Lời nói đầu
Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay thế thuế doanh thu hiện nay ở Việt Nam là một đòi hỏi cấp bách mang tính tất yếu khách quan, nhằm khắc phục các nhược điểm của luật thuế doanh thu, thúc đẩy phát triển sản xuất, lưu thông và xuất khẩu hàng hoá; phù hợp với xu hướng chung trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với sự với sự hoạt động, phát triển kinh tế trong khu vực và quốc tế.
Luật thuế giá trị gia tăng được quốc hội nước Cộng
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tình hình triển khai áp dụng thuế Giá trị gia tăng đối với hoạt động Bưu chính Viễn thông trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kì họp thứ 11 thông qua ngày 10/5/97 và bắt đầu được triển khai áp dụng từ ngày 1/1/1999.
Với việc triển khai áp dụng luật thuế gia trị gia tăng, các cơ quan quản lí - nhất là cơ quan thuế - đã chuẩn bị chu đáo kỹ càng và hoạch định bước đi thật cụ thể. Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng luật thuế này trong công tác quản lí kinh doanh và hạch toán kế toán cụ thể của các doanh nghiệp bưu chính viễn thông còn mang nhiều nét đặc thù riêng.
Trên cơ sở nhận thức như vậy, trong thời gian thực tập và nghiên cứu thực tế tai Cục thuế Hà nội, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Tình hình triển khai áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bưu chính viễn thông trên địa bàn thành phố Hà nội ”
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Thuế và sự cần thiết áp dụng thuế giá trị gia tăng.
Chương II: Tình hình triển khai áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bưu chính viễn thông trên địa bàn thành phố Hà nội.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bưu chính viễn thông trên địa bàn thành phố Hà nội.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, được sự hướng dẫn, giúp đỡ trực tiếp của cô giáo Vương Thị Thu Hiền; các thầy cô trong tổ môn Thuế Nhà nước trường Đại Học Tài Chính Kế Toán Hà Nội giúp đỡ, cùng với sự giúp đỡ của các bác, các cô chú và các anh chị trong phòng thuế Giao thông - Bưu điện - Xây dựng, cục thuế Hà Nội đã tạo điều kiện cho việc nghiên cứu đề tài trên được hoàn thành.
Do hiểu biết còn hạn chế, thời gian thực tập chưa dài nên bản luận văn chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế. Để củng cố và hoàn thiện kiến thức của mình, tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo cũng như các bạn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo, các bác, các cô chú và các anh chị trong phòng thuế Giao thông - Bưu Điện - Xây dựng cũng như Cục thuế Hà Nội.
Chương I: thuế và sự cần thiết áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bưu chính viễn thông
I. Những vấn đề lí luận chung về thuế nhà nước.
1. Sự ra đời và tồn tại của thuế trong nền kinh tế thị trường.
Thuế tồn tại cùng với nhà nước. Sự xuất hiện của nhà nước đòi hỏi cơ sở vật chất để đảm bảo điều kiện cho nhà nước tồn tại và thực hiện chức năng của mình. Nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để ban hành những qui phạm pháp luật làm công cụ phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước. Mà nguồn thu đó chỉ có thể có được từ việc động viên đóng góp một phần thu nhập xã hội do các tổ chức và các tầng lớp dân cư tạo ra dưới hình thức thuế. Do đó, sự xuất hiện của thuế là một tất yếu khách quan với chức năng chủ yếu, đầu tiên là nhằm đảm bảo nguồn thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng trong việc củng cố bộ máy an ninh, quốc phòng, kinh tế, xã hội... hầu hết các nhà nước đều phải khai thác mọi nguồn thu dưới mọi hình thức như: vay mượn, bán tài nguyên, tài sản quốc gia.... Song hình thức động viên nguồn thu qua thuế, phí và lệ phí là phổ biến và chủ yếu nhất.
Có thể nói thuế là hình thức động viên cổ xưa nhất của tài chính nhà nước. Trải qua những giai đoạn lịch sử với sự ra tăng về quyền lực và nhiệm vụ của nhà nước, thuế cũng được hoàn thiện hơn về nội dung và hình thức.
Thuế tồn tại cùng với sự xuất hiện của sản phẩm thặng dư. Sự hình thành sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu tạo ra khả năng và các nguồn động viên về thuế.
Như vậy, thuế là một phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếu khách quan xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước. Thuế phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Nhà nước sử dụng thuế làm công cụ để thực hiện các chức năng của mình. Mặt khác, mỗi Nhà nước mang bản chất giai cấp nhất định nên thuế mang bản chất giai cấp của nhà nước sinh ra nó.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và nửa đầu của xã hội phong kiến, nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào tự nhiên, tự cung, tự cấp, do đó nguồn thu chủ yếu của NSNN là hiện vật (1 bộ phận của sản phẩm thặng dư). Cơ sở chủ yếu để đánh thuế trong giai đoạn này là tài sản nên nó đem lại kết quả thấp, đặc biệt trong trường hợp thiên tai xảy ra thì thuế có thể lấy vào một phần của sản phẩm tất yếu. Đến thời kì quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản, việc đóng thuế bằng tiền ngày càng trở thành hình thức chủ yếu, giai cấp tư sản còn có nhiều hình thức thu thuế thông qua công trái, phát hành thêm giấy bạc và hình thức thu thuế bằng tiền đã dược áp dụng cho đến ngày nay. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên đòi hỏi nguồn động viên qua thuế cũng ngày càng tăng. Thuế không chỉ tạo ra nguồn thu cho NSNN mà còn là công cụ để quản lí và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Vì vậy, sự tồn tại của thuế trong nền kinh tế thị trường là tất yếu.
Như vây, nhiệm vụ chính của mỗi Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm của phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới vai trò, nội dung và đặc điểm của thuế. Do đó, cơ cấu và nội dung của cả hệ thống nói chung cũng như của từng sắc thuế nói riêng phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, cải tiến và đổi mới kịp thời, thích hợp với tình hình nhiệm vụ của từng giai đoạn. Đồng thời phải giải quyết tổ chức phù hợp, đủ sức đảm bảo thực hiên các qui định pháp luật về thuế đã được Nhà nước ban hành trong từng thời kì.
Hệ thống thuế được coi là phù hợp không thể chỉ nhìn vào số lượng các sắc thuế ít hay nhiều, vào mục tiêu đơn thuần về động viên tài chính mà phải được phân tích một cách toàn diện mối quan hệ chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế lành mạnh với đời sống xã hội, không đối lập với quyền lợi và khả năng đóng góp của nhân dân. Đặc biệt mức động viên đóng góp về thuế không vì mục tiêu phục vụ yêu cầu chi tiêu lãng phí, phô trương bất hợp lí, hoặc để đảm bảo sự hoạt động của một bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, quá sức chịu đựng của nhân dân...
2. Khái niệm, đặc điểm của thuế:
2.1 Khái niệm thuế.
Chúng ta đều biết, cùng với sự phát triển của nhà nước, thuế ngày càng hoàn thiện hơn về nội dung và hình thức. Tuy vậy, xét trên góc độ khái niệm, nhìn nhận về thuế nhà nước chưa có một sự thống nhất tuyệt đối.
Theo David Recardo: thuế được cấu thành từ phần của chính phủ lấy trong sản phẩm đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy vào tư bản hoặc thu nhập của người chịu thuế.
Anghen quan niệm: Để duy trì quyền lực công cộng cần phải có sự đóng góp của công dân cho nhà nước, đó là thuế.
Còn theo KarlMarc, thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn giản tiện do kho bạc thu được bằng tiền hoặc sản vật mà người dân phải đóng góp để dùng vào mọi chi tiêu của nhà nước.
Một số nhà kinh tế Việt Nam lại lập luận, thuế là khoản đóng góp mang tính chất bắt buộc mà mọi thành viên trong xã hội hoặc các tổ chức kinh tế phải nộp vào NSNN theo qui định của pháp luật.
Một số nhà kinh tế nước ngoài thì cho rằng, thuế là hình thức đóng góp bắt buộc được xây dựng và thu bằng con đường quyền lực nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức năng của nhà nước. Trên phương diện kinh tế, thuế là một phương tiện làm thay đổi các cơ cấu tác động `đến tình hình kinh tế. Về xã hội, thuế là phương tiện phân phối lại thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
Những khái niệm về thuế nói trên tuy được diễn đạt theo các cách khác nhau nhưng đều có chung một số đặc điểm chủ yếu, đó là: thừa nhận sự gắn bó trực tiếp không thể tách rời giữa thuế và nhà nước. Chỉ có nhà nước là tổ chức duy nhất ban hành các sắc thuế và thuế là công cụ chủ yếu để tạo lập các nguồn thu cho NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Nhà nước dùng quyền lực của mình để đặt ra các loại thuế thông qua cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước là Quốc hội.
Kết hợp tất cả những hạt nhân hợp lí của các quan điểm trên về thuế, có thể nhận thức về thuế một cách toàn diện như sau:
“ Thuế là một biện pháp động viên bắt buộc của nhà nước đối với các thể nhân và pháp nhân nhằm buộc các thể nhân và pháp nhân trích một phần thu nhập do kinh doanh, do lao động, do đầu tư tài chính, do lưu giữ, chuyển dịch tài sản mang lại nộp cho NSNN “
Khái niệm trên cho thấy rõ tính chất của thuế. Đồng thời phân biệt thuế với các nguồn khác, thấy rõ mục đích, đặc điểm nguồn động viên của thuế.
Để thấy rõ hơn tính chất của thuế, chúng ta xét đặc điểm của thuế.
2.2 Đặc điểm của thuế.
Thuế là một biện pháp tài chính của nhà nước mang tính quyền lực, tính cưỡng chế và tính pháp lí cao.
Đặc điểm này đã được thể chế hoá trong hiến pháp của mọi quốc gia, ở mỗi quốc gia việc đóng thuế cho nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc đối với công dân. Mọi công dân làm nghĩa vụ đóng thuế theo những luật thuế được cơ quan quyền lực tối cao là quốc hội qui định, và nếu không thi hành sẽ bị cưỡng chế theo những hình thức nhất định.
Thuế là hình thức động viên tài chính gắn liền với diễn biến, tình hình kinh tế xã hội của một quốc gia.
Khi nhà nước xác lập một hệ thống thuế với các loại thuế suất khác nhau, trước hết bắt nguồn từ nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Song trong thực tế, mức động viên qua thuế bao giờ cũng chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế xã hội của một quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử.
Yếu tố kinh tế ràng buộc đến chính sách thuế, hệ thống thuế trước hết phải kể đến thu nhập bình quân đầu người của một quốc gia, đến cơ cấu kinh tế đó cũng như chính sách, cơ chế quản lí của nhà nước. Cùng với yếu tố đó, còn phải kể đến phạm vi, mức độ chi tiêu của nhà nước nhằm thể hiện các chức năng kinh tế của mình.
Yếu tố xã hội ràng buộc đến chính sách thuế, hệ thống thuế chính là phong tục, tập quán của quốc gia, kết cấu giai cấp cũng như đời sống thực tế của các thành viên trong từng giai đoạn lịch sử.
Đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay, ngoài những yếu tố kinh tế xã hội nội tại của đất nước cũng cần phải nhắc đến yếu tố mở cửa hội nhập với các quốc gia trên thế giới khi hoạch định chính sách, ban hành hệ thống thuế.
Như vậy, có thể hình dung mức động viên qua thuế trong GDP của một quốc gia phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu của nhà nước, các vấn đề kinh tế xã hội của một quốc gia.
Thuế là khoản đóng góp không mang tính chất hoàn trả trực tiếp.
Khoản đóng góp của công dân bằng hình thức thuế không đòi hỏi phải hoàn trả đúng bằng số lượng và khoản thu mà nhà nước thu từ công dân đó như là khoản vay mượn. Nó sẽ được hoàn trả lại cho người nộp thuế thông qua cơ chế đầu tư của NSNN choviệc sản xuất và cung cấp hàng hoá công cộng.
Tóm lại, thuế là một biện pháp kinh tế của mọi nhà nước, song biện pháp đó chỉ xuất hiện và được thực thi khi hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn thu nhập được tạo ra. Thuế là công cụ để các chính phủ dùng để can thiệp vào kinh tế và là công cụ đắc lực để thực hiện chức năng quản lí kinh tế xã hội. Thuế không chỉ tạo ra nguồn thu cho chính phủ hoạt động mà còn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các biện pháp kinh tế vĩ mô của chính phủ.
3. Vai trò của thuế.
Nhà nước có vai trò quản lí rất quan trọng nhằm tạo lập các cân đối vĩ mô, điều tiết thi trường, tạo môi trường và điều kiện cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm cho sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Nhà nước quản lí nền kinh tế bằng chiến lược và kế hoạch định hướng, chính sách và công cụ kinh tế như giá cả, tín dụng, lãi suất, thuế... là chủ yếu chứ không thể là sự can thiệp tuỳ tiện bằng mệnh lệnh hành chính như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây. Trong những công cụ kinh tế được nhà nước sử dụng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thuế là phương tiện có tầm quan trọng đặc biệt. Một chính sách thuế được ban hành hợp lí, phù hợp với khả năng của nền kinh tế, đáp ứng yêu cấu của thực tiễn thì nó sẽ góp phần khắc phục sự trì trệ và lạc hậu, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, ổn định lâu dài. Ngược lại, một chính sách không phù hợp sẽ trở thành một vật cản gây trở ngại cho sự lớn mạnh của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, thậm chí có thể gây khủng hoảng về kinh tế, chính trị.
