Tình hình thực hiện vai trò của Ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát tiền tệ ở Việt Nam hiện nay

Đặt vấn đề Một trong những lý do để Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) ra đời là xuất phát từ yêu cầu can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực tiền tệ tín dụng và ngân hàng. Bởi vì đây là một lĩnh vực hết sức quan trọng, là hệ thống thần kinh của nền kinh tế. Dù ở mỗi quốc gia dưới các tên gọi khác nhau như NHTƯ, NHNN (NHNN), Ngân hàng Quốc gia, Quỹ dự trữ Liên bang… nhưng đều có chung một tính chất là cơ quan trong bộ máy quản lý Nhà nước, độc quyền phát hành tiền, thực hiện nhiệm vụ cơ bản là ổn định giá

doc18 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình thực hiện vai trò của Ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trị tiền tệ, thiết lập trật tự, bảo đảm sự hoạt động an toàn, ổn định và hiệu qủa của toàn bộ hệ thống ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước. Như vậy, vị trí đặc thù của NHTƯ trong nền kinh tế thị trường được quy định bởi mục đích, tính chất và yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước với hoạt động tiền tệ, tín dụng và Ngân hàng. Đây là cách quản lý đặc thù của NHTƯ là quản lý không chỉ bằng pháp luật, mà còn thực hiện bằng những công cụ điều tiết thị trường thông qua các hoạt động nghiệp vụ có tính chất sinh lơì. Tuy nhiên, hoạt động sinh lời này chỉ là phương tiện để thực hiện mục tiêu quản lý Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trên đất nước ta đang diễn ra sôi động quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu tìm tòi một cách nghiêm túc và có hệ thống để phát huy hiệu qủa hoạt động của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động Ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng XHCN. B. Nội dung I. Một số khái niệm. 1. Ngân hàng Trung Ương (NHTƯ) NHTƯ là một cơ quan đặc biệt của chính phủ có khả năng kiểm soát và điều hành vĩ mo hệ thống tiền tệ tins dụng Ngân hàng. Mặc dù không tham gia vào kinh doanh nhưng qua các hoạt động của nó, NHTƯ có tác động rất mạnh mẽ vào thị trường tài chính. NTTƯ vừa có chức năng là Ngân hàng của các ngân hàng. Nó đảm nhận tiến trình thanh toán, cho hệ thống NHTM và hoạt động như “người cho vay của phương sách cuối cùng” đối với NHTM và hoạt động như “người cho vay của phương sách cuối cùng” đối với các NHTM trong trường hợp khẩn cấp; đồng thời nó vừa là Ngân hàng của Chính phủ: NHTƯ giữ các tài khoản cho chính phủ, nhận tiền gửi và cho vay đối với kho bạc nhà nước, hỗ trợ chính sách tài khoá của chính phủ bằng việc mua tín phiếu chính phủ. Ngoài ra NHTƯ còn là ngân hàng phát hành, là cơ quan độc quyền về phát hành tiền. 2. Chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, bao gồm những mục tiêu và giải pháp đồng bộ mà NHTƯ sử dụng trong việc điều hành nhằm tác động vào khả năng sẵn có và giá của vốn khả dụng, qua đó ảnh hưởng lên toàn bộ các hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán trong nền kinh tế. Nói cách khác: chính sách tiền tệ phải nhằm mục tiêu bảo đảm giá trị đồng tiền và an toàn hệ thống tín dụng bằng cách kiểm soát kênh bơm và rút tiền của NHTƯ trong lưu thông. Chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế cùng thực hiện những mục tiêu tăng cường kinh tế, ổn định giá, tạo việc làm, cán cân thanh toán. Nhưng mục tiêu của chính sách tiền tệ mâu thuẫn với nhau. Do vậy muốn đạt được mục tiêu này thì phải có sự cắt giảm nhất định đối với mục tiêu khác. NHTƯ có thể điều hành chính sách tiền tệ: công ty trực tiếp hoặc gián tiếp. Hai công cụ này tạm thời được hiểu : công cụ trực tiếp là công cụ tác động thẳng vào các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ. Còn công cụ gián tiếp tác động vào mục tiêu trung gian thông qua điều tiết dự trữ vượt mức (vốn khả dụng) của NHTM. 3. Vai trò kiểm soát thị trường tiền tệ của NHTƯ Để NHTƯ thực hiện được vai trò kiểm soát thị trường tiền tệ thì nó phải thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ. 