Tình hình thực hiện tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Tổng Công ty Cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam

Lời nói đầu Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường là một điều kiện tất yếu để phát triển nền kinh tế của một quốc gia. ở Việt Nam, sau gần 20 năm đổi mới, sự phát triển kinh tế thị trường đã tạo thúc đẩy các chủ thể kinh tế phát huy khả năng, sức sáng tạo và tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự lớn mạnh chung của toàn ngành bảo hiểm, bảo hiểm xây dựng lắp đặt phát triển

doc100 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình thực hiện tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Tổng Công ty Cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không ngừng và ngày càng tỏ rõ vai trò quan trọng đối với tiến trình mở cửa hội nhập ngày nay. Tuy nhiên, bảo hiểm xây dựng lắp đặt không thể phát huy được vai trò của mình nếu tách rời tái bảo hiểm. Nhận thức được mối quan hệ này, ngày 27/9/1994 Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định 100/CP thành lập Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam, ngày nay đổi tên là Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (tên giao dịch là Vinare) với tư cách là “bà đỡ” cho thị trường bảo hiểm trong nước. Qua 10 năm thực hiện nghiệp vụ xây dựng lắp đặt, Vinare đã đạt được những thành tựu to lớn song vẫn còn tồn tại rất nhiều khó khăn cần khắc phục. Trong thời gian thực tập tại Vinare, dưới sự hướng dẫn của các cán bộ Phòng Tái Bảo Hiểm Xây dựng Lắp đặt kết hợp với những kiến thức đã học, em xin chọn đề tài: “Tình hình thực hiện tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam”. Em xin cảm ơn cô giáo, thạc sỹ Nguyễn Thị Chính và các cán bộ nghiệp vụ Phòng Tái Bảo Hiểm Xây dựng Lắp đặt đã giúp em hoàn thành đề tài này. Chương I Khái quát chung về bảo hiểm xây dựng lắp đặt và tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt I. khái quát về bảo hiểm xây dựng lắp đặt. 1. Sự cần thiết của bảo hiểm Xây dựng Lắp đặt. Bảo hiểm là ngành dịch vụ, mang đặc trưng của dịch vụ tài chính ra đời xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của con người: nhu cầu được bảo vệ trước những rủi ro gây thiệt hại, mất mát về tài sản hay liên quan đến sức khoẻ và tuổi thọ của con người. Mục đích của bảo hiểm chủ yếu là góp phần ổn định kinh tế cho người tham gia từ đó khôi phục và phát triển sản xuất đời sống; đồng thời tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Trải qua quá trình phát triển tương đối dài, bảo hiểm đã ngày càng khẳng định và thể hiện vai trò cũng như đóng góp to lớn của nó đối với nền kinh tế mỗi nước. Bảo hiểm kỹ thuật cũng không nằm ngoài điều đó. Trên thế giới hiện nay, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đặc biệt kỹ thuật xây dựng dân dụng, do yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao, giá trị công trình ngày càng lớn và cùng với nó là sự phát sinh của nhiều rủi ro kỹ thuật, kinh tế trong quá trình xây dựng nên đã dẫn đến đòi hỏi cấp thiết việc phát triển và mở rộng loại hình bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Mặt khác, trong giá đưa ra đấu thầu, các công ty hoặc các hãng thầu không thể tính được đầy đủ khoản tiền dự trữ đề phòng cho các tổn thất xảy ra khi xây dựng công trình, nếu đưa vào thì giá đấu