Vai trò của thuế được thể hiện:
3.1 Thuế là khoản thu chủ yếu của NSNN.
Xã hội càng phát triển thì chức năng của nhà nước càng nặng nề. Vì vậy, cần phải có nguồn thu để thực hiện chức năng đó. Nhà nước có thể tạo ra nguồn thu bằng nhiều cách như vay, bán tài nguyên, in tiền... nhưng một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.
Trong hệ thống đòn bẩy của cơ chế mới, thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân, theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, nguồn thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại trở thành mối quan hệ “ có vay có trả “. Trước mắt, hệ thống thuế phải là một công cụ quan trọng để góp phần tích cực vào yêu cầu giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài. Vì vậy, thuế phải trở thành nguồn thu chủ yếu, bộ phận cơ bản của một nền tài chính quốc gia lành mạnh.
Mặt khác, với cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần, hệ thống thuế mới được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Do đó, thuế phải bao quát được hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng trong xã hội.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN vì nguồn thu từ thuế mang tính ổn định, không phụ thuộc vào các yếu tố khác, thu thuế đơn giản hơn, ít có điều kiện ràng buộc với nhà nước, qua thu thuế nhà nước biết được những tín hiệu của nền kinh tế để từ đó hoạch định chính sách phát triển nền kinh tế.
3.2 Thuế là công cụ quan trọng trong quản lí vĩ mô nền kinh tế.
- Thuế góp phần ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát.
Giá cả trong nền kinh tế thị trường được qui định bởi cung - cầu hàng hoá. Vì vậy, trong trường hợp lạm phát do cầu quá lớn, nhà nước dùng thuế tác động vào hàng hoá như đánh thuế cao lên làm nhu cầu tiêu thụ về hàng hoá giảm, để bán được hàng, người bán phải tìm cách giảm giá bán, làm cho giá cả giảm, lạm phát giảm.
Trường hợp lạm phát do yếu tố đầu vào quá lớn (lạm phát do chi phí đẩy), nhà nước sẽ đánh thuế với thuế suất thấp các yếu tố đầu vào làm chi phí thấp hơn, do đó các nhà sản xuất sẽ bán với giá thấp hơn, lạm phát giảm.
- Thuế là công cụ quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo ra công ăn việc làm cho người lao động.
Thông qua việc xây dựng đúng đắn chính sách thuế, cơ cấu và mối quan hệ giữa các loại thuế, qua việc xác định hợp lí đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, thuế suất, chế độ miễn giảm... thuế góp phần khuyến khích phát triển các hoạt động sản xuất cần thiết đồng thời thu hẹp, kìm hãm những ngành nghề, mặt hàng cần hạn chế sản xuất và tiêu dùng theo hướng tiết kiệm
Trong điều kiện hiện nay, hệ thống thuế khuyến khích việc bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất bằng cách giảm thuế, như thông qua việc giảm thuế thu nhập công ty, giảm thuế tài sản... góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước, tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài... tạo thêm nhiều công ăn, việc làm cho người lao động.
- Thuế là công cụ góp phần bảo hộ sản xuất trong nước, tận dụng mọi nguồn nhân lực, vật lực sẵn có vào phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh theo định hướng của Nhà nước, góp phần thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa các khu vực trên thế giới.
Thông qua việc sử dụng các biện pháp thuế xuất nhập khẩu, hạn ngạch xuất nhập khẩu, quản lí ngoại hối, trợ giá hàng sản xuất trong nước, ưu đãi hoạt động tín dụng... thuế góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện và bảo hộ nền sản xuất trong nước phát triển. Đồng thời, thuế được xây dựng trên quan điểm mở rộng thị trường một cách lành mạnh, nên khuyến khích hợp tác, giao lưu hàng hoá giữa các nước trên thế giới.
3.3 Thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi hành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau và thu nhập giống nhau. Đảm bảo sự bình đẳng và công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, không có đặc quyền, đặc lợi bất hợp lí cho đối tượng nào.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường việc phân phối của cải xã hội thường dựa trên cơ sở chuẩn mực các yếu tố đầu vào. Mà không phải mọi thành viên trong xã hội đều có năng lực các yếu tố đấu vào như nhau nên đòi hỏi phải có sự phân phối khác nhau. Của cải tập trung phần lớn vào nhóm người có năng lực yếu tố đầu vào lớn nên tạo ra sự phân hoá giầu - nghèo, vì vậy làm giảm cầu của xã hội, không kích thích nền kinh tế phát triển. Do đó, phải tiến hành phân phối lại thu nhập trong nền kinh tế thị trường, đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội.
Như vậy, thuế có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Để bao quát hết các nguồn thu cho NSNN, người ta chia ra nhiều loại thuế khác nhau. Trong đó, thuế GTGT là một loại thuế mới, mang tính ưu việt hơn thay cho thuế doanh thu.
II. Thuế GTGT và sự cần thiết áp dụng thuế GTGT trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
1. Lịch sử hình thành thuế GTGT.
Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu và người đầu tiên nghĩ ra loại thuế này là một người Đức (1918) tên là CARL FRIEDRICH VON SIEMENS. Mặc dù vậy, ông không thuyết phục được chính phủ áp dụng loại thuế mới. Pháp là nước đầu tiên ứng dụng triển khai thí điểm thuế GTGT trong thực tiễn thay thế cho thuế doanh thu không khấu trừ.
Trên thực tế, thuế GTGT ra đời đầu tiên ở Pháp là do kết quả một quá trình lâu dài nhằm vào việc hoàn thiện hệ thống thuế khoá ở nước này mà trọng tâm của nó là để tăng cường các loại thuế gián thu. Sau chiến tranh thế giới lần thứ I, tại Pháp đã hình thành một cách thức tiếp cận mang tính chất tổng thể và khoa học hơn về thuế khoá. Vào năm 1917, Pháp đã bắt đầu áp dụng thuế doanh thu. Thời kì sơ khai người ta chỉ đánh thuế vào giai đoạn cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá (khâu bán lẻ với thuế suất rất thấp 0,2%). Sau đó, tới năm 1920 người ta đưa ra loại thuế doanh thu đánh vào từng khâu của quá trình sản xuất. Trong thực tế, cách đánh thuế này đã phát sinh ra điều bất lợi là nó có tính chất dồn thuế, tức là quá trình sản xuất ra sản phẩm càng qua nhiều khâu thì càng phải chịu thuế cao vì thuế choòng lên thuế. Để khắc phục nhược điểm trên, năm 1936 Pháp đã cải tổ và quyết định hình thức thuế doanh thu theo hình thức thuế đánh một lần vào công đoạn cuối cùng của qua trình sản xuất (tức là khi sản phẩm được lưu thông lần đầu). Như vậy, việc đánh thuế độc lập với độ dài của quá trình sản xuất, khắc phục được hiện tượng đánh trùng thuế trước đó. Nhưng lúc này nảy sinh hiện tượng bất lợi mới là việc thu thuế của Nhà nước bị chậm trễ so với trước vì chỉ khi sản phẩm được đưa vào lưu thông lần đầu thì Nhà nước mới thu được thuế. Năm 1948 thuế doanh thu lại tiếp tục được hoàn thiện trên cơ sở đánh thuế vào từng công đoạn của quá trình sản xuất và tính thuế phải nộp ở giai đoạn sau được trừ thuế phải nộp ở giai đoạn trước. Nhằm khắc phục tính chất dồn thuế, lúc đầu thuế này chỉ áp dụng đối với hoạt động sản xuất công nghiệp với thuế suất đồng loạt là 20% và chỉ cho khấu trừ thuế ở khâu trước đối với nguyên vật liệu. Sau nhiều lần cải tổ, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, thuế GTGT được áp dụng đầu tiên vào ngày 1 tháng 7 năm 1954 trong một số ngành cá biệt và đến ngày 1 tháng 1 năm 1968 nó được áp dụng chính thức và có hiệu lưc cả trong lĩnh vực bán lẻ hàng hoá và cung ứng dịch vụ.
Theo một số nhà nghiên cứu kinh tế, thuê GTGT là một trong những đặc điểm riêng có của một nền kinh tế phát triển nhưng ở Pháp ngay từ buổi sơ khai thuế GTGT ra đời nhằm đáp ứng hai mục tiêu quan trọng: đó là đảm bảo số thu kịp thời, thường xuyên cho NSNN và khắc phục tình trạng thuế đánh trùng lắp qua các khâu sản xuất kinh doanh của thuế doanh thu. Năm 1986 thuế GTGT ở Pháp được áp dụng rộng rãi đối với các ngành nghề sản xuất, lưu thông hàng hoá, dịch vụ với 4 mức thuế suất khác nhau.
Khai sinh ở Pháp, thuế GTGT đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên thế giới, trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nước. Đến nay đã có trên 100 nước áp dụng thuế GTGT. Nhìn chung các nước áp dụng thuế GTGT vì thấy rõ nhược điểm của hệ thống thuế đang tồn tại ở nước họ trên các mặt:
- Thuế doanh thu tính chồng chéo, không đáp ứng được yêu cầu của chính sách động viên hợp lí về thuế.
- Thuế quan đối với hàng nhập có trường hợp phải miễn giảm để phục vụ các quan hệ hợp tác trong khu vực hoặc trên thế giới, vừa gây thất thu cho NSNN, vừa không bảo vệ sản xuất nội địa.
- Có nhiều sắc thuế làm cho hệ thống thuế trở nên nặng nề, cần được thay thế bằng thuế GTGT để có thể bao quát được các đối tượng đánh thuế, nhằm động viên đóng góp của người tiêu dùng.
- Sự phát triển của hệ thống thuế không theo kịp sự phát triển của nền kinh tế.
- Khắc phục một phần tình trạng thất thu thuế cho NSNN.
Tại Việt Nam, thực ra ngay từ trước giải phóng 1975, chính quyền Sài Gòn cũng đã ban hành sắc luật số 035 - TT/SLU ngày 21 tháng 12 năm 1972 thiết lập thuế GTGT đánh trên các hàng hoá, dịch vụ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1973, thay thế các sắc thuế sản xuất, thuế tiêu thụ nước đá, thuế xay lúa... Nhưng đến ngày 1 tháng 1 năm 1999 luật thuế GTGT chính thức được đưa vào áp dụng ở nước ta.
2. GTGT và thuế GTGT.
2.1 Khái niệm về GTGT.
Nhìn chung mỗi sản phẩm hàng hoá trước khi được phân phối đến tay người tiêu dùng thường phải trải qua nhiều công đoạn như sản xuất, bán buôn, bán lẻ. Giá trị của hàng hoá đó ngày càng tăng lên qua mỗi công đoạn. Thông thường, ở giai đoạn đầu tiên, cơ sở sản xuất phải dùng nguyên - nhiên - vật liệu là chủ yếu, còn đối với các giai đoạn sau, giá trị tăng thêm chủ yếu do công sức lao động và lợi nhuận tạo nên. Do đó, GTGT là giá trị tăng thêm của sản phẩm hàng hoá hoặc hoạt động dịch vụ (được gọi chung là sản phẩm hàng hoá) do cơ sở sản xuất,chế biến, gia công dịch vụ, tác động vào nguyên nhiên vật liệu thô, bán thành phẩm hoặc sản phẩm hàng hoá mua vào làm cho giá trị của chúng tăng thêm. Nói cách khác, GTGT là khoản chênh lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào của một sản phẩm hàng hoá.
GTGTđược tính theo hai phương pháp: phương pháp cộng và phương pháp trừ. Theo phương pháp cộng, GTGT được hiểu là giá trị các yếu tố cấu thành nên giá trị tăng thêm bao gồm giá trị lao động (thường được tính bằng chi phí lao động) và lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Như vậy,
GTGT = tiền công lao động + lợi nhuận
Theo phương pháp trừ, GTGT được hiểu là khoản chênh lệch giữa giá trị đầu ra với giá trị của nguyên- nhiên - vật liệu, bán thành phẩm được sử dụng ở đầu vào để tạo ra sản phẩm hàng hoá. Ta có thể biểu diễn qua đẳng thức sau:
GTGT = giá đầu ra - giá đầu vào.
(Giá tính trên là giá chưa có thuế GTGT)
2.2 Khái niệm, đặc điểm thuế GTGT.
Thuế GTGT là một loại thuế gián thu, đánh vào việc sử dụng thu nhập, tức là đánh vào sự chi tiêu, tiêu dùng hàng hoá dịch vụ. Thuế này được thu trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông và được nộp cho nhà nước trên cơ sở trị giá tăng thêm trong mỗi khâu, thuế do các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ nộp nhưng người tiêu dùng là đối tượng chịu thuế thông qua giá cả hàng hoá dịch vụ.
Theo điều I, chương I, luật thuế GTGT của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “ Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông tới tiêu dùng. ”
Thuế GTGT là loại thuế mới ra đời nhằm khắc phục việc đành thuế trùng lặp của thuế doanh thu. Thuế GTGT chỉ đánh vào giá trị tăng thêm của các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tại mỗi công đoạn sản xuất và lưu thông, làm sao để tới cuối chu kì sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ thì tổng số thuế thu được ở các công đoạn sẽ bằng số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Để hiểu về thuế GTGT, chúng ta xét ví dụ về thuế GTGT đánh vào sản phẩm A. Giả thiết với thuế suất 10 %, thuế tính trên giá bán chưa có thuế và sản phẩm trải qua 4 công đoạn sản xuất kinh doanh.
