Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt tại BIC

LỜI MỞ ĐẦU Nghiệp vụ Bảo hiểm cháy là một trong những nghiệp vụ truyền thống của BIC. Trong những năm qua việc khai thác nghiệp vụ này luôn là thế mạnh của công ty, doanh thu của nghiệp vụ thường chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu doanh thu phí bảo hiểm gốc. Đặc biệt kể từ sau khi Chính phủ ban hành nghị định 130/2006/NĐ- CP ngày 8/11/2006 quy định chế độ Bảo hiểm cháy nổ bắt buộc thì đối tượng tham gia bảo hiểm ngày càng được mở rộng, tạo tiền đề cho các doanh nghiệp khai thác tiềm năng này.

doc117 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt tại BIC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tuy nhiên hiện tại thị trường Bảo hiểm cháy còn nhiều khoảng trống, việc khai thác nguồn doanh thu này không hề đơn giản, đặt ra bài toán khó cho tất cả các doanh nghiệp trong đó có cả BIC. Nhận thức được tầm quan trọng của hỏa hoạn nói chung cũng như nghiệp vụ Bảo hiểm cháy ở BIC nói riêng, em đã chọn đề tài:“ Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt tại BIC” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình để giúp mọi người có cái nhìn tổng hợp nhất về loại hình nghiệp vụ bảo hiểm cơ bản này. Trong thời gian thực tập ở BIC, được sự giúp đỡ nhiệt tình của tập thể ban lãnh đạo của công ty nói chung cũng như các anh chị phòng kinh doanh khu vực Đống Đa nói riêng và sự chỉ bảo hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Hải Đường em đã hoàn thành tốt chuyên đề. Tuy nhiên do hạn chế về nguồn tài liệu và kiến thức có hạn, đề tài còn gặp nhiều khiếm khuyết và sai sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của cô giáo và các anh chị để bài viết hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn. NỘI DUNG CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT I. SỰ CẦN THIẾT VÀ TÁC DỤNG CỦA BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT 1. Vài nét về lịch sử ra đời và phát triển của nghiệp vụ Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt . Trên thế giới Trong quá trình tồn tại và phát triển loài người luôn phải đối mặt với những rủi ro tai ương, thảm hoạ xảy ra bất ngờ như động đất, núi lửa, bão, bạo loạn chiến tranh…Trong đó cháy được coi là một trong những rủi ro nguy hiểm nhất. Theo lịch sử để lại từ thời Trung đại rồi Phục Hưng, ở Châu Âu vẫn chưa có có một hệ thống phòng cháy hữu hiêụ nào hơn hệ thống sử dụng từ thời các hoàng đế La mã trị vì. Ở các thành phố lớn và thị trấn, nhà nào cũng phải dự trữ các xô đầy nước. Vào ban đêm đội tuần tra đi dọc các phố hễ thấy nhà nào có nguy cơ cháy là họ báo ngay cho chủ nhà. Nếu có hoả hoạn xảy ra thì thiệt hại từ cháy có thể được phường hội giúp đỡ với điều kiện họ phải là hội viên. Tuy nhiên khoản trợ giúp này chỉ mang tính chất động viên khích lệ chứ chưa thể coi là một khoản bồi thường thực sự. Phường hội đầu tiên kiểu này do các nhà buôn thành phố Rowen (Pháp) thành lập năm 1374 trong nhà thờ Saint Patree. Nhưng thời bấy giờ dân chúng vẫn có tư tưởng xem hoả hoạn là rủi ro không thể tránh khỏi cũng như nạn đói, chiến tranh và các dịch bệnh khác… Hiệp hội BH cháy đầu tiên ra đời ở Đức năm 1591mang tên là Feuer Casse. Một thời gian ngắn sau đó xuất hiện thêm một vài tổ chức nữa nhưng không để lại dấu ấn gì lớn cho đến giữa thế kỷ 17. Phải đến năm 1666, sau khi chứng kiến vụ cháy khủng khiếp ở thủ đô Luân Đôn diễn ra trong vòng 7 ngày 8 đêm, thiêu huỷ 13.200 ngôi nhà, 87 nhà thờ và rất nhiều tài sản có giá trị khác, người dân Anh mới thực sự nhận thức được tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống PCCC và bồi thường cho người thiệt hại một cách hữu hiệu. Với mức độ nghiêm trọng của thảm hoạ này khiến các nhà kinh doanh của Anh phải nghĩ ngay đến việc cộng đồng chia sẻ rủi ro trong hoả hoạn. Do vậy năm 1667 ở Anh đã xuất hiện một số văn phòng cung cấp dịch vụ PCCC .Trong thời gian thành phố được kiến thiết lại, một nhà vật lý người Anh tên là Nicolas Bavbon đã bắt đầu nhận BH cháy cho những ngôi nhà xây dựng lại. Ban đầu công ty của ông hoạt động theo hình thức tư nhân, nhưng sau đó năm 1684 đã bắt đầu chuyển đổi thành công ty cổ phần với tên gọi là “Friendly Society Fire Office”. Công ty này hoạt động trên nguyên tắc tương hỗ, hệ thống phí cố định và người BH phải chịu một phần thiệt hại xảy ra. Tiếp theo đó một số công ty BH khác cũng theo đó ra đời: Hand in hand (1696), Sun Fire office (1710), Union (1714). Và khi mới ra đời các công ty này chỉ nhận đảm bảo cho hậu quả sự cố “hoả hoạn” gọi là BH cháy đơn thuần. Trước những nhu cầu của nhiều khách hàng muốn được BH chống lại các rủi ro đặc biệt có mức độ tổn thất tương tự hoả hoạn với chi phí thấp và thể thức đơn giản, các công ty phải thiết kế những bản hợp đồng BH phối hợp giữa rủi ro hoả hoạn và các rủi ro khác như đa rủi ro nhà ở, đa rủi ro của các doanh nghiệp… Từ đó đến nay, nghiệp vụ BH cháy đã được triển khai hầu hết các nước trên thế giới và là một trong những nghiệp vụ BH truyền thống chiếm tỷ trọng doanh thu phí cao của các doanh nghiệp BH. Theo tài liệu thống kê việc kinh doanh BH thì BH cháy có lịch sử gần lâu đời nhất, chỉ đứng sau BH hàng hải. 1.2. Ở Việt Nam Tại Việt Nam trước năm 1945 đã có một công ty BH cháy của Pháp hoạt động. Tuy nhiên do cơ chế bao cấp, Nhà nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại nhằm đảm bảo tài chính cho các doanh nghiệp khi họ không may gặp rủi ro. Vì vậy BH nói chung và BH cháy cháy nói riêng không có điều kiện phát triển. Phải đến tận khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với cơ chế tự hạch toán kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về tài chính, về thiệt hại kinh doanh, cùng với quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/11/1989 của bộ trưởng Bộ Tài chính kèm theo quy tắc và biểu phí BH cháy thì nghiệp vụ này mới chính thức được công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) triển khai và phát triển. Sau một thời gian thực hiện để phù hợp với tình hình thực tế, Bộ Tài chính ban hành thêm một số quyết định khác đối với nghiệp vụ BH cháy: quyết định số 142/TCQĐ về quy tắc và biểu phí mới, quyết định 212/TCQĐ ngày12/4/1993 thay thế cho biểu phí quyết định 142 và mới nhất là quyết định số 28/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 về quy tắc và biểu phí Bảo hiểm cháy bắt buộc. Việc Chính phủ ban hành nghị định 130/2006/NĐ- CP ngày 8/11/2006 quy định chế độ BH cháy nổ bắt buộc kèm theo quyết định số 28 của Bộ Tài chính về quy tắc và biểu phí BH cháy nổ bắt buộc đã tạo cơ sở pháp lý đầu tiên để Bảo Việt cũng như các công ty BH khác triển khai nghiệp vụ BH cháy . Từ năm 1990, nước ta đã có 16 công ty triển khai nghiệp vụ BH cháy với giá trị tham gia BH lên đến 6.200 tỷ đồng. Đến năm 1994 BH cháy được thực hiện ở hầu hết 53 tỉnh thành phố với tổng giá trị BH là 27.000 tỷ đồng. Tuy nhiên các công ty mới chỉ BH chủ yếu cho các kho xăng dầu, còn phần lớn các tài sản như nhà máy, khách sạn, xí nghiệp…trị giá nhiều tỷ đồng vẫn chưa được BH. Giai đoạn 1994-1995 đánh dấu sự ra đời của một số công ty BH phi nhân thọ như Bảo Long, Bảo Minh, Pjico làm cho thị trường BH nói chung và thị trường BH cháy nói riêng bắt đầu phát triển sôi động. Qua một số năm thực hiện, nghiệp vụ này càng phát triển. Năm 2000 doanh thu phí BH đạt 16.200.000USD Mỹ, tăng 16% so 1999. Số lượng công ty BH tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường BH cháy không ngừng tăng với sản phẩm ngày càng đa dạng phong phú. 2. Sự cần thiết và tác dụng của Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt 2.1 Sự cần thiết của Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt Cháy là một trong những rủi ro mang tính chất thảm hoạ và khi xảy ra hậu quả để lại rất nặng nề. Việc khắc phục nó đòi hỏi phải có nguồn tài chính khổng lồ. Theo số liệu thống kê, hàng năm trên thế giới có khoảng 5 triệu vụ cháy lớn nhỏ gây thiệt hại hàng trăm tỷ đô la. Các vụ cháy không chỉ xảy ra ở các nước có nền kinh tế phát triển như Anh, Pháp, Mỹ…nơi mà có nền khoa học, công nghệ đã đạt đến đỉnh cao của sự hiện đại và an toàn thì cháy vẫn xảy ra và ngày càng tăng về số lượng và mức độ nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh của con người. Ở Việt Nam, các vụ cháy xảy ra nhiều, gây thiệt hại lớn đặc biệt tại các khu vực kinh tế phát triển như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…Trong vòng 30 năm, kể từ ngày chủ tịch Hồ Chí Minh ký sác lệnh PCCC ngày 4/10/1961 đến ngày 4/10/1991 đã xảy ra 566.036 vụ cháy lớn nhỏ, gây thiệt hại về vật chất ước tímh 948 tỷ đồng, làm chết 2.574 người, bị thương 4.479 người. Từ năm 1992-1993 cả nước có khoảng 1.710 vụ cháy, làm chết 213 người, bị thương 348 người, ước tính thiệt hại 114,746 tỷ đồng. Giai đoạn 1996-2003, xảy ra 8.015 vụ cháy, gây thiệt hại trên 1.000 tỷ đồng. Tỷ lệ các vụ cháy lớn là 2,47%, thiệt hại lên tới 67,25% tổng thiệt hại. Năm 97 cả nước có 58 vụ cháy chợ trong đó có 4 vụ cháy lớn xảy ra ở Hà Nội, Nam Định, Thành phố Hồ Chí Minh và Nha Trang. Trong những năm gần đây nước ta liên tiếp xảy ra nhiều vụ cháy lớn nhỏ để lại hậu quả nặng nề: + Ngày 16/12/2006 cháy chợ Lớn Quy Nhơn thiêu rụi toàn bộ hàng hoá trong hai dãy nhà hai tầng và một dãy nhà hai tầng tổng diện tích 5.000m2 , tổng thiệt hại trên 120 tỷ đồng. + Ngày 27/3/2007 trung tâm thương mại Sài gòn cháy kho chứa dụng cụ vệ sinh, tổng thiệt hại lên đến 67.150USD. + Ngày 23/5/2007 cháy doanh nghiệp tư nhân Dy Khang ở khu công nghiệp Vĩnh Lộc A (TPHCM), thiệt hại tài sản khoảng 19,2 tỷ đồng. + Ngày 30/6/2007 công ty TNHH Nhị Hà & Tân Việt Phát cháy, tổng giá trị thiệt hại ước tính 20 tỷ đồng. Thiệt hại do cháy gây ra rất nghiêm trọng không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống của một vài cá nhân mà còn tác động mạnh đến cả cộng đồng dân cư, môi trường khí hậu. Để đối phó với cháy từ xa xưa con người dân sử dụng rất nhiều biện pháp khác nhau như PCCC, đào tạo nâng cao trình độ kiến thức và ý thức thông tin tuyên truyền về PCCC. Mặc dù khoa học công nghệ phát triển thì phương tiện PCCC được đổi mới. Tuy nhiên sự phát triển của khoa học công nghệ về an toàn thường chậm hơn so kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất và nguồn vốn đầu tư vào công tác đảm bảo an toàn thường thấp hơn so nguồn vốn đầu tư phát triển. Vì thế ngày càng có nhiều vụ cháy với thiệt hại lớn hơn, nguyên nhân xảy ra cũng khó lường hơn trong đó cũng có cả nguyên nhân xuất phát từ mặt trái công nghệ. Do vậy để đối phó hậu quả của cháy gây ra thì BH vẫn được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất. Ngoài ra khi tham gia BH, người được BH còn có thể nhận được các dịch vụ tư vấn về quản lý rủi ro, PCCC từ phía người BH. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế thị trường, các tổ chức doanh nghiệp, cá nhân đều phải tự chủ về tài chính. Hoạt động sản xuất, đầu tư, khai thác…ngày một gia tăng, khối lượng hàng hoá, vật tư luân chuyển và tập trung rất lớn, công nghệ sản xuất đa dạng phong phú. Nếu xảy ra cháy lớn, họ phải đương đầu với rất nhiều khó khăn về tài chính, thậm chí có thể bị phá sản. Vì vậy bên cạnh việc tích cực PCCC thì BH cháy thực sự là một giá đỡ cho các tổ chức cá nhân tham gia BH. 2.2 Tác dụng của Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt BH cháy là loại hình BHTS, trong đó đối tượng bảo hiểm thường có giá trị BH rất lớn. Khi xảy ra rủi ro hậu quả để lại rất nặng nề không chỉ riêng đối với cá nhân mà còn ảnh hưởng đến cả xã hội. Vì vậy nghiệp vụ BH cháy và rủi ro đặc biệt ra đời có ý nghĩa tác dụng vô cùng to lớn. * Đối với người tham gia Bảo hiểm : Thứ nhất, BH cháy khắc phục tổn thất từ đó góp phần ổn định cuộc sống sản xuất sinh hoạt của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Đối với các cá nhân, hộ gia đình giá trị tài sản đều nằm trong phạm vi ngôi nhà của họ. Theo số liệu thống kê cho thấy trong những năm gần đây, tỷ lệ xảy ra cháy ở các hộ dân cư khá cao chiếm 70,1% số vụ cháy. Do đó khi cháy xảy ra bản thân mỗi người gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Trong các doanh nghiệp, quy mô sản xuất càng rộng, giá trị TS càng lớn. Vì vậy khi có tổn thất do cháy gây ra thì hậu quả thật khôn lường và ảnh hưởng lâu dài tới bản thân doanh nghiệp và cá nhân đơn vị khác có liên quan. Doanh nghiệp phải đứng trước bờ vực cơ nguy cơ mất trắng những TS có giá trị lớn và việc khôi phục sản xuất trở lại là điều vô cùng khó khăn, trong trường hợp xấu nhất là phá sản. BH ra đời giúp cho mỗi cá nhân doanh nghiệp ổn định được cuộc sống cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc bồi thường một cách kịp thời thoả đáng khi không may có tổn thất, từng bước khắc phục hậu quả của những thiệt hại xảy ra đối với họ. Trên cơ sở người tham gia BH cháy đóng góp một khoản phí với tỷ lệ nhỏ so với giá trị TS của mình, các cá nhân doanh nghiệp sẽ nhận được cam kết bồi thường từ phía công ty BH khi co rủi ro xảy ra. Có thể nói BH là “lá chắn kinh tế” hữu hiệu đảm bảo nguồn tài chính cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khi không may xảy ra sự cố bảo hiểm, giúp họ yên tâm sản xuất kinh doanh, tiến hành mở rộng đầu tư góp phần tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, Bảo hiểm cháy còn góp phần tích cực công tác ĐPHCTT, giúp cho cuộc sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân, doanh nghiệp. Rủi ro cháy có thể xảy ra bất cứ đâu bất cứ khi nào.Vì vậy để giảm thiểu xác suất bồi thường cho khách hàng, các công ty BH hết sức quan tâm đến công tác quản trị rủi ro mà trong đó công tác PCCC được đặt lên hàng đầu. Bằng một khoản trích theo tỷ lệ nhất định từ phần phí thu được, các công ty BH sẽ thực hiện các biện pháp ĐPHCTT một cách hiệu quả thông qua công tác thống kê tình hình tổn thất hàng năm, xác định nguyên nhân tổn thất, tư vấn những khu vực có nguy hiểm cao về cháy, thường xuyên phối hợp với khách hàng trong công tác tập huấn PCCC, hỗ trợ khách hàng trang bị phương tiện PCCC …Để làm tốt công tác này, công ty BH cần có những cán bộ chuyên môn giỏi về đánh giá và quản lý rủi ro , tích cực hướng dẫn khách hàng các biện pháp đảm bảo an toàn. Ngoài ra hàng năm các doanh nghiệp cũng thường xuyên đóng góp kinh phí cho hoạt động PCCC theo quy định Nhà nước để đầu tư trang bị PCCC, hỗ trợ tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật và kiến thức phổ thông về PCCC cho toàn dân…Hoạt động này không chỉ có ý nghĩa đối với người tham gia trong công tác hạn chế rủi ro mà có ý nghĩa đối với cả xã hội. Thứ ba, BH cháy còn là chỗ dựa tinh thần cho mọi cá nhân, tổ chức, giúp họ yên tâm trong cuộc sống và trong hoạt động sản xuất kinh doanh BH thể hiện tính cộng đồng, tương trợ, nhân văn sâu sắc, góp phần ổn định xã hội. Hậu quả của rủi ro cháy sẽ gây khó khăn về tài chính, kinh doanh bị gián đoạn, phá sản…dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng do nhà máy đóng cửa, đình công, bạo loạn gây mất trật tự cho xã hội. Việc triển khai BH cháy gúp nhà đầu tư và nhà thầu mạnh dạn đầu tư phát triển kinh tế vì đã có BH cháy bảo trợ. Từ đó ngày càng tạo công ăn việc làm cho người lao động. Đồng thời tránh sự lo lắng, bất ổn của người dân sống xung quanh khu vực thường xuyên có cháy và nguy cơ xảy ra cháy cao. Bên cạnh đó BH cháy ra đời còn giúp các doanh nghiệp tham gia thuận tiện hơn trong các hoạt động vay vốn của các tổ chức tài chính, Ngân hàng. Vì khi tiến hành cho các doanh nghiệp vay vốn để sản xuất kinh doanh thì các Ngân hàng, quỹ tài chính bao giờ cũng đòi hỏi có thế chấp. Doanh nghiệp đã tham gia BH thì có thể trình hợp đồng BH như một bằng chứng của sự đảm bảo để vay vốn, giúp các Ngân hàng, tổ chức tài chính yên tâm đối với các khoản cho vay bởi vì nếu có rủi ro xảy ra đối với doanh nghiệp đó thì doanh nghiệp sẽ nhận được bồi thường từ phía công ty BH, đảm bảo khả năng trả nợ cao hơn các doanh nghiệp không tham gia BH. Thứ tư, BH cháy góp phần nâng cao ý thức cộng đồng về công tác PCCC và tham gia BH. Đối với các nghiệp vụ BH, đặc biệt BH cháy, công tác thống kê đóng vai trò hết sức quan trọng. Có làm tốt công tác này thì việc tính toán tỷ lệ phí, tỷ lệ tổn thất, tỷ lệ bồi thường mới chính xác được. Thông qua thống kê BH số liệu về các vụ cháy xảy ra trong quá khứ cũng như xác suất xảy ra cháy được thu thập đầy đủ và khoa học. Những tài liệu này có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của người dân về rủi ro cháy. Hơn nữa bằng việc tham gia BH cháy, người tham gia sẽ có ý thức hơn về việc tự bảo vệ TS của mình cũng như cộng đồng thông qua sự tuyên truyền rộng rãi, phổ biến kiến thức PCCC của các nhà BH về nguy cơ, hậu quả của rủi ro cháy. * Đối với Nhà nước và nền kinh tế: BH cháy mang lại lợi ích kinh tế xã hội cho cả doanh nghiệp BH và Nhà nước. Khi nghiệp vụ BH cháy ngày càng được mở rộng, đặc biệt với sự chấp hành nghiêm chỉnh của đối tượng tham gia BH cháy bắt buộc, khoản phí thu được từ khách hàng ngày càng gia tăng, từ đó quỹ BHcháy được hình thành tương đối lớn. Các công ty BH chỉ giữ lại một khoản tiền nhất định trong quỹ để đảm bảo khả năng thanh toán, số còn lại sẽ được mang đi đầu tư sinh lời. Với nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi không nhỏ các công ty BH có thể cho vay, mua trái phiếu, đầu tư bất động sản…Do vậy nền kinh tế chắc chắn luôn nhận được một lượng vốn đầu tư đáng kể từ quỹ của các doanh nghiệp BH khiến cho các hoạt động kinh tế trở nên sôi động, hiệu quả hơn. Với tư cách là trung gian tài chính lớn của nền kinh tế, BH góp phần tạo nguồn quỹ đầu tư dồi dào kích thích thị trường vốn phát triển. Các doanh nghiệp BH đã tạo ra “bàn tay vô hình” thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hậu quả của cháy để lại thường rất nằng nề, số tiền để khắc phục hậu quả thường rất lớn, không có một tổ chức cá nhân nào có thể gánh chịu được mà phải viện tới sự giúp đỡ của Ngân sách Nhà nước. BH cháy ra đời góp phần giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách quốc gia trong việc chi khắc phục hậu quả, tránh nhiều biến động chi tiêu ảnh hưởng đến kế hoạch Ngân sách Nhà nước. Ngoài ra BH cháy còn góp phần tăng thu ngoại tệ cho Nhà nước thông qua hoạt động TBH. Đây là nghiệp vụ có giá trị lớn, để đảm bảo khả năng thanh toán bồi thường, các doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành nhượng tái đồng thời nhận tái từ những hợp đồng lớn. Thị trường BH cháy ngày càng phát triển thì ngày càng có nhiều đơn TBH và mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước. Ngày nay khi nền kinh tế đang mở cửa, có rất nhiều doanh nghiệp đã và đang đầu tư vào nước ta. Các nhà đầu tư nước ngoài rất yên tâm khi đầu tư vào Việt Nam vì những lĩnh vực mà họ hoạt động đều được các công ty BH đứng ra bảo trợ khi không may xảy ra rủi ro tổn thất. Điều này tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình mở rộng phát triển kinh té đối ngoại trong công cuộc xây dựng đất nước. Như vậy với những tác dụng to lớn mà BH nói chung và BH cháy nói riêng mang lại cho cá nhân người tham gia cũng như cho Nhà nước, nhiều quốc gia đã quy định chế độ BH cháy bắt buộc đối với những cơ sở có nguy cơ cháy cao. Ở Việt Nam điều 8 luật kinh doanh BH và điều 9 luật PCCC cũng quy định bắt buộc nghiệp vụ này. II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT 1. Một số khái niệm BH cháy thực chất là loại hình BHTS. Tuy nhiên do tính chất đặc thù riêng của nghiệp vụ chỉ BH cho những rủi ro cháy đơn thuần và các rủi ro đặc biệt đi kèm, nên trong đơn BH cháy và các rủi ro đặc biệt có một số khái niệm, thuật ngữ sau: - Cháy: theo nghĩa thông thường cháy được hiểu là phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát ra ánh sáng. - Hoả hoạn: là cháy xảy ra ngoài sự kiểm soát của con người, ngoài nguồn lửa chuyên dùng và gây thiệt hại về người hoặc tài sản. - Sét: là hiện tượng phóng điện từ các đám mây tích điện tác động vào đối tượng BH. - Nổ: có nhiều hiện tượng nổ, có 2 loại nổ chính: + Nổ lý học: là trường hợp nổ do áp suất trong một thể tích tăng lên quá cao, vỏ thể tích không chịu được áp lực nên bị nổ. Nói một cách khác có thể coi hiện tượng nổ là một việc san bằng bất thình lình sự khác nhau về áp lực giữa hai khối khí. + Nổ hoá học: là hiện tượng nổ do cháy quá nhanh (một phần nghìn hay một phần vạn giây đồng hồ) toả ra nhiều sức nóng, sinh ra nhiều hơi. Nghiên cứu các hiện tượng nổ hoá học thì thấy có đủ ba dấu hiệu của sự cháy, đó là có phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát ra ánh sáng .Vì vậy nổ hoá học thực chất là hiện tượng cháy nhưng cháy với tốc độ nhanh. Các loại thuốc nổ, bom đạn đều là nổ hoá học. Nổ thường gây thiệt hại có tính cơ học cho môi trường xung quanh như phá huỷ, lật đổ hay lan sang rất mạnh. - Đơn vị rủi ro: là một nhóm TS tách biệt nhóm TS khác, cách nhau một khoảng trống lớn hơn khoảng trống tối thiểu hoặc có bức tường chống lửa giữa các nhóm TS đó, không cho lửa cháy lan từ nhóm này sang nhóm khác. Đơn vị rủi ro còn gọi là rủi ro riêng biệt: rủi ro TS này không ảnh hưởng rủi ro TS khác. + Đơn vị rủi ro được coi là cách biệt về không gian nếu TS được BH đảm bảo khoảng cách tối thiểu. Khoảng cách tối thiểu được quy định là khoảng cách tính bằng chiều cao của ngôi nhà cao nhất. Hoặc: Tối thiểu 20m đối với các kho bãi ngoài trời chứa nguyên vật liệu dễ cháy Tối thiểu 15m đối với các ngôi nhà có chứa hay gia công vật liệu dễ cháy Tối thiểu 10m đối với tài sản là loại không cháy hoặc khó cháy Lưu ý trong phạm vi khoảng cách đó không được để vật liệu dễ cháy. Cầu và hành lang nối các nhà làm bằng vật liệu không cháy, các ống khói không liên quan đến việc xác định khoảng cách tối thiểu. + Đơn vị rủi ro được coi là cách biệt về cấu trúc nếu các toà nhà, bộ phận ngôi nhà hoặc kho tàng được ngăn cách bằng tường ngăn cháy. Tường ngăn cháy là cấu trúc xây dựng phân chia đơn vị rủi ro, ngăn cho lửa không cháy lan giữa các đơn vị rủi ro. Tường ngăn cháy phải đáp ứng yếu tố kỹ thuật sau: Có giới hạn chịu lửa ít nhất 90 phút Phải chịu được nhiệt độ trên 1000oC Nếu là nhà cao tầng thì phải được xây kín ở hầu hết các tầng không được so le nhau Nếu mái nhà làm bằng vật liệu khó cháy thì tường ngăn cháy phải được xây dựng sát và khít tới tận mái nhà. Nếu mái nhà làm bằng vật liệu dễ cháy thì phải xây vượt quá phần mái nhà ít nhất 30m Nếu mái nhà có lỗ hở thì phải xây cách ít nhất 5m Không được để được vật liệu hay cấu kiện xây dựng dễ cháy vắt ngang qua tường ngăn cháy - Bậc chịu lửa của công trình: đặc trưng cho khả năng chịu lửa theo tính chất ngôi nhà và công trình, được xác định bởi giới hạn chịu lửa của các kết cấu xây dựng chính. Các công trình có bậc chịu lửa khác nhau thì tỷ lệ phí BH cũng khác nhau. - Giới hạn chịu lửa: là thời gian tính từ khi bắt đầu chịu lửa theo một tiêu chuẩn nhất định đến khi xuất hiện một trong các trạng thái giới hạn của kết cấu. - Tổn thất toàn bộ: + Tổn thất toàn bộ thực tế: trong BH cháy và rủi ro đặc biệt là TS được bảo hiểm bị phá huỷ hoặc hư hỏng hoàn toàn hoặc số lượng còn nguyên nhưng giá trị không còn gì. + Tổn thất toàn bộ ước tính: là TS được BH bị phá huỷ đến mức nếu sửa chữa phục hồi thì chi phí sửa chữa, phục hồi lớn hơn số tiền BH. - Tổn thất bộ phận: là bộ phận của TS bị hư hỏng hoặc bị phá