thầu của công trình sẽ rất cao. Trong khi đó nhà bảo hiểm có thể tính toán chính xác hơn nhiều số phí bảo hiểm của công trình so với so với việc dự kiến số tiền đề phòng tổn thất của các nhà thầu. Hơn nữa, quy luật của bảo hiểm là lấy số đông bù số ít nên phí bảo hiểm sẽ không cao và như vậy bảo hiểm xây dựng lắp đặt ngoài ý nghĩa quan trọng là việc đóng góp vào hạ giá thành công trình còn đưa ra một đảm bảo rất có hiệu quả về mặt tài chính cho các bên có liên quan tới công trình được xây dựng. Không những thế, các công trình này có thể gặp phải rất nhiều rủi ro bất ngờ trong quá trình xây dựng, lắp đặt gây thiệt hại tài chính cho chủ thầu, chủ đầu tư. Tuy nhiên, qua công tác bồi thường nhanh chóng đầy đủ của các nhà bảo hiểm, tình trạng khó khăn ban đầu về tài chính do rủi ro gây ra sẽ nhanh chóng được giải quyết, nhờ đó chủ thầu hay chủ đầu tư có thể trang trải được các chi phí bất ngờ phát sinh vượt quá khả năng tài chính của mình; giúp họ bảo toàn được vốn kinh doanh, hạn chế được ngắn nhất thời gian gián đoạn kinh doanh có thể xảy ra do gặp rủi ro. Mặt khác, các công trình xây dựng lắp đặt thường có giá trị rất lớn. Ví dụ, một số công trình có giá trị lớn ở Việt Nam như: nhà máy nhiệt điện Hải Phòng: 628 triệu USD; Nhà máy điện Đại Ninh: 500 triệu USD; Cầu Thanh Trì: 400 triệu USD; Nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn: 105 triệu USD; Nhà máy xi măng Tam Điệp: 100 triệu USD... Đứng trước các công trình có giá trị đầu tư lớn như vậy, nguy cơ rủi ro dẫn đến phá sản, mất vốn kinh doanh là điều khó tránh khỏi. Do vậy, tham gia bảo hiểm hay nói cách khác là chuyển rủi ro cho nhà bảo hiểm là một giải pháp hữu hiệu cho các nhà thầu hay chủ đầu tư. Bên cạnh đó, có thể thấy một trong những tác dụng hữu hiệu của bảo hiểm xây dựng lắp đặt cũng như bảo hiểm nói chung đó là góp phần đề phòng hạn chế các rủi ro có thể xảy ra, giúp cuộc sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm nỗi lo cho những người có liên quan. Điều này có thể thấy một cách khá rõ ràng qua việc nhà bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng hạn chế rủi ro đối với các công trình xây dựng, cũng như tuyên truyền sâu rộng các kiến thức cần thiết về các loại rủi ro, các nguy cơ và hậu quả của chúng. Một điều cần đề cập nữa là bảo hiểm xây dựng lắp đặt mang lại một nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế. Với nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi không nhỏ, các công ty bảo hiểm có thể cho vay, mua trái phiếu, kinh doanh bất động sản, tham gia vào thị trường chứng khoán,... hoạt động kinh tế nhờ vậy mà sôi động hơn, hiệu quả hơn. Cuối cùng, cần nói thêm một đóng góp đáng kể của bảo hiểm xây dựng lắp đặt- tất nhiên điều này cũng quyết định sự cần thiết phải triển khai loại hình bảo hiểm này trong mỗi nước. Đó là giúp Nhà nước trong việc khắc phục những khoản chi tương đối lớn trong việc khắc phục hậu quả tổn thất khi đã có hệ thống bảo hiểm, tránh những biến động chi tiêu ảnh hưởng đến kế hoạch của ngân sách Nhà nước. Đồng thời, hoạt động bảo hiểm này còn góp phần tăng thu ngoại tệ trong nước, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân trong nước. Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là một bộ phận của bảo hiểm kỹ thuật. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm kỹ thuật luôn gắn liền với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Bảo hiểm kỹ thuật bắt đầu ở nước Anh công nghiệp vào giữa thế kỷ 19. Vào lúc các đơn bảo hiểm cháy tương đối phổ biến thì một hiểm hoạ có tính chất huỷ diệt tương tự khác đã gây thiệt hại cho nhà máy bông ở Lancashire, đó là vụ nổ nồi hơi. Không những vụ nổ này gây thiệt hại có tính tàn phá về người, mà sự gián đoạn sản xuất sau đó đã làm nhiều doanh nghiệp có liên quan bị phá sản. Tại sao các vụ nổ có tính thảm hoạ lại thường xảy ra như vậy? Rõ ràng có thể đổ lỗi phần nào cho những sai sót trong thiết kế do thiếu kinh nghiệm đối với công nghệ mới. Nhưng, thông thường hơn, còn có rủi ro đạo đức; sử dụng nồi hơi quá mức bình thường, bất cẩn, hoặc những tập quán làm việc nguy hiểm với những ý định nâng cao hiệu suất hoạt động của nồi hơi và mức độ sản xuất. Rõ ràng, những người chủ của nhà máy đã phải làm một việc gì đó. Xuất phát từ thực tế đó, cùng với nhiều hình thức quản lý rủi ro sơ khai khác, năm 1858, công ty bảo hiểm đầu tiên: Công ty Bảo hiểm Nồi hơi( The Steam Boiler Assurance Company) đã được thành lập. Chẳng bao lâu, dưới sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và kỹ thuật cùng với nhu cầu tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai bảo hiểm kỹ thuật cũng phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết và trở thành một trong loại hình bảo hiểm quan trọng không thể thiếu được đối với sự phát triển của mỗi nền kinh tế. Bảo hiểm kỹ thuật có mặt trong hầu hết các lĩnh vực của hoạt động kinh tế, xã hội trên toàn thế giới. Từ việc bảo hiểm cho các máy móc sản xuất, các thiết bị dụng cụ tinh vi trong y tế, phòng thí nghiệm cho tới việc bảo hiểm cho các công trình xây dựng khổng lồ như bến cảng, sân bay, các con tàu vũ trụ... Như vậy, có thể nói rằng bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là những mắt xích không thể thiếu được trong bảo hiểm kỹ thuật. Đơn bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt( EAR- Erection All Risks Insurance Policy) đầu tiên được cấp tại Đức vào năm 1924 với sự hỗ trợ về tái bảo hiểm của công ty tái bảo hiểm Munich Re. Một vài năm sau đó, dựa trên cơ sở những điều kiện bảo hiểm của đơn bảo hiểm lắp đặt sản phẩm, bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu( CAR- Contractors All Risks Insurance Policy) cũng ra đời tại Anh vào năm 1929. Đơn bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu đầu tiên bảo hiểm cho việc xây dựng cầu Lamberth bắc qua sông Thames ở Luân Đôn. 2. Đặc điểm của bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Xét về mặt kỹ thuật nghiệp vụ, bảo hiểm xây dựng lắp đặt là những loại hình bảo hiểm tương đối phức tạp so với các loại hình bảo hiểm khác, các loại đơn bảo hiểm rất đa dạng, như bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng, bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt,... Có thể liệt kê một số nét đặc thù chủ yếu của bảo hiểm xây dựng lắp đặt như dưới đây: Đây là loại hình bảo hiểm có nhiều rủi ro mang tính kỹ thuật như rủi ro liên quan đến thiết kế, cơ chế vận hành của máy móc, nguyên vật liệu kém, máy móc cũ... Vì vậy đòi hỏi đội ngũ cán bộ tái bảo hiểm phải có những kiến thức kỹ thuật nhất định. Thời hạn bảo hiểm thường dài, tuỳ theo giá trị và tính chất của công trình. Giá trị bảo hiểm rất lớn có xu hướng