Tình hình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (PJICO) giai đoạn 2003 - 2007

Tài liệu Tình hình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (PJICO) giai đoạn 2003 - 2007: ... Ebook Tình hình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (PJICO) giai đoạn 2003 - 2007

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1565 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (PJICO) giai đoạn 2003 - 2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, các phương tiện sử dụng trong ngành giao thông vận tải cũng được cải tiến và ngày một phổ biến, cùng với nó là việc nâng cấp cơ sở hạ tầng hoàn thiện, hiện đại hơn. Chính vì vậy việc đi lại, giao lưu, kinh doanh ngày càng thuận lợi. Trong các loại hình giao thông vận tải, giao thông đường bộ với những ưu điểm: thuận lợi, dễ dàng, là huyết mạch nối các vùng đất… được sử dụng phổ biến nhất. Song một thực tế cho thấy, khi hệ thống giao thông này hiện đại hơn, số lượng phương tiện gia tăng thì số vụ tai nạn xảy ra ngày càng nhiều. Khi tai nạn xảy ra để lại những thiệt hại về vật chất, con người gây ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của chủ xe, những bên liên quan và gián tiếp ảnh hưởng tới toàn xã hội. Với mục đích giúp các chủ xe khắc phục khó khăn, ổn định một phần nào đó về tài chính khi gặp rủi ro, tai nạn bất ngờ… từ đó góp phần đảm bảo an toàn xã hội; bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã ra đời như một tất yếu khách quan. Trong những năm qua, với kinh nghiệm, đội ngũ nhân viên nhiệt tình, giỏi chuyên môn, tác phong làm việc chuyên nghiệp… nên khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới PJICO luôn luôn thu được những kết quả cao, những thành công lớn. Công ty liên tục trong nhiều năm liền giữ vị trí thứ 3 trên thị trường, doanh thu và lợi nhuận của nghiệp vụ không ngừng tăng lên qua các năm. Nhằm mục đích nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn về nghiệp vụ bảo hiểm này tại PJICO cũng như để củng cố lại những kiến thức đã được học tập tại trường, trong thời gian thực tập tại PJICO em đã lựa chọn đề tài: “Tình hình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (PJICO) giai đoạn 2003 - 2007” để nghiên cứu và làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Bài viết của em ngoài lời mở đầu và kết luận gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về Bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Chương 2: Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO giai đoạn 2003 – 2007. Chương 3: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO trong thời gian tới. Em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Thị Chính cùng các cán bộ, nhân viên văn phòng IV công ty bảo hiểm PJICO đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành bài viết này. Em rất mong sự đóng góp của thầy cô và các cán bộ, nhân viên bảo hiểm nơi em thực tập để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI 1.1. Tình hình tai nạn, thiệt hại về xe cơ giới và sự cần thiết phải bảo hiểm vật chất xe cơ giới: 1.1.1. Tình hình tai nạn, thiệt hại về xe cơ giới ở nước ta hiện nay: Ngày nay, khi cuộc sống phát triển thì nhu cầu đi lại với các mục đích khác nhau của con người ngày một gia tăng. Để đáp ứng cho nhu cầu đó, các phương tiện và loại hình giao thông cũng ngày càng nhiều và đa dạng hoá về số lượng, hiện đại hoá về chất lượng, đặc biệt là các phương tiện giao thông đường bộ. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Ở Việt Nam, số lượng phương tiện giao thông đường bộ trong những năm qua tăng khá nhanh. Điều đó được thể hiện cụ thể qua bảng sau: Bảng 1.1: Số xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ Việt Nam (2003 - 2007) Năm Ô tô So sánh với năm trước Mô tô So sánh với năm trước Tổng số Tăng (giảm) tuyệt đối Tăng (giảm) tương đối (%) Tăng (giảm) tuyệt đối Tăng (giảm) tương đối (%) 2003 675 000 - - 11 379 000 - - 12 054 000 2004 774 824 99 824 14,80 13 375 992 1 996 992 17,50 14 150 816 2005 891 104 116 280 15,00 16 086 644 2 710 652 20,30 16 977 748 2006 1 026 512 135 408 15,20 18 901 206 2 814 562 17,50 19 927 718 2007 1 183 260 156 748 15,30 22 350 676 3 449 470 18,20 23 533 936 (Nguồn: Báo cáo của uỷ ban an toàn giao thông) Với số lượng xe cơ giới tăng khá nhanh. Nếu năm 2003 số lượng xe ô tô mới là 675 000 xe thì năm 2007 đã là 1 183 260 xe gấp 1,75 lần. Số lượng xe máy tăng nhanh hơn, năm 2003 mới chỉ là 11 379 000 xe thì năm 2007 đã là 22350 676 xe gấp 1,96 lần. Trong khi đó, với sự phát triển yếu kém và chậm chạp của cơ sở hạ tầng Việt Nam đã không bắt nhịp kịp với nhu cầu sử dụng xe của người dân, dẫn đến số vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nhiều. Cụ thể: Bảng 1.2: Tình hình tai nạn giao thông đường bộ Việt Nam (2003 - 2007) Năm Số vụ Số người chết Số người bị thương Thiệt hại vật chất xe Số vụ (vụ) So sánh với năm trước Số người chết (người) So sánh với năm trước Số người bị thương (người) So sánh với năm trước Thiệt hại vật chất xe (tỷ đồng) So sánh với năm trước Tăng (giảm) tuyệt đối Tăng (giảm) tương đối (%) Tăng (giảm) tuyệt đối Tăng (giảm) tương đối (%) Tăng (giảm) tuyệt đối Tăng (giảm) tương đối (%) Tăng (giảm) tuyệt đối Tăng (giảm) tương đối (%) 2003 27 121 - - 8 851 - - 26 256 - - 163 - - 2004 29 135 2 014 7,43 9 103 252 2,85 27 102 826 3,22 186 23 14,11 2005 29 083 - 52 - 0,18 11 214 2 111 23,19 28 326 1 224 4,52 221 35 18,81 2006 30 125 1 042 3,58 12 111 891 8,00 28 965 639 2,26 210 - 11 - 4,98 2007 31 273 1 148 3,81 12 834 723 5,97 29 273 308 1,06 225 15 7,14 ( Nguồn: Báo cáo của Uỷ ban An toàn giao thông ) Theo bảng số liệu trên, số vụ tai nạn giao thông hầu như không ngừng tăng lên qua các năm, kéo theo đó là những thiệt hại về vật chất và con người. Năm 2007 là 31 273 vụ tăng gấp 1,15 lần so với năm 2003; số người chết tăng gấp 1,45 lần; số người bị thương tăng gấp 1,11 lần và tỷ lệ này đối với thiệt hại vật chất xe là 1,38 lần. Riêng năm 2005 tuy số vụ tai nạn giao thông có giảm so với năm 2004 là 52 vụ nhưng những thiệt hại về vật chất và con người lại tăng lên đột biến: số người chết tăng 2111 người, số người bị thương tăng 1224 người và con số này với thiệt hại vật chất xe là 35 tỷ; điều đó chứng tỏ mức độ nghiêm trọng của các vụ tai nạn xảy ra trong năm này là rất cao. 1.1.2. Sự cần thiết phải bảo hiểm vật chất xe cơ giới: Ngày nay, ở Việt Nam, khi điều kiện kinh tế của người dân ngày được nâng cao thì lượng xe cơ giới được sử dụng ngày một tăng trong khi điều kiện cơ sở hạ tầng không đáp ứng kịp. Do đó, rủi ro tai nạn đối với các chủ phương tiện khi tham gia giao thông luôn tiềm ẩn và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Hơn nữa, xe cơ giới là xe có động cơ khoẻ, tốc độ cao nên khả năng xảy ra tai nạn rất cao. Từ số liệu thống kê qua các năm, nhận thấy số vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nhiều với mức độ nghiêm trọng hơn qua mỗi năm, Bộ giao thông vận tải đã đi sâu tìm hiểu và đưa ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tai nạn gồm: Lái xe phóng nhanh, vượt ẩu, say rượu, xử lý kém… Xe hư hỏng, chưa sửa chữa mà vẫn lưu hành. Đường xá quanh co, lắm đèo, nhiều dốc và không đảm bảo an toàn. … Trong đó nguyên nhân chủ yếu là do lái xe (chiếm khoảng 77,2%). Khi tai nạn giao thông xảy ra đã gây nên những thiệt hại về vật chất và tinh thần cho chủ xe và người bị nạn: người tham gia giao thông bị tai nạn phải vào viện điều trị, thậm chí bị tử vong; phương tiện giao thông mà họ sử dụng bị hư hỏng phải sửa chữa thậm chí hư hỏng toàn bộ không thể sử dụng được nữa… Những điều đó ngoài việc gây tổn thất về tinh thần còn tạo nên sức ép lớn về mặt tài chính cho các chủ phương tiện. Có rất nhiều những biện pháp để đề phòng, hạn chế và khắc phục những tổn thất do tai nạn giao thông gây ra như: tuyên