3.1 Nghiệp vụ thị trường mở. Thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá, các công cụ tài chính, NHTƯ can thiệp vào lượng cung tiền để thực hiện cân đối cung cầu về tiền tệ từng thời kỳ.. Khi NHTƯ bán các giấy tờ có giá và có nghĩa là nó hút tiền vào từ hệ thống Ngân hàng. Ngược lại, khi NHTƯ thực hiện mua các giấy tờ có giá thì tức là làm tăng lượng tiền dự trữ của hệ thống ngân hàng. Điều kiện cần thiết để thực hiện nghiệp vụ này là NHTƯ phải nắm giữ một khối lượng công cụ tài chính nhất định và thị trường tài chính quốc gia phải đạt mức độ phát triển. Tại các nước phát triển, người ta còn phân biệt thành 2 loại nhiệm vụ thị trường mở Thứ nhất: thị trường mở chủ động: Nhằm vào một khối lượng tiền dự trữ xác định và cho phép giá của tiền dự trữ (tức là lãi suất) dao động tự do. Thứ hai: thị trường mở thụ động: nhằm vào một lãi suất cụ thể, cho phép khối lượng tiền dự trữ dao động. Nhờ các thị trường có tính nhạy cảm cao và rất phát triển nên các nước công nghiệp thường sử dụng phương pháp thụ động. Tuy nhiên, có những trường hợp ngoại lệ. Nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ quan trọng nhất trong điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ bởi vì: Là nhân tố quyết định đầu tiên có thể làm thay đổi lãi suất hoặc cơ sở của tiền tệ - nguồn gốc chính làm thay đổi cung ứng tiền của NHTƯ thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá. * Phát sinh theo ý chủ đạo của NHTƯ, trong đó NHTƯ hoàn toàn chủ động kiểm soát được khối lượng giao dịch. * Vừa linh hoạt, vừa chính xác, có thể sử dụng ở bất kỳ quy mô nào * Dễ dàng đảo chiều: Nếu NHTƯ có sai sót nào trong quá trình thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thì có thể ngay tức khắc sửa chữa sai sót đó. * Có tính an toàn cao: Giao dịch trên thị trường mở hầu như không gặp rủi ro xét trên góc độ của cả NHTƯ & NHTM. Bởi vì cơ sở bảo đảm cho các giao dịch trên thị trường mở đều là những giấy tờ có giá, có tính thanh khoản cao, không có rủi ro tài chính. * Có thể thực hiẹn một cách nhanh chóng không vấp phải sự chậm trễ của các thủ tục hành chính. 3.2 Công cụ dự trữ bắt buộc NHTƯ yêu cầu tất cả các NHTM phải để một khoản tỷ lệ dự trữ tại các NHTƯ. Hay nói cách khác, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa mức tiền dự trữ bắt buộc so với tổng số tiền gửi của khách ở NHTM. Tỷ lệ này do pháp luật quy định, số tiền dự trữ bắt buộc đó không được sử dụng vào hoạt động tín dụng. Tuỳ từng thời kỳ mà NHTƯ sẽ nói lỏng hợc thắt chặt tín dụng thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm thay đổi hệ số nhân cung tiền của hệ thống NHTM. Do đó, nó có tác dụng điều hoà lưu thông tiền tệ. Không những thế, nó còn là một công cụ bảo đảm an toàn tiền gửi chống lại những cơn hoảng loạn ngân hàng. Chính vì vậy, tiền gửi dự trữ bắt buộc là nguồn vốn quan trọng để NHTƯ thực hiện vai trò Ngân hàng của các ngân hàng và cho vay lại nhanh chóng khi có tình trạng thiếu khả năng chi trả có thể dẫn tới việc rút tiền gửi ra. 3.3 Chính sách chiết khấu Lãi suất chiết khấu là lãi suát mà NHTƯ tính với NHTM khi họ muốn vay tiền. Thông qua lãi suất chiết khấu, NHTƯ tác động đến lượng dự trữ của các NHTM. Một lãi suất chiết khấu cao hơn làm tăng phí vay từ NHTƯ, như vậy, các NHTM sẽ vay chiết khấu ít đi và từ đó giảm bớt cơ sở tiền và thu hẹp cung ứng tiền. Nếu một lãi suất chiết khấu thấp hơn làm cho vay chiết khấu hấp dẫn hơn với các ngân hàng gọi là cửa sổ chiết khấu” NHTƯ có thể tác động đến khối lượng vay chiết khấu bằng 2 cách: Tác động đến giá cả của các khoản vay (lãi xuất chiết khấu) hoặc tác động đến số lượng vay thông qua việc NHTƯ quản lý “cửa sỉo chiết khấu” Ngoài việc sử dụng làm một công cụ để tác động đến cơ số tiền và cung ứng tiền tệ, chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nhằm tránh khỏi những cơ sụp đổ tài chính. Công cụ này làm cho NHTƯ trở thành người cho vay cuối cùng là một yêu cầu cực kỳ quan trọng để tiến hành chính sách tiền tệ thành công. 3.4 Hạn mức tín dụng: Hạn mức tín dụng là giới hạn tối đa mà ngân hàng cam kết cho khách hàng vay trong một thời hạn nhất định. Nó được hiểu là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định mà các tổ chức tins dụng và khách hàng đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Thực hiện công cụ này nghĩa là NHTƯ xác định tổng hạn mức tín dụng mà NHTM cho vay ra nền kinh tế và NHTƯ cần quản lý được hạn mức đó. 4. Thị trường tiền tệ Thị trường tiền tệ là thị trường của các công cụ tài chính ngắn hạn từ một năm trở xuống. Thị trường này có tác dụng điều hoà lưu thông tiền tệ. ở thị trường này, NHTƯ là người kiểm soát thị trường này, NHTƯ là người xây dựng quy chế, cơ chế và điều hành hoạt động của thị trường nhừam đảm bảo cho thị trường hoạt động có tổ chức, đúng luật định và đạt hiệu qủa cao. Mặt khác NHTƯ còn can thiệp vào hoạt động của thị trường bằng cách tác động vào quá trình tạo tiền của các TCTD và làm thay đổi lãi suất thị trường thông qua việc tác động vào cung cầu tiền tệ dưới hình thức tái cấp vốn, tái chiết khấu hoặc tài trợ vốn khi cần thiết. II. Tình hình thực hiện vai trò của NHTƯ trong việc kiểm soát tiền tệ ở Việt nam hiện nay 1. Những nhân tố ảnh hưởng tới vai trò của NHTƯ trong việc điều hành. Khách quan: Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ của các nước trong khu vực đã ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế nước ta, trên thực tế mức độ đó nặng nề hơn so với dự kiến ban đầu. Nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu đầu tư nước ngoài, sức ép về tỷ giá và sự ổn định tiền tệ… Bên cạnh đó, hạn hán, lũ lụt diễn ra liên tục trên diện rộng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống nhân dân. Chủ quan: Các yếu kém nội tại của nền kinh tế. Nhất là các vấn đề về NSLĐ, hiệu qủa sản xuất kinh doanh, chất lượng, hiệu qủa sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước… mặc dud có chuyển biến tích cực nhưng so với khu vực và thế giới thì đây lại vẫn là một điểm yếu kém của chúng tôi. 2. Tổng quan về tình hình NHNN Việt nam trong thời gian qua: Trong bối cảnh đó thì hoạt động ngân hàng cũng phải đối phó với nhiều khó khăn thử thách mới. Cùng với sự chỉ đạo sát sao của chính phủ, sự phối hợp của các ngành, các cấp, Ngân hàng đã chủ động tham mưu đề suất với Chính phủ - Bộ chính trị các giải pháp lớn trong chỉ đạo hoạt động tiền tệ, ngân hàng, nhất là việc khắc phục và ngăn chặn ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực, tổ chức điều hành một cách linh hoạt, có hiệu qủa các công cụ, giải pháp thực thi chính sách tiền tệ cũng như các nhiệm vụ trọng tâm khác trong ngành . Hiện nay, việc sử dụng công cụ trực tiếp trong thời gian 10 năm qua mặc dù có những hạn chế của nó được biết trước, là hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt nam khi các công cụ gián tiếp chưa hình thành. Thứ nhất, NHNN Việt nam không có khả nưang kiểm soát chính xác sự biến động số dự trữ của hệ thống ngân hàng. Một trong những căn cứ quan trọng để có thể sử dụng cơ chế điều chỉnh gián tiếp. Số dự trữ vượt mức của hệ thống ngân hàng biến động hàng ngày phụ thuộc vào mối quan hệ của nó đối với các chủ thể phi ngân hàng như quan hệ tiền mặt với công chúng, quan hệ vay mượn với khu vực chính phủ hoặc với NHTƯ. Khả năng cập nhật thông tin và phương tiện kỹ thuật phụ trợ hiện tại làm hạn chế khả năng của NHNN trong việc kiểm soát và dự báo sự biến động mức dự trữ của hệ thống ngân hàng. Thứ hai, Mối quan hệ giữa lượng tiền cơ sở và tổng lượng tiền cung ứng là rất khó dự đoán do sự biến động bất thường của cả cơ số tiền và các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số tạo tiền. Thứ 3, Hệ thống thị trường tài chính và khả năng chứng khoán hoá các nhu cầu vốn chưa phát triển và chưa trở thành thói quen cộng đồng. Đương nhiên khi các điều kiện của cơ chế gián tiếp chưa hình thành thì việc sử dụng cơ chế trực tiếp là tất