Người khai thác bán với giá: 100
Người sản xuất bán với giá: 200
Người bán buôn bán với giá: 250
Người bán lẻ bán với giá: 300
Ta có thuế GTGT phát sinh, cách tính thuế, khấu trừ thuế và số thuế phải nộp được khái quát trong bảng sau:
Bảng 1: Cơ chế vận hành của thuế GTGT
Các khâu SXKD
Giá mua chưa VAT
GTGT
Giá bán chưa VAT
VAT đầu ra
VAT đầu vào
VAT phải nộp
1- Khai thác
-
-
100
10
-
10
2- Sản xuất
100
100
200
20
10
10
3- Bán buôn
200
50
250
25
20
5
4- Bán lẻ
250
50
300
30
25
5
VAT phải nộp
30
Như vậy, thuế GTGT người tiêu dùng phải nộp là 30.
Qua bảng tính thuế trên đây, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của thuế GTGT như sau:
- Trong mỗi khâu tiêu thụ hàng hoá, thuế GTGT đều được tính trên giá bán hàng hoá (giá bán chưa có thuế GTGT).
- Tính thuế GTGT phải nộp ở giai đoạn sau đều được khấu trừ thuế GTGT đã nộp ở giai đoạn trước nên không gây ra hiện tượng trùng lắp. Cũng vì đặc trưng này, người ta gọi thuế GTGT là thuế doanh thu có khấu trừ. Kết quả thu được ở mỗi khâu đều kiểm tra được việc tính thuế và thu thuế ở khâu trước
- Hiệu quả của thuế GTGT không phụ thuộc vào việc tổ chức và sự phân chia các chu trình kinh tế, cho dù sản phẩm trải qua nhiều hay ít công đoạn, tổng số thuế phải nộp cũng chỉ bằng giá mua chưa có thuế của người tiêu dùng cuối cùng nhân với thuế suất. Đó chính là nguyên tắc cơ bản của thuế GTGT, vì vậy, thuế GTGT không làm giá đột biến khi phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất, lưu thông hàng hoá và do đó có ảnh hưởng tích cực tới hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Theo ví dụ nêu trên, tổng số thuế GTGT do người tiêu dùng ở khâu cuối cùng phải chịu là 30, nhưng được thu qua từng công đoạn: khai thác : 10, sản xuất : 10, bán buôn : 5, bán lẻ : 5. Số thuế này được người bán ghi vào hoá đơn để thu toàn bộ qua từng khâu cho nên thuế này được chuyển toàn bộ cho người mua hàng và tiêu dùng cuối cùng.
Nếu sản phẩm trên không tiêu thụ ở thị trường trong nước mà được xuất khẩu thì người xuất khẩu được hoàn lại số thuế đã nộp ở khâu bán hàng của người sản xuất, tức là 30.
Tại từng công đoạn, người bán hàng phải:
+ Đưa hoá đơn cho khách hàng trong đó ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT phải nộp và toàn bộ số tiền mà khách hàng phải thanh toán.
+ Tính số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước để được khấu trừ ở khâu này theo đúng qui định của luật thuế GTGT.
+ Chỉ nộp vào kho bạc Nhà nước số chênh lệch giữa số thuế GTGT phải nộp và số thuế GTGT được khấu trừ.
Như vậy, một trong những nguyên tắc cơ bản của thuế GTGT là sản phẩm hàng hoá qua nhiều hay ít khâu trung gian từ sản xuất đến tiêu dùng đều chịu thuế như nhau. Sau khi chuyển nhượng lần đầu, những lần mua bán tiếp theo sản phẩm hàng hoá sẽ chỉ chịu thuế GTGT tính trên phần doanh thu tăng thêm.
3. Nội dung cơ bản của thuế GTGT hiện hành ở Việt Nam
3.1 Đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế.
Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng ở Việt Nam (tiêu dùng cho sản xuất và sinh hoạt) không kể là hàng hoá dịch vụ được sản xuất cung ứng từ trong nước hay nhập khẩu, trừ 26 nhóm mặt hàng được qui định tại điều IV luật thuế GTGT và mục I - thông tư 175.
Đối tượng nộp thuế GTGT là tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc nhập khẩu hàng hoá dịch vụ (gọi chung là cơ sở kinh doanh) thuộc diện chịu thuế GTGT là đối tượng nộp thuế GTGT. Cụ thể:
Các tổ chức kinh doanh không phân biệt thành phần kinh tế, doanh nghiệp trong nước hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, là doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp ngoài quốc doanh, là hợp tác xã hay bất kì một đơn vị kinh tế trực thuộc nào có hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá, cung cấp dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT.
Các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT.
3.2 Căn cứ tính thuế GTGT.
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất.
Giá tính thuế GTGT:
- Đối với hàng hoá dịch vụ do cơ sở sản xuất kinh doanh bán ra hoặc cung ứng cho đối tượng khác là giá bán chưa có thuế GTGT.
- Đối với hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu (thường là giá CIF) cộng với thuế nhập khẩu. Trường hợp hàng hoá nhập khẩu được miễn hoặc giảm thuế thì giá tính thuế GTGT là giá hàng hoá nhập khẩu cộng với thuế nhập khẩu được xác định theo mức đã được miễn giảm.
- Đối với dịch vụ do phía nước ngoài cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng ở Việt Nam, là giá chưa có thuế GTGT ghi trong hợp đồng.
- Đối với hàng hoá, dịch vụ sử dụng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu tặng, là giá bán chưa có thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động trao đổi, sử dụng nội bộ hoặc biếu tặng.
- Đối với hoạt động cho thuê tài sản, là số tiền thuê thu từng kì.
- Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp là giá bán của hàng hoá tính theo giá bán trả một lần, không tính theo số tiền trả từng kì, không bao gồm lãi trả góp.
- Đối với gia công hàng hoá là giá gia công chưa có thuế GTGT, bao gồm: tiền công, tiền nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và các chi phí khác để gia công.
- Đối với hàng hoá, dịch vụ khác là giá do chính phủ qui định.
Giá tính thuế GTGT đối với hàng hoá, dịch vụ qui định ở trên bao gồm cả khoản phụ thu và phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh được hưởng.
Trường hợp đối tượng nộp thuế có doanh số mua bán bằng ngoại tệ thì phải qui đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỉ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh số để xác định giá tính thuế.
Thuế suất thuế GTGT.
Theo qui định tại điều 8 luật thuế GTGT và điều 7 NĐ 28/1998/ NĐ- CP và điều 5 mục 2 TT 175/1998/ TT- BTC, thuế GTGT có 4 mức thuế suất: 0%, 5%, 10%, 20%.
Nhóm thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu.
Nhóm thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá dịch vụ thiết yếu dùng cho sản xuất và tiêu dùng.
Nhóm thuế suất._. 10% là thuế suất phổ thông.
Nhóm thuế suất 20% áp dụng đối với các hàng hoá dịch vụ không thiết yếu cần điều tiết.
Nếu cơ sở sản xuất, kinh doanh nhiều loại hàng hoá dịch vụ khác nhau thì phải tổ chức hạch toán kế toán riêng doanh thu từng loại hàng hoá theo từng mức thuế suất qui định đối với hàng hoá dịch vụ. Nếu không hạch toán được như vậy thì doanh nghiệp phải tính thuế GTGT theo mức thuế suất cao nhất của hàng hoá dịch vụ mà cơ sở có sản xuất, kinh doanh trên tổng doanh thu của tất cả các hàng hoá, dịch vụ bán ra trong kì.
3.3 Phương pháp tính thuế GTGT:
Có 2 phương pháp tính thuế GTGT: Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Phương pháp khấu trừ thuế:
Phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng cho tất cả các CSSXKD đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu về mở và ghi sổ kế toán, chấp hành đầy đủ các qui định của chế độ hoá đơn, chứng từ.
CSKD đăng kí nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ phải sử dụng hoá đơn GTGT - mẫu số 01/GTGT (trừ trưòng hợp được dùng chứng từ ghi giá thanh toán đã có thuế GTGT). Trên hoá đơn phải ghi rõ: giá bán chưa có thuế GTGT, các khoản phụ thu, thuế GTGT và tổng số tiền phải thanh toán.
Thuế GTGT phải nộp là số chênh lệch giữa thuế GTGT đầu ra và thuế GTGT đầu vào. Có thể biểu diễn qua công thức:
Thuế GTGT phải nộp = thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra - thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào.
Trong đó:
Thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra là số thuế tính trên tổng giá bán (chưa bao gồm thuế GTGT) của hàng hoá, dịch vụ bán ra trong kì. Thuế GTGT đầu ra được tính theo công thức:
Thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra = Giá tính thuế hàng hoá dịch vụ chịu thuế bán ra ´ thuế suất tương ứng của từng loại hàng hoá dịch vụ.
Thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào là số thuế GTGT được ghi trên hoá đơn GTGT khi mua hàng hoá, dịch vụ hoặc trên chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá dịch vụ nhập khẩu.
Phương pháp trực tiếp trên GTGT.
Theo phương pháp này thuế GTGT được tính trực tiếp trên giá tri gia tăng của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế do cơ sở kinh doanh bán ra.
Đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên GTGT là các cá nhân, tổ chức kinh doanh chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; các cơ sở sản xuất kinh doanh, mua bán vàng, bạc, đá quí, ngoại tệ.
Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp này sử dụng hoá đơn thông thường - mẫu số 02/GTGT, trong đó giá tính thuế là giá đã có thuế GTGT.
Thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế ´ thuế suất thuế GTGT tương ứng.
Hoặc:
Thuế GTGT phải nộp =[giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ bán ra - giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng] ´ thuế suất thuế GTGT tương ứng.
Trong đó:
GTGT là chênh lệch giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra và giá thanh toán hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng.
Giá thanh toán hàng hoá, dịch vụ bán ra là số tiền bên mua phải thanh toán cho bên bán gồm cả thuế GTGT và phụ thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả.
Giá thanh toán hàng hoá dịch vụ mua vào được xác định bằng giá trị hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng với giá của hàng hoá dịch vụ bán ra được xác định bằng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào (bao gồm cả thuế GTGT) mà cơ sở kinh doanh đã dùng vào sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra.
Thuế suất thuế GTGT tương ứng là mức qui định đối với từng loại hàng hoá, dịch vụ tương ứng với hàng hoá, dịch vụ bán ra.
3.4 Miễn giảm thuế, hoàn thuế GTGT.
- Về nguyên tắc không qui định miễn giảm thuế GTGT vì thuế GTGT là thuế gián thu do người tiêu dùng chịu, nhưng do trong thời gian chuyển từ thuế doanh thu với 11 mức thuế suất sang thuế GTGT chỉ còn 4 mức thuế suất nên có một số doanh nghiệp gặp phải khó khăn. Do vậy, điều 28 luật thuế GTGT qui định:
Cơ sở sản xuất kinh doanh, xây dựng, vận tải hoạt động kinh doanh trong ba năm đầu (1999, 2000, 2001) nếu áp dụng thuế GTGT mà bị lỗ do số thuế GTGT phải nộp của các hoạt động này lớn hơn số thuế phải nộp tính theo mức thuế doanh thu trước đây thì được xét giảm thuế GTGT. Thuế được xét giảm theo từng năm (tính theo năm dương lịch).
Các cơ sở kinh doanh dịch vụ khác nếu phát sinh lỗ thì không được xét giảm thuế GTGT.
Mức thuế được xét giảm tương ứng với số lỗ của năm xét giảm nhưng tối đa không quá 50% số thuế GTGT phải nộp.
Ngoài ra, còn một số trường hợp khác được xét giảm thuế theo TT 102 /TT-BTC.
Hoàn thuế GTGT là việc NSNN trả lại cho cơ sở kinh doanh số tiền thuế GTGT đầu vào đã trả khi mua hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở kinh doanh còn được khấu trừ trong kì tính thuế. Việc hoàn thuế GTGT chỉ thực hiện trong các trường hợp:
- Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế hàng quí nếu số thuế đầu vào được khấu trừ của các tháng trong quí lớn hơn số thuế đầu ra hoặc được hoàn thuế đầu vào của tài sản cố định theo điểm c khoản I điều 10 của luật thuế GTGT.
- Quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản có số thuế nộp thừa;
- Quyết định xử lí hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo qui định của pháp luật.
4. Những ưu điểm, thách thức đặt ra và điều kiện áp dụng thuế GTGT.
4.1 Ưu điểm.
Là một loại thuế gián thu, thuế GTGT cũng như thuế doanh thu đảm bảo cho mọi người có thể tự do lựa chọn hàng hoá, quyết định tiêu dùng để chịu thuế cao hay thấp tuỳ thuộc vào khả năng chi trả, sở thích của mình. Thuế GTGT tránh được mối quan hệ trực tiếp giữa người tiêu dùng - người chịu thuế, với cơ quan thuế nên có phần dễ thu hơn thuế trực thu. Đồng thời việc điều chỉnh tăng mức thuế suất cũng dễ hơn do thuế nằm ẩn trong giá cả hàng hoá, dịch vụ. Người chịu thuế thường ít cảm nhận ngay đầy đủ gánh nặng thuế. Do vậy phản ứng của dân chúng về thuế gián thu càng ít gay gắt hơn thuế trực thu. Về mặt quản lí, thuế GTGT và thuế doanh thu không quan tâm tới các khoản chi phí hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của doanh nghiệp nên chi phí sản xuất có phần thấp hơn thuế trực thu.