truyền về an toàn giao thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, dự trữ tiền để khắc phục tổn thất, tham gia bảo hiểm… Tuy nhiên, việc tham gia bảo hiểm được coi là biện pháp hữu hiệu nhất. Bảo hiểm giúp tạo nên sự an tâm cho các chủ xe cơ giới khi tham gia giao thông, giúp đỡ khắc phục khó khăn cho chủ phương tiện khi rủi ro xảy ra; nhờ đó họ có thể nhanh chóng ổn định tình hình tài chính, sớm hoà nhập trở lại với nhịp sống hàng ngày. Hơn nữa, đối với người Việt Nam xe cơ giới là tài sản có giá trị cao. Do đó, bảo hiểm vật chất xe cơ giới ra đời là một tất yếu khách quan và việc mua sản phẩm bảo hiểm này là cần thiết đối với các chủ phương tiện. 1.2. Vai trò của Bảo hiểm vật chất xe cơ giới: Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới giữ một vai trò quan trọng trong việc hạn chế và khắc phục rủi ro, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Cụ thể: Thứ nhất, góp phần ổn định tài chính cho chủ phương tiện khi có rủi ro xảy ra gây tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Khi tham gia giao thông không ai muốn rủi ro xảy ra nhưng rủi ro là ngẫu nhiên, không loại trừ bất cứ ai. Khi rủi ro xảy ra, thường để lại những hậu quả to lớn về con người và vật chất, gây ra những tổn thất về tài chính, làm gián đoạn sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, bảo hiểm thông qua công tác bồi thường nhanh chóng, kịp thời góp phần ổn định tình hình tài chính, tránh những xáo trộn lớn cho chủ phương tiện, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn; đồng thời qua đó góp phần xoa dịu, làm giảm bớt căng thẳng giữa chủ xe và người bị nạn. Cần phải lưu ý rằng, nhà bảo hiểm cũng quy định những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm và khống chế hạn mức số tiền bồi thường để tránh trục lợi bảo hiểm đồng thời nâng cao trách nhiệm của chủ điều khiển phương tiện. Có thể nói, bảo hiểm xe cơ giới đã góp phần tạo ra một tâm lý yên tâm, thoải mái cho các chủ xe, lái xe khi điều khiển các phương tiện tham gia giao thông. Thứ hai, tăng khả năng tự chủ về tài chính cho người tham gia bảo hiểm. Khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, nguồn vốn chính là yếu tố quyết định sức mạnh, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp luôn phải trích ra một quỹ dự trữ đề phòng hạn chết tổn thất khi rủi ro xảy ra. Đối với những doanh nghiệp nhỏ, ít phương tiện số tiền này không đáng kể. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp lớn, số lượng đầu xe nhiều thì quỹ dự trữ này sẽ chiếm một tỷ lệ khá lớn trong nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Nếu nguồn tiền này được đem để làm nguồn vốn lưu động trong kinh doanh sẽ đem lại sức mạnh to lớn cho doanh nghiệp, nhưng nó lại ở dạng dự trữ thì quả là sự lãng phí lớn. Khó khăn này sẽ được giải quyết thông qua các hợp đồng bảo hiểm. Thông qua các hợp đồng này, công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ bảo hiểm hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít”. Nhờ đó, thay vì thành lập quỹ dự trữ riêng thì các chủ phương tiện có thể yên tâm hoạt động nhờ quỹ bảo hiểm lớn hơn nhiều do rất nhiều thành viên cùng đóng góp. Thứ ba, góp phần đề phòng và hạn chế tai nạn giao thông: Với số phí bảo hiểm thu được, ngoài việc bồi thường cho các chủ phương tiện khi có rủi ro xảy ra, các công ty bảo hiểm còn thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất xảy ra như: xây dựng đường lánh nạn, đường phụ, hốc cứu nạn; lắp đặt hệ thống biển báo, tín hiệu giao thông, hệ thống gương cầu… hàng năm đã cứu thoát khỏi nguy hiểm hàng trăm tính mạng. Ngoài ra, công ty bảo hiểm còn khuyến khích các chủ xe tự thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, nâng cao ý thức thông qua công tác tuyên truyền. Đồng thời, công ty còn thực hiện giảm phí nếu sau một thời gian nhất định mà xe không gặp bất kì sự cố nào. Thứ tư, góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước Mức sống nhân dân ngày càng tăng, số lượng các phương tiện cơ giới tăng nhanh, tổng số trên cả nước đã có 1 183 260 xe ô tô và 22 350 676 xe máy, đồng thời giá trị của từng chiếc xe cũng tăng nhanh. Do đó, số lượng người tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng tăng nhanh, góp phần làm tăng nguồn thu cho Ngân sách nhà nước thông qua hình thức nộp thuế của các công ty bảo hiểm. Ngược lại, chính phủ sử dụng ngân sách nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ, nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đi lại của người dân từ đó góp phần nâng cao chất lượng đời sống dân cư. Như vậy, vai trò của nghiệp vụ bảo hiểm này là rất lớn. Ý thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của bảo hiểm vật chất xe cơ giới nên số người tham gia ngày càng đông. Trong tương lai, nghiệp vụ này chắc chắn sẽ ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. 1.3. Nội dung cơ bản của Bảo hiểm vật chất xe cơ giới: 1.3.1. Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm: 1.3.1.1. Đối tượng bảo hiểm: Trước tiên, ta cần phải hiểu xe cơ giới là gì. Để xác định xe cơ giới người ta dùng các tiêu thức sau: - Xe cơ giới được gắn với động cơ. - Xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn. - Xe cơ giới phải có tối thiểu một chỗ cho người điều khiển. Như vậy, xe cơ giới bao gồm nhiều loại xe: ô tô, mô tô, xe chở hàng và xe chuyên dụng khác. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình Bảo hiểm tài sản và nó được thực hiện dưới hình thức bảo hiểm tự nguyện. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe nhằm mục đích được bồi thường cho những thiệt hại vật chất đối với xe của mình do rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm gây nên. Vì vậy, đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ này là bản thân chiếc xe với các điều kiện: - Có giá trị sử dụng. - Được phép lưu hành theo quy định của pháp luật. - Đầy đủ các bộ phận để cấu thành một chiếc xe hoàn chỉnh. Đối với xe mô tô, xe máy chủ xe thường tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất thân xe. Ở Việt Nam hiện nay loại hình bảo hiểm này hầu như chưa được thực hiện. Đối với xe ô tô, các chủ xe có thể tham gia toàn bộ hoặc tham gia từng bộ phận của xe. Trong thực tế hiện nay, các chủ xe ô tô thường chỉ tham gia một số tổng thành xe nhằm tiết kiệm tiền đóng bảo hiểm. Căn cứ vào đặc điểm kĩ thuật xe ô tô được chia thành các tổng thành sau: - Tổng thành thân vỏ bao gồm: cabin toàn bộ, calang, cabô, chắn bùn, toàn bộ cửa và kinh, toàn bộ đèn và gương, toàn bộ phần vỏ kim loại, các cần gạt và bàn đạp ga, cần số, phanh chân, phanh tay... - Tổng thành hệ thống lái bao gồm: vô lăng lái, trục tay lái, thanh kéo ngang, thanh kéo dọc, phi de. - Tổng thành hộp số: hộp số chính, hộp số phụ (nếu có). - Tổng thành động cơ. - Tổng thành trục trước (cần trước) bao gồm: dầm cầu trục lắp hệ thống treo nhíp, may ơ nhíp, cơ cấu phanh, nếu là cần chủ động thì có thêm một cần vi sai với vỏ cần. - Tổng thành trục sau bao gồm: vỏ cầu toàn bộ, một cầu, vi sai, cụm may ơ sau, cơ cấu phanh, xi lanh phanh, trục lắp ngang, hệ thống treo cầu sau, nhíp... - Tổng thành bánh xe: lốp săm (kể cả săm lốp dự phòng). Ngoài ra một số loại xe còn có tổng thành các bộ phận chuyên dụng theo yêu cầu được lắp đặt trên xe như xe cứu thương, cứu hoả, xe chở container… Căn cứ vào các tổng thành như trên mà các chủ xe có thể tham gia bảo hiểm cho toàn bộ xe hoặc các bộ phận của xe. Trong đó, tổng thành thân vỏ chiếm tỷ trọng lớn nhất và chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ hậu quả của rủi ro. Vì vây, đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe, các công ty bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam hiện nay thường bán hai loại hình của sản phẩm là bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe. 1.3.1.2. Phạm vi bảo hiểm: Phạm vi bảo hiểm là giới hạn những rủi ro khi xảy ra gây tổn thất cho xe cơ giới sẽ được người bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường. Rủi ro được bảo hiểm là những thiệt hại vật chất xe do: - Tai nạn do đâm va, lật đổ: trường hợp này rất dễ xảy ra và cần được bảo hiểm nhất. - Tai nạn do thiên tai: cháy, nổ, bão, lụt, động đất, sét đánh, mưa… - Mất cắp toàn bộ xe. Trong trường hợp này chỉ mất cắp toàn bộ xe mới được bảo hiểm, mất cắp bộ phận xe không được bảo hiểm là do các nguyên nhân: + Tránh trục lợi bảo hiểm. Vì chủ xe có thể tháo bộ phận xe giấu đi và đòi bảo hiểm. + Giá trị bộ phận xe nhỏ. Do đó, chi phí xác nhận mất cắp lớn hơn so với số tiền được bồi thường. + Nâng cao tinh thần trách nhiệm của người mua bảo hiểm đối với việc trộm cắp. - Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên. - Ngoài ra, bảo hiểm vật chất xe cơ giới còn bảo hiểm cho các chi phí: + Chi phí ngăn ngừa tổn thất xảy ra thêm. + Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất. + Chi phí giám định thuộc trách nhiệm của bảo hiểm. + Chi phí ra toà (nếu có ). Những rủi ro loại trừ bao gồm: - Hao mòn vô hình và hữu hình của xe cơ giới. - Hư hỏng bộ phận không do tai nạn gây ra. - Mất cắp bộ phận xe. - Hành động cố ý của chủ xe, lái xe. - Xe vi phạm các quy định về an toàn giao thông. - Những thiệt hại gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, ngưng trệ kinh doanh… - Thiệt hại do chiến tranh. Cần lưu ý rằng, trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới. Tuy nhiên, nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ có yêu cầu. 1.3.2. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm : 1.3.2.1. Giá trị bảo hiểm: Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm. Giá xe trên thị trường luôn luôn biến động. Vì vậy, để xác định được giá trị của xe, các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào các nhân tố: - Loại xe. - Năm sản xuất. - Mức độ mới cũ của xe. - Thể tích làm việc của xi lanh… Giá trị bảo hiểm được xác định theo hai trường hợp: Nếu là xe mua mới giá trị bảo hiểm chính là giá mua mới của xe. Nếu là xe đã qua sử dụng thì giá trị bảo hiểm của xe được tính bằng công thức: Giá trị bảo hiểm = Nguyên giá - Khấu hao + Nguyên giá ở đây chính là giá mua mới hay giá trị ban đầu của xe. + Để tính khấu hao các công ty bảo hiểm thường dựa vào nguyên giá và tỷ lệ khấu hao bình quân của xe trong một năm, cụ thể là: Giá trị khấu hao = Nguyên giá ´ Tỷ lệ khấu hao 1 năm ´ Thời gian xe sử dụng 12 Trên thực tế rất nhiều xe đã khấu hao hết nhưng vẫn còn giá trị sử dụng và vẫn sử dụng được. Điều này buộc các công ty bảo hiểm phải có những biện pháp linh hoạt nhằm thu hút và phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. 1.3.2.3. Số tiền bảo hiểm: Số tiền bảo hiểm là khoản tiền nhất định được ghi trong đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm để xác định giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm trong việc bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm. Trên cơ sở giá trị bảo hiểm, chủ xe có thể tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm nhỏ hơn (bảo hiểm dưới giá trị) hoặc bằng (bảo hiểm ngang giá trị) hoặc lớn hơn (bảo hiểm trên giá trị) giá trị thực tế của xe. Việc quyết định tham gia bảo hiểm với số tiền là bao nhiêu sẽ là cơ sở để xác định số tiền bồi thường khi có tổn thất xảy ra. Cụ thể: - Đối với xe tham gia bảo hiểm dưới giá trị khi xảy ra tổn thất: Số tiền bồi thường = Giá trị tổn thất thực tế ´ Số tiền bảo hiểm Giá trị bảo hiểm - Đối với xe tham gia bảo hiểm ngang giá trị khi xảy ra tổn thất thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường số tiền bằng đúng giá trị thiệt hại thực tế của xe tại thời điểm xảy ra tổn thất. - Đối với xe tham gia bảo hiểm trên giá trị khi rủi ro xảy ra gây tổn thất công ty bảo hiểm cũng chỉ bồi thường với số tiền bằng thiệt hại thực tế và luôn luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe. 1.3.3. Phí bảo hiểm: Phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới là khoản tiền nhất định mà người tham gia bảo hiểm phải nộp cho công ty bảo hiểm sau khi kí kết hợp đồng bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm xác định mức phí bằng cách vận dụng linh hoạt các quy định của bộ tài chính. Phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe được tính theo công thức: P = f + d Trong đó: P: Phí thu mỗi đầu xe. d: Phụ phí. f: Phí thuần. - Phí thuần (f ) được xác định căn cứ vào số liệu thống kê về tình hình bồi thường tổn thất trong những năm trước đó và được xác định như sau: f = Trong đó: Si: số vụ tai nạn giao thông xảy ra năm thứ i Ti: thiệt hại bình quân một vụ trong năm thứ i Ci: số xe hoạt động thức tế trong năm thứ i - Phụ phí (d) bao gồm các chi phí khác như: chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý…Phần phụ phí này thường được tính bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với phí bồi thường. Để tính phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới, các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào các yếu tố: - Những yếu tố liên quan đến bản thân chiếc xe và vấn đề sử dụng xe: + Loại xe: Do giá trị của các loại xe khác nhau, đặc điểm kĩ thuật và mức độ rủi ro khác nhau nên phí bảo hiểm vật chất xe được tính riêng cho từng loại xe. + Khu vực giữ xe và để xe: Trong thực tế không phải công ty nào cũng quan tâm đến nhân tố này. + Phạm vi và địa bàn hoạt động: Trong thực tế nhân tố này rất khó xác định một cách chính xác vì xe cơ giới là phương tiện di chuyển phổ biến giữa các khu vực, các vùng, khắp cả nước thậm chí là liên quốc gia. + Mục đích sử dụng xe: Đây là yếu tố quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Nó giúp công ty bảo hiểm biết được mức độ rủi ro có thể xảy ra. + Thời gian sử dụng, giá trị xe: Là yếu tố cơ bản để xác định số tiền bảo hiểm. - Những yếu tố liên quan đến con người: + Độ tuổi và kinh nghiệm lái xe: Số liệu thống kê cho thấy các lái xe trẻ tuổi thường bị tai nạn nhiều hơn so với lái xe lớn tuổi, nhiều kinh nghiệm. Để đề phòng hạn chế tổn thất và nâng cao ý thức trách nhiệm của người điều khiển phương tiện các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức miễn thường đối với từng độ tuổi nhất định. Thực tế, mức miễn thường với những lái xe trẻ tuổi thường cao hơn so với những lái xe cao tuổi hơn. Mức miễn thường là số tiền giới hạn mà khi rủi ro xảy ra gây tổn thất nhỏ hơn hoặc bằng giới hạn đó thì người được bảo hiểm tự chịu, công ty bảo hiểm không phải chịu trách nhiệm thanh toán tiền bồi thường. + Tiền sử lái xe: Dùng để xác định mức độ liên quan tới các vụ tai nạn phát sinh, các hành vi vi phạm luật lệ giao thông. Trong thực tế các công ty bảo hiểm thường áp dụng công thức tính phí bảo hiểm như sau: P = Sb ´ R Trong đó: P - Phí bảo hiểm. Sb - Số tiền bảo hiểm. R - Tỷ lệ phí bảo hiểm. Ở Việt Nam, biểu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới được Bộ Tài Chính quy định cho các công ty bảo hiểm như sau: Đối với xe tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất xe: Bảng 1.3: Biểu phí bảo hiểm toàn bộ xe (chưa bao gồm VAT) STT Mức miễn thường không khấu trừ (VNĐ) Tỷ lệ phí (% của số tiền bảo hiểm) (%) Xe không kinh doanh Xe kinh doanh 1 500.000 1,27 1,36 2 1.000.000 1,18 1,27 3 2.000.000 1,09 1,18 4 3.000.000 1,05 1,09 5 4.000.000 0,95 1,00 6 5.000.000 0,86 0,91 (Nguồn: Tài liệu hướng dẫn khai thác bảo hiểm xe cơ giới năm 2008 tại PJICO) Đối với khối hành chính sự nghiệp, xe nước ngoài không áp dụng mức miễn thường. Nếu chủ xe chấp nhận mức miễn thường có khấu trừ tương ứng với các mức miễn thường như trên thì phí bảo hiểm được tính bằng 80% mức phí tối thiểu tương ứng và ghi rõ trong hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. Đối với xe nhập khẩu miễn