yếu. Trong thực tế cơ chế điều chỉnh trực tiếp đã đem lại sự thành công đáng kể cho chính sách tiền tệ trong thập kỷ 90 khi nhìn vào các chỉ số phản ánh sự biến động của các mục tiêu vĩ mô như lạm phát, sản lượng và công ăn việc làm. Chính sách tiền tệ đã đạt được hiệu qủa tối đa của nó: tỷ lệ lạm phát dưới 1 con số cùng với tốc độ tăng trưởng bình quân 8,6%/năm trong gần 10 năm. Năm 2000 là năm đánh dấu nhiều chuyển biến tích cực thuộc lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai thị trường đặc thù trong tổng thể thị trường tài chính là thị trường mở và thị trường chứng khoán. thị trường nghiệp vụ, thị trường mở bắt đầu vận hành vào ngày 20/7/2000. Ghi nhận việc chuyển sự điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp của NHNN Việt nam. Có thể nói 2 sự kiện nổi bật nhất trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2000 là thực hiện nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất cơ bản được công bố lần đầu vào 5/8/2000. Cả 2 công cụ này đều bước đầu phát huy được vai trò của mình đối với các mục tiêu của chính sách tiền tệ. 3. Những vấn đề cụ thể 3.1. Trên thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam là hoàn toàn mới mẻ cả về nội dung lý luận và hình thức hoạt động. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, việc vận hành và phát huy hiệu quả của nó không phải là dễ dàng. Tuy nhiên việc xuất hiện thị trường mở ở nước ta là một bước tiến quan trọng trong tiến trình chuyển từ công cụ điều hành trực tiếp sang công cụ điều hành gián tiếp và tự do hoá lãi suất ở nước ta. Qua hơn 1 năm hoạt động, ban điều hành thị trường mở đã chỉ đạo sát sao đối với hoạt động của thị trường. Do đó đã góp phần khắc phục những khó khăn ban đầu. Tuy nhiên vì mới ra đời nên còn nhiều hạn chế: Về mặt thành viên: Số thành viên tham gia thị trường mở là 15 thành viên. Nhưng qua các phiên giao dịch thì số thành viên dự thầu còn rất nhỏ. Cụ thể: số dự thầu cao nhất là 5 và thấp nhất là 1 thành viên. Trong đó các ngân hàng thương mại (NHTM) quốc doanh tham gia dự thầu và trúng thầu là chủ yếu, còn các tổ chức tín dụng khác chưa tham gia dự thầu. Về hàng hoá giao dịch: Theo quy chế hiện hành thì những giấy tờ có giá ngắn hạn mới được tham gia giao dịch trên thị trường mở. Song cho đến nay chỉ có tín phiếu của NHNN và tín phiếu kho bạc Nhà nước là được mua bán. Như vậy hàng hoá đơn điệu chỉ tập trung ở các NHTM quốc doanh. Về phương thức giao dịch: Các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phương thức mua bán với tín phiếu NHNN, phương thức mua có kỳ hạn đối với tín phiếu kho bạc Nhà nước, còn phương pháp bán hắn ít được thực hiện và đặc biệt là phương thức mua có kỳ hạn chưa được thực thi. Nhận xét: * Thứ nhất, các tổ chức tín dụng chưa tham gia thường xuyên vào các phiên giao dịch tạo nên quang cảnh khá buồn tẻ ở từng phiên chợ. Nguyên nhân: Trước hết phải thừa nhận rằng với tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp thì sức thu hút vốn đầu tư kém, vì vậy vòng tuần hoàn luân chuyển vốn không thể quay nhanh được. Cho nên sự nguội lạnh và buồn tẻ trên thị trường là một điều dễ hiểu. Mặt khác hoạt động ngân hàng ở nước ta chưa thoát khỏi được nghiệp vụ kinh doanh truyền thống, đó là hoạt động tín dụng dư nợ, cho vay ở hầu hết các ngân hàng vẫn chiếm 70% tổng số sử dụng vốn. ở một số ngân hàng riêng biệt con số này còn lớn hơn nhiều. Trong khi đó ở một số ngân hàng khác, dư nợ cho vay khách hàng giảm do sự chững lại trong tốc độ phát triển kinh tế, thì nguồn vốn dư ra vẫn chưa được sử dụng một cách linh hoạt vào các hoạt động đầu tư khác, mà nằm đọng lại đến vài ngàn tỷ đồng trên tiền gửi NHNN. Có thể nói, chúng ta nói nhiều đến kinh doanh mà tư duy kinh doanh của chúng ta chưa có thực sự mà mới vẫn ở trong giai đoạn tập dượt. * Thứ hai, hàng hoá giao dịch ở thị trường mở chỉ dừng lại ở giấy tờ có giá ngắn hạn và tập trung vào 2 loại là tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc. Đây là khó khăn