ngày càng tăng do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự khan hiếm nguyên vật liệu, vì vậy nếu tổn thất xảy ra trách nhiệm bồi thường là rất lớn. Rủi ro mang tính chất tích luỹ vì càng gần giai đoạn cuối của thời hạn bảo hiểm giá trị bảo hiểm trên công trình càng lớn. Các rủi ro được bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng lắp đặt khác nhau đáng kể về quy mô. Sự phân tán rủi ro thấp vì số lượng tương đối ít, lại thiếu các rủi ro đồng nhất dẫn đến làm mất cân đối bảng danh mục tổng số lượng dịch vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Một số rủi ro có tính chất thảm hoạ (động đất, lũ lụt, gió bão...) đòi hỏi phải đặc biệt lưu ý và thận trọng. Vị trí của rủi ro bảo hiểm có thể chỉ là một vị trí địa lý nhưng có khi lại trải dài trên một khu vực rộng (như bảo hiểm xây dựng đường sá) nên đối mặt với nhiều loại rủi ro khác nhau khiến việc đánh giá rủi ro khó khăn và phức tạp. Vì rủi ro trong bảo hiểm xây dựng lắp đặt phức tạp nên tổn thất của nghiệp vụ này rất khó xác định được nguyên nhân chính xác, khiến công ty giám định tổn thất, giải quyết bồi thường khó khăn và kéo dài. 3. Nội dung bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Đối tượng của bảo hiểm xây dựng lắp đặt a. Đối tượng của bảo hiểm xây dựng Đối tượng được bảo hiểm của bảo hiểm xây dựng bao gồm tất cả các công trình xây dựng dân dụng, công trình công nghiệp,...hay nói cách khác là bao gồm tất cả các công trình xây dựng mà kết cấu của nó có sử dụng xi măng và bê tông cốt thép. Cụ thể là các nhóm công trình sau: Nhà ở, trường học, bệnh viện, trụ sở làm việc, rạp hát, rạp chiếu phim, các công trình văn hoá khác,... Nhà máy, xí nghiệp, các công trình phục vụ sản xuất; Đường sá( bao gồm cả đường bộ và đường sắt), đường băng sân bay; Cầu cống, đê đập, công trình thoát nước, kênh đào, cảng,... Mỗi công trình bao gồm nhiều hạng mục riêng biệt được xác định và dự tính thông qua sơ đồ tổng thể, bản vẽ thiết kế cùng các máy móc trang thiết bị cần thiết phục vụ cho công tác xây dựng cũng như các công việc có liên quan trong quá trình xây dựng. Để thuận tiện cho việc tính phí bảo hiểm cũng như giải quyết khiếu nại trong trường hợp tổn thất xảy ra, một công trình xây dựng được chia làm nhiều hạng mục khác nhau, bao gồm: Cấu trúc chủ yếu của công trình xây dựng( construction works): Hạng mục này chiếm phần lớn giá trị công trình. Hạng mục này chiếm phần lớn giá trị công trình. Nó bao gồm tất cả các công việc thực hiện bởi chủ thầu chính (bên B) và tất cả các chủ thầu phụ của chủ thầu chính theo quy định của hợp đồng xây dựng ký kết giữa bên A và bên B: từ công tác chuẩn bị, dọn dẹp mặt bằng, xây dựng các công trình tạm thời phục vụ cho công tác thi công đến công việc đóng cọc, làm móng và xây dựng cấu trúc chính của công trình. - Trang thiết bị xây dựng ( equipments of construction): ví dụ như rào chắn, kho bãi, nhà xưởng, giàn giáo... - Máy móc xây dựng (construction machines): bao gồm các máy móc phục vụ công tác thi công như máy xúc, máy ủi, cần cẩu,...thuộc quyền sở hữu của người được bảo hiểm hay đi thuê. Tài sản có sẵn trên và xung quanh công trường thuộc quyền sở hữu, quản lý, trông nom hay coi sóc của người được bảo hiểm. Chi phí dọn dẹp hiện trường: bao gồm các chi phí phát sinh do việc thu dọn và di chuyển mảnh vụn, đất đá do các rủi