thuế áp dụng tỷ lệ phí: 2,73% (chưa bao gồm VAT) giá trị xe miễn thuế. Đối với xe tham gia bảo hiểm thân vỏ xe: Bảng 1.4: Biểu phí bảo hiểm thân vỏ xe (chưa bao gồm VAT) STT Loại xe Tỷ lệ phí(% của số tiền bảo hiểm) (%) 1 Xe không kinh doanh 1,82 2 Xe kinh doanh 2,27 Mức miễn thường: 500.000 đồng/vụ (Nguồn: Tài liệu hướng dẫn khai thác bảo hiểm xe cơ giới năm 2008 tại PJICO) Đối với xe tham gia bảo hiểm với thời hạn dài (lớn hơn 1 năm) Bảng 1.5: Biểu phí dài hạn Thời hạn bảo hiểm Mức phí áp dụng (% phí bảo hiểm năm) (%) Trên 12 đến 15 tháng 124 Trên 15 đến 18 tháng 144 Trên 18 đến 21 tháng 152 Trên 21 đến 24 tháng 160 Trên 24 đến 30 tháng 208 Trên 30 đến 36 tháng 240% Trên 36 tháng = (Phí năm/12) ´ số tháng ´ 80% (Nguồn: Tài liệu hướng dẫn khai thác bảo hiểm xe cơ giới năm 2008 tại PJICO) Đối với xe tham gia bảo hiểm với thời hạn ngắn ( nhỏ hơn 1 năm ) Bảng 1.6: Biểu phí ngắn hạn Thời hạn bảo hiểm Phí bảo hiểm Dưới 3 tháng 30% phí 1 năm Trên 3 đến 6 tháng 60% phí 1 năm Trên 6 đến 9 tháng 90% phí 1 năm Trên 9 đến 12 tháng 100% phí 1 năm (Nguồn: Tài liệu hướng dẫn khai thác bảo hiểm xe cơ giới năm 2008 tại PJICO) Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn tham gia bảo hiểm tại công ty, các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung theo số lượng xe tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hầu hết các công ty bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm phí cho những người tham gia bảo hiểm không có khiếu nại và gia tăng tỷ lệ giảm phí này cho một số năm không có khiếu nại gia tăng. Chẳng hạn như: - Nếu giảm phí theo tỷ lệ tổn thất: + Cách 1: Thời hạn Mức giảm phí tối đa 1 năm liên tục 15% tổng số phí bảo hiểm 2 năm liên tục 20% tổng số phí bảo hiểm 3 năm liên tục 25% tổng số phí bảo hiểm + Cách 2: Giảm theo tỷ lệ bồi thường thấp trong 1 năm bảo hiểm Tỷ lệ bồi thường Mức giảm phí tối đa Nhỏ hơn hoặc bằng 40% 10% Nhỏ hơn hoặc bằng 30% 15% Nhỏ hơn hoặc bằng 20% 20% - Nếu giảm phí theo số lượng xe tham gia bảo hiểm: Số lượng Mức giảm phí tối đa Từ 05 đến 10 xe 10% tổng số phí bảo hiểm Từ 11 đến 20 xe 15% tổng số phí bảo hiểm Từ 21 đến 30 xe 20% tống số phí bảo hiểm Từ 31 đến 50 xe 25% tổng số phí bảo hiểm + Trường hợp số xe tham gia bảo hiểm trên 50 xe có thể áp dụng mức giảm phí cao hơn nhưng phải căn cứ vào mức độ đánh giá rủi ro trước khi tham gia bảo hiểm và phải có tờ trình được công ty phê duyệt. + Trường hợp xe mới 100%: Giảm tối đa 10% phí quy định tại biểu phí cùng với tỷ lệ giảm theo số lượng xe quy định trên. Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động một số ngày trong năm thì chủ xe chỉ phải đóng phí những ngày hoạt động đó theo công thức: Phí bảo hiểm = Mức phí cả năm ´ Số tháng xe đã hoạt động trong năm 12 Khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm lớn, để tranh thủ sự ủng hộ, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó. Việc tính toán biểu phí riêng này cũng tương tự như cách tính trên nhưng phải dựa trên số liệu về bản thân khách hàng. Cụ thể: - Số lượng xe của khách hàng tham gia bảo hiểm. - Tình hình bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm cho khách hàng trong những năm trước đó. - Tỷ lệ phụ phí theo quy định của công ty. Trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung, công ty bảo hiểm sẽ áp dụng theo mức phí đặc biệt. Còn nếu mức phí đặc biệt tính được là cao hơn hoặc bằng mức phí chung thì công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí chung. Trong trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì một lí do nào đó hoặc trường hợp chủ xe muốn huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết hạn hợp đồng thì thông thường công ty bảo hiểm hoàn lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại. Số phí hoàn lại được tính theo công thức: Phí hoàn lại = Phí cả năm ´ Số tháng xe hoạt động ´ Tỷ lệ hoàn phí 12 Tuỳ theo từng công ty bảo hiểm khác nhau mà quy định tỷ lệ hoàn phí là khác nhau. Nhưng thông thường tỷ lệ này là 80%. 1.3.4. Đề phòng và hạn chế tổn thất: Khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, các công ty bảo hiểm thường có những biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất nhằm hạn chế tối đa các tai nạn và rủi ro có thể xảy ra. Từ đó, giảm thiểu được chi phí bồi thường, giúp cho nhà bảo hiểm hoạt động có hiệu quả hơn. Hàng năm, các công ty bảo hiểm thường tiến hành trích một phần từ doanh thu phí của nghiệp vụ để phục vụ cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Các biện pháp chủ yếu thường được thực hiện là: xây dựng hệ thống biển báo, xây dựng đường lánh nạn, lắp hệ thống gương cầu tại những nơi đường rộng hay đèo dốc… Tuy nhiên, để đề phòng và hạn chế tổn thất một cách hiệu quả nhất lại phụ thuộc chủ yếu vào ý thức của người chủ phương tiện. Không ai mua bảo hiểm cho mình lại muốn rủi ro xảy ra. Vì vậy, nếu chủ phương tiện thực hiện tốt các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất như: thắt dây an toàn khi lái xe, chạy đúng đường, đúng tốc độ quy định…sẽ làm giảm số vụ tai nạn xảy ra. Từ đó sẽ làm giảm xác suất xảy ra rủi ro dẫn đến phí bảo hiểm giảm và khoản chi bồi thường của nhà bảo hiểm cũng được giảm xuống. 1.3.5. Giám định và bồi thường tổn thất: 1.3.5.1. Giám định tổn thất: Giám định là một khâu đặc biệt quan trọng trong quá trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm. Nó là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm. Nếu không xác định chính xác mức độ thiệt hại thực tế, trách nhiệm của lái xe và trách nhiệm của công ty bảo hiểm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động cũng như uy tín của công ty đối với các khách hàng. Có hai loại giám định tổn thất là giám định độc lập và giám định của công ty bảo hiểm. - Giám định độc lập: Việc thực hiện giám định tổn thất xảy ra được giao cho một giám định viên không thuộc của khách hàng cũng không thuộc của công ty bảo hiểm nhằm đảm bảo tính khách quan. - Giám định của công ty bảo hiểm: việc giám định tổn thất xảy ra được giao cho giám định viên của công ty bảo hiểm. Thông thường đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, việc giám định tổn thất được công ty bảo hiểm tiến hành với sự có mặt của chủ xe, lái xe hoặc người đại diện hợp pháp nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Trong trường hợp nếu không đồng ý với kết quả giám định của công ty bảo hiểm thì khách hàng có thể thuê giám định độc lập. Nếu kết quả giám định độc lập trùng với kết quả giám định của công ty bảo hiểm thì khách hàng phải chịu hoàn toàn chi phí giám định độc lập, còn nếu kết quả giám định độc lập khác với kết quả của công ty bảo hiểm thì công ty bảo hiểm phải trả khoản chi phí này. Quá trình giám định đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu: nhanh chóng, kịp thời, chính xác, tỉ mỉ, khách quan, trung thực…và phải thực hiện theo nguyên tắc chung trong công tác giám định là: - Xác định nguyên nhân tai nạn, từ đó xác định trách nhiệm của bảo hiểm. - Xác định mức độ thiệt hại thuộc phạm vi, trách nhiệm của nhà bảo hiểm. - Tất cả các thiệt hại thuộc phạm vi, trách nhiệm của nhà bảo hiểm phải được tiến hành giám định. - Trong trường hợp đặc biệt nếu không tiến hành giám định được hoặc thiệt nhại nhỏ (dưới 1 triệu đồng) thì căn cứ vào biên bản của các cơ quan chức năng, căn cứ vào ảnh chụp, các hiện vật thu được, thông báo tai nạn của chủ xe và lái xe để xác định thiệt hại và trách nhiệm của bảo hiểm. - Sau khi nhận được thông báo tai nạn thì phải tiến hành giám định, chậm nhất là 5 ngày. Nếu không tiến hành giám định sớm được thì phải thể hiện lí do trong biên bản giám định. - Khi tiến hành giám định phải có đại diện của chủ xe, chủ tài sản bị thiệt hại hoặc người có trách nhiệm được uỷ quyền quản lý, sử dụng. Quy trình giám định được tiến hành theo các bước: Sơ đồ 1.1: Quy trình giám định bảo hiểm vật chất xe cơ giới Tiếp nhận thông tin từ phía khách hàng Tiến hành giám định Tiến hành thu thập và hoàn thiện hồ sơ để giải quyết bồi thường Tiếp nhận thông tin từ phía khách hàng: Khi xảy ra tai nạn gây tổn thất, khách hàng một mặt phải tìm cách cứu chữa hạn chế tổn thất, mặt kh._.