huỷ, thường tồn tại dưới bốn dạng: giảm về giá trị, giảm về số lượng, giảm về trọng lượng và giảm về thể tích. 2. Đặc điểm của Bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt Cháy là một trong số những loại rủi ro gây hậu quả lớn nhất và nặng nề nhất. Bởi vậy trên thế giới hầu hết các công ty BH phi nhân thọ đều triển khai nghiệp vụ này. Ngoài những đặc điểm chung của loại hình BHTS, BH cháy và các rủi ro đặc biệt còn có những đặc điểm riêng sau: Thứ nhất: Những tài sản tham gia BH cháy rất đa dạng và phong phú từ máy móc thiết bị vật tư đến hàng hoá thành phẩm, mỗi loại có khả năng gặp hoả hoạn rất khác nhau. Ngay bản thân một loại TS được làm bằng nguyên vật liệu khác nhau thì khả năng xảy ra hoả hoạn cũng khác nhau. Phạm vi BH hay rủi ro rất dễ xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, do sự vô tình hay hữu ý của con người hay do sự biến động của thiên nhiên gây ra. Chính vì vậy nhà BH rất khó phân loại, kiểm soát và đánh giá rủi ro trước khi ký hợp đồng, và khó có thể đưa ra được những biện pháp ĐPHCTT một cách có hiệu quả cho những TS tham gia BH. Để tránh phải bồi thường nhiều cho đối tượng BH và hạn chế tối thiểu được hiện tượng trục lợi BH cũng như để người tham gia nhận thức chính xác về thực trạng TS của mình, các công ty BH cần có những cán bộ chuyên môn giỏi trong việc đánh giá rủi ro và ĐPHCTT góp phần tạo lòng tin cho khách hàng và tăng doanh thu cho nghiệp vụ BH cháy. Thứ hai: Hoạt động của nghiệp vụ BH cháy mang tính chất kỹ thuật rất phức tạp. Vì đối tượng tham gia BH thường là các TS như: máy móc, nguyên vật liệu, hàng hoá…nên quá trình triển khai sẽ liên quan đến nhiều yếu tố kỹ thuật. Đặc điểm này thể hiện rõ trong từng khâu của nghiệp vụ: xác định giá trị BH, phân chia đơn vị rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro, ĐPHCTT, xác định nguyên nhân cháy, giá trị thiệt hại. Thứ ba: Phí BH cháy phụ thuộc vào nhiều yếu tố tăng giảm rủi ro. Đây là loại hình BH cho đối tượng là TS, và rủi ro cơ bản được BH là rủi ro hoả hoạn, do vậy các yếu tố như: kết cấu của loại TS ( vật liệu xây dựng, bao bì), chất lượng TS, cách thức hay khu vực bố trí TS, các phương tiện PCCC…ảnh hưởng rất lớn đến phí BH. Bởi vì các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến việc gia tăng hay giảm thiểu rủi ro cháy. Nếu khả năng xảy ra rủi ro cháy càng ít thì cả người được BH, nhà BH và xã hội đều có lợi. Người được BH giảm được phí, nhà BH giảm được khả năng phải bồi thường, xã hội không ngưng trệ bởi tổn thất. Thứ tư: Đối tượng của BH cháy thường là các công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng , xí nghiệp... Giá trị TS của các đối tượng này rất lớn nên số tiền BH rất lớn. Mức độ thiệt hại do hoả hoạn gây ra đôi khi mang tính thảm hoạ. Do vậy khi triển khai nghiệp vụ BH này các công ty BH đồng thời phải nghĩ ngay đến việc thực hiện TBH để phân tán rủi ro và các nghiệp vụ bổ sung như: BH gián đoạn kinh doanh, BH trách nhiệm đối với thiệt hại người thứ ba… Bên cạnh đó trong nghiệp vụ này các công ty cũng phải đặc biệt quan tâm đến nguồn tài chính dự trữ dự phòng. Mặc dù có thể xác định khá chính xác phí BH nhưng do các vụ cháy xảy ra không đúng quy luật nên biên độ dao động tổn thất của nghiệp vụ là khá lớn, hậu quả không lường trước được. Do vậy việc duy trì và đảm bảo an toàn cho quỹ dự phòng dao động lớn là rất quan trọng. Như vậy trong quá trình triển khai nghiệp vụ BH cháy và các rủi ro đặc biệt, doanh nghiệp BH cần chú ý những đặc điểm trên để xây dựng những phương án phòng tránh hữu hiệu, phối hợp với lực lượng cảnh sát PCCC để kịp thời xử lý trong mọi tình huống, giải quyết nhanh chóng khiếu nại bồi thường. Điều này mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp BH, giúp tiết kiệm được thời gian tiền bạc trong suốt quá trình BH. 3. Nội dung cơ bản của Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt 3.1 Đối tượng, phạm vi Bảo hiểm 3.1.1 Đối tượng Bảo hiểm BH cháy là loại hình BHTS vì vậy đối tượng BH có giá trị rất lớn, đa dạng, phức tạp. Các đối tượng đó bao gồm là các TS bất động sản, động sản ( trừ phương tiện giao thông, vật nuôi, cây trồng và tài sản đang trong quá trình xây dựng, lắp đặt thuộc loại hình BH khác) thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của các đơn vị, tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Tuy nhiên để giúp cho việc tính phí BH chính xác, giúp công tác giải quyết bồi thường nhanh chóng, đồng thời giúp cho người tham gia BH nhận biết một cách dễ dàng TS tham gia, các công ty BH thống nhất chia đối tượng BH thành năm nhóm cơ bản: + Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng ( trừ đất đai). + Máy móc thiết bị, phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh. + Sản phẩm vật tư, hàng hoá dự trữ trong kho. + Nguyên vật liệu, sản phẩm làm dở, thành phẩm trên dây truyền sản xuất. + Các loại tài sản khác như: kho, bãi, chợ, cửa hàng, khách sạn… 3.1.2 Phạm vi Bảo hiểm Phạm vi BH là giới hạn các rủi ro được BH và giới hạn trách nhiệm của các công ty BH. Trong BH cháy và các rủi ro đặc biệt, nhà BH có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và chi phí sau: + Những thiệt hại do những rủi ro được BH gây ra cho TS . + Những chi phí cần thiết và hợp lý để hạn chế bớt tổn thất TS được BH trong và sau khi cháy. + Những chi phí dọn dẹp hiện trường sau khi cháy. a, Rủi ro được Bảo hiểm: bao gồm rủi ro chính và rủi ro đặc biệt ( rủi ro phụ) * Rủi ro chính ( rủi ro nhóm A): Hoả hoạn Rủi ro này thực chất bao gồm ba phần: cháy, sét. nổ - Cháy: Trong đơn BH cháy tiêu chuẩn không định nghĩa rõ như thế nào là hoả hoạn vì người ta hiểu nó theo nghĩa thông dụng. Tuy nhiên Hoả hoạn được BH phải hội tụ đầy đủ ba yếu tố: + Phải thực sự phát lửa. + Lửa đó không phải lửa chuyên dùng. + Về bản chất đám lửa đó phải là bất ngờ hay ngẫu nhên đối với người được BH chứ không phải cố ý, có chủ định của họ hoặc có sự đồng loã của họ. Tuy nhiên hoả hoạn xảy ra do sự bất cẩn của người được BH vẫn thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường. Khi có đủ ba điều kiện đó và có những thiệt hại vật chất do những nguyên nhân được cho là hợp lý gây ra, những thiệt hại đó vẫn được bồi thường cho dù đó là vì cháy hay do nhiệt hoặc khói. Mặc dù không được nêu rõ trong đơn BH nhưng thiệt hại do hoả hoạn ở đây gồm cả: + Thiệt hại do khói mà mà nguồn lửa gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. + Thiệt hại do nước dùng để chữa cháy. + Thiệt hại do phá vỡ để ngăn chặn cháy lan. + Thiệt hại do việc thực hiện nhiệm vụ chữa cháy + Thiệt hại mà người được BH phải gánh chịu do việc bảo vệ TS và kiểm soát sự phát triển của ngọn lửa. Tuy vậy, hoả hoạn ở đây loại trừ: + Động đất, núi lửa phun hay biến động khác của thiên nhiên + Tài sản bị phá huỷ hay hư hỏng do: Tự lên men hoặc tự toả nhiệt. Chịu tác động của một quá trình xử lý có dùng nhiệt. + Bất kỳ thiệt hại nào gây nên bởi hoặc do cháy rừng, bụi cây, đồng cỏ, hoang mạc, rừng nhiệt đới dù là ngẫu nhiên hay không và đốt cháy với mục đích làm sạch đất đai. Việc loại trừ chỉ nhằm mục đích thống nhất khái niệm hoả hoạn được dùng trong toàn bộ đơn BH. Nếu người BH yêu cầu, TS vẫn có thể được BH bằng những rủi ro phụ riêng biệt. - Sét: Người BH sẽ bồi thường khi TS bị phá huỷ trực tiếp do sét hoặc do sét đánh gây ra cháy. Như vậy khi sét đánh mà không làm biến dạng hoặc gây cháy cho TS được BH thì không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của BH. Cần lưu ý, khi tia sét phá huỷ trực tiếp hoặc làm phát lửa gây cháy đối với các thiết bị điện thì được bồi thường. Nếu tia sét chỉ làm thay đổi dòng điện, mà không gây cháy, dẫn đến thiệt hại do thiết bị điện thì không được bồi thường (sét gián tiếp). - Nổ: Theo rủi ro nhóm A, phạm vi BH chỉ bao gồm: + Nổ nồi hơi phục vụ sinh hoạt. + Nổ các lò sưởi trong gia đình, công xưởng có có sử dụng hơi đốt. Các trường hợp nổ gây ra hoả hoạn nghiễm nhiên được BH. Như vậy ở đây còn lại là những thiệt hại do nổ mà không gây cháy: + Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ nhưng không gây cháy thì không được bồi thường, trừ trường hợp nổ nồi hơi hoặc khí phục vụ sinh hoạt, với điều kiện là sự nổ đó không phải là do các nguyên nhân bị loại trừ. + Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ cháy: thiệt hại ban đầu do cháy được bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả của nổ, ngoài nồi hơi và hơi đốt phục vụ sinh hoạt thi không được bồi thường. Nổ trong rủ._.i ro A chỉ bồi thường những thiệt hại do cháy phát sinh từ nổ. Những thiệt hại từ các mảnh vỡ hoặc do sức ép từ nổ không được bồi thường. - Rủi ro nhóm B: Nổ Nổ trong rủi ro phụ BH cho cả những thiệt hại từ các mảnh vỡ hoặc do sức ép từ nổ. Tuy nhiên loại trừ: + Thiệt hại xảy ra đối với nồi hơi, bình tiết kiệm, bình chứa, máy móc hoặc thiết bị có sử dụng áp lực hoặc đối với các chất liệu chứa trong các máy móc thiết bị đó do chúng bị nổ. Mục đích của loại trừ này để tránh trùng lặp đơn BH kỹ thuật khác (đổ vỡ máy móc), thiệt hại đối với các TS khác vẫn thuộc phạm vi trách nhiệm BH. + Thiệt hại gây nên bởi hoặc do hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp của những hành động khủng bố. - Rủi ro nhóm C: Máy bay và các phương tiện hàng không khác hoặc các thiết bị trên các phương tiện đó rơi vào. - Rủi ro nhóm D: Gây rối, đình công, công nhân bế xưởng. Những thiệt hại gây nên trực tiếp bởi: + Hành động của bất kỳ người nào cùng với những người khác tham gia vào công việc làm mất trật tự xã hội (dù có liên quan đến đình công, bế xưởng bãi công hay không). + Hành động của bất kỳ chính quyền hợp pháp nào trong việc trấn áp hoặc cố găng trấn áp các hành động gây rối hoặc việc hạn chế hậu quả của những hành động gây rối đó. + Hành động cố ý của bất kỳ người đình công hay người bế xưởng bãi công nào nhằm ủng hộ bãi công hoặc chống lại bế xưởng bãi công. + Hành động của bất kỳ chính quyền hợp pháp nào nhằm ngăn chặn hoặc cố gắng ngăn chặn những hành động như vậy hay hạn chế hậu quả của những hành động đó. Rủi ro nhóm D loại trừ: + Những thiệt hại gây nên bởi hay hậu quả gián tiếp hoặc trực tiếp của: Những hành động khủng bố. Phong trào quần chúng có quy mô hoặc có thể phát triển thành một cuộc khởi nghĩa quần chúng. Hành động ác ý của bất kỳ người nào (cho dù hành động đó có được thực hiện trong việc gây mất trất tự xấ hội hay không) khác với hành động cố ý của người tham gia đình công hoặc của công nhân bế xưởng bãi công nhằm ủng hộ bãi công hoặc nhằm chống lại bế xưởng bãi công. Hành động ác ý xóa, làm mất mát sai lệch hay làm hư hỏng thông tin trên hệ thống máy tính hay các hồ sơ chương trình phần mềm khác. + Thiệt hại do mất thu nhập, do chậm trễ, do mất thị trường hay bất kỳ tổn thất nào mang tính chất hậu quả hay mang tính chất gián tiếp khác dưới bất kỳ phương tiện hay hình thức nào. Thiệt hại do ngừng toàn bộ hay một phần công việc hoặc do chậm trễ hoặc do gián đoạn bất kỳ một quy trình hay hoạt động nào. Thiệt hại do bị tước quyền sở hữu vĩnh viễn hay tạm thời do tài sản bị tịch biên, tịch thu, trưng dụng, phá hủy theo lệnh của nhà cầm quyền hợp pháp. Thiệt hại do bị tước quyền sở hữu vĩnh viễn hay tạm thời của bất kỳ ngôi nhà nào do việc chiếm hữu bất hợp pháp các tòa nhà đó của bất kỳ người nào. - Rủi ro nhóm E: Hành động ác ý: Thiệt hại xảy ra đối với TS được BH mà nguyên nhân trực tiếp là hành động ác ý của bất cứ người nào (dù co hành động này có xảy ra trong quá trình gây rối trật tự hay không) nhưng loại trừ những thiệt hại do trộm cắp hoặc mưu toan thực hiện trộm cắp. Rủi ro này chỉ được BH khi người tham gia đã mua BH cho rủi ro nhóm D. - Rủi ro