ro được bảo hiểm gây ra trên phạm vi công trường. Bên cạnh phần tổn thất vật chất, bảo hiểm xây dựng cũng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người thứ ba: bao gồm các trách nhiệm pháp lý do thiệt hại tài sản, thương tật thân thể của bên thứ ba phát sinh trong quá trình thi công công trình hoặc xung quanh khu vực công trường nếu người mua bảo hiểm có yêu cầu. b. Đối tượng của bảo hiểm lắp đặt Đối tượng bảo hiểm lắp đặt được hiểu là các máy móc lắp đặt, trang thiết bị phục vụ cho công tác lắp đặt và một số công việc, hạng mục liên quan tới công việc lắp đặt. Đối tượng được bảo hiểm được phân loại như sau: Các máy móc, các dây chuyền đồng bộ trong một xí nghiệp hay trong khi tiến hành lắp đặt các máy móc thiết bị đó. Các máy móc, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho lắp đặt. Các phần việc xây dựng phục vụ cho công tác lắp đặt. Trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba. Chi phí dọn dẹp vệ sinh. Phạm vi bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm xây dựng Các đơn bảo hiểm xây dựng do người bảo hiểm cung cấp thường là đơn bảo hiểm mọi rủi ro nên phạm vi được bảo hiểm thường rất rộng, chỉ trừ các rủi ro loại trừ được nêu rõ trong đơn còn hầu hết các rủi ro bất ngờ và không lường trước được đều được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm xây dựng. Cụ thể, có các rủi ro chính sau: Cháy, sét đánh, nước, chữa cháy hay phương tiện chữa cháy Lũ lụt, mưa, tuyết rơi, tuyết lở, sóng thần Các loại bão Động đất, sụt lở đất đá Trộm cắp Thiếu kinh nghiệm, bất cẩn, hành động ác ý hay lỗi của con người. Ngoài ra, tùy vào từng công trình, mỗi đơn cấp còn có các điều khoản bổ sung thêm đối với các rủi ro phụ để phù hợp với nội dung công việc. Bên cạnh những rủi ro được bảo hiểm, bảo hiểm xây dựng lắp đặt cũng quy định một số điểm loại trừ, đó là: Thứ nhất: Loại trừ chung áp dụng cho cả phần bảo hiểm vật chất và trách nhiệm: - Tổn thất do chiến tranh hay những hoạt động tương tự, đình công, nổi loạn, ngừng công việc theo yêu cầu của bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào. - Hành động cố ý hay sự cẩu thả cố ý của người được bảo hiểm hoặc đại diện của họ. Phản ứng hạt nhân, phóng xạ hay ô nhiễm phóng xạ. Thứ hai: Rủi ro loại trừ áp dụng đối với phần thiệt hại vật chất bao gồm: Bất kỳ loại tổn thất nào có tính chất chất hậu quả. Lỗi thiết kế. Chi phí thay thế, sửa chữa hay khắc phục các khuyết tật của máy móc, nguyên vật liệu và/hoặc do tay nghề (các tổn thất hư hại do hậu quả thì được bảo hiểm). Thứ ba: Rủi ro loại trừ áp dụng đối với phần bảo hiểm trách nhiệm: Khiếu nại tổn thất liên quan đến tai nạn được bảo hiểm hay có thể được bảo hiểm trong phạm vi của phần bảo hiểm vật chất của đơn bảo hiểm xây dựng. Khiếu nại phát sinh do dịch chuyển, rung động hay suy yếu của cột chống. Phạm vi bảo hiểm lắp đặt Những rủi ro chính được bảo hiểm trong đơn bảo hiểm lắp đặt được chia làm 3 loại chính: - Các rủi ro thiên tai bao gồm động đất, động biển gây ra sóng thần, gió mạnh (do bão, gió xoáy, cuồng phong), mưa lớn, lũ, lụt, đóng băng, sét đánh, cháy do sét đánh hay do hoạt động của núi lửa, đất lún, sụt lở. - Các hiểm hoạ tổn thất gây ra bởi hoạt động của con người trên công trường như: thiếu kinh nghiệm hay kỹ năng, lỗi của con người, bất cẩn, trộm cắp, hành động ác ý, phá hoại, vận