Tuy nhiên, so với thuế doanh thu, thuế GTGT lại có nhiều ưu điểm lớn như sau:
*Ưu điểm cơ bản nhất của thuế GTGT là nó loại bỏ được các nhược điểm của một số loại thuế gián thu mà nó thay thế. Đó là, tránh được việc đánh thuế trùng lặp và tránh đánh thuế chồng lên thuế.
Để minh hoạ ưu điểm này, ta trở lại ví dụ ban đầu về cơ chế vận hành của thuế GTGT với giả định thuế suất thuế doanh thu là 5%. Số thuế qua mỗi công đoạn sẽ là:
Người khai thác phải nộp: 100 ´ 5% = 5
Người sản xuất phải nộp: 200 ´ 5% =10
Người bán buôn phải nộp: 250 ´ 5% = 12,5
Người bán lẻ phải nộp: 300 ´ 5% = 15
Như vậy, tổng số thuế doanh thu phải nộp là 42,5.
Mục tiêu của thuế doanh thu là thu trên sản phẩm tiêu thụ nhưng với cách đánh như vậy đã tạo ra các khoản tính trùng lắp, vì thuế chồng lên thuế khiến cho tổng số thuế quá cao, thực chất là 14,17% (42,5/300) chứ không phải là 5% như qui định.
Còn nếu đánh thuế theo phương pháp thuế GTGT thì người nộp thuế được khấu trừ các khoản thuế GTGT đã nộp trước đó nên tổng số thuế phải nộp chỉ là 30. Như vậy, thuế suất thuế GTGT tuy cao gấp 2 lần thuế suất thuế doanh thu nhưng mức thuế phải nộp lại thấp hơn và hợp lí hơn vì không bị đánh trùng thuế.
* Về mặt kinh tế, thuế GTGT có những ưu điểm lớn là tác động đến sự phát triển kinh tế.
Hạn chế lớn nhất của thuế doanh thu đối với việc khuyến khích phát triển sản xuất là kìm hãm chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh, việc sản xuất một loại sản phẩm càng qua nhiều công đoạn do các doanh nghiệp độc lập thực hiện thì tổng số thuế doanh thu mà các chủ doanh nghiệp phải nộp càng lớn và lợi nhuận của họ càng giảm tương ứng. Vì vậy, các doanh nghiệp có khuynh hướng đối phó với thuế doanh thu bằng cách hội nhập theo chiều ngang.
Thuế GTGT với việc khấu trừ thuế đã nộp đầu vào, đã xoá bỏ được hạn chế nói trên và có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá sản xuất, chuyên môn hoá, đầu tư mới và hạ giá thành sản phẩm.
Thuế GTGT thay cho thuế doanh thu đánh trùng có tác dụng khuyến khích xuất khẩu để tăng kim ngạch xuất khẩu và thu ngoại tệ về cho nhà nước. Bởi vì, thông thường hàng hoá xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0% nên nó đảm bảo cho hàng hoá xuất khẩu được hoàn lại số thuế GTGT đã nộp trong thị trường nội địa, chi phí hàng xuất khẩu có điều kiện giảm xuống, tạo cơ hội thuận lợi cho việc cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Mặt khác đối với hàng nhập khẩu, ngoài việc nộp thuế nhập khẩu còn phải chịu thuế GTGT như các hàng hoá tương ứng được tiêu dùng trong nước. Do đó có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước.
Thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm, không tính vào vốn nên góp phần khuyến khích các tổ chức, cá nhân bỏ vốn ra đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế nước ta trong thời gian tới.
* Đối với NSNN, thuế GTGT có ưu điểm là trung lập về mặt kinh tế, đem lại số thu tương đối lớn cho ngân sách bởi phạm vi điều tiết của thuế GTGT rất rộng: thu vào mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng hàng hoá dịch vụ. Mặt khác, nó là một loại thuế gián thu ứng vào giá bán nên dễ thu hơn các loại thuế trực thu khác.
* Đối với cơ quan thuế, thuế GTGT cho phép chống trốn lậu thuế có hiệu quả tạo ra sự kiểm soát lẫn nhau về thuế giữa các đơn vị có liên quan trong cung ứng hàng hoá, dịch vụ. Việc khấu trừ thuế được thực hiện dựa vào hoá đơn đã thúc đẩy người mua phải đòi hỏi người bán đưa hoá đơn, ghi đúng, ghi đủ các chỉ tiêu, khắc phục tình trạng thông đồng giữa người bán và người mua vì quyền lợi của họ mâu thuẫn nhau. Việc tính thuế ở giai đoạn sau có sự kiểm tra, giám sát việc nộp thuế ở giai đoạn trước tạo môi trường thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao, vì nếu giai đoạn trước không đóng thuế thì giai đoạn sau sẽ bị đánh nặng hơn và thuế GTGT sẽ cao hơn. Chỉ có giai đoạn bán lẻ mới có điều kiện để trốn thuế nhưng giai đoạn này GTGT không lớn nên nếu có trốn thuế thì số thuế cũng không nhiều. Hoặc trường hợp cung ứng dịch vụ thuần tuý cũng có khả năng trốn thuế, nhưng với trường hợp này thì nhìn chung thuế doanh thu có khả năng trốn cao hơn vì thuế cao hơn.
* Đối với người nộp thuế: thuế GTGT là một phương pháp thu tiên tiến, nâng cao được tinh thần tự giác và nghĩa vụ của người nộp thuế. Việc giành quyền tự kê khai cho người nộp thuế có ưu điểm về phương diện tâm lí và pháp lí, họ được tự do không bị ép buộc. Ngược lại, cơ quan thuế cũng rất dễ dàng kiểm tra đối với những trường hợp kê khai không đúng. Cách thu này buộc người mua, người bán, cơ quan thuế phải lưu giữ biên lai, chứng từ, hồ sơ thu thuế cẩn thận, làm cho người nộp thuế quen với cơ chế thuế dựa trên cơ sở hoá đơn. Điều này rất có ý nghĩa đối với nước ta hiện nay.
áp dụng thuế GTGT đồng thời với việc sử dụng một số sắc thuế gián thu khác (Thuế tiêu thụ ĐB, Thuế xuất nhập khẩu ...) sẽ góp phần làm hệ thống thuế ở Việt nam ngày càng hoàn thiện, phù hợp với cơ chế thị trường, tương đồng với thông lệ Quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để Việt nam hội nhập với sự phát triển chung của khu vực và Thế giới. Đặc biệt trong bối cảnh của nước ta hiện nay, đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN và AFTA.
Tóm lại, trong các sắc thuế gián thu, thuế GTGT được đánh giá là loại thuế có nhiều tiến bộ, có thể đảm bảo mục tiêu của hệ thống thuế là tạo nguồn thu lớn cho NSNN, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và đảm bảo được tính trung lập cao của thuế, phù hợp với xu thế chung trên thế giới.
4.2 Những thách thức đặt ra của thuế GTGT .
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, thuế GTGT cũng bộc lộ một số nhược điểm sau:
- Đối với các doanh nghiệp có qui mô nhỏ,đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân mà việc tổ chức sổ sách kế toán còn nhiều hạn chế thì việc thực hiện thuế GTGT rất phức tạp và khó khăn. Do phương pháp tính thuế của thuế GTGT phức tạp hơn rất nhiều so với phương pháp tính thuế của thuế doanh thu, đòi hỏi phải có chế độ hoá đơn, chứng từ đầy đủ, hạch toán kế toán rõ ràng... Vì vậy, có thể xảy ra hiệu ứng phụ khi áp dụng thuế GTGT như giá cả tăng, nguồn thu giảm. Đối với các nước đang thực hiện thuế doanh thu một giai đoạn chuyển sang áp dụng thuế GTGT thì số người trả thuế tăng rất lớn. Điều này làm cho việc quản lí thuế vừa tốn kêm, vừa bề bộn. Để quản lí tốt thuế GTGT đòi hỏi việc ghi hoá đơn, sổ sách kế toán của người nộp thuế phải đầy đủ, rõ ràng. Điều này khiến chi phí quản lí và thu thuế GTGT khá cao so với thuế doanh thu.
- Việc quản lí thuế GTGT đòi hỏi phải hết sức chặt chẽ nếu không xảy ra tình trạng số thuế hoàn trả cao hơn số thuế thu được. Mặt khác, việc hoàn trả thuế tràn lan không kiểm soát được sẽ làm cho ngân sách bị động.
- Thuế GTGT mang tính luỹ thoái cho nên thường thiếu công bằng. Vì vậy, khi áp dụng thuế GTGT thường phải kết hợp với các loại thuế trực thu khác như thuế thu nhập luỹ tiến để điều tiết thu nhập của các đối tượng.
- Thuế GTGT mang tính trung lập cao nên nó thiếu uyển chuyển, mềm dẻo như thuế doanh thu. Do đó, việc qui định mức thuế suất và lựa chọn bao nhiêu thuế suất là vấn đề rất quan trọng để nó có thể phù hợp với các nước có nền kinh tế mới chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế như nước ta chẳng hạn.
- Việc áp dụng thuế GTGT đòi hỏi yêu cầu cao đối với hệ thống văn bản pháp qui cũng như đối với bộ máy thu thuế và quản lí thuế.
- Việc áp dụng thuế GTGT đòi hỏi yêu cầu cao về cơ sở số liệu, hạch toán kế toán, hoá đơn và luân chuyển hoá đơn, chứng từ cũng như trình độ nhận thức của mọi đối tượng liên quan từ nhà nước đến doanh nghiệp và nhân dân...
- Giữa lí luận và thực tiễn thuế GTGT cũng có những điểm chưa được nhất quán. Thuế GTGT tính trên phần giá trị tăng thêm nhưng đối với một số ngành dịch vụ (phục vụ, sửa chữa, chuyển giao cônh nghệ, dịch vụ khoa học...), cách đánh thuế và khấu trừ thuế GTGT như thế nào là hợp lí ? Đối với tài sản cố định, mức khấu trừ thuế đã nộp ở giai đoạn đầu vào như thế nào là thoả đáng ?... Những vấn đề này là nội dung tranh luận trong nhiều cuộc hội thảo trên thế giới, nhưng đến nay ở nhiều nước vẫn có quan điểm và cách xử lí rất khác nhau.
Mặt khác, nền kinh tế nước ta đang chịu những tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực cho nên rất dễ gây tác động lạm phát.
Tuy nhiên, không có luật thuế nào là hoàn hảo, là có thể đáp ứng được mọi yêu cầu đặt ra. Một số mặt hạn chế trên của thuế GTGT không làm giảm ý nghĩa và vai trò của nó trong thực tế. Ngược lại, việc phát hiện ra những hạn chế của thuế GTGT sẽ giúp các cơ quan chức năng có những biện pháp hợp lí khắc phục hạn chế, dần dần hoàn thiện công tác áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam.
4.3 Điều kiện áp dụng thuế GTGT ở nước ta.
Để áp dụng thuế GTGT có hiệu quả, đòi hỏi phải thoả mãn một số điều kiện chủ yếu sau:
- Nền kinh tế phát triển và thực hiện cơ chế quản lí kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường.
Theo một số nhà nghiên cứu kinh tế, thuế GTGT là một trong những đặc điểm riêng có của nền kinh tế thị trường phát triển vì trong hoàn cảnh đó giá cả hàng hoá thường ổn định. Giá cả hàng hoá ở khâu sau thường cao hơn khâu trước, đảm bảo cho việc khấu trừ thuế trở thành phổ biến, trường hợp phải hoàn thuế do giá đầu ra thấp hơn đầu vào hầu như không xảy ra hoặc chỉ là cá biệt.
Cơ chế thị trường với đặc trưng là cạnh tranh nhằm mục đích thu lợi nhuận cao, tự nó sẽ điều chỉnh sự phát triển sản xuất kinh doanh, dẫn tới sự điều chỉnh vốn giữa các ngành nghề theo qui luật tỉ suất lợi nhuận bình quân. Đây chính là cơ sở để áp dụng thuế GTGT có tính trung lập cao với một hoặc ít mức thuế suất song vẫn đảm bảo sự tồn tại và tính cạnh tranh một cách bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Do đó, thuế GTGT phù hợp với cơ chế thị trường hơn thuế doanh thu. Trong nền kinh tế thị trường phát triển tốt, thuế GTGT mới phát huy được tác dụng khuyến khích tăng cường đầu tư để chuyên môn hoá sản xuất cao, phục vụ tốt yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH đất nước.
- Tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh ổn định và có hiệu quả. Các doanh nghiệp và các hộ đều phải hạch toán được kết quả hoạt động kinh doanh của mình theo đúng chế độ kế toán hiện hành. Phải có cơ chế sử dụng hoá đơn, chứng từ, đặc biệt đối với các doanh nghiệp lớn và vừa phải được quản lí chặt chẽ, thực hiện nghiêm túc, tạo điều kiện thuận lợ cho việc kiểm tra xác định doanh thu tính thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế của cơ quan thuế được chính xác.