ác phải nhanh chóng thông báo với công ty bảo hiểm. Khách hàng không được phép thay đổi hiện trường khi chưa có ý kiến của công ty bảo hiểm, trừ trường hợp phải thi hành chỉ thị của cơ quan có thẩm quyền. Khi đã nhận được thông báo tai nạn của khách hàng, giám định viên cần nắm bắt các thông tin cơ bản để thuận lợi cho việc tiến hành giám định như: tên chủ xe; biển kiểm soát; số giấy chứng nhận bảo hiểm, hiệu lực, loại hình tham gia; địa điểm, thời gian xảy ra tai nạn; thông tin ban đầu về tổn thất thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm; số điện thoại, địa chỉ để liên lạc của chủ xe… Tiến hành giám định: Công việc giám định phải được tiến hành khẩn trương, khoa học và chuẩn xác. Các kết luận đưa ra phải hợp lý, nhất quán, phù hợp với thực tế. Trong bước này, các công việc thường được thực hiện là: Giám định viên tiến hành kiểm tra tính hợp lệ của các loại giấy tờ: giấy tờ xe, giấy chứng nhận bảo hiểm… Chụp ảnh hiện trường và thiệt hại của xe. Lập biên bản giám định: nhằm ghi lại những gì mà giám định viên đã tiến hành và đưa ra các kết luận. Nội dung văn bản này phải đảm bảo được tính trung thực, chính xác, rõ ràng, cụ thể. Các số liệu phải phù hợp với thực trạng và không được mâu thuẫn khi đối chiếu với các giấy tờ liên quan. Thông thường biên bản giám định được lập ở hiện trường và sau khi thống nhất các bên liên quan sẽ kí xác nhận. Biên bản giám định chỉ cấp cho người có yêu cầu giám định, không được tiết lộ nội dung giám định cho những người khác khi chưa có yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm. Thu lệ phí giám định. Tiến hành thu thập và hoàn thiện đầy đủ hồ sơ để giải quyết bồi thường. Giám định viên sau khi đã giám định, thống nhất giữa các bên và đi đến kết luận cuối cùng sẽ tiến hành hoàn thiện hồ sơ tai nạn để giải quyết bồi thường một cách nhanh chóng. 1.3.5.2. Bồi thường tổn thất: Quy trình bồi thường tổn thất: Sơ đồ 1.2: Quy trình bồi thường tổn thất bảo hiểm vật chất xe cơ giới Xem xét hồ sơ khách hàng Xác định số tiền bồi thường Thông báo bồi thường Truy đòi tiền bồi thường của các bên liên quan Xem xét hồ sơ khách hàng: Nhân viên bồi thường xem xét, đối chiếu các thông tin của khách hàng trong hợp đồng gốc theo số hồ sơ. Sau đó, thông báo cho khách hàng đã nhận đầy đủ giấy tờ hoặc những giấy tờ nào thiếu cần báo ngay với khách hàng để bổ sung kịp thời vào hồ sơ bồi thường. Xác định số tiền bồi thường: Sau khi đã hoàn tất hồ sơ bồi thường, bộ phận bồi thường tính toán số tiền bồi thường cho khách hàng dựa trên: - Điều khoản của hợp đồng bảo hiểm. - Biên bản giám định, bản kê khai tổn thất. - Bảng theo dõi phí nộp. - Báo giá. - Trách nhiệm của người thứ ba (nếu có). Thông báo bồi thường: Sau khi xác định được số tiền bồi thường, nhà bảo hiểm sẽ thông báo cho khách hàng chấp nhận bồi thường và đề xuất các hình thức bồi thường với khách hàng. Truy đòi tiền bồi thường của các bên liên quan: Nếu tổn thất xảy ra có liên quan tới trách nhiệm của người thứ ba, công ty bảo hiểm sẽ thế quyền khách hàng đòi phần trách nhiệm đó. Hoặc đòi bồi thường của các nhà tái bảo hiểm nếu hợp đồng đó được tái đi. Hồ sơ bồi thường: Khi yêu cầu nhà bảo hiểm bồi thường thiệt hại vật chất xe, chủ xe phải cung cấp những tài liệu, chứng từ sau: - Tờ khai tai nạn của chủ xe. - Bản sao giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy kiểm định, giấy phép lái xe, chứng minh thư. - Kết luận điều tra của công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn gồm: Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn, Biên bản giải quyết tai nạn. - Bản án hoặc quyết định của toà án trong trường hợp có tranh chấp tại toà án. - Các biên bản xác định trách nhiệm của người thứ ba. - Các chứng từ xác định thiệt hại do tai nạn. Nguyên tắc bồi thường tổn thất: - Trường hợp bảo hiểm ngang giá trị: Số tiền bồi thường = Giá trị tổn thất thực tế - Trường hợp bảo hiểm dưới giá trị: Số tiền bồi thường = Giá trị tổn thất thực tế ´ Số tiền bảo hiểm Giá trị bảo hiểm Giá trị tổn thất thực tế ở đây chính là giá trị thiệt hại của xe tại thời điểm xảy ra tai nạn. Nếu xe tổn thất toàn bộ thì giá trị tổn thất của xe được tính theo công thức: Giá trị tổn thất thực tế = Giá trị bảo hiểm ´ tỷ lệ khấu hao 1 năm ´ Thời gian từ lúc tham gia bảo hiểm đến thời điểm xảy ra tai nạn 12 Giá trị bảo hiểm được tính theo công thức như đã nêu ở phần 1.3.2.1. Khấu hao dùng để tính giá trị bảo hiểm và giá trị tổn thất được làm tròn theo tháng như sau: + Nếu xe bị tai nạn từ ngày 15 trở về đầu tháng thì tháng đó xe sẽ không phải tính khấu hao. Ngược lại, nếu xe bị tai nạn từ ngày 16 trở về cuối tháng thì tháng đó phải tính khấu hao. + Nếu xe tham gia bảo hiểm từ ngày 15 trở về đầu tháng thì tháng đó xe phải tính khấu hao và ngược lại nếu xe tham gia bảo hiểm từ ngày 16 trở về cuối tháng thì tháng đó không phải tính khấu hao. + Chỉ tính khấu hao khi xe bị tai nạn làm thiệt hại toàn bộ vật chất thân xe hoặc thiệt hại toàn bộ một tổng thành nào đó. - Trường hợp bảo hiểm trên giá trị: Theo nguyên tắc hoạt động, để tránh việc trục lợi, công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm trên giá trị. Tuy nhiên, nếu người tham gia vô tình mua bảo hiểm trên giá trị thì số tiền bồi thường cũng chỉ bằng thiệt hại thực tế và tối đa chỉ bằng giá trị thực tế của xe khi tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, cũng có những có những công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm trên giá trị thực tế của xe, đó là bảo hiểm theo “giá trị thay thế mới”. Tuy nhiên, trong trường hợp này chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao và tuân theo các điều khoản rất nghiêm ngặt. - Trường hợp tổn thất bộ phận: Trong trường hợp này tuỳ theo loại hình bảo hiểm mà chủ xe tham gia, số tiền bồi thường sẽ được trả theo một trong ba nguyên tắc trên. Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm thường giới hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng bảng tỷ lệ giá trị tổng thành xe. - Trường hợp tổn thất toàn bộ: Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi bị mất cắp, mất tích hoặc xe bị thiệt hại nặng đến mức không thể sửa chữa phục hồi để đảm bảo lưu hành an toàn, hoặc chi phí phục hồi bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Trong trường hợp này, số tiền bồi thường lớn nhất bằng số tiền bảo hiểm và phải trừ khấu hao cho thời gian xe đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị xe ngay trước khi xảy ra tổn thất. Ngoài ra, khi tính toán số tiền bồi thường còn phải tuân theo các nguyên tắc sau: - Những bộ phận thay thế mới khi bồi thường phải trừ khấu hao đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị bộ phận được thay thế ngay trước thời điểm xảy ra tai nạn. - Trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm một số bộ phận hoặc tổng thành xe, số tiền bồi thường được xác định dựa trên thiệt hại của bộ phận hay tổng thành đó và cũng thường được giới hạn bởi bảng tỷ lệ giá trị tổng thành xe của bộ phận hay tổng thành tham gia bảo hiểm. - Trường hợp thiệt hại xảy ra có liên quan đến người thứ ba, công ty bảo hiểm bồi thường cho chủ xe và được phép thế quyền đòi bên thứ ba. Bảo hiểm trùng: Trong trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe theo một hay nhiều đơn bảo hiểm khác, theo đúng nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm, tổng số tiền mà chủ xe nhận được từ tất cả các đơn bảo hiểm chỉ đúng bằng thiệt hại thực tế. 1.3.6. Hợp đồng Bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là sự thoả thuận giữa các bên. Theo đó bên mua bảo hiểm (chủ phương tiện, lái xe) có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm, bên bảo hiểm có trách nhiệm trả tiền bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm. Trước khi kí kết hợp đồng, chủ xe phải kê khai đầy đủ, trung thực vào giấy yêu cầu bảo hiểm. Đây là căn cứ để kí kết hợp đồng bảo hiểm. Công ty bảo hiểm chỉ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm khi chủ xe đã đóng phí bảo hiểm. Thời hạn hiệu lực bảo hiểm được thể hiện trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Trường hợp chủ xe không nộp phí bảo hiểm đầy đủ và đúng thời hạn thì hợp đồng bảo hiểm mất hiệu lực cho đến khi chủ xe tiếp tục đóng phí. Giấy chứng nhận bảo hiểm xe cơ giới gồm bốn phần chính: Đặc điểm của xe bao gồm các thông tin: tên chủ xe, địa chỉ, điện thoại liên hệ, biển số xe, số máy, số khung, nhãn hiệu, năm, nơi sản xuất, trọng tải xe, số chỗ ngồi, mục đích sử dụng xe. Các loại hình bảo hiểm gồm: Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm tự nguyện xe cơ giới, điều khoản bổ sung. Thời hạn bảo hiểm. Tổng phí bảo hiểm thanh toán. Trong thời hạn còn hiệu lực trên giấy chứng nhận bảo hiểm, nếu có sự chuyển quyền sở hữu xe mà chủ xe không có yêu cầu chấm dứt hợp đồng thì quyền lợi bảo hiểm liên quan đến chiếc xe được bảo hiểm vẫn còn hiệu lực đối với chủ xe mới. Trường hợp chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới và có yêu cầu chấm dứt hợp đồng thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại cho chủ xe 80% phí bảo hiểm của thời gian còn lại kể từ ngày chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. 1.4. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả của nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới: 1.4.1. Chỉ tiêu kết quả: Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nói chung, của nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng được thể hiện chủ yếu qua hai chỉ tiêu: Doanh thu và lợi nhuận. 1.4.1.1. Doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới: (TR) Doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là toàn bộ số tiền mà công ty bảo hiểm thu được từ nghiệp vụ này trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Doanh thu của nghiệp vụ này bao gồm: - Thu kinh doanh bảo hiểm + Doanh thu bảo hiểm gốc: thu phí bảo hiểm gốc, thu phí các hoạt động đại lý, thu đòi người thứ ba bồi hoàn, thu phí giám định tổn thất. + Doanh thu nhận tái bảo hiểm. + Thu từ hoạt động nhượng tái bảo hiểm. + Kết dư dự phòng năm trước chuyển sang. + Thu khác. -Thu nhập từ hoạt động đầu tư: lãi của hoạt động đầu tư và thu từ các hoạt động khác. 1.4.1.2. Tổng chi nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới: (TC) Tổng chi của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là toàn bộ số tiền mà công ty bảo hiểm chi ra cho quá trình kinh doanh nghiệp vụ này trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng chi của nghiệp vụ này bao gồm: - Chi kinh doanh bảo hiểm + Chi phí bảo hiểm gốc: chi bồi thường tổn thất, chi hoa hồng, chi giám định tổn thất, chi đòi người thứ 3, chi đánh giá rủi ro, chi đề phòng hạn chế tổn thất… + Chi giảm thu: chi hoàn phí, giảm phí. + Chi hoạt động nhận tái bảo hiểm: Chi bồi thường nhận tái bảo hiểm, hoàn trả hoa hồng nhận tái bảo hiểm, chi đánh giá rủi ro, chi hoàn phí, giảm phí… + Chi hoạt động nhượng tái bảo hiểm: chi phí nhượng tái bảo hiểm, chi hoa hồng nhượng tái bảo hiểm… … - Chi hoạt động đầu tư. 1.4.1.3. Lợi nhuận của nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới: Lợi nhuận của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là toàn bộ số tiền còn lại của doanh thu nghiệp vụ sau khi đã trừ đi tất cả các khoản chi phí. Dựa vào kết quả thu, chi sẽ tính được lợi nhuận mà doanh nghiệp bảo hiểm thu được từ nghiệp vụ trong khoảng thời gian nhất định. Có hai chỉ tiêu lợi nhuận: Lợi nhuận trước thuế = Tổng doanh thu ─ Tổng chi phí Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế ─ Thuế thu nhập doanh nghiệp 1.4.2. Chỉ tiêu hiệu quả: Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu đo lường sự phát triển của doanh nghiệp bằng cách so sánh kết quả thu được với chỉ tiêu bỏ ra sẽ thu được chỉ tiêu hiệu quả. H = K C Trong đó: K: kết quả thu được C: chi phí bỏ ra H: hiệu quả Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới thường sử sụng chủ yếu các chỉ tiêu: - Hiệu quả theo doanh thu: Hd = D C - Hiệu quả theo lợi nhuận: He = L C Trong đó: Hd, He: hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm tính theo doanh thu và lợi nhuận. D : doanh thu trong kỳ. L : lợi nhuận thu được trong kỳ. C : tổng chi phí chi ra trong kỳ. Ngoài ra, để đánh giá hiệu quả kinh doanh của một nghiệp vụ còn có thể sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả về mặt xã hội hoặc đánh giá hiệu quả qua từng khâu công việc, cụ thể như sau: - Hiệu quả về mặt xã hội: Hx = KTG CBH Hx = KBT CBH Trong đó: Hx : hiệu quả xã hội của công ty bảo hiểm. CBH: tổng chi phí cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong kỳ. KTG: số khách hàng tham gia bảo hiểm trong kỳ. KBT: số khách hàng được bồi thường trong kỳ. - Với từng nghiệp vụ cụ thể, sử dụng các chỉ tiêu phân tích: HNV = DNV CNV HNV = LNV CNV Trong đó: HNV: hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm. DNV: doanh thu nghiệp vụ. CNV: Chi phí nghiệp vụ. LNV: lợi nhuận nghiệp vụ. - Mỗi nghiệp vụ bảo hiểm khi triển khai thường thông qua các khâu công việc. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì bao gồm các khâu: khâu khai thác, khâu đề phòng và hạn chế tổn thất, khâu giám định và giải quyết bồi thường. Để đánh giá hiệu quả các khâu này ta dùng các chỉ tiêu: + Khâu khai thác: HKT = KKT CKT Trong đó: HKT: hiệu quả khai thác bảo hiểm. KKT: kết quả khai thác trong kỳ. CKT: chi phí khai thác trong kỳ. Kết quả khai thác trong kỳ có thể là doanh thu phí bảo hiểm hoặc cũng có thể là số lượng hợp đồng, số đơn bảo hiểm cấp trong kỳ… Còn chi phí khai thác có thể là tổng chi phí trong khâu khai thác hoặc cũng có thể là số đại lý khai thác trong kỳ. + Khâu đề phòng hạn chế tổn thất: HTT = LTT CTT Trong đó: HTT: hiệu quả đề phòng hạn chế tổn thất. LTT: lợi nhuận nghiệp vụ bảo hiểm trong kỳ. CTT: chi phí đề phòng hạn chế tổn thất trong kỳ. Kết quả chỉ tiêu nói lên cứ một đồng chi phí đề phòng hạn chế tổn thất chi ra trong kỳ tham gia tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận của nghiệp vụ bảo hiểm. + Khâu giải quyết bồi thường: HBT = KBT CBT Trong đó: HBT: hiệu quả giải quyết bồi thường. KBT: kết quả giải quyết bồi thường trong kỳ. CBT: chi phí cho công tác giải quyết bồi thường trong kỳ. Kết quả giải quyết bồi thường trong kỳ là số khách hàng đã được bồi thường trong kỳ. Còn chi phí bồi thường trong kỳ là tổng chi phí phải bỏ ra để thực hiện công tác này. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI TẠI PJICO GIAI ĐOẠN 2003 – 2007 2.1. Khái quát về công ty PJICO: 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển: Trước năm 1995 ở Việt Nam chỉ có một công ty bảo hiểm duy nhất là Bảo Việt. Xuất phát từ thực tế thị trường bảo hiểm của Việt Nam còn khá mới mẻ và rất nhiều tiềm năng, đồng thời với sự ra đời nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 của Chính Phủ về bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm đã tạo điều kiện cho Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam thành lập công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex. Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (PJICO) là doanh nghiệp cổ phần được thành lập theo giấy phép số 1873/GP - UB ngày 8/6/1995 do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp với thời gian hoạt động là 25 năm, vốn điều lệ ban đầu là 53 tỷ đồng, tổng tài sản là 440 tỷ đồng. Công ty được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động và kinh doanh bảo hiểm số 06/TC/GCN ngày 27/5/1995 của Bộ tài chính. Ngày 1/6/1995 Đại hội đồng cổ đông họp và thông qua điều lệ, phương án kinh doanh bảo hiểm và bầu ra Hội đồng quản trị. Ngày 21/6/1995 công ty chính thức đi vào hoạt động. Ngày 15/4/2004 PJICO nhận giấy phép điều chỉnh số 06/GPĐC12/KDBH của Bộ tài chính cho phép công ty bổ sung vốn điều lệ lên 70 tỷ đồng. Ngày 26/4/2006 PJICO nhận giấy phép điều chỉnh số 06/GPĐC19/KDBH cho phép công ty bổ sung vốn điều lệ lên 140 tỷ đồng. PJICO hoạt động theo Luật kinh doanh bảo hiểm và điều lệ hoạt động đã được Đại Hội đồng Cổ đông thông qua. Doanh nghiệp được Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh ngày 15/6/1995 và đăng kí kinh doanh thay đổi lần 3 số 060256 ngày 17/10/2005. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh tài chính của PJICO gồm kinh doanh Bảo hiểm phi nhân thọ, Tái bảo hiểm và đầu tư tài chính. Các cổ đông sáng lập PJICO gồm: Số TT Tên cổ đông Số cổ phần Tỷ trọng (%) 1 Tổng công ty xăng dầu Việt Nam 3.570.000 51 2 Ngân hang Ngoại Thương Việt Nam 700.000 10 3 Tổng công ty thép Việt Nam 420.000 6 4 Công ty Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam 560.000 8 5 Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ 210.000 3 6 Công ty điện tử Hà Nội Hanel 140.000 2 7 Công ty TNHH thiết bị an toàn AT 35.000 0,5 8 200 cổ đông khác 1.365.000 19,5 Cộng 7.000.000 100 ( Nguồn: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex) Bắt đầu từ ngày 1/3/2008 PJICO thành lập Hội Sở Hà Nội và chuyển các văn phòng, chi nhánh trên địa bàn về chịu sự quản lý trực tiếp của Hội Sở. 2.1.2. Các sản phẩm bảo hiểm mà PJICO đang kinh doanh: Với cơ chế năng động của một công ty cổ phần, với phương châm hoạt động tất cả vì khách hàng, sau hơn 10 năm hoạt động PJICO đã triển khai thực hiện được rất nhiều nghiệp vụ bảo hiểm, các sản phẩm bảo hiểm ngày càng được đa dạng hoá và hoàn thiện hơn. Cụ thể: - Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển: + Bảo hiểm hàng xuất. + Bảo hiểm hàng nhập. + Bảo hiểm hàng vận chuyển trong nước. - Bảo hiểm xe cơ giới: + Bảo hiểm mô tô - xe máy: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe. Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe. Bảo hiểm vật chất xe. + Bảo hiểm ô tô: Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe. Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người ngồi trên xe. Bảo hiểm TNDS hàng hoá trên xe. Bảo hiểm TNDS đối với người thứ ba. - Bảo hiểm con người: + Nhóm sản phẩm phục vụ mọi đối tượng: Bảo hiểm theo quy tắc kết hợp về bảo hiểm con người. + Nhóm các sản phẩm phục vụ khách du lịch tại Việt Nam: Bảo hiểm con người Việt Nam du lịch trong nước. Bảo hiểm khách nước ngoài du lịch tại Việt Nam. + Nhóm các sản phẩm phục vụ khách du lịch hoặc công chức Việt Nam đi công tác ở nước ngoài: Bảo hiểm người Việt Nam đi du lịch nước ngoài ngắn hạn được phục vụ hỗ trợ cấp cứu toàn cầu. Bảo hiểm cho công chức Việt Nam đi công tác nước ngoài ngắn hạn được phục vụ hỗ trợ cấp cứu toàn cầu. Bảo hiểm người Việt Nam đi du lịch nước ngoài (không sử dụng dịch vụ cứu trợ toàn cầu). + Nhóm các sản phẩm bảo hiểm phục vụ học sinh, sinh viên: Bảo hiểm toàn diện đối với học sinh. Bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ toàn diện cho học sinh. + Nhóm sản phẩm bảo hiểm cho đối tượng, ngành nghề đặc thù: Bảo hiểm tai nạn lao động ngành xây dựng. Bảo hiểm sinh mạng người vay tín chấp. Bảo hiểm tai nạn hành khách đường bộ, đường sắt, đường sông và đường hàng không. - Bảo hiểm tàu thuỷ: + Bảo hiểm thân, vỏ tàu. + Bảo hiểm TNDS chủ tàu. - Bảo hiểm xây dựng lắp đặt. - Một số loại hình bảo hiểm khác… - Nhận và nhượng tái bảo hiểm liên quan đến các nghiệp vụ trên. Bên cạnh việc kinh doanh bảo hiểm, PJICO còn thực hiện các hoạt động kinh doanh khác như: - Hoạt động đầu tư vốn. - Các dịch vụ: giám định, điều tra, tính toán phân bổ tổn thất, đại lí giám định, xét giải quyết bồi thường và đòi người thứ ba. - Cho thuê văn phòng. - Dịch vụ mua bán, sửa chữa, cứu hộ và kinh doanh phụ tùng ô tô. - Mua bán, bảo dưỡng xe có động cơ và mô tô, xe máy, phụ tùng cho xe có động cơ, xăng, dầu, mỡ. - Kinh doanh dịch vụ khách sạn, nhà hàng, du lịch. - Đầu tư kinh doanh phát triển nhà và các dịch vụ liên quan đến bất động sản. - Mua bán hàng hoá, thương mại và đại lí môi giới, đấu giá. 2.1.3. Bộ máy tổ chức: Là công ty cổ phần Bảo hiểm đầu tiên ra đời tại Việt Nam, PJICO luôn không ngừng lớn mạnh. Với một mô hình doanh nghiệp đang được nhà nước nước khuyến khích, ủng hộ, PJICO đã và đang xây dựng được hình ảnh, niềm tin thực sự trong tâm trí khách hàng. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của PJICO được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động của PJICO ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ TỔNG GIÁM ĐỐC CHI NHÁNH HẢI PHÒNG CHI NHÁNH TP HCM CHI NHÁNH ĐÀ NĂNG CHI NHÁNH QUẢNG NINH CHI NHÁNH THÁI NGUYÊN CHI NHÁNH HÀ TÂY CHI NHÁNH HUẾ CHI NHÁNH BÁC NINH CHI NHÁNH NGHỆ AN CHI NHÁNH QUẢNG BÌNH CHI NHÁNH THANH HOÁ CHI NHÁNH LÂM ĐỒNG CHI NHÁNH BÌNH ĐỊNH CHI NHÁNH TÂY NGUYÊN ………. PHÒNG BẢO HIỂM HÀNG HẢI PHÒNG PHI HÀNG HẢI PHÒNG XE CƠ GIỚI PHÒNG TÀI SẢN HỎA HOẠN PHÒNG THỊ TRƯỜNG & QUẢN LÝ NGHIỆP VỤ PHÒNG TÁI BẢO HIỂM PHÒNG GIÁM ĐỊNH BỒI THƯỜNG PHÒNG ĐẦU TƯ PHÒNG KẾ TOÁN PHÒNG TỔNG HỢP PHÒNG TỔ CHỨC LAO ĐỘNG PHÒNG ĐÀO TẠO PHÒNG THANH TRA PHÁP CHẾ PHÒNG QUẢN LÝ ĐẠI LÝ PHÒNG NGHIỆP VỤ, QUẢN LÝ & KIỂM SOÁT PHÒNG BẢO HIỂM KHU VỰC 1 PHÒNG BẢO HIỂM KHU VỰC 2 PHÒNG BẢO HIỂM KHU VỰC 3 PHÒNG BẢO HIỂM KHU VỰC 4 PHÒNG BẢO HIỂM KHU VỰC 5 PHÒNG BẢO HIỂM KHU VỰC 6 PHÒNG BẢO HIỂM KHU VỰC 7 PHÒNG BẢO HIỂM KHU VỰC 8 PHÒNG BẢO HIỂM KHU VỰC 9 PHÒNG BẢO HIỂM KHU VỰC 10 PHÒNG BẢO HIỂM KHU VỰC 11 PHÒNG BẢO HIỂM ĐÔNG ANH CÁC PHÒNG BẢO HIỂM KHU VỰC 1 - 12 PHÓ T.GIÁM ĐỐC PHÓ T.GIÁM ĐỐC PHÓ T.GIÁM ĐỐC BAN KIỂM SOÁT 49 CHI NHÁNH TRÊN 2000 ĐẠI LÝ Bộ máy quản lý ở tầm vĩ mô của công ty bao gồm: Đại hội đồng cổ đông: có nhiệm vụ thông qua, bổ sung, sửa đổi điều lệ; thông qua định hướng phát triển trung và dài hạn; quyết định tăng giảm vốn điều lệ; thông qua các báo cáo của Hội đồng quản trị; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và quyết định bộ máy tổ chức của công ty. Đại hội đồng cổ đông chính là cơ quan quyết định cao nhất của PJICO. Hội đồng quản trị: Là cơ quan quản lý cao nhất của công ty, có toàn quyền nhân danh PJICO để quyết định mọi vấn đề quan trọng liên quan đến mục đích, quyền lợi của PJICO trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị PJICO gồm 9 thành viên: 3 thành viên đại diện cổ đông Petrolimex, 5 thành viên đại diện cho 5 cổ đông lớn (Vietcombank, Vinare, VSC, Matexim, Hanel), 1 thành viên đại diện cho các cổ đông thể nhân. Ban kiểm soát: gồm 5 thành viên do Đại hội đồng cổ đông bầu ra. Ban kiểm soát có chức năng kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong hoạt động quản lý của Hội đồng quản trị, hoạt động kinh doanh của Tổng giám đốc; kiểm soát, giám sát việc chấp hành điều lệ và nghị quyết Đại hội cổ đông. Ban Tổng giám đốc: Ban tổng giám đốc điều hành PJICO gồm 4 thành viên: 1 Tổng giám đốc, 3 Phó Tổng giám đốc. Tổng giám đốc do Hội đồng quản trị bổ nhiệm, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và Đại hội cổ đông về điều hành và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của PJICO giai đoạn 2003 - 2007: Sau hơn 10 năm đi vào hoạt động, PJICO không ngừng phát triển và trở thành một trong những công ty bảo hiểm hàng đầu trong lĩnh vực phi nhân thọ của Việt Nam. Doanh thu và lợi nhuận của công ty liên tục tăng qua các năm. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 2.1: Doanh thu và lợi nhuận của PJICO giai đoạn 2003 - 2007 Năm Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 Doanh thu Tr.