chuyển, khuân vác nguyên vật liệu, lỗi thiết kế, tập trung cao độ hay cường độ công việc cao do thời gian lắp đặt quá ngắn, phối hợp công việc thiếu hợp lý, trông nom, bảo vệ công trường không tốt, thiếu những biện pháp ngăn ngừa tổn thất, lỗi vận hành, lỗi người vận hành máy. - Các rủi ro kỹ thuật, vận hành bao gồm áp suất ép quá lớn (nổ vật lý), chân không (nổ bên trong), nhiệt dộ quá lớn (đoản mạch), lực li tâm, lỗi nguyên vật liệu, mất kiểm soát phản ứng hoá học (nổ hoá học), lỗi của hệ thống hay thiết bị điều hành hay điều khiển. Bảo hiểm lắp đặt có các loại trừ sau: - Loại trừ chung: áp dụng cho cả phần bảo hiểm vật chất và phần bảo hiểm trách nhiệm. Các rủi ro loại trừ chính trong phần này là: + Chiến tranh + Những rủi ro hạt nhân + Các hành vi có tính vi phạm của người được bảo hiểm + Gián đoạn công việc. Các loại trừ đặc biệt áp dụng cho phần thiệt hại vật chất: + Các khoản miễn thường + Mọi tổn thất hậu quả + Lỗi thiết kế, khuyết tật nguyên vật liệu + Hao mòn và xé rách,... + Các tổn thất về hồ sơ, bản vẽ, tài liệu,... + Các tổn thất phát hiện vào thời điểm kiểm kê (mất cắp, mất tích). Các loại trừ áp dụng đối với phần thiệt hại về trách nhiệm: + Các khoản miễn thường + Những chi tiêu hay chi phí sửa chữa có liên quan đến sửa chữa những thiệt hại được bảo hiểm trong phần bảo hiểm vật chất. + Trách nhiệm đối với thương tật của con người/công nhân tham gia vào quá trình thi công công việc. + Tổn thất và thiệt hại đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hay chăm sóc, quản lý của bất cứ người được bảo hiểm nào. + Tổn thất gây ra bởi xe cơ giới, tàu (biển, sông), máy bay. + Bất cứ khoản bồi thường nào vượt quá phạm vi bảo vệ quy định trong hợp đồng bảo hiểm. II. Những nội dung cơ bản của tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt. 1. Tổng quan về tái bảo hiểm. 1.1. Sự cần thiết và tác dụng của tái bảo hiểm. Bảo hiểm càng phát triển thì quá trình chuyển rủi ro càng nhiều, càng dai dẳng với số tiền bảo hiểm càng lớn; phạm vi càng rộng thì khó khăn và nguy cơ đe doạ các doanh nghiệp bảo hiểm càng nhiều. Vì vậy, để ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh các công ty bảo hiểm phải phân tán rủi ro mình đã chấp nhận cho các nhà bảo hiểm khác, tức là cần thiết phải tái bảo hiểm. Tái bảo hiểm là sự bảo hiểm cho những rủi ro mà người bảo hiểm phải gánh chịu, nói cách khác, tái bảo hiểm là quá trình người bảo hiểm chuyển một phần trách nhiệm đã chấp nhận với người được bảo hiểm cho người bảo hiểm khác bằng cách nhượng lại cho họ một phần phí bảo hiểm qua hợp đồng tái bảo hiểm. Trong tái bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc ký hợp đồng với người tham gia và sau đó chuyển giao rủi ro cho các công ty nhận tái bảo hiểm. Công ty nhận gọi là công ty nhận tái bảo hiểm. Mặc dù ra đời muộn hơn so với bảo hiểm, tuy nhiên ngày nay tái bảo hiểm đã phát triển không ngừng và hỗ trợ đắc lực cho bảo hiểm trong những tác động tích cực đối với sự phát triển mỗi nước. Sở dĩ như vậy là vì tái bảo hiểm có những tác dụng không thể phủ nhận được. Như trên đã trình bày, có thể thấy nhiệm vụ chủ yếu của tái bảo hiểm là phân chia các rủi ro đã được bảo hiểm của các công ty bảo hiểm gốc cho một tập thể những công ty tái bảo hiểm và thông qua đó sẽ tận dụng được một cách tối ưu các quy luật thống kê. Với nhiệm