- Đại bộ phận quan hệ thanh toán, mua bán hàng hoá với mức tiền nhất định phải được thông qua ngân hàng với những thủ tục đơn giản, hạn chế bằng tiền mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan thuế kiểm tra xác định doanh thu bán hàng làm căn cứ cho việc tính thuế GTGT, khấu trừ thuế, hoàn thuế được chính xác, sát với hoạt động thực tế của từng đơn vị kinh doanh.
- ý thức tự nguyện, tự giác chấp hành các nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp phải tốt và không ngừng nâng lên thêo phương châm “ đức trị ”, gắn với việc xử lí các vi phạm về thuế nghiêm minh theo phương châm “ pháp trị ”
- Cán bộ quản lí thu thuế phải tinh thông về nghiệp vụ thuế GTGT, đủ năng lực thực hiện các qui trình kỹ thuật quản lí và thu thuế theo đúng qqui định của Nhà nước.
- Hệ thống pháp luật thuế phải ngày càng hoàn chỉnh, đưa dần việc thực hiện pháp luật vào nề nếp, kỉ cương trong cả nhận thức cũng như hành độnh thực tế.
Ngoài 6 điều kiện trên, việc áp dụng thuế GTGT còn đòi hỏi phải:
+ Có hệ thống máy tính đủ mạnh để phục vụ cho công tác theo dõi, tổng hợp, kiểm tra đối chiếu số liệu, tài liệu có liên quan đến việc tính thuế được nhanh chóng và chính xác.
+ Công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức cơ bản về thuế GTGT của các doanh nghiệp và cho nhân dân phải được tiến hành tốt.
+ Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ kiểm soát viên thuế.
+ Về mặt pháp luật, phải có hệ thống pháp luật đồng bộ, có bộ phận xử lí những vấn đề nảy sinh trong công tác thực hiện luật thuế GTGT.
Mỗi điều kiện trên đều có vai trò, vị trí quan trọng nhất định, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ. Các điều kiện này bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để việc triển khai luật thuế GTGT được đồng bộ và đạt hiệu quả cao.
5. Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
Trước tình hình thực tế của nước ta hiện nay, qua phân tích lí luận về ưu, nhược điểm của nó đã khẳng định việc ban hành luật thuế GTGT thay thế thuế doanh thu là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan. Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT ở nước ta xuất phát từ các lí do sau:
- Nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế của thuế doanh thu đang có biểu hiện không còn phù hợp với cơ chế thị trường ở nước ta.
- Xuất phát từ những ưu điểm của thuế GTGT như không trùng lắp, có tính trung lập cao, thu thuế sát với thực tế, thúc đẩy việc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá đơn, chứng từ, sổ sách kế toán... nên việc áp dụng thuế GTGT là yếu tố quan trọng thúc đẩy tiết kiệm và tiêu dùng, thúc đẩy các doanh nghiệp bình đẳng trong cạnh tranh, chú ý tới hiệu quả sản xuất kinh doanh nhiều hơn để tồn tại và phát triển.
- Từ tình hình thực tế ở nước ta hiện nay một mặt đòi hỏi phải áp dụng thuế GTGT để khuyến khích sản xuất, xuất khẩu, khuyến khích đầu tư, tăng thu cho NSNN... thực hiện CNH - HĐH đất nước. Mặt khác, chúng ta đã có những tiền đề cần thiết cho phép có thể áp dụng thuế GTGT trong tình hình hiện nay.
- Việc áp dụng thuế GTGT sẽ giúp cho việc thu thuế ngày càng sát với thực tế, chống thất thu thuế có hiệu quả, đảm bảo số thu cho NSNN, đồng thời tập trung được số thuế với số lượng lớn do thuế được thu ngay từ khâu đầu tiên của quá trình sản xuất.
- Về mặt tâm lí, thuế GTGT sẽ xoá bỏ được những định kiến nặng nề về thuế doanh thu nói riêng và cả hệ thống thuế nói chung, vì nó xoá bỏ được nhược điểm thuế chồng lên thuế, tạo điều kiện chuyên môn hoá được tốt hơn.
Chương II: Tình hình triển khai áp dụng thuế GTGT đối với hoạt động bưu chính viễn thông trên địa bàn thành phố Hà nội.
I. Một vài nét về đặc điểm hoạt động nghành BCVT và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lí thu thuế phòng thuế Giao thông - Bưu điện - Xây dựng.
1. Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn thành phố Hà nội.
So với các tỉnh, thành phố khác, Hà nội có lợi thế là thủ đô của cả nước, được Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển thành trung tâm Kinh tế - Văn hoá - Xã hội của cả nước. Bên cạnh đó, Hà nội có địa thế và vị trí rất thuận lợi để phát triển kinh tế, Hà nội còn là đầu mối giao thông lớn nhất nước ta. Vì vậy, từ khi tiến hành đổi mới, diện mạo của thành phố không ngừng thay đổi.Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1998 đạt khoảng 9% trong khi tốc độ tăng trưởng của cả nước chỉ là 5,8%.
Mặc dù mức tăng trưởng có chậm lại so với năm 1997 (khoảng 10%), do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực bùng nổ từ năm 1997 nhưng các ngành công nghiệp, dịch vụ vẫn có tốc độ tăng trưởng cao. Thu nhập bình quân đầu người ở Hà nội đạt 8.941.700 đồng \ người.
Cùng với sự phát triển, tăng trưởng của nền kinh tế, hoạt động BCVT cũng chịu sự tác động không nhỏ. Ngành BCVT trên địa bàn thành phố Hà nội chịu ảnh hưởng trực tiếp từ điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế,chính trị tạo ra những thuận lợi và khó khăn cho hoạt động BCVT.
Trong những năm vừa qua, thực hiện chủ trương mở cửa của Nhà nước, Hà nội đã đi đầu trong việc thu hút vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân...trong và ngoài nước mà trong đó yêu cầu đặt ra đối với hoạt động BCVT là rất lớn, hoạt động BCVT phải góp phần tạo điều kiện cơ sở vật chất cho các ngành kinh tế phát triển. Hệ thống thông tin liên lạc phải không ngừng củng cố và phát triển phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới. Vì vậy,thành tựu đạt được của tất cả các ngành, của nền kinh tế đều có sự tham gia đóng góp của ngành BCVT. Nhờ vậy, mà số thu NSNN trên địa bàn thành phố Hà nội không ngừng tăng lên qua các năm.
Bảng2: Tình hình thu ngân sách trên địa bàn thành phố Hà nội.
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
Dự tính 1999
Tổng thu NSNN
8.563.312
9.359.513
11.063.702
8.888.740
Phòng thuế GT-BĐ
2.289.885
2.385.581
2.668.984
2.147.520
Tỉ trọng (%)
26,74
25,48
24,12
24,16
Như vậy, số thu NSNN trên địa bàn thành phố Hà nội không ngừng tăng trưởng qua các năm. Điều đó chính tỏ tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố khá ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao. Nếu trong năm 1996, số động viên từ thuế vào NSNN của thành phố là 8.563.312 triệu đồng, thì sang năm 1997, số thu đó đã là 9.359.513,đạt 109,29% và đến năm 1998 số thu từ thuế vào NSNN của Hà nội là 11.063.702 đạt 129,19% so với năm 1996 và bằng 118,2% so với năm 1997. Tuy nhiên, dự toán thu năm nay có phần thấp hơn vì chúng ta mới triển khai đưa vào áp dụng hai luật thuế mới: GTGT và TNDN nên không tránh khỏi những biến động, khó khăn do việc chuyển đổi cơ cấu quản lí thu thuế.
2. Đặc điểm hoạt động của các doanh nghiệp BCVT trên địa bàn thành phố Hà nội.
BCVT là ngành sản xuất vật chất thuộc kết cấu hạ tầng bao gồm cả bưu chính lẫn viễn thông, vừa phục vụ cho việc quản lí, điều hành của nhà nước, vừa trực tiếp tham gia vào sản xuất với tư cách là yếu tố đầu vào quan trọng tạo ra sản phẩm xã hội.
Là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, hoạt động BCVT có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Trước hết, hoạt động BCVT cung cấp mọi thông tin cơ bản, cần thiết cho sản xuất, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động SXKD phát triển, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của đất nước. Mặt khác, hoạt động BCVT còn là công cụ để nhà nước quản lí và điều hành mọi hoạt động của đất nước qua việc sử dụng hệ thống các phương tiện thông tin liên lạc. Sự phát triển của hoạt động BCVT còn tạo ra những điều kiện để hợp tác quốc tế, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, thực hiện quá trình CNH-HĐH đất nước.
2.1 Những thành tựu đạt được trong thời gian qua.
Trong những năm vừa qua, hoạt động BCVT không ngừng tăng cả về số lượng và chất lượng phục vụ. Sự phát triển của hoạt động BCVT đã góp phần làm thay đổi diện mạo của thành phố Hà nội nói riêng và của cả đất nước nói chung.
Xét riêng trên lĩnh vực viễn thông, chúng ta đã có những bước tiến xa bắt kịp với nhịp độ phát triển của sự tiến bộ kỹ thuật viễn thông trên thế giới. Mạng lưới viễn thông quốc tế được mở rộng, hiện nay chúng ta có hơn 5000 số kênh liên lạc quốc tế, tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tăng cường thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Mạng lưới viễn thông trong nước cũng luôn được mở rộng, số điện thoại thuê bao thu cước cũng tăng mạnh tạo điều kiện tăng doanh thu cho hoạt động BCVT.
Bảng 3: Số thuê bao điện thoại
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1- Tổng máy điện thoại
746.467
1.164.547
1.839.000
2.670.000
2- Mật độ ĐT/100 dân
1,06
1,6
2,4
3,4
3- Số máy tại Hà nội
138.051
214.276
249.864
295.887
Các dịch vụ viễn thông ngày càng được phát triển với diện rộng. Nhiều dịch vụ mới được mở ra đưa vào hoạt động rất có hiệu quả như: dịch vụ thông tin di động, dịch vụ nhắn tin, điện thoại thẻ,108...
Về lĩnh vực bưu chính và phát hành báo chí cũng có những bước tiến đáng kể. Sản lượng bưu chính và phát hành báo chí tăng trưởng mạnh, mạng lưới phát hành được mở rộng, nhiều loại hình mới ra đời và phát triển,chất lượng phục vụ được nâng cao và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin của xã hội.
Với những thành tựu đạt được như vậy, ngành BCVT có thể được coi là ngành có số thu tăng trưởng nhanh và ổn định nhất trong nền kinh tế quốc dân.
Bảng 4: Tình hình thực hiện doanh thu.
Đơn vị: tỉ đồng
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1- Doanh thu viễn thông
4.039
6.698
9.308
10.155
2- DT phát hành báo chí
42,4
71
98
216
3- Doanh thu bưu chính
126
209
392
432
Tổng
4.207,4
6.978
9.798
10.803
Nhìn vào bảng trên ta thấy sự phát triển mạnh mẽ với tốc độ cao của doanh thu. Doanh thu năm sau cao hơn doanh thu năm trước. Bên cạnh đó, doanh thu ngoại tệ cũng tăng khá, đặc biệt là trong những năm gần đây. Đây là kết quả rất đáng khích lệ. Ngành Bưu chính viễn thông đã đóng góp không nhỏ tỷ lệ động viên qua thuế và ngân sách nhà nước.
Bảng 5: Tình hình nộp ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp Bưu chính viễn thông trên địa bàn thành phố Hà nội.
Đơn vị: triệu đồng.
Năm
1996
1997
1998
Thuế
1.336.205
1.231.331
1.586.000
Như vậy, có thể thấy số động viên qua thuế của các doanh nghiệp Bưu chính viễn thông trên địa bàn thành phố Hà nội là rất lớn. Do nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế đều cần có sự đóng góp của hoạt động Bưu chính viễn thông. Vì vậy tỷ lệ động viên qua thuế tăng lên.
2.2 Tồn tại.
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu to lớn như vây, nhưng trong quá trình phát triển, hoạt động BCVT vẫn còn một số tồn tại.
- Các văn bản pháp qui thường ra đời châm hơn so với thực tế phát triển. Một số điều lệ qui định không còn phù hợp với điều kiện hiện nay, gây trở ngại cho hoạt động của toàn ngành.
- Công tác quản lí chưa thực sự đi trước nhu cầu phát triển của toàn mạng. Công tác báo cáo tổng hợp phục vụ quản lí còn chưa có sự thống nhất trong toàn ngành.
- Cơ sở vật chất kĩ thuật, trang thiết bị còn nhiều thiếu thốn. Trình độ đội ngũ cán bộ, công nhân trong ngành còn nhiều hạn chế chưa bắt kịp với xu hướng phát triển của hoạt động BCVT thế giới.
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lí thu thuế phòng thuế GT- BĐ- XD.
Với tiềm năng to lớn của hoạt động BCVT, ngay từ đầu lãnh đạo thành phố đã chỉ đạo cho cục thuế Hà nội và các cơ sở ban ngành có liên quan quản lí chặt chẽ hoạt động của khu vực này để phát huy hiệu quả kinh tế xã hội, phục vụ cho lợi ích của thành phố và đất nước.
Như vậy, cục thuế Hà nội có chức năng, nhiệm vụ rất quan trọng, là cơ quan trực tiếp thực hiện quản lí thu thuế đối với tất cả các tổ chức và cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà nội, là đơn vị thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước giao cho.