nhóm F: Động đất , núi lửa phun: bao gồm cả lũ lụt và nước biển tràn vào do hậu quả của động đất và núi lửa phun. - Rủi ro nhóm G: Giông bão: Phạm vi bảo hiểm là những thiệt hại gây ra đối với tài sản do ảnh hưởng của thiên nhiên như gió mạnh, mưa lớn kéo dài về mặt không gian và thời gian. Tuy nhiên rủi ro nhóm G loại trừ: + Thiệt hại gây ra do: Nước thoát ra khỏi ranh giới bình thường của các nguồn nước tự nhiên hay nhân tạo, các kênh hồ, đê, đập, các bể chứa nước, thiết bị chứa nước hay đường ống dẫn. Nước tràn từ biển dù là do giông bão hay các nguyên nhân khác. + Thiệt hại gây ra do sương muối, sụt lở đất. + Thiệt hại đối với bạt mái hiên che nắng, mành tre bảng biển hoặc các trang thiết bị lắp đặt phía ngoài, hàng rào, cổng ngõ và các động sản khác để ngoài trời + Thiệt hại đối với các công trình đang trong quá trình xây dựng, cải tạo hay sửa chữa trừ khi các cửa ra vào, cửa sổ và các lỗ thông thoáng khác đã được hình thành và được bảo vệ chống giông bão. + Thiệt hại do nước mưa hoặc mưa, ngoại trừ nước mưa tràn vào tòa nhà thông qua các của hoặc lỗ thông thoáng do tác động trực tiếp của giông bão. - Rủi ro nhóm H: Nước thoát ra từ các bể chưa nước, thiết bị chứa nước hoặc đường ống dẫn nước nhưng loại trừ: + Thiệt hại do nước thoát ra, rò rỉ từ hệ thống chữa cháy tự động sprinkler. + Thiệt hại tại những công trình, ngôi nhà bỏ trống hoặc không có người sử dụng. - Rủi ro nhóm I: Va chạm bởi xe cơ giới hay động vật: thiệt hại trực tiếp phát sinh từ việc va chạm với xe cơ giới hay động vật. Các rủi ro phụ ( rủi ro từ nhóm B đến rủi ro I) không được BH riêng mà chỉ có thể được BH cùng với những rủi ro cơ bản (cháy, sét, nổ- Rủi ro nhóm A). Mỗi rủi ro phụ này cũng không được BH một cách tự động mà chỉ được BH khi khác hàng yêu cầu với điều kiện đóng thêm phí và được ghi rõ trong giấy yêu cầu và giấy chứng nhận BH. b, Các rủi ro loại trừ: Mỗi một rủi ro đều có những điểm loại trừ riêng biệt. Tuy nhiên những rủi ro loại trừ sau được áp dụng chung cho tất cả các rủi ro trong đơn BH cháy: - Các thiệt hại gây ra do + Gây rối, nổi dậy quần chúng, bãi công, công nhân bế xưởng trừ khi rủi ro nhóm D được ghi nhận là được BH thể hiện trong giấy chứng nhận bảo hiểm nhưng chỉ với phạm vi BH đã quy định cho rủi ro đó. + Chiến tranh xâm lược, hành động thù định nước ngoài, hành động gây hấn hay các hành động có tính chất chiến tranh (dù có tuyên chiến hay không), nội chiến. + Những hành động khủng bố. + Binh biến, dấy binh, bạo loạn, khởi nghĩa cách mạng, bạo động, đảo chính, lực lượng quân sự tiếm quyền, thiết quân luật, phong tỏa, giới nghiêm hoặc những biến cố và nguyên nhân dẫn đến việc tuyên bố hay duy trì tình trạng phong tỏa hoặc thiết quân luật. - Các thiệt hại xảy ra đối với bất kỳ các TS nào, hoặc bất kỳ tổn thất hay chi phí nào bắt nguồn từ hay phát sinh từ những nguyên nhân sau đây hoặc bất kỳ những tổn thất có tính chất hậu quả trực tiếp gây ra bởi hoặc phát sinh từ: + Nguyên vật liệu vũ khí hạt nhân. + Phóng xạ ion hóa hay nhiễm phóng xạ từ nhiên liệu hạt nhân hoặc từ chất thải hạt nhân do bốc cháy nguyên liệu hạt nhân. Đối với điểm loại trừ này thuật ngữ “bốc cháy” bao gồm cả quá trình phản ứng phân hủy hạt nhân tự phát. - Các thiệt hại xảy ra đối với bất kỳ máy móc, dụng cụ điện nào hay bất kỳ bộ phận nào của thiết bị điện cho chạy quá tải, quá áp lực, đoản mạch, tự đốt nóng, hồ quang điện hay rò điện do bất kỳ nguyên nhân nào (kể cả sét). - Các thiệt hại gây ra do sự ô nhiễm, nhiễm bẩn, ngoại trừ những thiệt hại đối với TS được BH gây ra do : + Ô nhiễm, nhiễm bẩn từ những rủi ro được BH cháy. + Bất kỳ rủi ro được BH nào mà chính những rủi ro ấy lại phát sinh từ ô nhiễm hay nhiễm bẩn. - Hàng hóa nhận ủy thác hay nhận bảo quản: vàng bạc và đá quý, tiền (tiền giấy hay kim loại), séc, thư bảo lãnh, tín phiếu, tem, tài liệu, bản thảo, sổ sách kinh doanh, hệ thống dữ liệu máy tính, hàng mẫu, vật mẫu, khuôn mẫu, sơ đồ, bản vẽ hay tài liệu thiết kế, chất nổ trừ khi được xác định cụ thể là chúng được BH theo đơn BH này. + Thiệt hại xảy ra đối những TS mà vào thời điểm xảy ra tổn thất, được BH hay lẽ ra được BH theo đơn BH hàng hải, nhưng không loại trừ thiệt hại vượt quá số tiền lẽ ra có thể được bồi dưỡng theo đơn BH hàng hải nếu như đơn BH này chưa có hiệu lực. - Những mất mát hoặc tổn thất mang tính chất hậu quả dưới bất kỳ hình thức nào, trừ thiệt hại về tiền thuê nhà nếu tiền thuê nhà được xác nhận là được BH theo đơn BH và có số tiền BH riêng cho thiệt hại này. 3.2. Giá trị Bảo hiểm và số tiền Bảo hiểm. 3.2.1 Giá trị Bảo hiểm Trong các hợp đồng BHTS, giá trị Bảo hiểm (GTBH) là cơ sở để xác định STBH của hợp đồng. GTBH ở đây là giá trị của tài sản được BH, được tính bằng giá trị thực tế hoặc giá trị mua mới. TS được BH cháy thường đa dạng về chủng loại và có giá trị rất lớn như: nhà cửa, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, hàng hóa vật tư trong kho. Bởi vậy GTBH trong đơn BH cháy và các rủi ro đặc biệt được xác định như sau: - Đối với nhà cửa, vật kiến trúc GTBH được xác định theo giá trị mua mới hoặc giá trị còn lại. + Giá trị mới là giá trị là giá trị ban đầu khi đưa những loại TS này vào sử dụng (giá trị mới xây của ngôi nhà) bao gồm cả chi phí khảo sát thiết kế. + Giá trị còn lại là giá trị mua mới trừ đi hao mòn đã sử dụng theo thời gian (đối với TS đã qua sử dụng). - Đối với máy móc, thiết bị và các loại TS cố định khác: GTBH được xác định trên cơ sở giá trị mua mới cộng chi phí chuyên chở lắp đặt (nếu có) hoặc giá trị còn lại. - Đối với thành phẩm, bán thành phẩm, GTBH được xác định trên cơ sở giá thành sản xuất. - Đối với hàng hóa mua về để trong kho, để trong cửa hàng GTBH được xác định theo giá trị bình quân hoặc giá trị tối đa của các loại hàng hoá có mặt trong thời gian BH. 3.2.2 Số tiền Bảo hiểm Số tiền bảo hiểm (STBH) là giới hạn bồi thường tối đa của người được BH trong trường hợp TS được BH tổn thất toàn bộ. STBH còn là căn cứ để xác định phí BH, Vì thế xác định chính xác STBH có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cơ sở xác định STBH là GTBH. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng do đó số lượng, giá trị TS cũng luôn luôn biến động theo xu hướng ngày càng tăng lên. Thông thường người ta chỉ có thể xác định một cách chính xác giá trị TS tại một thời điểm nào đó còn trong cả một năm, một quý, một tháng là rất khó. Bởi vậy trong BH cháy thuật ngữ STBH được sử dụng rất phổ biến. Đối với các TS cố định việc xác định STBH căn cứ vào GTBH của tài sản. Đối với các TS lưu động, giá trị thường xuyên biến đổi. Vì vậy, STBH trong BH cháy thường được xác định theo hai loại là giá trị trung bình hoặc giá trị tối đa. + Loại 1: STBH tính theo giá trị trung bình: nghĩa là số tiền này được xác định bình quân trong một thời kỳ tham gia BH. Giá trị trung bình này thường được xác định căn cứ sổ sách kế toán của đơn vị tham gia BH và thường được tính theo số bình quân thời điểm hoặc số bình quân gia quyền. Trong thời gian BH, giá trị trung bình này được coi là STBH. Căn cứ vào STBH trung bình này để nhà BH định phí được chính xác và nếu tổn thất toàn bộ xảy ra thì số tiền bồi thường tối đa chỉ bằng STBH tính theo giá trị trung bình đã khai báo. + Loại 2: STBH tính theo giá trị tối đa. Vì lượng hàng hóa, vật tư được luân chuyển liên tục, có những thời điểm có giá trị rất lớn nhưng cũng có thời điểm giá trị rất nhỏ cho nên người tham gia BH cháy có thể tham gia với STBH bằng giá trị tài sản đạt mức tối đa tại một thời điểm nào đó. Đầu mỗi tháng,mỗi quý (tùy theo sự thỏa thuận của hai bên), người được BH thông báo cho công ty BH số hàng tối đa có thực trong tháng, quý trước đó. Cuối thời hạn BH trên cơ sở giá trị được thông báo, công ty BH tính giá trị số hàng tối đa bình quân của cả thời hạn BH và tính lại phí BH. Nếu phí BH tính được trên cơ sở số giá trị tối đa bình quân nhiều hơn số phí BH đã nộp thì người được BH trả thêm cho công ty BH số phí còn thiếu. Trong thời gian tham gia BH, tổn thất thuộc phạm vi BH được người BH bồi thường và số tiền bồi thường vượt quá giá trị tối đa bình quân thì phí BH được tính dựa vào STBH đã trả. Trong trường hợp này số tiền được bồi thường được coi là STBH. Nếu BH theo giá trị tối đa thì thông thường các công ty BH trên thế giới cũng như Việt Nam khi xác định phí người ta chia thành hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất: Chỉ yêu cầu người tham gia BH nộp 75% số phí. Nếu tại thời điểm nào đó STBH đạt mức tối đa thì khi hết hạn hợp đồng BH cháy, người tham gia phải nộp nốt 25% số phí còn lại. Ngược lại không có thời điểm nào đạt mức STBH tối đa và thực tế hoả hoạn cũng không xảy ra nhà bảo hiểm không thu 25% số phí còn lại này. Trường hợp thứ hai: Nếu trong suốt thời hạn bảo hiểm, STBH không bao giờ đạt mức tối đa trung bình thì nhà BH cũng không thu nốt 25% số phí còn lại. Như vậy việc áp dụng BH theo giá trị tối đa rất phức tạp đòi hỏi người được BH phải biết giá trị hàng hóa được BH và theo dõi chặt chẽ trong suốt thời gian tham gia BH. Do đó các doanh nghiệp BH ở Việt Nam hiện nay thường tư vấn cho người tham gia BH với STBH trung bình thuận tiện trong việc theo dõi và tính toán tương đối chính xác. 3.3 Phí bảo hiểm Phí BH chính là giá cả của dịch vụ BH, bởi vậy trong điều kiện cạnh tranh như ngày nay, nhà BH phải xác định chính xác và sát với thực tế, phù hợp với yêu cầu của khách hàng. BH cháy có đối tượng là TS rất đa dạng về chủng loại, giá trị và mức độ rủi ro khác nhau do đó BH cũng khác nhau. Mặc dù vậy công thức chung để tính phí BH cháy như sau: P= Sb x R Trong đó P: phí bảo hiểm Sb: số tiền bảo hiểm R: tỷ lệ phí bảo hiểm Tỷ lệ phí BH chia thành hai loại: + Tỷ lệ phí thuần R1 + Tỷ lệ phụ phí R2 Tỷ lệ phụ phí R2 thường được các công ty BH kế hoạch hóa một cách dễ dàng bằng cách căn cứ vào tài liệu thống kê một số năm trước đó. Phụ phí thường bao gồm cá loại: phí khai thác, phí quản lý, kể cả lãi dự kiến của nhà BH. Tuy nhiên tỷ lệ phí thuần R1 được xác định tương đối phức tạp. Về mặt lý thuyết không còn cách gì hơn là căn cứ vào xác suất rủi ro cháy có thể xảy ra cũng như các thiệt hại do cháy gây ra. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến biểu phí vì đối tượng của BH cháy rất đa dạng về chủng loại, mức độ rủi ro. Bởi vậy không thể áp dụng biểu phí cố định cho tất cả các loại công trình, TS của những công ty có mức độ rủi ro khác nhau và việc phòng cháy khác nhau. Thông thường các công ty BH áp dụng tỷ lệ phí khác nhau cho tất cả các ngành sản xuất, dịch vụ sau đó điều chỉnh tỷ lệ phí theo các yếu tố tăng giảm phí. Trên thực tế một số yếu tố cơ bản sau ảnh hưởng đến biểu phí: - Vật liệu xây dựng: Là nhân tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến tỷ lệ phí thuần. Tùy theo các yếu tố kết hợp vật liệu xây dựng có thể chịu đựng được lâu dài hay không đối với sức nóng, người ta chia thành ba loại: + Loại 1: Vật liệu nặng khó bắt lửa và có khả năng chịu lửa tốt (loại D) như bê tông, sắt thép. + Loại 2: Vật liệu trung gian (loại N): loại này chứa một số chất hóa học trộn với vật liệu thiên nhiên nên khả năng chịu lửa không tốt. + Loại 3: Vật liệu nhẹ (loại L): dễ bắt lửa va không có sức chịu lửa. - Ảnh hưởng của các tầng nhà cũng là yếu tố cơ bản thứ hai ảnh hưởng đến tỷ lệ phí thuần. Khi xảy ra cháy, lửa hoặc hơi nóng sẽ được truyền lên các tầng nhà, qua các cầu thang lên xuống, qua lỗ hổng hoặc qua cửa sổ làm cho các tòa nhà có thể bị sập kéo theo các thiệt hại bên trong. Do đó sức chịu đựng của các tầng nhà cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến phí BH. - Phòng cháy chữa cháy: có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ xảy ra thiệt hại cũng như khả năng xảy ra hỏa hoạn, bởi vậy nó là yếu tố thứ ba ảnh hưởng đến việc tính phí. Công tác PCCC, vị trí gần nguồn nước, đội cứu hỏa…đều là những yếu tố ảnh hưởng đến phí BH. - Cách phân chia đơn vị rủi ro: Theo như tài liệu thống kê của nhiều nước thì cách phân chia rủi ro hoặc tường chống cháy có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ phí. Các đơn vị rủi ro càng gần nhau thì tỷ lệ phí càng cao và ngược lại. - Bao bì đóng gói, chủng loại hàng hóa, cách thức sắp đặt cũng ảnh hưởng đến việc xác định tỷ lệ phí. Việc xác định những yếu tố cơ bản trên đòi hỏi doanh nghiệp BH đặc biệt lưu ý khi đánh giá rủi ro lẫn khi ĐPHCTT, từ đó giúp cho việc tính phí BH được chính xác, phù hợp với từng đối tượng BH. Hiện nay theo đơn BH của Cộng hòa liên bang Đức, các doanh nghiệp BH Việt Nam khi triển khai loại hình BH này cũng xác định hai phương pháp tính tỷ lệ phí thuần R1. * Phương pháp 1: Xác định R1 theo phân loại: Đây là cách xác định R1 phổ biến nhất đối với những loại TS tham gia BH cháy mang tính chất đồng nhất hoặc tương đối đồng nhất (nhà xưởng, khách sạn cao tầng, những công trình kiến trúc…). Khi xác định theo phương pháp này cần phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng tỷ lệ phí: + Vật liệu xây dựng bằng gì. + Khả năng PCCC. + Những vật liệu xung quanh công trình tham gia BH cháy. + Người sử dụng TS (chủ ở hay cho thuê). * Phương pháp 2: Xác định R1 theo danh mục: Đây là phương pháp xác định chi tiết hơn, cụ thể hơn. Theo phương pháp này người ta chia ra các bước như sau: + Bước 1: Xét lại tất cả các danh mục TS tham gia BH cháy rồi phân loại chi tiết từng loại TS theo danh mục khác nhau (bởi vì mỗi loại TS có khả năng cháy, nổ khác nhau). + Bước 2: Căn cứ vào ngành nghề sản xuất kinh doanh để lựa chọn một tỷ lệ phí thích hợp trong bảng tỷ lệ phí tính sẵn. + Bước 3: Điều chỉnh các tỷ lệ phí đã chon theo các yếu tố tăng giảm phí. Việc điều chỉnh này phải căn cứ vào 3 yếu tố: VLXD - Loại D: khó bắt lửa: giảm tối đa 10% trong biểu phí. - Loại N: vật liệu trung gian: giữ nguyên tỷ lệ phí. - Loại L: dễ bắt lửa: tăng tối đa 10% trong biểu phí. PCCC: Nếu doanh nghiệp, đơn vị nào có phương án PCCC và đã tập dượt sẽ được giảm phí. Mức giảm tối đa mà các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng là 5%. Xác suất xảy ra hỏa hoạn trong một số năm trước đó. Thời gian đóng phí: Tùy theo sự thỏa thuận giữa công ty BH và người được BH có thể thực hiện các hình thức đóng phí BH khác nhau như đóng một lần hoặc đóng nhiều lần. Thông thường trong nghiệp vụ BH cháy áp dụng hình thức đóng phí một lần. 3.4 Hợp đồng Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt Hợp đồng BH là hợp đồng được ký kết giữa nhà BH và người được BH mà theo đó nhà BH thu phí của người được BH và bồi thường cho người được BH các tổn thất, thiệt hại của đối tượng BH theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng BH. Tất cả các loại hợp đồng BH đều phải cấp bằng văn bản. Nội dung của mỗi hợp đồng BH thường bao gồm những yếu tố sau: - Tên, địa chỉ doanh nghiệp BH, bên mua BH. - Điều kiện BH, phạm vi BH, điều khoản BH. - Giá trị TS được BH cháy nổ. - Quy tắc, biểu phí BH được áp dụng. - Điều khoản loại trừ trách nhiệm BH. - Thời gian BH. - Mức phí, phương thức đóng phí. - Cơ quan thẩm định thiệt hại khi cần. - Thời hạn, phương thức trả tiền BH hoặc bồi thường. - Trách nhiệm của bên mua và bên bán BH. - Các quy định giải quyết tranh chấp. - Trách nhiệm của bên vi phạm hợp đồng. - Ngày tháng giao kết hợp đồng. Trước khi tiến hành cấp một bản hợp đồng BH cháy, công ty BH phải thực hiện một số khâu mang tính chất nghiệp vụ. Các bước này được áp dụng trong trường hợp một khách hàng mới tham gia BH lần đầu. Trên cơ sở giấy yêu cầu BH của người tham gia BH gửi tới, công ty BH tiến hành điều tra rủi ro của đối tượng BH (theo mẫu in sẵn). Dựa trên những thông tin thu thập được để nhà BH quyết định xem có nên tiến hành BH đối với đối tượng hay không. Nếu chấp nhận thì công ty BH sẽ gửi đến khách hàng một bản chào phí gồm những thông tin cơ bản về mức phí, rủi ro được BH… Ngoài ra trong BH cháy có thể sử dụng giấy chứng nhận BH thay cho hợp đồng BH. Giấy chứng nhận BH là văn bản phản ánh các đặc điểm riêng biệt của rủi ro, khách hàng, hiệu lực BH, phạm vi BH, phí BH. Bên cạnh đó giấy chứng nhận BH là cấu thành cơ bản của hợp đồng BH, là cơ sở đảm bảo an toàn về mặt pháp lý cho một hợp đồng có hiệu lực. Sau khi chào phí và được sự chấp thuận của khách hàng, công ty BH yêu cầu khách hàng kiểm tra lại giấy yêu cầu BH gửi cho công ty BH kèm theo các số liệu chính xác để tiến hành cấp đơn. Tuy nhiên không phải lúc nào doanh nghiệp BH cũng có thể cấp một đơn BH thực sự ngay sau khi thỏa thuận xong các điều khoản của các hợp đồng BH do nội dung BH chi tiết theo từng điều khoản cụ thể đôi khi cần nhiều thời gian để chuẩn bị trong khi Ngân hàng, môi giới BH hoặc khách hàng có thể có nhu cầu phải có bằng chứng xác nhận việc hợp đồng BH đã có hiệu lực. Trong trường hợp đó nhà BH sẽ phải chuẩn bị một đơn BH tạm thời để cấp cho khách hàng. Hiệu lực của hợp đồng được ghi trong giấy chứng nhận BH. Thông thường hiệu lực của hợp đồng bắt đầu từ khi người tham gia BH nộp phí và kết thúc vào 16h ngày cuối cùng của thời hạn bảo hiểm.Việc quy định thời hạn BH chính xác ngày, giờ như vậy để tránh hiện tượng trục lợi BH do khi sắp hết thời gian BH thì ngày cuối cùng BH dễ trục lợi nhất. Mặt khác thời gian hỏa hoạn có thể kéo dài nếu không quy định như vậy rất dễ xảy ra tranh chấp khiếu kiện. Hợp đồng BH cháy thường là hợp đồng có thời hạn một năm. Tuy nhiên tùy theo yêu cầu người được BH, công ty BH nhận BH với thời hạn một năm hoặc BH ngắn hạn (tháng, quý). Sau khi kết thúc thời hạn BH, người tham gia có thể tiếp tục đóng phí BH và yêu cầu công ty BH tiến hành tái tục. Trong thời hạn BH, nếu TS được BH bị di chuyển ra ngoài khu vực được BH hoặc không còn thuộc quyền sở hữu của người được BH thì hợp đồng BH mất hiệu lực. III. QUY TRÌNH KINH DOANH SẢN PHẨM BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT 1. Khai thác Khai thác là khâu đầu tiên cũng là khâu quan trọng nhất của nghiệp vụ BH cháy. Làm tốt hay không khâu này sẽ quyết định tới hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ. Thực hiện khâu này không chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm được khách hàng và ký kết hợp đồng mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất nghiệp vụ cao liên quan đến việc đánh giá rủi ro và trên cơ sở đó lựa chọn được mức phí phù hợp. Cũng như các loại BH khác, đối tượng BH cháy rất đa dạng do đó đối với mỗi đối tượng BH khác nhau hay cùng tính chất nhưng khác nhau về mức độ rủi ro được áp dụng các điều khoản, điều kiện và tỷ lệ phí khác nhau. Quy trình khai thác nghiệp vụ BH cháy được cụ thể hóa thông qua 4 bước sau: 1.1 Tiếp cận và tìm kiếm khách hàng Trong bước này, nhân viên khai thác sẽ tìm kiếm khách hàng (khách hàng hoàn toàn mới) và chào bán dịch vụ BH. Đó là những khách hàng tiềm năng mà doanh nghiệp BH có thể tiếp cận và khai thác để đạt hiệu quả cao. * Xác định khách hàng tiềm năng: - Khách hàng tiềm năng là những tổ chức kinh tế xã hội và cá nhân có nhu cầu bảo hiểm cho TS thuộc quyền sở hữu. quản lý của họ. TS yêu cầu BH phải là TS hữu hình, xác định được bằng tiền khi tổn thất xảy ra như: Công trình, nhà xưởng bao gồm cả trang thiết bị lắp đặt cố định gắn liền với tòa nhà, công trình. Công trình tạm, TS ngoài trời (phải có yêu cầu từ người tham gia BH và chấp nhận của nhà BH bằng sửa đổi bổ sung). TS bên trong công trình, nhà xưởng bao gồm máy móc, dây chuyền sản xuất, hàng hóa trong kho (thành phẩm, bán thành phẩm). Trong đó Người được BH có đầy đủ điều kiện tài chính để đóng phí BH, có quyền lợi hợp pháp để hưởng quyền lợi BH khi phat sinh sự kiện BH. - Nguồn khách hàng tiềm năng: Thông tin có thể thu thập từ các nguồn sau: + Thông tin qua mối quan hệ cá nhân, gia đình: bạn bè, đồng nghiệp… + Thông tin qua mối quan hệ của những người có ảnh hưởng, lãnh đạo chính quyền + Thông tin từ những nguồn sách báo, tài liệu tuyên truyền quảng cáo… Nội dung thông tin: Thông tin cho mục đích khai thác phải đảm bảo các nội dung sau: + Thông tin cấp 1/ sơ cấp: Đối tượng yêu cầu BH: tên dự án, đối tượng TS, trách nhiệm. Đối tượng khách hàng và loại hình doanh nghiệp (Việt Nam, nước ngoài, liên doanh). Địa điểm BH, địa chỉ của người tham gia BH. Ngành nghề kinh doanh. Ước tính giá trị TS đầu tư, số tiền tham gia BH. + Thông tin cấp 2: Nhà BH hiện nay của khách hàng, thời hạn BH, điều kiện BH. Nhà môi giới hiện nay của khách hàng. Tình hình tổn thất của khách hàng trong 3 năm gần nhất. Tình hình cạnh tranh BH hàng năm. * Tiếp cận khách hàng: Cán bộ khai thác sẽ xác định cho mình cách thức tiếp cận khách hàng cụ thể tùy thuộc vào mức độ, tính chất của dịch vụ, đối tượng khách hàng mà cán bộ có thể tiếp cận bằng cách như gặp trực tiếp, thư giới thiệu, điện thoại. Cách thức tiếp cận tốt nhất là gặp gỡ trực tiếp khách hàng sau khi đã chuẩn bị đầy đủ các tài liệu cần thiết để giới thiệu và tư vấn cho khách hàng: + Quyển giới thiệu về công ty. + Tờ rơi giới thiệu tóm tắt về nghiệp vụ. + Quy tắc BH dự kiến giới thiệu (người khai thác cần tìm hiểu rõ phạm vi BH theo yêu cầu). + Bản copy một số hợp đồng BHTS có giá trị lớn hoặc tương đương làm mẫu. + Chuẩn bị sẵn một số tỷ lệ phí dự kiến để chủ động khi khách hàng yêu cầu. + Mẫu giấy yêu cầu BH, phiếu điều tra rủi ro. + Name card của khai thác viên. Trên cơ sở những thông tin khách hàng cung cấp sau buổi gặp đầu tiên, khai thác viên phải tiếp tục bám sát khách hàng, chủ động liên hệ lại để kịp thời nắm bắt nhu cầu của khách hàng, tư vấn, đề xuất những chương trình BH phù hợp yêu cầu khách hàng. 1.2 Đánh giá các yếu tố liên quan đến tỷ lệ phí ( đánh giá rủi ro) Sau khi nhận được yêu cầu BH trực tiếp từ khách hàng hoặc qua môi giới, đại lý hoặc các văn phòng đại diện, khai thác viên cần thu thập những thông tin ban đầu, kiểm tra những thông tin ban đầu để có kế hoạch đánh giá rủi ro cụ thể. Đánh giá rủi ro là hoạt động của công ty BH nhằm xác định rủi ro, tính chất, mức độ rủi ro, các biện pháp ĐPHCTT nếu có của khách hàng, mức độ tổn thất lớn nhất nếu có, nhằm giúp công ty BH quyết định nhận BH hay từ chối BH và cung cấp thông tin để thu xếp TBH cũng như xác định mức giữ lại của công ty BH để đảm bảo kinh doanh hiệu quả và an toàn. Đánh giá rủi ro là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong công tác quản lý rủi ro. Có làm tốt việc đánh giá rủi ro thì mới có thể thực hiện được công tác quản lý rủi ro. Nếu việc điều tra, đánh giá rủi ro được thực hiện một cách đầy đủ, kỹ lưỡng, kết hợp với bản hướng dẫn tính phí và hướng dẫn mức miễn thường cán bộ khai thác có thể dự kiến ngay được một bản chào sơ lược. Điều này giúp cho việc chủ động, nhanh chóng trong khai thác, tránh được tình trạng phải cần tư vấn, hỏi han, tốn kém mất thì giờ và thiếu tin tưởng trước khách hàng. * Nội dung cần xem xét khi đánh giá rủi ro: - Khai thác viên xác định số lượng đơn vị rủi ro và giá trị của từng đơn vị rủi ro, có họa đồ phân tích đơn vị rủi ro. Đối với mỗi đơn vị rủi ro nên sử dụng danh mục giá trị riêng. - Đánh giá nguy cơ tổn thất từ bên ngoài (nhà máy, xí nghiệp xung quanh). - Các biện pháp và trang bị PCCC, công tác quản lý, an ninh bảo vệ như thế nào. + Về công tác quản lý: những yêu cầu chung về vệ sinh công nghiệp, phân định rõ khu vực kho và các khu vực sản xuất, quy định nghiêm ngặt trong việc hạn chế hút thuốc, có biện pháp quản lý trong việc sử dụng lửa trần (hàn, cắt), biện pháp phụ trách sự an toàn cho doanh nghiệp, biện pháp bảo dưỡng.. + Về công tác PCCC: có hệ thống báo cháy tự động hoặc thủ công, thiết bị chữa cháy bằng tay hoặc lắp đặt cố định, nguồn nước chữa cháy lấy từ đâu, dung tích, đội ngũ nhân viên và đội ngũ chữa cháy có biết sử dụng thiết bị chữa cháy hay không, được tập luyện thường xuyên không. 