đ 251017 695997 840293 788166 962153 Tốc độ tăng doanh thu % _ 77,271 20,732 -6,203 22,075 Lợi nhuận Tr.đ 16534 25046 29631 27284 34273 Tốc độ tăng lợi nhuận % _ 51,482 18,306 -7,921 25,616 Doanh thu hoạt động KDBH Tr.đ 236779 675411 817182 759594 932894 Tỉ trọng doanh thu hoạt động KDBH trong tổng doanh thu % 94,328 97,042 97,25 96,375 96,959 ( Nguồn: Báo cáo tài chính của PJICO giai đoạn 2003 – 2007) Qua bảng số liệu trên có thể thấy được kết quả hoạt động kinh doanh của PJICO trong giai đoạn 2003 – 2007: Doanh thu và lợi nhuận của PJICO tăng nhanh qua các năm. Năm 2003 lợi nhuận mới là 16534 triệu đồng thì năm 2007 con số này đã lên tới 34273 triệu đồng gấp 2,1 lần. Đặc biệt, doanh thu tăng rất nhanh, từ con số 251017 triệu đồng năm 2003 đã tăng lên 962153 triệu đồng vào năm 2007 gấp 3,83 lần. Tốc độ tăng của doanh thu và lợi nhuận cũng tăng trong giai đoạn 2003 – 2007. Đặc biệt năm 2004 PJICO có tốc độ tăng doanh thu kỉ lục là 77,271%, tuy nhiên tốc độ tăng về lợi nhuận trong năm này chỉ là 51,482% điều đó có nghĩa là tuy doanh thu tăng mạnh nhưng hiệu quả kinh doanh chưa cao. Bên cạnh đó, vào năm 2006, do sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường và những biến động trong nội bộ công ty tốc độ tăng của doanh thu và lợi nhuận có phần giảm bớt nhưng PJICO đã nhanh chóng chấn chỉnh và lấy lại được vị thế của mình trên thị trường thể hiện ở tốc độ tăng của năm 2007 về doanh thu là 22,075% và lợi nhuận là 25,616%. Với mức doanh thu và lợi nhuận khá cao, hầu hết tăng qua các năm chứng tỏ PJICO hoạt động kinh có doanh hiệu quả. Là một công ty bảo hiểm, doanh thu từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng doanh thu của PJICO. Thể hiện: năm 2003 doanh thu từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm là 236779 triệu đồng chiếm 94,328% tổng doanh thu, năm 2007 con số này tăng lên tới 932894 triệu đồng chiếm 96,959% tổng doanh thu. Điều đó chứng tỏ rằng hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn được PJICO coi trọng và đặt lên hàng đầu, không ngừng phấn đấu để đạt kết quả cao nhất. Với nỗ lực không mệt mỏi của tập thể cán bộ nhân viên PJICO đã được đền đáp bằng sự phát triển liên tục với doanh thu tăng trưởng bình quân hàng năm trên 50%, vốn tích luỹ dự phòng gấp hơn 10 lần so với vốn đóng góp ban đầu. Công ty đã được Đảng và nhà nước tặng nhiều giải thưởng cao quý: Huân chương lao động hạng III năm 2000. Danh hiệu Sao Đỏ năm 2003. Danh hiệu Sao Vàng Đất Việt năm 2004. Nhưng vượt lên tất cả đó là sự tín nhiệm của khách hàng trong cả nước. Giờ đây, PJICO đã thực sự trở thành một trong những công ty bảo hiểm hàng đầu Việt Nam, đứng vị trí thứ 4 trên thị trường Bảo hiểm phi nhân thọ. 2.2. Thực trạng triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO giai đoạn 2003 – 2007: Ngay từ những ngày đầu thành lập, nhận thức được sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới, PJICO đã thực hiện triển khai nghiệp vụ này. Hàng năm, nghiệp vụ luôn mang lại doanh thu và lợi nhuận lớn cho công ty. Tuy nhiên, hiện nay PJICO chỉ thực hiện bảo hiểm vật chất xe ô tô vì việc giám định bồi thường khi có rủi ro tai nạn thường trải qua nhiều bước; trong khi đó, chi phí sửa chữa xe máy khi thiệt hại nhìn chung là nhỏ nên số tiền bồi thường không đáng kể. Do vậy, khách hàng ít có nhu cầu tham gia bảo hiểm vật chất cho loại xe này. Trong năm 2007 vừa qua, doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới của PJICO tiếp tục tăng lên, đứng thứ ba trên thị trường thể hiện qua bảng: Bảng 2.2: Doanh thu, thị phần bảo hiểm xe cơ giới của các công ty năm 2007 TT Tên doanh nghiệp Doanh thu 2006 (tỷ đồng) Doanh thu 2007 (tỷ đồng) Tỷ lệ tăng trưởng Thị phần 1 Bảo Việt 656,77 835,82 27% 34,66% 2 Bảo Minh 392,50 506,10 29% 21% 3 PJICO 285,74 463,13 62% 19,2% 4 PVI 105,48 222,98 111% 9,2% 5 PTI 112,66 127,88 13% 5,3% 6 DN khác 158,75 255,26 61% 10,6% Tổng 1.711,90 2.411,17 40% 100% (Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam) Thông qua bảng trên có thể thể hiện được thị phần của các doanh nghiệp trong nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới trên thị trường qua biểu đồ sau: Năm 2007, PJICO vẫn đứng thứ ba trên thị trường ở nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới (sau Bảo Việt và Bảo Minh). Tuy nhiên đã thu hẹp khoảng cách với Bảo Minh. Việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô của PJICO được thực hiện qua các khâu công việc dưới đây: 2.2.1. Khâu khai thác: Khi triển khai bất kì một nghiệp vụ bảo hiểm nào, khâu khai thác luôn là khâu đầu tiên quan trọng quyết định tới sự thành công của nghiệp vụ, đem về doanh thu cho công ty. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tự nguyện nên kết quả triển khai phụ thuộc rất nhiều vào số lượng khác hàng tham gia. Nhận thức được điều đó, PJICO luôn nỗ lực tìm kiếm khách hàng và đã rất thành công. Hàng năm, nghiệp vụ này luôn đem lại nguồn thu lớn cho công ty, chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu. Có được điều đó là nhờ PJICO đã thực hiện các biện pháp tiếp cận khách hàng một cách tốt nhất. Công ty luôn đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: ti vi, đài, báo, các biển quảng cáo… Nhờ đó, người dân có thể biết đến PJICO một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Với hệ thống chi nhánh, văn phòng đại diện, đại lý, cộng tác viên rộng khắp cả nước là một điều kiện rất thuận lợi nữa mà công ty đã tạo dựng thành công để tiếp cận khách hàng và khai thác hiệu quả. PJICO sử dụng hai kênh khai thác chủ yếu cho nghiệp vụ này là: trực tiếp và gián tiếp qua đại lý môi giới. Trực tiếp ở đây có nghĩa là các cán bộ bảo hiểm của công ty trực tiếp khai thác khách hàng. Kênh này có ưu điểm là: các hợp đồng khai thác thường có giá trị lớn do mối quan hệ rộng của cán bộ nhân viên bảo hiểm; công ty không phải tăng nhân sự, do đó tiết kiệm được chi phí. Hơn nữa, các cán bộ nhân viên công ty là những người được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ, có kinh nghiệm nên các hợp đồng được thực hiện luôn có độ tin cậy cao và ít xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên, công việc của cán bộ nhân viên công ty không chỉ là khai thác mà họ còn phải thực hiện các công việc thường nhật tại công ty như: quản lý, giải quyết bồi thường… Do đó, rất hạn chế về địa bàn và thời gian khai thác. Song song với việc khai thác trực tiếp, công ty còn kết hợp cả kênh khai thác gián tiếp thông qua hệ thống đại lý và môi giới giúp mở rộng thị trường, thúc đẩy bán hàng nhanh chóng, hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tìm đến với các sản phẩm của công ty, tiết kiệm được chi phí, giảm thời gian… và được hưởng các dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt nhất, nhanh nhất. Với những nỗ lực phấn đấu không ngừng của PJICO trong những năm qua, công ty đã đạt được kết quả đáng mừng trong khâu khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô. Điều đó thể hiện cụ thể qua bảng sau: Bảng 2.3: Tình hình khai thác bảo hiểm vật chất xe ô tô tại PJICO (2003 – 2007) Năm Chỉ tiêu Đ.vị 2003 2004 2005 2006 2007 Số xe ô tô thực tế lưu hành chiếc 675 000 774 824 891 104 1 026 512 1 183 260 Tốc độ tăng trưởng của xe thực tế lưu hành % - 14,80 15,00 15,20 15,27 Số xe ô tô tham gia bảo hiểm vật chất tại PJICO chiếc 15 131 36 896 45 657 41 765 47 384 Tốc độ tăng trưởng của xe tham gia bảo hiểm % - 43,84 23,75 - 9,14 13,45 Tỷ lệ khai thác % 2,24 4,76 5,12 4,07 4,00 Doanh thu phí bảo hiểm trđ 59 000 123 000 151 000 141 000 153 000 Mức tăng tuyệt đối doanh thu phí bảo hiểm trđ - 64 000 28 000 (10 000) 12 000 ( Nguồn: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex ) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33091.doc
Tài liệu liên quan