Cục thuế Hà nội được thành lập từ năm 1990 trải qua một quá trình phát triển và không ngừng hoàn thiện, hiện nay trong cơ cấu bộ máy tổ chức của cục bao gồm 17 phòng ban trong đó có 8 phòng quản lí thu thuế và 9 phòng ngiệp vụ. Ngoài ra, còn có 12 chi cục thuế quận huyện trên khắp địa bàn thành phố Hà nội. Hiện nay, tổng số cán bộ công nhân viên chức của cục là khoảng hơn 1000 người.
Cục đã chỉ đạo thành lập phòng thuế GT- BĐ- XD (gọi tắt là phòng giao thông) phụ trách thu mảng giao thông, bưu điện, xây dựng, vận tải của các đơn vị quốc doanh trung ương và địa phương. Phòng được thành lập từ năm 1990 đến nay và cùng với sự gia tăng nhanh chóng của hoạt động sản xuất, phòng ngày càng được mở rộng và phát triển.
Hiện nay, phòng có 29 cán bộ quản lí hơn 400 đối tượng nộp thuế. Mặc dù với số lượng cán bộ ít như vậy nhưng phòng thuế GT- BĐ- XD luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức nhiệm vụ kế hoạch của cục thuế Hà nội giao cho. Phòng liên tục nhiều năm liền được phần thưởng của uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội và của BTC, và cao nhất được nhà nước tặng thưởng huân chương lao động hạng 3.
Cán bộ trong phòng thuế GT- BĐ- XD đều có trình độ từ đại học trở lên, trong đó có những người có hai bằng đại học, có người đang học cao học... Với sự cố gắng phấn đấu thi đua liên tục, phòng đã tăng cường bám sát nguồn thu, tích cực khai thác nguồn thu, chống thất thu thuế, nợ đọng thuế... đảm bảo đưa số thu luôn tăng lên vượt kế hoạch.
II. Tình hình triển khai áp dụng thuế GTGT đối với hoạt động BCVT trên địa bàn thành phố Hà nội.
1. Công tác chuẩn bị và cấp mã số đối tượng nộp thuế.
1.1 Về phía ngành thuế.
Để chuẩn bị cho việc đưa luật thuế GTGT đi vào thực hiện, ngay từ đầu năm 1998, ngành thuế đã mở nhiều lớp tập huấn về chính sách, chế độ nghiệp vụ quản lí cho cán bộ trong ngành và chuẩn bị các điều kiện thực hiện qui trình quản lí thuế mới.
Tiếp đó, cán bộ phòng thuế GT- BĐ- XD đã kết hợp với chi hội kế toán, triển khai hướng dẫn thực hiện nội dung luật thuế GTGT và nghị định số 28 - NĐ/28/1998/NĐ-CP cho các doanh nghiệp BCVT. Phòng thuế GT-BĐ-XD cũng đã trực tiếp cử người xuống một số đơn vị trọng điểm như: Tổng công ty BCVT, Bưu điện Hà nội... hướng dẫn, giải thích chính sách, nghiệp vụ tính toán và kê khai thuế cũng._.8 luật thuế GTGT, thuế suất thuế GTGT được qui định 4 mức: 0%, 5%, 10%, 20%.
Bốn mức thuế suất trên được chính phủ tính toán cụ thể và trình Quốc hội quyết định đảm bảo tổng số thuế GTGT tương đương với số thuế doanh thu, không làm giảm thu NSNN.
Tuy nhiên, việc áp dụng nhiều mức thuế suất sẽ gây khó khăn trong việc quản lí, tăng chi phí thanh tra, kiểm soát thuế, càng dễ xảy ra tình trạng nhập nhằng, trốn lậu thuế, làm tăng chi phí quản lí thu thuế, nhất là tại những đơn vị kinh doanh nhiều đối tượng chịu thuế, chịu nhiều mức thuế suất khác nhau. ở các đơn vị này, khi tính thuế đầu vào được khấu trừ thường có xu hướng tìm cách luồn thuế GTGT đầu vào ở mức thuế suất cao hi vọng sẽ khấu trừ được và ngược lại, khi tính thuế đầu ra sẽ tìm cách áp dụng thuế suất thấp, nhằm giảm số thuế GTGT phải nộp.
Nhưng do đặc điểm kinh tế xã hội, phong tục, tập quán và ngân sách của nước ta hiện nay và do mới đưa thuế GTGT vào áp dụng nên phải sử dụng các mức thuế suất khác nhau để điều tiết các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Vì vậy, mức thuế suất thuế GTGT ở nước ta cần được nghiên cứu và cân nhắc cho phù hợp với nền kinh tế.
1.4 Về qui định phương pháp tính thuế, khấu trừ thuế.
Điều 9 luật thuế GTGT nước ta qui định có 2 phương pháp tính thuế:
- Phương pháp khấu trừ thuế.
- Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Các đối tượng nộp thuế theo phương phápd khấu trừ thuế chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, DNNN, DN có vốn đầu tư nước ngoài, CTTNHH, công ty cổ phần... các đối tượng này quyết định sự phát triển của nền kinh tế quốc dân; còn các đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp chủ yếu là hộ cá thể, cá nhân kinh doanh... Những đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp sẽ không được khấu trừ thuế đầu vào và các doanh nghiệp mua hàng hoá, dịch vụ của các đối tượng này cũng không được khấu trừ thuế đầu vào.
Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào các doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế cũng mua được hàng hoá dịch vụ của các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ nên việc không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào sẽ làm chi phí sản xuất của các đối tượng này cao hơn chi phi sản xuất của các đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp.
Ngược lại, việc nộp thuế theo phương pháp trực tiếp cũng bộc lộ nhược điểm là thuế chồng lên thuế. Vì thuế GTGT phải nộp ở đây được tính bằng % nhân với GTGT, mà GTGT được tính bằng giữa giá mua có thuế và giá bán có thuế, nên xảy ra hiện tượng thuế chồng lên thuế, điều này làm giảm ý nghĩa của thuế GTGT.
Vì vậy, việc qui định phương pháp tính thuế cũng cần được cân nhắc lại. Nếu mọi hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện trên tài khoản tại ngân hàng, thì số thuế GTGT phải nộp được căn cứ trên các tài khoản phản ánh thuế GTGT phát sinh hàng tháng, thì lúc đó sẽ không cần tính thuế theo phương pháp trực tiếp nữa. Ngược lại, cần phải qui định thêm cách qui đổi tính thuế GTGT theo giá bán đã có thuế và chưa có thuế, để theo cách gì thì số thuế GTGT phát sinh sẽ được phản ánh trên hoá đơn bán hàng, tạo điều kiện pháp lí cho việc khấu trừ thuế.
Tuy nhiên, thực tế nước ta còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó cá nhân kinh doanh, hộ kinh doanh cũng chiếm số lượng lớn (1,2 triệu hộ) nhưng có qui mô nhỏ, đại bộ phận là bán lẻ, đa số chưa thực hiện chế độ sổ sách, hoá đơn, chứng từ... nên số thuế chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng thu thuế và phí của NSNN nên vẫn phải áp dụng phương pháp trực tiếp trên GTGT, để quản lí các đối tượng này có hiệu quả.
Để phát huy tác dụng tích cực của thuế GTGT, tạo ra sự công bằng giữa các đối tượng nộp thuế, cần có biện pháp quản lí chặt chẽ hoá đơn, tránh các hiện tượng tiêu cực, tăng cường công tác chỉ đạo, trực tiếp, đảm bảo thu đúng, thu đủ, sát với thực tế kinh doanh.
Việc qui định khấu trừ thuế cần được qui định cụ thể hơn đối với các trường hợp tài sản cố định, nguyên vật liệu dùng để sản xuất hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT nhưng sau khi được khấu trừ thuế lại sử dụng sai mục đích (như dùng vào việc sản xuất các hàng hoá dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT), hoặc tài sản cố định vừa dùng để sản xuất hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT, vừa dùng cho mục đích phúc lợi (mà hoạt động này không có doanh thu). Đây là những vấn đề chưa có hướng dẫn trong các văn bản hiện hành. Vì vậy, Bộ Tài Chính cần có những hướng dẫn bổ sung:
- Qui định rõ tài sản cố định,nguyên vật liệu nào được khấu trừ, không được khấu trừ.
- Hướng dẫn cách xác định số thuế “ truy đòi ” hay “ truy trừ ” thuế GTGT đầu vào đối với các trường hợp tài sản cố định, nguyên vật liệu... chuyển mục đích sử dụng.
- Phương pháp phân bổ thuế đầu vào của tài sản cố định được dùng cho nhiều mục đích khác nhau.
Tuy nhiên, không có một luật thuế nào là hoàn hảo, là có thể đáp ứng với những yêu cầu đặt ra. Một số hạn chế kể trên của thuế GTGT không làm giảm ý nghĩa của nó trong thực tế mà việc phát hiện ra chúng sẽ tạo điều kiện dần dần hoàn chỉnh chính sách thuế ở nước ta. Nhưng vì mới đưa vào áp dụng, nên muốn hoàn thiện, sửa đổi cũng cần phải trải qua một thời gian dài và phải dựa trên đặc điểm kinh tế ở nước ta.
2. Chính sách liên quan.
Hiện tại, về cơ bản, chúng ta đã có một hệ thống chính sách thuế tương đối hoàn chỉnh. Song trước sự phát triển ngày càng phong phú, đa dạng của nền kinh tế, thì chính sách thuế đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn thiện và phối hợp với các chính sách khác để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để thuế GTGT đi vào ổn định và áp dụng rộng rãi, cần thiết phải có hành lang pháp lí, cơ sở đảm bảo thực hiện. Phải thực hiện đồng bộ với các luật thuế khác, chính sách khác. Trước hết:
2.1 Về thuế nhập khẩu.
Để thực hiện đồng bộ với các luật thuế mới, nhà nước đã ban hành: Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế nhập khẩu trong đó Chính phủ đã uỷ quyền cho Bộ Tài Chính ban hành biểu thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi trên cơ sở khung thuế suất đã được uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua. Việc thiết kế để ban hành biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đã quán triệt tinh thần các nghị quyết của Đảng, Quốc hội như: bảo hộ hợp lí và tạo điều kiên phát triển sản xuất theo định hướng của Nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường khuyến khích xuất khẩu, điều tiết tiêu dùng đảm bảo nguồn thu cho NSNN, bảo hộ có trọng điểm và giảm dần, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập của nền kinh tế thế giới.
- Để thuận tiện trong việc quản lí thu thuế Nhà nước cần có bảng giá tính thuế cho phù hợp vì hiện nay phần lớn các doanh nghiệp đều phản ứng với giá tối thiểu theo qui định của Nhà nước. Có thể qui định giá đối với tất cả các hàng hoá dịch vụ. Còn một số hàng hoá dịch vụ mà có sự chênh lệch quá lớn giữa giá tính thuế theo qui định với giá ghi trên hợp đồng thì có thể tính thu thêm phụ thu. Hoặc Nhà nước qui định giá tính thuế đối với một số mặt hàng cần quản lí, còn nói chung giá tính thuế phải theo giá hợp đồng.
- Nghiên cứu soạn thảo, xem xét bỏ thuế suất dạng SKD, CKD, IKD để chuyển đổi áp dụng chính sách thuế theo tỉ lệ nội địa hoá của sản phẩm.
- Mở rộng tín dụng và xem xét lại thời gian nộp thuế thích hợp với những doanh nghiệp BCVT khi nộp thuế GTGT hàng nhập khẩu. Hầu hết các doanh nghiệp BCVT trong trường hợp này phải chờ bảo lãnh của Ngân hàng hoặc đi vay Ngân hàng để nộp thuế GTGT nhập khẩu và chờ thoái thuế sau, nên phải chịu phí bảo lãnh hoặc lãi suất vay Ngân hàng khiến cho doanh nghiệp bị thiệt thòi rất nhiều trong việc huy động vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Tập trung vào tháo gỡ chính sách, chế độ quản lí và triển khai luật sửa đổi, bổ sung thuế như thế nào để đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp trong năm đầu thực hiện luật thuế GTGT.
2.2 Chính sách khác.
- Nhà nước cần sớm hoàn thiện luật BCVT và cho ra đời các thông tư hướng dẫn, sửa đổi qui định đối với các hoạt động BCVT mà trong các văn bản hướng dẫn trước đây không còn phù hợp nữa.
- Phối hợp với các ban ngành sửa đổi một số luật đã ban hành có liên quan đến quá trình áp dụng luật thuế GTGT.
- Ban hành các nghị định, văn bản hướng dẫn về việc phối hợp quản lí giữa cơ quan thuế với các ban nghành có liên quan như: Ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc, hải quan... Đảm bảo cho lệnh cưỡng chế thuế được thực hiện.
- Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp ổn định được sản xuất kinh doanh, tăng cường đổi mới cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ, tạo khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Bổ sung các điều khoản nâng cao trách nhiệm của đối tượng nộp thuế trong công tác tự kê khai, nếu vi phạm cần có biện pháp xử phạt thật nặng.