1.3 Chào phí bảo hiểm 1.3.1 Phí bảo hiểm cơ bản Dựa vào bảng điều tra rủi ro, các thỏa thuận với khách hàng, khai thác viên tiến hành so sánh với biểu phí cơ bản ứng với ngành nghề sản xuất kinh doanh của đối tượng được BH để có mức phí ban đầu. Phí BH cháy được xác định trên cơ sở số liệu thống kê của một khoảng thời gian trước đó, thường từ 3 đến 5 năm. Có hai phương pháp xác định tỷ lệ phí: theo phân loại và danh mục. Đối với các công trình kiến trúc, tỷ lệ phí trong bảng là tỷ lệ phí tương ứng với công trình loại N. Nếu công trình được đánh giá là loại D hoặc L thì phải điều chỉnh để được tỷ lệ phí cơ bản thích hợp (tăng giảm tối đa 10% ). Trong BH cháy, các công ty BH cũng phải quan tâm đến các yếu tố làm tăng giảm rủi ro để điều chỉnh mức phí BH, đôi khi chúng có thể làm cho số phí BH thực đóng khác nhiều so với số phí cơ bản. 1.3.2 Điều chỉnh tỷ lệ phí cơ bản theo những yếu tố làm tăng giảm phí a, Các yếu tố làm tăng mức độ rủi ro - Các công trình có thiết bị phụ trợ có thể làm tăng thêm khả năng xảy ra tổn thất. - Các công trình có điều kiện đặc biệt không thuận lợi đối với rủi ro được BH như: có các nguồn cháy không được cách biệt hoàn toàn, có không khí bị đốt nóng bởi dầu hay khí đốt ở nơi làm việc, có dây chuyến sản xuất tự động nhưng không được trang bị các thiết bị báo cháy đúng tiêu chuẩn. - Các công trình có trung tâm máy tính nhưng không được ngăn cách bằng tường chống cháy, không có hệ thống PCCC riêng biệt và phù hợp, có khả năng xảy ra rủi ro phá hoại, cố tình gây cháy… b, Các yếu tố làm giảm mức độ rủi ro: - Có thiết bị PCCC như: có hệ thống báo cháy tự động nối với phòng thường trực, nối thẳng trạm cứu hỏa công cộng, có hệ thống báo cháy thuộc hệ thống hệ thống báo cháy tự động được lắp đặt cố định, có đội cứu hỏa có trách nhiệm…Trong các yếu tố trên chỉ được chọn yếu tố nào có mức giảm rủi ro cao nhất mặc dù người bảo hiểm có đầy đủ các phương tiện nói trên. - Các thiết bị và phương tiện phòng cháy chữa cháy như: có hệ thống phun nước tự động hoặc thủ công, có hệ thống dập tắt bằng CO2, có ô tô chữa cháy, chữa cháy bằng bột khô, dập tắt tia lửa điện. Trong các yếu tố kể trên, nếu người BH có nhiều yếu tố giảm phí thì mức giảm cao nhất được giữ nguyên, các mức giảm khác chỉ được tính 50%. c, Tăng giảm phí theo tỷ lệ tổn thất trong quá khứ Nếu trong những năm gần nhất, tỷ lệ tổn thất của người được BH nhỏ thì tỷ lệ phí cơ bản được điều chỉnh giảm và ngược lại. 1.3.3 Điều chỉnh tỷ lệ phí cơ bản theo mức miễn thường Mức miễn thường tối thiểu bắt buộc là 2%STBH nhưng tối đa không dưới 100USD/ vụ tổn thất va tối đa không quá 2.000USD/vụ. Đây là mức miễn thường không được giảm phí. Nếu người được BH lựa chọn mức miễn thường cao hơn thì sẽ được giảm phí theo các tỷ lệ giảm mà nhà BH quy định trong bảng tỷ lệ giảm phí tương ứng với STBH và mức miễn thường tự chọn. Sau khi tính toán tỷ lệ phí, xem xét tình hình cạnh tranh, khai thác viên thông báo cho khách hàng. Bản chào phí BH được lập trên cơ sở có sự thỏa thuận thống nhất giữa nhà BH và người được BH hoặc môi giới. Bản chào phí phải có đầy đủ các thông tin như: người được BH, địa chỉ, ngành nghề, TS được BH, điều khoản BH, điều khoản thanh toán phí. Nếu sau khi gửi bản chào phí, khách hàng, môi giới không chấp nhận, khai thác viên xem xét lại để gửi bản chào phí mới hoặc cũng có thể gửi thư từ chối nhận dịch vụ. Trường hợp khách hàng chấp nhận bản chào phí, khai thác viên hướng dẫn khách hàng kê khai giấy yêu cầu BH chính thức, kê khai TS được BH chuẩn bị cho việc ký hợp đồng BH cháy. 1.4 Hồ sơ hợp đồng Bảo hiểm cháy Bộ hợp đồng BH cháy là căn cứ để chứng tỏ ._.lại cho mỗi thành viên của mình điều kiện phát triển phát triển tốt nhất về tài năng và cuộc sống Với tầm nhìn rộng đó, BIC đã đề ra mục đích là không ngừng xây dựng BIC trở thành thương hiệu BH nổi tiếng, có uy tín, hiệu quả trên thị truờng BH Việt Nam, ngày càng gia tăng tỷ trọng đóng góp trong hệ thống BIDV. Đến năm 2010, phấn đấu chiếm trên 6% thị phần BH phi nhân thọ Việt Nam. Vừa kết thúc năm 2007 với mục tiêu “tăng tốc” BIC đã đạt được nhiều thành quả đáng kể.Với phương châm “Tận tâm cho sự an tâm”BIC đã và đang dần khẳng định vị trí của mình trên thương trường. Để tiếp tục phát huy hơn nữa trong những năm tới toàn thể tập thể công ty sẽ tập trung nguồn nhân lực để hoàn thành các mục tiêu đã đề ra trên tất cả các hoạt động: -Về phát triển mạng lưới: +Xây dựng phát triển mạng lưới theo yêu cầu mới của BIDV theo định hướng tập trung cho hoạt động BH để trở thành một trong ba trụ cột của hệ thống BIDV: NH- BH- Đầu tư tài chính. +Theo kế hoạch phát triển mạng lưới đến cuối năm 2008, BIC sẽ có đại diện tại tất cả tỉnh thành trên cả nước. -Về mô hình tổ chức : Khẳng định được sự gọn nhẹ, phân công bố nguồn nhân lực của công ty đạt hiệu quả cao nhất. Bổ sung nhân sự cho các phòng chi nhánh còn thiếu. Đảm bảo cho ban giám đốc các chi nhánh có ít nhất hai người. -Về phát triển kinh doanh: Xây dựng kế hoạch chiến lược đến năm 2010. Tiếp tục nghiên cứu, từng bước triển khai chương trình Bancasuarance theo hướng tìm hiểu kinh nghiệm trên thế giới , mở rộng nghiệp vụ cung cấp sản phẩm trọn gói Taì chính- NH- BH- Chứng khoán. -Về công nghệ thông tin: Triển khai chương trình phần mềm quản lý BH, kế toán thay thế chương trình phần mềm hiện tại. -Về nghiệp vụ và hoạt động khác: Từng bước xây dựng thương hiệu, khuyếch trương hình ảnh của công ty, xây dựng triển khai hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000. -Về hoạt động đầu tư: xây dựng danh mục đầu tư đa dạng, linh hoạt, hiệu quả, tối đa hoá lợi nhuận với mức rủi ro có thể chấp nhận được, kết hợp hoạt động đầu tư và khai thác BH. * Định hướng nghiệp vụ Bảo hiểm cháy ở BIC Với xu thế phát triển của ngành BH như hiện nay thì nghiệp vụ BH cháy còn nhiều cơ hội phát triển. Đặc biệt kể từ sau khi Chính phủ ban hành nghị định 130/2006/NĐ- CP ngày 8/11/2006 quy định chế độ BH cháy nổ bắt buộc. Tiếp theo đó là quyết định số 28/2007/QĐ- BTC ngày 24/4/2007 của Bộ trưởng bộ Tài chính về việc ban hành quy tắc và biểu phí BH cháy nổ bắt buộc kèm theo thông tư liên tịch BTC- BCA số 41/2007/TTLT- BTC- BCA hướng dẫn thực hiện một số điều của nghị định 130. Như vậy với việc mở rộng thêm đối tượng tham gia BH cháy nổ thuộc diện cả bắt buộc và tự nguyện giúp cho các doanh nghiệp BH có cơ sở pháp lý để khai thác triệt để nghiệp vụ này. Trong thời gian tới, BIC tiếp tục chủ trương đưa nghiệp vụ BH cháy trở thành một trong những nghiệp vụ mũi nhọn, quan trọng của công ty, góp phần cùng với các nghiệp vụ truyền thống khác như BH xây dựng- lắp đặt, BH hàng hóa vận chuyển …gia tăng thị phần của công ty trong thị trường BH nhân thọ. Để thực hiện chủ trương đó, ngay từ đầu năm 2008 công ty đã đưa ra kế hoạch doanh thu phí năm nay ít nhất bằng 150% năm ngoái (doanh thu 2007 là 16 tỷ đồng) và định hướng như sau: - Về yếu tố con người: Bồi dưỡng, đào tạo nhân viên có kinh nghiệm và năng lực thực sự trở thành chuyên gia giỏi trong lĩnh vực đánh giá rủi ro và giám định bồi thường. - Về yếu tố sản phẩm: + Mở rộng phạm vi nghiệp vụ. + Có sự phối hợp linh hoạt giữa việc áp dụng biểu phí BH cháy của bộ Tài chính và phạm vi BH nghiệp vụ. +Cố gắng thu xếp những hợp đồng BH có rủi ro cao, mức phí lớn để chuyển TBH và thu hoa hồng nhượng tái. - Về yếu tố thị trường: + Xây dựng chiến lược cạnh tranh lành mạnh trong và ngoài nước để mở rộng thị phần. + Tăng cường chiến lược quảng cáo cho nghiệp vụ để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của công ty. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CHÁY Ở BIC Thực tiễn triển khai nghiệp vụ BH cháy ở BIC chưa đạt được kết quả như mong muốn, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay và tránh tụt hậu so với các công ty khác, BIC cần có những chiến lược kinh doanh hiệu quả cùng với sự nỗ lực hết mình thì mới có thể đứng vững trên thị trường. Trong thời gian tới, công ty cần tập trung vào một số giải pháp sau: 1. Đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đại lý, cộng tác viên Con người là yếu tố đầu tiên, quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của công ty nói chung và trong từng nghiệp vụ nói riêng. Một trong những hạn chế lớn nhất của BIC hiện nay là trình độ cán bộ còn non yếu về kinh nghiệm. Số lượng cán bộ am hiểu nghiệp vụ, ở lại vì sự phát triển chung của công ty không còn nhiều. Vì vậy việc đào tạo, nâng cao kiến thức cho cán bộ, đại lý lúc này là hoàn toàn cần thiết. Mặt khác, nghiệp vụ BH cháy là một trong những nghiệp vụ có tỷ lệ tái cao bên cạnh những nghiệp vụ khác như BH xây dựng lắp đặt, hàng hóa vận chuyển…do vậy trong quá trình triển khai sẽ nảy sinh nhiều mối quan hệ giao dịch không chỉ với đối tác trong nước mà còn ở nước ngoài. Với những tính chất đặc thù của nghiệp vụ không chỉ đòi hỏi cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn giỏi ngoại ngữ giao tiếp đặc biệt khi mà thị trường BH đang dần mở cửa. Một trong các biện pháp mà các công ty hiện nay đang sử dụng là tiến hành đào tạo, cử cán bộ đi học tập, bồi dưỡng ở nước ngoài hoặc tham gia học tập tại các trung tâm đào tạo nghiệp vụ của hiệp hội. Ngoài ra để giữ chân những cán bộ có năng lực thực sự của công ty cần có những đánh giá, nhìn nhận. phát hiện đúng với trình độ từng cán bộ để đưa ra những chính sách đãi ngộ, có sự ưu tiên thích đáng, giúp họ yên tâm công tác. Đối với đội ngũ đại lý, cộng tác viên- một trong những nguồn nhân lực dồi dào có thể tận dụng để tìm kiếm khách hàng cho doanh nghiệp, công ty cần có những khuyến khích kịp thời, thưởng phạt xứng đáng, thường xuyên tiến hành đào tạo lại và đào tạo mới, rèn luyện kỹ năng chuyên môn …có như vậy họ mới tạo ra hiệu quả khai thác cho công ty được. 2. Tăng cường đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo về Bảo hiểm cháy Tuyên truyền, quảng cáo là một hoạt động không thể thiếu được đối với một doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Mặc dù hoạt động BH không phải là hoạt động kinh doanh thuần túy. Khách hàng chỉ biết đến chất lượng sản phẩm mà các doanh nghiệp cung cấp sau khi có sự kiện BH xảy ra và doanh nghiệp đã tiến hành chi trả bồi thường. Đặc biệt ở nước ta hiện nay khi người dân chưa có thói quen tập quán mua BH để phòng ngừa rủi ro thì công tác tuyên truyền lại càng hết sức quan trọng.Việc đầu tư cho quảng cáo thường đạt hiệu quả cao và là một trong những biện pháp hữu hiệu cạnh tranh trên thị trường. Việc tuyên truyền, quảng cáo có thể sử dụng trên nhiều phương tiện như: vô tuyến truyền hình, đài phát thanh, báo chí, pa nô, tờ rơi…Hiện nay chỉ những công ty lớn mạnh về tài chính mới có thể dành một khoản kinh phí không nhỏ cho các hoạt động quảng cáo trên diện rộng. Trong tương lại không xa đây là một trong những hình thức quảng bá hình ảnh công ty được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Với một thương hiệu còn khá mới trên thị trường như BIC, việc tuyên truyền, quảng cáo là hoàn toàn cần thiết, bước đầu sẽ giúp khách hàng biết đến công ty sau đó từng bước chiếm được lòng tin về hình ảnh công ty trong mắt họ. Phương pháp này có thể phối hợp với các đơn vị đã và đang tham gia BH cháy tại công ty. Cùng với đó công ty cần phối hợp với cơ quan quản lý Nhà nước và Hiệp hội BH Việt Nam