lớn nhất của nghiệp vụ thị trường mở hiện nay. * Thứ ba, các phiên đấu thầu lãi suất có tính cạnh tranh cao nên các NHTM và TCTD nhỏ không đủ điều kiện tham gia, tạo ra tình trạng chưa sôi động của thị trường. * Thứ tư, thị trường thứ cấp của thị trường mở - nơi mua bán lại tín phiếu giữa các TCTD và khách hàng của họ chưa phát triển. * Thứ năm, các thị trường liên ngân hàng chưa hoàn thiện gây ảnh hưởng lớn đến nghiệp vụ thị trường mở. Vì vậy những tác động và hiệu quả của nghiệp vụ thị trường mở tới chính sách tiền tệ chưa thiết thực và sâu rộng. 3.2. Công cụ dự trữ bắt buộc. Thực tế tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện nay còn quá cao, gây nhiều khó khăn cho các tổ chức tín dụng. Thời gian qua NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD. Tuy nhiên để ổn định tiền tệ thì chúng ta phải duy trì như hiện nay. Song ngân hàng sớm điều chỉnh trong từng thời kỳ. Nếu so sánh các lần tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các mức lãi suất và lạm phát qua các năm ta thấy: thời kỳ có lạm phát cao hay lãi suất cao cũng là lúc tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định ở mức cao, điều này cho thấy đã có sự phối hợp vận dụng công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các công cụ khác của chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước. 3.3. Hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng không phải là loại công cụ lúc nào cũng phát huy tác dụng. Trong thời kỳ chưa mở cửa, phù hợp với nền kinh tế khép kín thì hạn mức tín dụng được sử dụng khá phổ biến nhằm giúp cho NHNN có khả năng kiểm soát tương đối chặt chẽ khối lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên theo thời gian, hạn mức tín dụng ngày càng bộc lộ rõ những hạn chế của nó: Thứ nhất, trên cơ sở tổng hạn mức chiết khấu, NHNN tiến hành phân bổ hạn mức tín dụng cho mỗi ngân hàng. Mặc dù có những cơ sở nhất định khi phân bổ hạn mức chiết khấu song với mỗi ngân hàng hạn mức đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp và theo thời gian có thể thời điểm này phù hợp, thời điểm khác lại không phù hợp. Vấn đề này sẽ gây khó khăn cho các đơn vị khi nhu cầu vay vốn của khách hàng tăng cao. Trong khi đó, các nguồn kể cả hạn mức chiết khấu vẫn không đủ. Mặt khác, khả năng NHNN không thực hiện được tổng hạn mức chiết khấu như đã đề ra là có khả năng xảy ra. Thứ hai, kiểm soát bằng công cụ hạn mức là cách kiểm soát gò bó, cứng nhắc không phù hợp với cơ chế quản lý hiện nay, một cơ chế kinh tế đòi hỏi phải mềm dẻo và linh hoạt. Khống chế hạn mức chiết khấu có thể làm lỡ đi cơ hội đầu tư của một số ngân hàng, giảm khả năng điều tiết tiền tệ của NHTƯ, bởi vì việc điều chỉnh tăng tổng hạn mức chiết khấu không thể thực hiện được một sớm một chiều mà cần phải có thời gian. Do vậy, tính kịp thời khó có thể đảm bảo. Thứ ba, việc kiểm soát bằng hạn mức tín dụng là một trong nhiều nguyên nhân để lãi suất tăng lên. Trong khi nhu cầu chiết khấu đi vay NHTƯ của một số ngân hàng phát sinh không được giải quyết do hết hạn mức chiết khấu, thì ở một số ngân hàng khác hạn mức chiết khấu lại tạm thời dư thừa. ở đây quan hệ trao đổi sẽ diễn ra và các cổ phiếu sẽ góp phần làm tăng lãi suất. 3.4. Tái cấp vốn. Trong giai đoạn trước 3/1997, NHNN quy định lãi suất tái cấp vốn theo lãi suất cho vay trên từng khế ước xin tái cấp vốn. Chính vì vậy mà lãi suất tái cấp vốn mang tính bị động, lãi suất tái cấp vốn còn có sự phân biệt giữa các ngân hàng. Kể từ 3/1997, cùng với việc hoàn thiện cơ chế lãi suất, lãi suất tái cấp vốn đã được xác định một cách độc lập, tái cấp vốn thực sự đã trở thành công cụ tiền tệ được NHNN quan tâm trong việc điều hành cung ứng tiền. Cứ mỗi lần thay đổi lãi suất trần thì lập tức NHNN cũng điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn một cách tương ứng. Trong năm 1999, 2000 và đầu năm 2001, lãi suất tái cấp vốn liên tục được điều chỉnh giảm nhằm thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng phục vụ cho mục đích kích cầu nền kinh tế. 3.5. Kiểm soát lãi suất. Mốc thời gian 5/8/2000 là bước ngoặt trong cơ chế điều chỉnh lãi suất theo hướng tiến tới tự do lãi suất. Do cơ chế lãi suất trước đây chưa có mức lãi suất nào đóng vai trò là lãi suất chủ đạo, định hướng cho các TCTD ấn định mức lãi suất kinh doanh. Vì thế kể từ 5/8/2000 theo Quyết định 244/QĐ-NHNN1 của thống đốc NHNN đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và quản lý lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Theo đó, đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam, các TCTD sẽ ấn định lãi suất cho vay với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản do NHNN công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá mức lãi suất cơ bản và biên độ dao động do Thống đốc NHNN quyết định cho từng thời kỳ. Trong đó, lãi suất cơ bản được NHNN công bố trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các TCTD được lựa chọn theo quyết định của thống đốc NHNN trong từng thời kỳ. Còn biên độ dao động được công bố hàng tháng NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời. Với cơ chế điều hành lãi suất mới này, về mặt bản chất cũng giống như cơ chế lãi suất trần, bởi vì lãi suất cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ bản cộng với biên độ dao động chỉ khác là nó mang tính hướng dẫn, chỉ đạo cho các TCTD hình thành lãi suất hoạt động cho mình một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay khi mà Nhà nước chưa thể thả nổi lãi suất thì việc quy định biên đọ dao động là nhằm đảm bảo quản lý của Nhà nước trước khi chuyển hẳn sang lãi suất thị trường. Lúc đó việc điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu bằng công cụ lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Chính vì vậy mà tình hình lãi suất ngân hàng đến nay hầunhư không biến động so với thời điểm trước khi điều chỉnh. Theo như hiện nay, cách NHNN xác định lãi suất dựa trên một số NHTM là rất phiến diện, chưa phản ánh hết quan hệ cung - cầu tín dụng thực của thị trường. Trong khi đó số TCTD đang hoạt động lại lớn hơn nhiều lần. 4. Nguyên nhân. 4.1. Vai trò tương đối hạn chế của NHTƯ Chức trách của NHNN quy định trong thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia tương đối cụ thể. Nhưng nếu so với Luật NHTƯ ở một số nước đã nêu ở trên thì còn bộc lộ một số hạn chế: NHNN chủ trì xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia trình Chính phủ, sau đó Chính phủ lại trình Quốc hội quyết định.Quy định này xuất phát từ quy định tại điểm 4 - điều 84 của Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam năm 1992. Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn quyết định chính sách tiền tệ quốc gia. Sau nữa vì NHNN là thành viên của Chính phủ nên NHNN không thể trình dự án chính sách tiền tệ quốc gia trước Quốc hội mà phải thông qua Chính phủ. 4.2. NHTƯ chưa thực sự chủ động trong thực thi chính sách tiền tệ. Định kỳ lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm đều đã được Chính phủ chế định để chi cho các mục tiêu cụ thể. Vì vậy NHNN khó có thể chủ động trong việc sử dụng công cụ này để điều tiết lượng tiền lưu thông. 4.3. Còn khá nhiều cơ quan, tổ chức tham gia chỉ đạo, giám sát xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Theo quy định của Luật NHNN, không Quốc hội và Chính phủ có quyền quyết định và chỉ đạo, giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia mà là một số tổ chức chính trị, chính quyền các cấp gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan khác của Nhà nước ở trung ương, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cũng có trách nhiệm phối hợp giám sát, kiểm tra hoạt động của ngân hàng. III. Các kiến nghị nhằm thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả 1. Một số đề xuất chung. a. Cho phép NHNN chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng cho lưu thông tiền tệ. b. Góp phần tăng cường khả năng điều hành các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN. c. Hạn chế sự can thiếp quá sâu đối với NHNN của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động và thực hiện chính sách tiền tệ. d. Hạn chế nhiệm vụ của NHNN với vai trò một bộ trong Chính phủ và bộ chủ quản để NHNN tập trung thực hiện vai trò NHTƯ của đất nước, nên giảm dần một số nhiệm vụ thuộc chức năng một bộ quản lý Nhà nước thuần tuý, cũng như bộ chủ quản đối với các TCTD Nhà nước . 