lớn để kinh doanh bảo hiểm. Điều này cho phép công ty có thể tận dụng tối đa lợi thế về vốn của ngân hàng và ngân hàng cũng có thể sử dụng hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi của bảo hiểm để đầu tư.
Tích lũy dần các lợi tức trong quá trình kinh doanh bảo hiểm, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi.
Thực hiện hiệu quả các hoạt động đầu tư. Cụ thể như sau:
Tiến hành mở rộng và đẩy mạnh hoạt động đầu tư tài chính trong nhiều lĩnh vực khác nhau, song phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, hiệu quả.
Tiếp tục chủ động tham gia góp vốn vào các doanh nghiệp cổ phần trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, củng cố liên doanh với công ty bảo hiểm Samsung_Vina và các công ty đã tham gia góp vốn.
Phòng đầu tư phải nghiên cứu và tìm kiếm các lĩnh vực đầu tư mang lại hiệu quả cao.
3.2.5. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên
Như chúng ta đã biết, hoạt động tái bảo hiểm là hoạt động mang tính chất quốc tế cao do vậy để phát triển nghiệp vụ VINARE cần phải có những cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, đáp ứng được những chuẩn mực quốc tế. Một trong những đặc điểm thuận lợi như đã phân tích ở trên là phần lớn cán bộ nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu đều là những người trẻ, do vậy đây sẽ là đội ngũ cán bộ chính trong tương lai. Với mục đích chuẩn hóa đội ngũ cán bộ theo phương châm “Giỏi chuyên môn tái bảo hiểm -Am hiểu chuyên môn gốc”. Sự thành đạt của doanh nghiệp là sự thành đạt của bản thân, VINARE cần:
Xây dựng kế hoạch đào tạo cho những cán bộ mới được tuyển dụng.
Thực hiện đào tạo, nâng cao trình độ cho các cán bộ nghiệp vụ của cả tổng công ty nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân tàu nói riêng thông qua các hình thức hội thảo, hội nghị ....
Chú trọng giúp đỡ các tài năng trẻ, thành lập ngân sách đào tạo, cử những cán bộ ưu tú đi học tập và làm việc ở những nước có ngành bảo hiểm phát triển.
Bên cạnh đó, ta cần có những chính sách thu hút nhân tài bằng những chính sách ưu đãi về lương, môi trường làm việc, cơ hội thăng tiến, ...
3.2.6. Nâng cấp và hiện đại hóa hệ thống thông tin
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, vai trò của công nghệ thông tin hết sức quan trọng. Trong kinh doanh bảo hiểm ngày nay, không thể không nói đến vai trò quan trọng của hệ thống thông tin. Như chúng ta đã biết, với sự xuất hiện của máy tính một phần lớn các giao dịch bảo hiểm đã được thực hiện, cùng với nó là công tác tính phí, công tác quản lý hợp đồng, công tác xử lý thông tin được thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác.
Ngay từ khi mới thành lập, VINARE đã được trang bị hệ thống máy tính, nhờ vậy khối lượng công việc được giảm đáng kể, chất lượng, hiệu quả công việc cao.
Song cho đến nay, hệ thống máy tính đó đã cũ, và do chưa có chính sách cải tiến hợp lý nên đến nay hệ thống thông tin chậm được cải thiện. Trong thời gian tới, để nâng cao hơn nữa chất lượng của công việc, tổng công ty nên đẩu tư cải tiến hệ thống thông tin, cụ thể:
Đầu tư, nâng cấp hệ thống máy tính: thay thế các máy tính đã cũ bằng các máy mới có chất lượng đảm bảo. Tăng tốc độ xử lý dữ liệu của máy tính nhằm tăng hiệu quả trong việc thực hiện quá trình triển khai nghiệp vụ.
Tìm kiếm các chương trình phần mềm mới, đơn giản, dễ sử dụng mang lại hiệu quả xử lý công việc cao.
Xây dựng thêm các trang web điện tử để cập nhật đa dạng các thông tin của doanh nghiệp, của thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm trong nước và nước ngoài.
Xây dựng hệ thống mạng thông tin nội bộ nhằm mục đích trao đổi thông tin và quản lý.
3.2.7. Xây dựng thương hiệu VINARE
Ngày nay như chúng ta đã biết, xây dựng một thương hiệu luôn là nhiệm vụ sống còn của mỗi doanh nghiệp bởi một thương hiệu mạnh thể hiện một hình ảnh, uy tín, chất lượng của công ty. Do vậy trong thời gian tới, với mục đích chiến lược là xây dựng một công ty cổ phần đứng đầu về tái bảo hiểm trơng nước và trong khu vực, VINARE cần quảng bá thương hiệu của mình một cách rộng khắp không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nước ngoài thông qua các hoạt động quảng cáo, PR trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng, ... xây dựng hình ảnh một tổng công ty với tiềm lực tài chính vững mạnh, đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, hiện đại, có trách nhiệm cao.
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định song song với sự phát triển của thị trường bảo hiểm vật chất thân tàu, nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu tại VINARE đã có những bước đi dài đáng khích lệ. Mặc dù còn nhiều tồn tại và khó khăn cần vượt qua song trong tương lai không xa chúng ta có thể hi vọng rằng cùng với sự cố gắng, nỗ lực không ngừng, nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu sẽ trở thành một trong các nghiệp vụ có bước phát triển mạnh mẽ nhất.
Với thời gian cho phép cùng với sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ Phòng Tái bảo hiểm Hàng hải và thầy giáo PGS-TS Nguyễn Văn Định, em đã cố gắng trình bày những nét cơ bản nhất về khía cạnh chuyên môn kỹ thuật cũng như việc triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu trong thực tế của VINARE giai đoạn 2000-2006.
Mặc dù luận văn đã hoàn thành nhưng do thời gian và kinh nghiệm thực tiễn về bảo hiểm còn hạn chế, do đó không thiếu khỏi những thiếu xót. Em kính mong được sự góp ý của các thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các cán bộ Phòng Tái bảo hiểm Hàng hải, Tổng công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam và thầy giáo PGS-TS Nguyễn Văn Định đã tận tình chỉ bảo và góp ý cho em tìm hiểu và hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn !!!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
www.vinare.com.vn
Tạp chí bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam tháng 1/2005
Tạp chí bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam tháng 1/2006
Tạp chí bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam tháng 1/2007
(Tổng Công ty Cổ phẩn Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam)
Giáo trình kinh tế bảo hiểm
(Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân)
Tài liệu liên quan của Phòng Tái bảo hiểm hàng hải thuộc Tổng Công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam: Hội nghị Tái bảo hiểm lần thứ III – Cát Bà - Hải Phòng.
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
Nhận xét của giáo viên phản biện
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5927.doc