để tuyên truyền rộng rãi trên phạm vi toàn quốc. 3. Tăng cường chất lượng công tác khai thác Nếu không có tổn thất thì sẽ không có nhu cầu BH. Rủi ro là nguyên nhân dẫn đến tổn thất đồng thời rủi ro cũng là yếu tố cơ bản xác định mức phí phải đóng. Nếu làm tốt công tác đánh giá rủi ro sẽ xác định chính xác được tỷ lệ phí hợp lý, giúp công ty có khả năng chi trả, bồi thường cho khách hàng khi tổn thất xảy ra, đồng thời thực hiện được cạnh tranh bằng giá cả với các doanh nghiệp khác. Hiện nay trong việc đánh giá rủi ro của cán bộ BH thường dựa trên bảng câu hỏi điều tra rủi ro mà khách hàng trả lời là chính còn việc nghiên cứu, khảo sát thực tế chưa được quan tâm đúng mức, khiến cho việc đánh giá rủi ro với những đối tượng tham gia BH cháy chưa được chính xác. Do vậy việc nâng cao khả năng đánh giá rủi ro cho cán bộ khai thác BH là hoàn toàn cần thiết. Đối với công tác khai thác nghiệp vụ BH cháy, các khai thác viên không chỉ quan tâm đến số lượng đơn vị tham gia mà còn phải quan tâm đến chất lượng hiệu quả khai thác. Với chất lượng hợp đồng khai thác không cao đồng nghĩa với việc đánh giá rủi ro đối tượng BH trước khi ký kết không tốt dẫn đến tình trạng doanh nghiệp BH phải chi bồi thường nhiều hơn. Vì tâm lý khách hàng luôn muốn tham gia BH cho những TS nguy cơ rủi ro cao hay muốn BH theo lối chọn điểm (chỉ BH cho hạng mục nhiều rủi ro), cán bộ khai thác đặc biệt khi đánh giá rủi ro phải hết sức trung thực, không chạy đua vì doanh thu trước mắt mà ảnh hưởng đến kết quả chung của công ty cũng như nghiệp vụ. 4. Kết hợp chặt chẽ với cảnh sát PCCC và người tham gia bảo hiểm trong công tác ĐPHCTT Khi ký kết được một hợp đồng BH cháy có nghĩa là nghĩa vụ và trách nhiệm của công ty thực sự phát sinh từ khi chấp nhận BH đến khi kết thúc thời gian BH. ĐPHCTT hiệu quả góp phần tạo tâm lý an tâm cho khách hàng đồng thời giảm được xác suất bồi thường cho công ty. Tuy nhiên để thực hiện được các biện pháp ĐPHCTT an toàn cần sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà BH, cảnh sát PCCC và người tham gia BH. Khách hàng có trách nhiệm bố trí và quản lý TS, có phương án chữa cháy được cảnh sát PCCC thông qua, đồng thời thường xuyên phải bảo dưỡng nhà cửa, trang thiết bị. Một thực tế hiện nay là doanh nghiệp mua BH cháy đồng nghĩa với việc giao phó hết trách nhiệm cho công ty BH nên họ chủ quan mất cảnh giác hơn. Vì vậy công ty phải thường xuyên đôn đốc khách hàng thực hiện tốt các biện pháp ĐPHCTT theo yêu cầu đã đề ra. Với doanh thu phí hàng năm thu được, doanh nghiệp sẽ trích một phần hợp lý theo kế hoạch cho công tác ĐPHCTT như hỗ trợ trang bị phương tiện PCCC cho khác hàng, tuyên truyền quảng cáo, tổ chức hội nghị phổ biến kiến thức về PCCC… 5. Nâng cao hiệu quả công tác giám định- bồi thường Khâu giám định chỉ mang tính chất tương đối nên dễ dẫn đến sự phản ánh không chính xác và không trung thực. Làm tốt công tác giám định sẽ giúp doanh nghiệp xác định được nguyên nhân tổn thất, nếu thuộc phạm vi BH sẽ kịp thời giải quyết bồi thường nhanh chóng. Vì vậy bất kể giám định viên của BIC hay thuê ngoài cũng phải có đầy đủ chuyên môn nghiệp vụ, có tư cách đạo đức, khách quan vô tư phản ánh trung thực toàn bộ sự việc, diễn biến nguyên nhân phát sinh rủi ro, phòng tránh hiện tượng trục lợi BH do giám định- bồi thường là một trong những công tác đặc thù nhạy cảm của hoạt động BH. Mặt khác, giải quyết bồi thường nhanh chóng sẽ phản ánh tốt chất lượng dịch vụ mà nhà BH cung cấp, tạo uy tín cho doanh nghiệp. Việc rút ngắn thời gian giải quyết bồi thường phụ thuộc nhiều yếu tố như kết quả điều tra xác minh nguyên nhân tổn thất của cơ quan công an và quy trình cung cấp giấy tờ của người tham gia BH. Tùy theo tính chất phức tạp của rủi ro mà nguyên nhân được tìm ra nhanh hay chậm. Tuy nhiên thực tế cho thấy thời gian giải quyết bồi thường có được rút ngắn lại hay không phần lớn phụ thuộc vào việc lập và hoàn tất thủ tục đòi bồi thường của người tham gia và kết quả giám định của công ty BH. Hầu hết người than gia BH đều ít hiểu biết về việc lập hồ sơ đòi bồi thường. Chỉ khi có tổn thất xảy ra, sau khi thông báo cho nhà BH và yêu cầu bồi thường, lúc đó họ mới được cán bộ giải quyết bồi thường hướng dẫn lập hồ sơ đòi bồi thường. Đây là nguyên nhân chính dẫn đễn việc kéo dài thời gian giải quyết bồi thường và xuất hiện nhiều tồn tại bất cập mà công ty vẫn chưa giải quyết được. Do đó trong quá trình triển khai nghiệp vụ cán bộ khai thác cần giải thích, hướng dẫn cụ thể chi tiết cho khách hàng biết thủ tục giải quyết bồi thường để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác giám định- bồi thường khi xảy ra rủi ro cho đối tượng được BH. 6. Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng Hoạt động BH thực chất là hoạt động dịch vụ tài chính. Phục vụ khách hàng đồng nghĩa với việc đưa ra những chính sách khách hàng hợp lý như: - Quan tâm, chăm sóc khách hàng, giữ mối liên lạc thường xuyên để kịp thời giải đáp thắc mắc và thực hiện các biện pháp phối hợp khi cần thiết - Đối với những hợp đồng tái tục hoặc những hợp đồng không có tổn that, ít tổn thất thì phải có sự ưu tiên, ưu đãi về phí BH (giảm phí ngoài hợp đồng), tiền thưởng thích đáng. - Chi ĐPHCTT hợp lý, định kỳ kiểm tra, đôn đốc hỗ trợ phương tiện cũng như biện pháp PCCC cho khách hàng. - Nếu trong trường hợp có tổn thất, doanh nghiệp BH kịp thời cử ngay cán bộ xuống hiện trường thực hiện các thủ tục giải quyết bồi thường nhanh chóng, chính xác. - Sau mỗi vụ hỏa hoạn, khách hàng thường lung túng, công ty phải thực sự là bạn của khách hàng, cảm thông và quan tâm đến khách hàng, đồng thời đưa ra những ý kiến khắc phục nhằm giảm thiểu hậu quả sau cháy. Hiện nay trên thị trường, mặc dù có sự cạnh tranh phí diễn ra gay gắt nhưng về cơ bản mức phí giữa các doanh nghiệp không khác nhau nhiều. Giả thiết với cùng hai công ty có mức phí giống nhau thì công ty có chất lượng phục vụ khách hàng tốt hơn sẽ được người tham gia tin tưởng lựa chọn và khả năng tái tục ở chính công ty đó rất cao vì tâm lý người Việt Nam rất ngại thay đổi những cái đã quen thuộc và được họ đánh giá tốt. 7. Tăng cường mối quan hệ nhận nhượng với các tổ chức doanh nghiệp trong và ngoài nước Kinh doanh tất yếu phải cạnh tranh, tuy nhiên ở một khía cạnh nào đó vẫn cần sự hợp tác. Một doanh nghiệp không thể hoạt động độc lập trên thị trường nếu không có mối quan hệ với các doanh nghiệp khác. Đặc biệt với đặc thù nghiệp vụ BH cháy là loại hình BHTS có giá trị BH rất lớn. Sau khi giữ lại những họp đồng phù hợp khả năng tài chính của mình, công ty phải nhanh chóng tiến hành nhượng tái để đảm bảo không phải một mình gánh chịu tổn thất khi có sự kiện BH xảy ra. Đồng thời để chia sẻ rủi ro với các công ty BH khác, công ty cũng tiến hành nhận TBH nhằm tăng doanh thu. Như vậy thông qua hoạt động TBH, doanh nghiệp BH được nhận thêm hoa hồng nhượng tái và tạo được niềm tin cho khách hàng khi mà đứng sau công ty là những tập đoàn TBH có năng lực và kinh nghiệm không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài. Ngoài ra việc hợp tác với các doanh nghiệp trong nước với tư cách là thành viên của một tổ chức như hiệp hội BH Việt Nam sẽ giúp công ty học hỏi được nhiều kinh nghiệm triển khai nghiệp vụ cũng như quản lý mà các công ty BH đi trước đã tích lũy lại được trong nhiều năm. 8. Phòng chống gian lận và trục lợi bảo hiểm Trục lợi BH là hành vi cố tình gian dối, lừa đảo có thể có chủ ngay từ khi tham gia BH hoặc phát sinh sau khi xảy ra sự kiện BH nhằm chiếm đoạt một khoản tiền từ phía doanh nghiệp BH mà đáng lý ra họ không được hưởng. Trục lợi BH diễn ra ở hầu hết các nghiệp vụ BH và bất cứ doanh nghiệp nào kinh doanh BH thương mại đều có hiện tượng bị trục lợi. Chính vì vấn đề nhức nhối đó mà doanh nghiệp đã phải bỏ ra khá nhiều tiền để khắc phục, song số vụ gian lận vẫn tăng theo thời gian và hìn thức ngày càng tinh vi, thủ đoạn ngày càng sắc sảo. Nghiệp vụ BH cháy có đối tượng tham gia BH rất rộng, giá trị TS tham gia rất lớn. Nguyên nhân xảy ra hỏa hoạn khó lường có thể xuất phát từ bất kỳ lý do nào. Do vậy hiện tượng trục lợi BH ở nghiệp vụ này là tất yếu. Xuất phát từ chính sai sót của công ty BH như: thực hiên không nghiêm trong khâu đánh giá rủi ro bắt đầu khi BH, chấp nhận BH cho những khách hàng tham gia BH theo lối chọn điểm, không thực hiện nghiêm quá trình giám định tổn thất, chi trả và sự tha hóa của cán bộ cấu kết với khách hàng..làm cho vấn đề trục lợi không thể kiểm soát được. Hậu quả để lại cho công ty là làm giảm lợi nhuận, hiệu quả kinh doanh bị hạn chế, thậm chí còn gây tác động xấu đến uy tín doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có nhiều vụ gian lận sẽ có mức phí cao hơn những doanh nghiệp kiên quyết chống và loại trừ những kẻ trục lợi BH và như vậy ảnh hưởng đến quyền lợi khách hàng. Một trong các biện pháp tích cực mà các doanh nghiệp BH sử dụng là tiến hành kiểm tra chặt chẽ cán bộ, đại lý, cộng tác viên khai thác. Một mặt phải nhắc nhở họ thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, mặt khác phải đề ra những cơ chế quản lý phù hợp từ khâu khai thác đến bồi thường. 9. Phát triển thương mại điện tử Khi mở của thị trường BH, các doanh nghiệp BH Việt Nam sẽ mất hẳn sự bảo hộ của Nhà nước, không có sự phân biệt đối xử với doanh nghiệp BH nước ngoài. Một số doanh nghiệp sở hữu Nhà nước như BIC phải tiến hành cổ phần hóa, trong đó sức ép chia lãi cho cổ đông không phải là nhỏ nếu kinh doanh BH và đầu tư không hiệu quả. Để nâng cao năng lực cạnh tranh công ty cần trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin vào khâu khai thác, quản trị rủi ro, quản trị doanh nghiệp trong đó quan trọng nhất là ứng dụng thương mại điện tử. Thương mại điện tử đang là kênh phân phối sản phẩm BH vừa thuận lợi, nhanh chóng vừa chính xác tiết kiệm. Người có nhu cầu về BH có thể lựa chọn sản phẩm BH của các doanh nghiệp trên mạng. Để phát triển thị trường BH bền vững và hiệu quả, Nhà nước cần có sự trợ giúp cho doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, ứng dụng kênh phân phối này để các doanh nghiệp cung cấp đầy đủ thông tin về công ty và nghiệp vụ triển khai cho người tham gia biết và cơ quan quản lý Nhà nước dễ dàng hơn trong việc kiểm tra giám sát hoạt động của công ty. III. KIẾN NGHỊ Để hoàn thiện hơn nữa tình hình triển khai nghiệp nghiệp vụ BH cháy ở BIC, bên cạnh những giải pháp chung đã đề ra, đề tài xin đưa ra một số kiến nghị cụ thể: 1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước Luật kinh doanh BH và các văn bản hướng dẫn thi hành luật năm 2000 và có hiệu lực đã đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động kinh doanh BH. Hiện nay trên thị trường BH với sự ra đời của nhiều công ty BH khiến cho hoạt động của thị trường trở nên sôi động hơn, cùng với đó là việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Do vậy ở tầm vĩ mô Nhà nước phải có chính sách quản lý phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động BH nói chung và nghiệp vụ BH cháy nói riêng phát triển theo đúng xu hướng của nó. 1.1 Hoàn thiện hành lang pháp lý Đối với cơ quan quản lý Nhà nước về BH là Bộ Tài chính, Vụ BH, cần phải tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển thị trường. Chính sách về BH phải rõ ràng, minh bạch đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Mặt khác trong quá trình soanh thảo các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh BH, Nhà nước cần tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới để áp dụng vào thực tiễn ở Việt Nam, sớm xét trình Quốc hội thông qua luật cạnh tranh nhằm tạo khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh BH phi nhân thọ nói chung và BH cháy nổ nói riêng, tạo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp, thông qua đó bảo vệ quyền lợi cho người tham gia. 1.2. Xây dựng chính sách quản lý đồng bộ Để kích thích sự phát triển của các công ty BH nhân thọ trong nước, Nhà nước cần chính sách quản lý theo hướng giảm sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh BH, nâng cao tính tự chủ cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp BH trong nước có thể đứng vững và cạnh tranh với doanh nghiệp BH nước ngoài đặc biệt khi mà hiện nay theo lộ trình cam kết gia nhập WTO, các công ty BH nước ngoài sẽ được phép kinh doanh một số loại hình BH bắt buộc. Ngoài ra Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp sau: - Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của cá công ty BH để duy trì một môi trường cạnh tranh lành mạnh, chống hiện tượng hạ phí quá thấp để giành giật thị trường, giải quyết tranh chấp khiếu nại nhanh phù hợp luật pháp Việt Nam và thông lệ quốc tế. - Giảm thiểu các thủ tục hành chính trong quản lý. Chuẩn hóa và rút ngắn các quy trình đăng ký phê duyệt sản phẩm, cấp, thu hồi giấy phép kinh doanh, giảm thiểu thời gian chờ phê duyệt sản phẩm cho các doanh nghiệp. - Đối với các hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh BH cần phải xử lý nghiêm khắc. Hiện nay Nhà nước cần ban hành văn bản quy định rõ chế tài xử phạt đối với đối với các doanh nghiệp BH, môi giới BH không tuân thủ đúng quy định và có những biện pháp cưỡng chế đối với tổ chức, cá nhân thuộc diện tham gia BH cháy bắt buộc nhưng không tham gia. Mặt khác giữa cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp BH cần phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ để cùng nhau năm bắt thông tin. Như vậy các doanh nghiệp BH có thể đề xuất những giải pháp để hoàn thiện thị trường, để cơ quan quản lý Nhà nước kịp thời điều chỉnh những tồn tại, vướng mắc trong hoạt động quản lý của mình. 2. Đối với Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam Khi thị trường BH trong nước ngày một phát triển thì hiện tượng “phá rào” của các công ty BH là điều không thể tránh khỏi. Để giảm thiểu những thiệt hại không đáng có và để cho hoạt động kinh doanh BH được phát triển lành mạnh trong khuôn khổ thì cần có một tổ chức trung gian đứng ra, phối hợp cùng các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc định hướng sự phát triển thị trường. Hiện tại ở thị trường BH Việt Nam, Hiệp hội BH đã và đang đảm nhận tốt vai trò đó. Trong thời gian tới cần nâng cao vai trò của hiệp hội, tăng cường sự hợp tác giữa các thành viên trong hiệp hội, duy trì môi trường cạnh tranh trong sạch. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp BH trong hiệp hội đã có một số hợp tác nhất định như ký kết các thỏa thuận bảo hiểm, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên phạm vi, mức độ hợp tác còn hạn hẹp, chưa chặt chẽ. Trong thời gian tới cần mở rộng phạm vi hợp tác trên nhiều lĩnh vực như thiết lập một hệ thống thông tin toàn thị trường làm cơ sở đánh giá rủi ro, tính phí BH, hệ thống phân tích và kiểm soát tổn thất, hợp tác trong việc đồng BH, TBH, trợ giúp kỹ thuật, đào tạo để có thể nâng cao năng lực cho các thành viên. Cùng với đó, hiệp hội cũng cần xây dựng cơ chế kiểm soát trong việc thực hiện các thỏa thuận giữa các hội viên. Ngoài ra hiệp hội cần nhạy bén và nhanh nhạy hơn trong việc đề ra những quy tắc cho hoạt động BH, phối hợp với cơ quan quản lý Nhà nước thực thi những quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực. 3. Đối với công ty - Về việc phát triển mạng lưới, chi nhánh: Mặc dù đến năm 2007 số lượng đại lý chi nhánh đã lên tới con số 12 với 30 phòng kinh doanh khu vực. Tuy nhiên mạng lưới này còn mỏng không song hành cùng các đại lý BIDV dẫn đến việc khai thác khách hàng tiềm năng gặp khó khăn mà khách hàng chủ yếu do BIDV giới thiệu. - Về cơ chế lương thưởng: Với việc chưa thay đổi cơ chế lương của donh nghiệp Nhà nước, BIC khó lòng giữ chân được cán bộ đẳng cấp vì họ luôn được chào mời với mức lương hấp dẫn hơn hẳn BIC ở các công ty liên doanh, BH nước ngoài. Mặt khác, các đại lý khai thác là các chi nhánh BIDV trong thời gian qua chưa thực sự phát huy hết hiệu quả. Hoạt động đại lý chỉ mang tính chất giới thiệu khách hàng tham gia BH tại BIC chứ chưa chuyên nghiệp. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế đãi ngộ đại lý chưa phù hợp. Do vậy trong thời gian tới BIC cần thay đổi cơ chế, chính sách lương, thưởng thích hợp cho cán bộ tài và hoa hồng cho đại lý một cách thỏa đáng. - Về nhân sự: Ổn định tổ chức, tiếp tục đào tạo cán bộ dưới nhiều hình thức như gửi đi học nước ngoài, đào tạo trong nước, định kỳ tổ chức thi tuyển để lựa chọn những cá nhân xuất sắc, có năng lực, làm việc hiệu quả… 4. Đối với nghiệp vụ Bảo hiểm cháy: - Tuyên truyền quảng bá công ty và nghiệp vụ BH cháy: Một thương hiệu mạnh luôn có lợi trong khai thác, cán bộ không cần giải thích nhiều mà vẫn tạo được lòng tin cho khách hàng. Tuy nhiên việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng của công ty chỉ dừng lại ở mức độ hạn chế. Đây là điểm không hợp lý trong thời đại công nghệ thông tin đang bùng nổ hiện nay. - Giảm thiểu chi phí khai thác nghiệp vụ: Sau khi chia tách, vì mất đi lợi thế về năng lực BH, BIC phải chuyển sang tập trung khai thác BH gốc theo hướng thương mại hóa trong khi không có mạng lưới, hệ thống đại lý, sản phẩm bị giới hạn theo giấy phép liên doanh. Tron thời gian đầu BIC tập trung cho khai thác rất nhiều nên chi phí cho hoạt động tuyên truyền, quảng cáo…cũng nhiều hơn. Do vậy mặc dù doanh thu khai thác qua các năm có sự tăng trưởng rõ rệt nhưng chi phí khai thác và quản lý không kiểm soát được dẫn đến hiệu quả thấp. Đặc biệt trong nghiệp vụ BH cháy có quy trình khai thác chặt chẽ, vì vậy cần đảm bảo cho các chi phí trong công tác đánh giá rủi ro, ĐPHCTT, giám định bồi thường được phù hợp, công ty phải kế hoạch hóa chi phí cho từng giai đoạn, từng khâu nghiệp vụ tránh chi vượt thu. - Thực hiện việc giữ khách hàng cũ và tìm kiếm khách hàng mới: Trong thời gian qua, tỷ lệ tái tục ở BIC không cao, gần 2/3 khách hàng cũ không tái tục. Việc xây dựng quan hệ với khách hàng mới gặp nhiều khó khăn do BIC là thương hiệu còn khá mới trên thị trường, chưa được người tham gia biết đến, sức cạnh tranh yếu. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần thay đổi chiến lược lựa chọn khách hàng, tiến hành khai thác lâu dài và tìm kiếm khách hàng tiềm năng đặc biệt là hộ gia đình, khu vực tư nhân. Do nguồn khách hàng từ trước đến nay thường là các tổ chức, doanh nghiệp đặc biêt nghiệp vụ BH cháy thì hầu như không có khách hàng cá nhân. Để thu hút và mở rộng khách hàng, BIC cần xây dựng lại chính sách khách hàng hợp lý và dành một phần chi phí cho việc nghiên cứu tìm kiếm khách hàng. - Trình độ ngũ đánh giá rủi ro chưa cao. Trong việc đánh giá rủi ro cần nắm rõ đối tượng BH để xác định những rủi ro cơ bản và những rủi ro có thể phát sinh khác. Do vậy cán bộ cần am hiểu nhiều lĩnh vực, ngành nghề, thiết bị, dụng cụ sử dụng PCCC. Thực tế hiện nay ở BIC công tác đánh giá rủi ro phần lớn dựa vào giấy yêu cầu do chính khai thác viên đánh giá, các khai thác viên chỉ được đào tạo chung chung, cơ bản không chuyên sâu trong công tác quản trị rủi ro. Mặt khác trong công tác đánh giá rủi ro mặc dù có sự phối hợp giữa các cơ quan chuyên ngành như cảnh sát PCCC, công an…nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ hạn chế. - Xây dựng và phát triển sản phẩm trong thời gian tới là vấn đề cần thiết. Dịch vụ BH nói chung và BH cháy nói riêng là sản phẩm có nhu cầu thụ động. Với điều kiện thị trường hiện nay thì những sản phẩm chỉ có tính chất bảo hiểm thuần túy thì khó có thể khai thác được nếu không có sự nỗ lực rất lớn từ phía nhà BH. Do vậy doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến, mở rộng chủng loại sản phẩm, các điều khoản, quy tắc bảo hiểm phải luôn kịp thời cập nhật bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. - Cần phát huy lợi thế của công ty để khai thác nghiệp vụ. BIC là một trong những công ty BH tiên tphong được thành lập bởi Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV). Nguồn khách hàng của BIC ở đây chủ yếu là người đi vay do BIDV giới thiệu. Điều này tạo điều kiện cho BIC có lợi thế hơn hẳn trong việc tập trung khai thác những tiềm năng trên thị trường so với các công ty BH khác. C- KẾT LUẬN Năm 2007 được ghi nhận là năm tiếp tục thành công của các doanh nghiệp ngành bảo hiểm, mặc dù sức ép cạnh tranh đang đến gần. Nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, với nhiều cơ hội từ việc gia nhập WTO mang lại là những tiền đề quan trọng để ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển. Nằm trong xu thế đó BIC cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể trên mọi lĩnh vực trong đó phải kể đến tốc độ tăng trưởng doanh thu phí nghiệp vụ Bảo hiểm cháy. Mặc dù còn nhiều khó khăn trong quá trình triển khai nghiệp vụ nhưng với kết quả đã đạt được và những bài học được thực tế kiểm nghiệm trong hai năm 2006, 2007 nghiệp vụ Bảo hiểm cháy ở BIC sẽ còn nhiều cơ hội phát triển. Theo định hướng chung của công ty, phấn đấu đưa nghiệp vụ Bảo hiểm cháy luôn trở thành nghiệp vụ khai thác mũi nhọn của công ty. Trong tương lai không xa với quyết tâm tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp của chiến lược phát triển thị trường BH Việt Nam đến năm 2010, chắc chắn BIC còn tiếp tục phát triển lành mạnh, an toàn và vững chắc hòa nhập thị trường trong nước và trên thế giới trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế đất nước . DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kinh tế bảo hiểm Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm Giáo trình thống kê bảo hiểm Bảo hiểm- nguyên tắc và thực hành Bản tin hiệp hội bảo hiểm Việt Nam số 4/ 2006, số 3/2007 www.bic.vn www.vnexpress.com baohiem.pro.vn DANH MỤC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ * Sơ đồ: Sơ đồ tổ chức của BIC * Bảng biểu: Bảng 1: Tổng tài sản và nguồn vốn chủ sở hữu 3 năm 2005, 2006, 2007 Bảng 2: Doanh thu và quỹ dự phòng nghiệp vụ trong 3 năm 2005,2006,2007 Bảng 3: Tăng trưởng phí bảo hiểm gốc và thị phần của BIC 2006, 2007 Bảng 4: Doanh thu theo khu vực đến 31/12/2007 Bảng 5: Phân chia phí bảo hiểm gốc theo loại hình nghiệp vụ đến 31/12/2007 Bảng 6: Doanh thu phí tái bảo hiểm năm 2006, 2007 Bảng 7: Quy mô khai thác nghiệp vụ BH cháy và các rủi ro đặc biệt ở Việt- Úc (2003- 2005) và BIC (2006, 2007) Bảng 8: Tỷ lệ doanh thu phí bảo hiểm cháy so tổng doanh thu phí của tất các nghiệp vụ ở Việt- Úc (2003- 2005) và BIC (2006, 2007) Bảng 9: So sánh doanh thu phí BH gốc và thị phần nghiệp vụ BH cháy của BIC so với Bảo Việt, Bảo Minh trong 2 năm 2006, 2007 Bảng 10: Tình hình chi ĐPHCTT nghiệp vụ bảo hiểm cháy ở Việt- Úc (2003- 2005) và BIC (2006, 2007) Bảng 11: Tình hình bồi thường tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm cháy ở Việt- Úc (2003- 2005) và BIC (2006, 2007) Bảng 12: Doanh thu TBH nghiệp vụ BH cháy ở Việt- Úc (2003- 2005) và BIC (2006, 2007) Bảng 13: Kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp BH cháy ở Việt- Úc (2003- 2005) và BIC (2006, 2007) DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BIC : Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam BH : Bảo hiểm BHTS : Bảo hiểm tài sản TS : Tài sản GTBH : Giá trị bảo hiểm STBH : Số tiền bảo hiểm STBT : Số tiền bồi thường PCCC : Phòng cháy chữa cháy ĐPHCTT: Đề phòng hạn chế tổn thất MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5929.doc