2. Lĩnh vực cụ thể. 2.1. Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở thực chất là hoạt động của NHTƯ trên thị trường mở để tác động tới lượng tiền cung ứng trên từng thời kỳ. Do vậy để thúc đẩy thị trường mở ngày càng hoàn thiện, phát triển và hoạt động hiệu quả thì có một số giải pháp sau: 2.1.1. Tạo “sân chơi” bình đẳng cho các TCTD tham gia thị trường mở. Một trong các điều kiện tham gia nghiệp vụ thị trường mở là các thành viên phải có giấy tờ có giá và chủ động được vốn khả dụng của mình. Nhưng các TCTD chưa đầu tư vào giấy tờ có giá ngắn hạn do nhiều nguyên nhân, và thực ra họ vẫn chịu sự thiếu bình đẳng trong kinh doanh. Các NHTM quốc doanh được vay theo chỉ định nên có nhiều lợi thế trong giao dịch trên thị trường mở nhờ được vay với giá rẻ để mua giấy tờ có giá có lãi suất lợi hơn. Các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, và các quỹ tín dụng ít có ưu thế này. Điều này không kích cầu tín dụng, tạo sự phân biệt đáng kể trên thị trường. Như thế để cho các TCTD ngoài quốc doanh tham gia thị trường mở một cách thực sự thì NHNN phải tạo cho họ một sân chơi bình đẳng, tức là giảm cho vay theo chỉ định, phân biệt rõ ràng giữa tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. Ngoài ra cần phải tuyên truyền thường xuyên và sâu rộng cho các TCTD về nghiệp vụ này. 2.1.2. Đa dạng hoá hàng hoá trên thị trường. Xuất phát từ chỗ hàng hoá của thị trường mở là các giấy tờ có giá ngắn hạn có độ thanh khoản cao, bảo đảm quản lý dễ dàng, đồng thời đáp ứng yêu cầu điều hành nghiệp vụ này nhanh nhạy, chính xác đạt được ý mong muốn. Do đó, trong thời gian tới cần bổ sung vào cơ cấu hàng hoá này các tín phiếu kho bạc có thời hạn dưới một năm, các loại chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, chấp phiếu ngân hàng... Tuy nhiên, về lâu dài khi điều kiện pháp lý cho phép, phạm vi giấy tờ có giá sẽ được mở rộng không chỉ gồm các loại ngắn hạn mà cả các loại trung, dài hạn có thể xem xét làm công cụ giao dịch miễn là chúng có độ thanh khoản cao. ở đây, thời hạn của giấy tờ có giá không mâu thuẫn với yêu cầu nhanh nhạy của chính sách tiền tệ, vì đã có phương thức giao dịch mua lại trên nghiệp vụ thị trường mở. 2.1.3. Phương thức giao dịch. Phương thức giao dịch phù hợp nhất với nghiệp vụ thị trường mở là mua bán có kỳ hạn, mà NHTƯ là người chủ động quyết định mua bán với số lượng bao nhiêu, thời gian nào, theo phương thức nào thì theo yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nghiệp vụ thị trường mở có tính linh hoạt cao trong thực tế sử dụng là phương thức mua bán hẳn nhưng phương thức này chỉ phù hợp trong giai đoạn đầu. Giá của các giấy tờ có giá hay lãi suất giao dịch trên nghiệpvụ thị trường mở là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường nói chung. Vì vậy, lãi suất là mục tiêu mà NHNN cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở. Theo quy chế nghiệp vụ thị trường mở, NHTƯ có thể thực hiện đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất. Việc đấu thầu khối lượng xảy ra khi lãi suất cố định được tính toán và chỉ đạo, còn đấu thầu lãi suất sẽ xác định lãi suất trúng thầu tại thời điểm mà khối lượng tiền cần bơm vào hay rút ra khỏi lưu thông đạt được. Chính mức lãi suất này sẽ quyết định giá của giấy tờ có giá trên thị trường mở. Để khuyến khích các TCTD tham gia nghiệp vụ thị trường mở, trong giai đoạn đầu, NHNN cần kết hợp cả hai hình thức đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. 