II. Các giải pháp cụ thể.
Việc ban hành, sửa đổi một số luật thuế không thể diễn ra một sớm một chiều mà phải là cả một quá trình nghiên cứu cân nhắc và đem ra thử nghiệm thực tế rồi mới đi đến quyết định. Trong thời gian chờ đợi một luật thuế GTGT hoàn thiện, trước mắt ta phải có nhiều giải pháp để giải quyết những vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện.
1. Về phía cơ quan thuế.
1.1 Về việc quản lí đối tượng nộp thuế.
Cơ quan thuế quản lí đối tượng nộp thuế thông qua mã số thuế. Việc cấp mã số cho các đối tượng nộp thuế là các doanh nghiệp BCVT sẽ giúp cơ quan thuế nắm, khai thác thông tin về từng đối tượng nộp thuế nhanh chóng, chính xác, giúp cho mọi việc kiểm tra chéo thông tin kinh doanh giữa các đối tượng nộp thuế và xác định rõ mối quan hệ giữa các đối tượng nộp thuế trên các địa bàn khác nhau. Đồng thời, việc cấp mã số đối tượng nộp thuế còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh và đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp BCVT. Qua việc sử dụng mã số thuế, các doanh nghiệp BCVBT có thể nhận được các dịch vụ tốt hơn từ phía cơ quan thuế.
Tuy nhiên, trong mã đối tượng nộp thuế vẫn nổi lên một số điểm cần cải tiến như:
- Thứ nhất, mã tỉnh N1N2 trong điều kiện ở nước ta hiện nay, cần phải được nghiên cứu thêm. Nước ta do lịch sử để lại, đến nay địa giới hành chính cũng chưa ổn định. Nếu lập mã theo tỉnh, khi thay đổi địa giới tỉnh thì phải bỏ lại toàn bộ các mã ở tỉnh cũ để chuyển sang tỉnh mới cho dù các doanh nghiệp đó chưa hề ngừng hoạt động. Trong công tác vi tính thì sự cố đó cũng giống như sự cố năm 2000 và sẽ càng nghiêm trọng hơn nếu vi phạm sử dụng mã càng rộng.
Chúng ta đều biết, tổng công ty BCVT Việt Nam có rất nhiều doanh nghiệp trực thuộc đóng trên các địa bàn khác nhau, vậy nếu khi tách tỉnh, mã số tỉnh có sự thay đổi, doanh nghiệp lại phải thay đổi mã số thuế trong khi doanh nghiệp vẫn đang hoạt động sẽ gây rất nhiều khó khăn, làm tăng chi phí quản lí hành chính của tổng công ty BCVT.
- Thứ hai, mã tình trạng nộp thuế GTGT - N14 còn chưa thuyết phục. Trong phần xác định mục tiêu của mã đối tượng nộp thuế có quy định: Mỗi đối tượng nộp thuế chỉ được cấp một mã số duy nhất trong suốt quá trình hoạt động, từ khi thiết lập đến khi chấm dứt hoạt động. Mã số đối tượng nộp thuế đã được cấp sẽ không được sử dụng lại để cấp cho đối tượng nộp thuế khác. Nguyên tắc này bị vi phạm đối với mã N14 ở những điểm sau:
Mã N14 là mã số theo phương pháp tính thuế GTGT. Trong khi đó, các phương thức nộp thuế GTGT có thể thay đổi trong một số doanh nghiệp, vì vậy mã số của doanh nghiệp cũng có thể thay đổi.
Chúng ta đều biết, các doanh nghiệp BCVT nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế nên có mã N14 là 1. Tuy nhiên có một số doanh nghiệp BCVT không phải nộp thuế GTGT nên có mã N14 là 0, giả sử sau một thời gian hoạt động, doanh nghiệp có tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT và đăng kí nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế nên có mã N14 là 1. Như vậy là mã số thuế có thể thay đổi và đặc biệt là có thể sử dụng lại nếu sau đó doanh nghiệp lại chỉ tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh không thuộc phạm vi điều tiết của thuế GTGT, lúc đó mã số thuế lại chuyển về 0.
Mặt khác, do còn trong giai đoạn cải cách nên chính sách thuế hiện nay ở nước ta còn nhiều thay đổi. Vì vậy, gắn một cái dễ thay đổi cho một cái cố định suốt một đời sống doanh nghiệp (mã số) là điều chưa thoả đáng.
Kiến nghị xử lí : Nên chăng loại bỏ mã số N14 ra khỏi bảng mã số doanh nghiệp để tránh những thay đổi không cần thiết, tạo điều kiện cho việc quản lý thu thuế được đơn giản và thuận tiện.
- Thứ ba, việc theo dõi các diễn biến phát triển của từng thành phần kinh tế là cần thiết bởi sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân phụ thuộc vào sự tăng trưởng và phát triển của các loại hình kinh tế. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể định hướng đảm bảo cho nền kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo cần phải thể hiện nhiều loại hình kinh tế khác nhau.
Kiến nghị xử lí : Vậy Nhà nước có thể đưa thêm mã của doanh nghiệp thể hiện trong mã số thuế như: mã số đối với doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp đặc thù, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Đưa mã số này vào trong mã doanh nghiệp không chỉ có tác dụng tích cực trong việc thực hiện các chính sách thuế mà còn thuận lợi hơn cho việc vận dụng các chính sách khác như: chính sách tín dụng, đầu tư... Đồng thời, nếu được đưa thêm mã này vào thì mã thứ tự doanh nghiệp cũng có khả năng giảm bớt đáng kể.
1.2 Về việc quản lí căn cứ tính thuế.
1.2.1 Về hoá đơn, chứng từ.
Thuế GTGT là một sắc thuế tiên tiến, đã được áp dụng có hiệu quả ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên trong điều kiện Việt Nam, việc áp dụng thuế GTGT sẽ gặp một số khó khăn, trở ngại lớn do các doanh nghiệp, nhân dân chưa có thói quen sử dụng hoá đơn bán hàng.
Nhưng do đặc thù của nền kinh tế nước ta đang chủ yếu là sản xuất nhỏ, cần thiết phải sử dụng 2 loại hoá đơn: hóa đơn GTGT áp dụngđối với các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ và hoá đơn bán hàng áp dụng đối với các đối tượng tính thuế trực tiếp trên GTGT, đáp ứng với yêu cầu và điều kiện của từng phương pháp tính thuế, phù hợp với trình độ quản lí, kế toán của đối tượng này. Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng không công bằng, không bình đẳng về 2 phương pháp tính thuế và sử dụng 2 loại hoá đơn nhưng việc áp dụng 2 loại hoá đơn là cần thiết.
Do đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp sử dụng hoá đơn bán hàng, giá bán trên hoá đơn là giá đã có thuế GTGT, mức thuế phải nộp không thể hiện rõ nên đối tượng mua hàng có hoá đơn bán hàng không được khấu trừ thuế đầu vào để tránh bị khấu trừ không. Hơn nữa, đối tượng áp dụng phương pháp trực tiếp chủ yếu là các hộ cá thể có qui mô nhỏ, chủ yếu là bán lẻ, số thuế thu được ít mà nếu cho khấu trừ thì số thuế khấu trừ có thể lớn hơn.
Vì vậy, để phát huy tác dụng tích cực của thuế GTGT tạo sự công bằng giữa các đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế cần quản lí chặt chẽ hoá đơn, tránh các hiện tượng tiêu cực với các biện pháp cụ thể như:
- Nắm số lượng đơn vị sản xuất, kinh doanh dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế trên địa bàn cục thuế quản lí, theo dõi đăng kí thuế, đăng kí sử dụng hoá đơn phù hợp với tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ của từng đơn vị.
- Hướng dẫn các doanh nghiệp BCVT sử dụng hoá đơn theo đúng chế độ qui đinh, thiết kế mẫu hoá đơn tự in và giải thích những nội dung qui định của chế độ quản lí sử dụng hoá đơn, chính sách thuế cho các doanh nghiệp hiểu đúng và chấp hành đầy đủ.
- Khi bán hóa đơn cho các doanh nghiệp BCVT, cơ quan thuế phải thực hiện đầy đủ các thủ tục theo chế độ qui định, mở sổ sách theo dõi các đơn vị mua hoá đơn (HĐ2) và thực hiện theo dõi số lượng hoá đơn xuất bán như xê - ri, số quyển... và vào sổ kế toán ấn chỉ thuế theo chế độ qui định.
- Hàng quí phải theo dõi báo cáo sử dụng hoá đơn của các doanh nghiệp BCVT để lập báo cáo và thanh toán với tổng cục thuế.
- Tổ chức hướng dẫn xử lí các trường hợp làm tổn thất hoá đơn bán hàng, sử dụng hoá đơn bán hàng không đúng qui định. Thực hiện việc kiể tra định kì, đột xuất các doanh nghiệp BCVT có sử dụng hoá đơn, ngăn chặn kịp thời các hành vi sử dụng sai qui định để lợi dụng trốn thuế.
- Tổ chức kiểm tra việc kê khai thuế GTGT của các doanh nghiệp BCVT: số thuế khấu trừ, số thuế phải nộp, số thuế được hoàn trêncơ sở đối chiếu thuế trên hoá đơn đầu vào, đầu ra để xác định số thuế phải nộp, số thuế được khấu trừ, số thuế được hoàn của doanh nghiệp có hợp pháp hay không.
- Đặc biệt, cơ quan thuế cần quản lí chặt chẽ các hoá đơn, chứng từ được sử dụng trong quĩ điều hoà 40% số thuế GTGT phải nộp, của tổng công ty BCVT cho các bưu điện tính có chênh lệch thuế âm, giữa số thuế đầu ra trừ đi số thuế đầu vào.
- Đồng thời, cơ quan thuế phải có biện pháp kiểm tra chặt chẽ các loại hoá đơn tự in của các doanh nghiệp BCVT, để thực hiện việc quản lí thu và tính thuế.
1.2.2 Về quản lí khấu trừ thuế.
Một số doanh nghiệp BCVT đề nghị khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với các trường hợp không có hoá đơn chứng từ hoặc có hoá đơn, chứng từ nhưng không ghi thuế GTGT đầu vào.
Việc khấu trừ thuế đã được qui định tại điểm 1 khoản 1 điều 10 luật thuế GTGT: “ trong trường hợp cơ sở sản xuất, chế biến mua nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất mà không có hoá đơn GTGT thì được khấu trừ thuế đầu vào từ 1-5% tính trên giá mua nông sản, lâm sản, thuý sản, mua vào; tỉ lệ khấu trừ đối với từng loại hàng hoá do chính phủ qui định ”.
Việc xử lí trên đã giải quyết trên 80% lượng hàng hoá của nông dân, ngư dân sản xuất ra không có chứng từ cũng được khấu trừ thuế.
Tại nghị định 102/1998/ NĐ-CP, chính phue tiếp tục cho phép khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với trường hợp thu mua sắt, thép phế liệu; hải sản thu mua của ngư dân, hàng chịu thuế TTĐB mà tổ chức thương mại nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế mua trực tiếp của các cơ sở sản xuất ra hàng hoá chịu thuế TTĐB. Việc xử lí cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào nêu trên về cơ bản đã tháo gỡ khó khăn và khuyến khích cho một số cơ sở chế biến thương mại, dịch vụ.
Nhưng về lâu dài, cần xem xét sửa đổi luật thuế GTGT, đưa các mặt hàng chịu thuế TTĐB vào diện chịu thuế GTGT để xử lí khấu trừ thuế GTGT.
Trong quá trình thực hiện, một số cơ sở tiếp tục đề nghị cho phép được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với một số sản phẩm nguyên vật liệu là phế liệu không có chứng từ thuế GTGT đầu vào như nhựa, thuỷ tinh, giấy, gạch, đồng chì, phế liệu... nhất là đối với các doanh nghiệp BCVT hoạt động trong lĩnh vực in và phát hành báo chí. Về vấn đề này, cơ quan thuế khi xử lí cần thận trọng để không phá vỡ chế độ hoá đơn, chứng từ, có thể vận dụng cho phép khấu trừ thuế theo một tỉ lệ trên giá mua vào đối với một số sản phẩm sử dụng nguyên liệu là phế liệu có tỉ trọng lớn trong giá thành mà giá bán không tăng được, nếu phải nộp thuế GTGT sẽ bị lỗ. Vì vậy, cơ quan thuế phải thực hiện theo các hướng sau:
- Khảo sát, nghiên cứu từng trường hợp cụ thể, xử lí cho khấu trừ thuế nhưng không làm ảnh hưởng đến số thu NSNN.
- Xử lí khấu trừ thuế đầu vào nhưng không làm ảnh hưởng đến các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác.
1.2.3 Về thuế suất thuế GTGT.
Do mới chuyển sang áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu từ 11 mức thuế suất sang 4 mức thuế suất, vì vậy không tránh khỏi trường hợp có doanh nghiệp gặp khó khăn hơn so với khi áp dụng thuế doanh thu nhưng ngược lại, có doanh nghiệp lại có lợi thế hơn so với khi áp dụng thuế doanh thu. Vấn đề này đã được Quốc hội qui định tại điều 28 luật thuế GTGT cho phép giảm thuế GTGT đối với một số cơ sở sản xuất kinh doanh, xây dựng, vận tải trong những năm đầu áp dụng mà bị lỗ do số thuế GTGT phải nộp lớn hơn thuế doanh thu trước đây.
Sau khi luật thuế GTGT được đưa vào áp dụng, một số doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cơ khí, giấy, điện tử, hoá chất, kinh doanh vận tải... đề nghị điều chỉnh thuế suất từ 10% xuống 5% và các loại hình kinh doanh khách sạn, du lịch, ăn uống... xin giảm thuế suất từ 20% xuống 10%.
Tuy nhiên, do luật thuế GTGT mới đi vào thực hiện được ba tháng, thời gian thực hiện ngắn chưa đủ điều kiện để xem xét và đánh giá một cách toàn diện, đúng mức về tác động của luật thuế GTGT đối với sản xuất kinh doanh. Vì vậy, cần tiếp tục thực hiện thêm một thời gian nữa các biện pháp thuế suất đã ban hành và có thể xét tạm giảm thuế suất đối với một số ngành nghề thực sự gặp khó khăn.
Còn đối với ngành đặc thù như BCVT, có số thu nhập cao hơn do nộp thuế GTGT thấp hơn thuế doanh thu sau khi đã nộp thuế TNDN và thu nhập bổ sung, có thể qui định thu điều tiết bổ sung với các ngành đó hoặc coi phần chênh lệch giữa thuế doanh thu phải nộp trước kia với thuế GTGT hiện nay là một khoản thu nhập để tínhvào thu nhập chiụ thuế khác, nhằm đảm bảo bao quát hết các nguồn thu cho NSNN.
Đối với các sản phẩm, hàng hoá đặc thù của nghành BCVT như: tem in, tem máy, thẻ điện thoại, giá cước là giá đã có thuế GTGT. Vì vậy, khi xác định số thuế phải nộp, phải qui đổi ngược trở lại, khó khăn trong việc tính thuế. Vậy, kiến nghị xử lí : cho phép qui đổi tỉ lệ thuế suất ( 10%/1+10% ) thành tỉ lệ tương đương là 0,9090 để tính thuế, khi xác định số thuế phải nộp.
1.2.4 Về việc xử lí hoàn thuế.
Theo đúng nguyên tắc quản lí của ngành thuế thì hàng tháng đều phải khấu trừ thuế đầu vào. Nếu số thuế đầu vào được khấu trừ của doanh nghiệp BCVT liên tục trong 3 tháng lớn hơn số thuế đầu ra thì doanh nghiệp sẽ được hoàn thuế.
- Đối với các cơ sở kinh doanh là cơ sở BCVT đầu tư mới đã đăng kí nộp thuế GTGT mà chưa có doanh thu, chưa có thuế GTGT đầu ra để khấu trừ thuế đầu vào của tài sản cố định; nếu thời gian đầu tư từ một năm trở lên thì được hoàn thuế theo từng năm. Trường hợp số thuế GTGT lớn, doanh nghiệp có thể đề nghi được xét hoàn thuế. Nghĩa là về nguyên tắc, đối với các doanh nghiệp BCVT đầu tư xây dựng mới thì tiến hành hoàn thuế theo năm, trong trường hợp đặc biệt, có thể xét hoàn thuế theo quí.
Các qui định trên, về mặt chính sách, một mặt đảm bảo được tính trung lập của luật thuế GTGT đối với các quyết định đầu tư của các nhà đầu tư, mặt khác cũng giảm bớt được gánh nặng cho NSNN trong những tháng đầu tiên áp dụng thuế GTGT khi không phải bồi hoàn ngay thuế GTGT của tài sản cố định, nhất là đối với các doanh nghiệp BCVT đầu tư mới.
Tuy nhiên, việc qui định thời gian hoàn thuế theo năm là hoàn toàn bất lợi cho các doanh nghiệp BCVT đầu tư, xây dựng cơ sở kinh doanh mới. Vì BCVT là một ngành sản xuất vật chất thuộc cơ sở hạ tầngkimh tế nên số vốn đầu tư là rất lớn. Việc qui đinh thời gian hoàn thuế như vậy làm cho các doanh nghiệp luôn ở tình trạng bị chiếm dụng khoảng 10% tổng giá trị đầu tư (trừ trường hợp nhập khẩu máy móc, thiết bị không phải nộp thuế GTGT) nên rất khó khăn trong việc huy động vốn.
Các nhà hoạch định chính sách cũng đã tìm cách khắc phục nhược điểm trên bằng việc qui định: “ trong trường hợp số thuế phát sinh lớn, cơ sở đề nghị giải quyết hoàn thuế theo từng quí ”. Nhưng, để thực hiện được điều này, cơ quan thuế trước hết phải có qui định như thế nào là số thuế phát sinh lớn và cơ quan nào có quyền quyết định là số thuế phát sinh lớn ?
Vì vậy, có lẽ giải pháp đơn giản và hiệu quả nhất là nên qui định một khoảng thời gian thống nhất, có thể từ 3 tháng đến 6 tháng để hoàn thuế cho các doanh nghiệp BCVT đầu tư mới này.
- Việc chưa xét hoàn thuế của cơ quan thuế đối với các doanh nghiệp BCVT có số thuế đầu vào trong 3 tháng liên tục âm, gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong việc huy động vốn sản xuất. Vì vậy,Cơ quan thuế cần có biện pháp quản lí chặt chẽ chế độ hoá đơn, chứng từ, có biện pháp quản lí hoá đơn đầu vào, đầu ra thông qua công tác đối chiếu kiểm tra giữa liên giao cho khách hàng và bản lưu tại gốc.Nhanh chóng xét hoàn thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp này có thể huy động được số vốn lưu động bổ sung vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.3 Về công tác quản lí thu nộp thuế.
- Để quản lí tốt tình hình thu nộp thuế của các doanh nghiệp BCVT, cơ quan thuế cần tăng cường công tác phối hợp với các ban ngành liên quan như: Ngân hàng, kho bạc... để quản lí các đối tượng nộp thuế cụ thể là các doanh nghiệp BCVT nộp thuế khi có số phát sinh, để tránh tình trạng nợ đọng thuế, có biện pháp nhắc nhở kịp thời đối với việc để tồn đọng thuế.
- Phối hợp với cơ quan hải quan, thuế vụ của các tỉnh, thành phố khác để tăng cường bám sát nguồn thu.
- Cơ quan thuế cũng cần có những hình thức xử phạt hành chính, hoặc cao hơn nữa là đưa ra truy tố trước pháp luật đối với các doanh nghiệp tìm cách dây dưa, nợ đọng thuế với số lượng lớn...
- Phối hợp chặt chẽ với các phương tiện thông tin đại chúng, thể hiện được hành vi trái pháp luật phải bị lên án mạnh mẽ đối lập hành vi này với các hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp.
- Để quản lí tốt công tác thu nộp thuế của các doanh nghiệp này, trọng tâm quản lí của cơ quan thuế là việc xử lí hàng tồn kho của các doanh nghiệp BCVT. Vì lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp này không thuộc diện nhóm mặt hàng mà Nhà nước cần dự trữ nên không được xét tạm giảm thuế phải nộp mà được xét giảm thuế theo điều 28 của luật thuế GTGT: đối với vật tư, sản phẩm của ngành nếu có tồn kho lớn, đưa vào tiêu thụ trong năm 1999 mà kết quả kinh doanh cả năm của doanh nghiệp mà bị lỗ do nộp thuế GTGT lớn hơn thuế doanh thu thì được giảm thuế. Việc giảm thuế được thực hiện hàng tháng, nhưng việc xác định số lỗ hàng tháng là rất khó, và số lỗ sẽ ảnh hưởng đến quĩ lương, đến việc vay vốn ngân hàng nên gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Do đó, cơ quan thuế cần có qui định cụ thể trong trường hợp này.
- Tiếp tục tăng cường các hoạt động của bộ phận thanh tra, kiểm tra đối với các hoạt động của các doanh nghiệp BCVT, nắm kịp thời doanh thu để tính thuế GTGT phải nộp, đưa dần việc kê khai tính thuế vào nề nếp.
- Riêng đối với các doanh nghiệp xây lắp bưu điện, phải quản lí chặt chẽ việc thanh toán các công trình hoàn thành bàn giao, cũng như khối lượng tạm ứng, kiểm tra các tài khoản thanh toán, nhập nguyên vật liệu... để xác định doanh thu tính thuế GTGT.
1.4 Các biện pháp khác.
1.4.1 Về công tác xây dựng kế hoạch.
Để công tác xây dựng kế hoạch sát với thực tế, để góp phần tạo điều kiện cho Nhà nước lập dự toán Ngân sách, cơ quan thuế phải:
- Cung cấp những thông tin cần thiết cho cán bộ lập kế hoạch như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, giá cả một số mặt hàng chủ yếu, những chủ trương cuae Đảng và Nhà nước qua đó xây dựng được một kế hoạch thu sát và đúng,có khả năng thực hiện được, bao quát hết các nguồn thu, phù hợp với khả năng đóng góp của doanh nghiệp.
- Bố trí cán bộ phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng có liên quan tới hoạt động BCVT để điều tra tình hình hoạt động của đơn vị.
- Tăng cường công tác quản lí thu thuế, quản lí doanh thu, quản lí hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp BCVT... tạo điều kiện cho cơ quan thuế có đủ dữ kiện cần thiết để khi cần có thể kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế của từng doanh nghiệp BCVT.
1.4.2 Các biện pháp khác.
- Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng, tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện các luật thuế mới đến các doanh nghiệp.
- Cử cán bộ xuống các doanh nghiệp lắng nghe các ý kiến, khó khăn, vướng mắc của đơn vị để có biện pháp xử lí và giải đáp các thắc mắc của doanh nghiệp.
- Nâng cao trình độ cán bộ ngành thuế, có biện pháp khuyến khích việc tự học, tự nâng cao trình độ của các cán bộ thuế.
- Hiện đại hoá phương tiện làm việc, đưa việc áp dụng máy tính vào sử dụng rộng rãi, thực hiện nối mạng giữa cục thuế Hà nội với Tổng cục thuế, Kho bạc, Ngân hàng... để quản lí, kiểm tra, theo dõi chặt chẽ, thường xuyên tình hình thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của các đối tượng nộp thuế.
2. Về phía các doanh nghiệp BCVT.
- Thực hiện đầy đủ chế độ sổ sách kế toán hoá đơn chứng từ.
- Có biện pháp phân định lại qui trình quản lí, luân chuyển, lưu giữ hóa đơn, chứng từ để phục vụ tốt cho công tác theo dõi, kế toán và quản lí.
- Tố chức sắp xếp lại các khâu kế toán mua hàng, bán hàng, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, công nghệ vi tính vào quản lí.
- Nghiêm chỉnh chấp hành các qui định của pháp luật.
- Nâng cao trình độ đôi ngũ cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp trong công tác hạch toán kế toán, sử dụng hoá đơn chứng từ, trong việc thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước.
Kết luận chung
Thuế gia trị gia tăng là một loại thuế gián thu được coi là tiến bộ và áp dụng rộng rãi tại hầu hết các nước trên thế giới, việc triển khai áp dụng rộng rãi loại thuế này ở những nước đang phát triển hay đã công nghiệp hoá cao độ đều cho thấy rằng nó có hiệu quả cơ bản không thể bỏ qua.
Điều khẳng định là nước ta tuy chưa có hoàn toàn đầy đủ các điều kiện cần cho việc áp dụng một cách tốt nhất thuế giá trị gia tăng, nhưng với các tác động chủ quan tích cực, chúng ta có thể tạo được những điều kiện còn thiếu, nhằm áp dụng thuế giá trị gia tăng thành công, góp phần thúc đẩykinh tế phát triển, đảm bảo số thu ngày một tăng cho NSNN.
Tình hình triển khai áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp bưu chính viễn thông mang những nét đặc thù riêng đòi hỏi cả một quá trình nỗ lực chuẩn bị của nghành thuế và bản thân các doanh nghiệp Bưu chính viễn thông. Trong quá trình triển khai, áp dụng luật thuế mới này đối với các doanh nghiệp BCVT còn một số tồn tại và vướng mắc.
Trên đây, là thực trạng quá trình triển khai áp dụng thuế GTGT đối với các doanh nghiệp BCVT và một số ý kiến về tăng cường công tác quản lí thu thuế trong lĩnh vực này.
Mặc dù còn nhiều hạn chế trong quá trình nghiên cứu, hi vọng đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về thuế GTGT đối với hoạt động BCVT.
Là sinh viên, vốn kiến thức kinh tế xã hội còn rất hạn chế, kinh nghiệm nghiên cứu còn ít... bài viết chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Thuế nhà nước
Trường ĐH Tài chính-Kế toán Hà nội Nhà xuất bản Tài chính 1996
2. Luật thuế giá trị gia tăng
3. Tờ trình cải cách thuế
4. Những điều cần biết về Thuế giá trị gia tăng
Nhà xuất bản Tài chính
5. Báo cáo khảo sát Thuế giá trị gia tăng
Tổng cục Thuế
6. Báo cáo thực tế hoá đơn, chứng từ
Tổng cục Thuế
7. Thuế giá trị gia tăng và mô hình áp dụng ở Việt nam
Nhà xuất bản Tài chính
8. Bưu điện Việt nam đổi mới và hiện đại hoá
Nhà xuất bản chính trị Quốc gia
9. Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Bưu chính viễn thông
10. Thời báo Tài chính
11. Tạp chí Tài chính
12. Tạp chí Thuế nhà nước
13. Bản tin Thuế
14. Thời báo Kinh tế Việt nam
15. Tạp chí Bưu điện
mụC LụC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0139.doc