2.1.4. Hoàn thiện thị trường liên ngân hàng. Thị trường mở và nghiệp vụ thị trường mở chỉ thực sự hữu hiệu trên cơ sở thị trường liên ngân hàng phát triển. Trong lịch sử, thị trường liên ngân hàng hoạt động trước khi thị trường mở hoạt động. Thị trường liên ngân hàng chính là nơi xác định nhu cầu và khả năng vốn khả dụng của các NHTM, nơi mà NHTƯ nắm bắt được một cách nhanh nhạy nhu cầu vốn của nền kinh tế qua hoạt động của NHTM để quyết định sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ thích hợp. ở Việt Nam, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có vai trò khá lớn trong luân chuyển vốn ngoại tệ, xác định và điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Song hiện nay, thị trường nội tệ liên ngân hàng gần như đóng băng, điều này đã làm giảm đáng kể khả năng quản lý của NHNN, cũng như sự phối kết hợp giữa các thị trường chứng khoán - thị trường mở, thị trường tiền tệ. Vì vậy, việc hoàn thiện thị trường liên ngân hàng cần phải được xem là cơ sở cho các hoạt động khác NHNN trong bối cảnh cc thị trường tài chính đã thiết lập và đi vào hoạt động, hệ thống ngân hàng sẽ có sự cải cách mạnh mẽ, xu thế hội nhập quốc tế sẽ trở thành hiện thực ở Việt Nam. Hoàn thiện thị trường liên ngân hàng nên là một mối quan tâm đặc biệt của NHNN trong thời gian tới. 2.1.5. Hiện đại hoá hệ thống thanh toán. Để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động có hiệu quả cần trang bị hệ thống thanh toán và quản lý hiện đại, có phần mềm hại đại kết nối giữa nội bộ trong NHNN và giữa NHNN với các TCTD thành viên nhằm đảm bảo thực hiện các công đoạn giao dịch từ khi công nhận thành viên, đăng ký chữ ký điện tử, thông báo mời thầu, đăng ký giấy tờ có giá, xét thầu, tạo lập và ký hợp đồng mua lại đến khâu thanh toán chuyển khoản và thông báo báo cáo... 2.2. Dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc hiện nay được áp dụng có tính chất cào bằng cho tất cả các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳhạn dưới 12 tháng, trong khi đó rủi ro về khảư năng thanh toán thường chỉ rơi vào tiền gửi không kỳ hạn. Chính vì vậy, NHNN cần linh hoạt hơn trong việc quy định loại tiền gửi cần phải dự trữ bắt buộc, chẳng hạn như nếu muốn mở rộng M1 thì có thể quy định chỉ có tiền gửi không kỳ hạn mới dự trữ bắt buộc hoặc dự trữ bắt buộc đối với các khoản tiền gửi dưới 3 tháng, 6 tháng... chứ không nhất thiết muốn mở rộng tiền gửi là giảm dự trữ bắt buộc. Ngoài ra, việc thực hiện công cụ dự trữ bắt buộc có hiệu quả theomục tiêu đề ra cần phải có sự kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ việc chấp hành dự trữ bắt buộc và xử phạt nghiêm khắc những vi phạm. 2.3. Tái cấp vốn. Công cụ tái cấp vốn chỉ có thể phát huy hiệu quả khi nó được phối hợp với lãi suất. Nếu NHNN muốn các TCTD ra sức khai thác nguồn vốn trong nhân dân thì quy định mức tái cấp vốn càng cao, ngược lại việc quy định một mức lãi suất tái cấp vốn thấp chỉ khuyến khích các TCTD vay của NHNN. Trong thời gian tới, khi mà thị trường mở đã đi vào hoạt động ổn định thì đòi hỏi phải thận trọng hơn nữa trong việc quy định mức lãi suất tái cấp vốn như thế nào là hợp lý. Bởi vì một mức tái cấp vốn thấp sẽ khuyến khích các TCTD vay của NHNN sau đó mua lại các giấy tờ có giá. Trường hợp này chẳng khác nào NHNN dùng chính tiền của mình để mua các giấy tờ có giá, kết quả là nghiệp vụ thị trường mở không có tác dụng. Như vậy, mức lãi suất tái cấp vốn hợp lý phải là mức xấp xỉ với lãi suất các giấy tờ có giá ngắn hạn haylãi suất tiền gửi ngắn hạn. Kết luận Chính sách tiền tệ là vấn đề rộng lớn liên quan đến nhiều lĩnh vực đời sống, xã hội, tác động trong nó không giới hạn trong phản ứng của một quốc gia mà có tầm ảnh hưởng đến các nước khác trên thế giới tuỳ thuộc vào vị trí của quốc gia đó. Việc điều hành chính sách tiền tệ tuỳ vào điều kiện cụ thể kinh tế xã hội của từng nước và một phần phụ thuộc vào tính nhạy cảm của các nhà lãnh đạo trong việc phân tích, đánh giá tình hình._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0925.doc
Tài liệu liên quan