vụ trên, tái bảo hiểm ổn định kinh doanh cho các công ty bảo hiểm gốc và tạo điều kiện cho các công ty này có thể nhận bảo hiểm cho những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của mình. Thứ hai, tái bảo hiểm có tác dụng phân tán rủi ro, góp phần ổn định tài chính cho các công ty gốc đặc biệt trong trường hợp xảy ra những biến cố bảo hiểm có tính thảm hoạ hay tính tích luỹ rủi ro. Thứ ba, tái bảo hiểm còn giúp cho các công ty nhỏ hoặc mới thành lập ổn định và phát triển lâu dài nhờ sự tư vấn về nghiệp vụ từ các công ty tái bảo hiểm. Thứ tư, tái bảo hiểm còn góp phần ổn định Ngân sách Nhà nước thông qua thu thuế do các công ty tái bảo hiểm đóng góp và tăng phần thu ngoại tệ cho đất nước thông qua các dịch vụ bảo hiểm giữ lại trong nước hay phần nhượng của phía nước ngoài. Thứ năm, tái bảo hiểm có tác động tích cực đến đời sống của các cán bộ bảo hiểm. Bởi vì, thông qua tái bảo hiểm các công ty bảo hiểm gốc được bảo vệ trước nguy cơ phá sản, từ đó gián tiếp bảo vệ quyền lợi của cán bộ nhân viên công ty. Italia là nước đầu tiên chứng kiến sự ra đời của dịch vụ tái bảo hiểm. Bản giao ước cổ nhất được biết đến với tính chất pháp lý như một hợp đồng tái bảo hiểm đã được ký kết tại thành phố Genes vào năm 1370 giữa một bên là hai thương nhân hoạt động với tư cách như nhà tái bảo hiểm và một bên là đại diện cho một nhà bảo hiểm. Hợp đồng được ký kết nhằm đảm bảo dịch vụ bảo hiểm cho các hàng hoá gửi đi bằng đường biển từ Genes đến Bruges. Cùng với sự phát triển rộng rãi về những mối quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành phố của Italia và giữa các nước của Bắc Âu, đặc biệt là nước Anh dịch vụ tái bảo hiểm đã được phát triển lên một bước. Nhờ áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh, giao lưu hàng hóa được tăng cường cho nên tái bảo hiểm cũng có điều kiện hình thành các tổ chức độc lập. Năm 1846 tại Kohn (nước Đức) công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp đầu tiên đã ra đời lấy tên là Công ty tái bảo hiểm Kohn (Koolnische Ruck AG). Tiếp theo đó một số công ty tái bảo hiểm có tên tuổi trên thị trường thế giới hiện nay cũng đã được thành lập, ví dụ như: Công ty tái bảo hiểm Thuỵ sĩ (Swiss Re) năm 1863. Công ty tái bảo hiểm London (London Guarantee Reinsurance co. Ltd.) năm 1869. Công ty tái bảo hiểm Munich (Munchenes Ruck. AG) năm 1880. Trong giai đoạn này, hai cuộc chiến tranh thế giới cùng với các cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát tiền tệ đã làm tổn hại lớn đến sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và ngành tái bảo hiểm nói riêng. Bị tổn hại nhiều nhất phải kể đến các công ty tái bảo hiểm Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc năm 1945 với sự thắng lợi của Hồng quân Liên xô và phe đồng minh đánh bại chủ nghĩa phát xít đến tận gốc rễ. Nó đã mở ra một giai đoạn mới của lịch sử loài người cũng như của nền kinh tế và ngành bảo hiểm. Tái bảo hiểm giai đoạn này được đặc trưng thông qua các biến động lớn sau đây: Sự phục hồi nhanh chóng của các công ty tái bảo hiểm của cộng hoà liên bang Đức. Sự thành lập các công ty bảo hiểm nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa. Trong những nước chậm phát triển hoặc mới giành được độc lập những tổ chức độc quyền tái bảo hiểm, cục bộ hay toàn phần đã được thành lập nhằm bảo vệ lợi ích riêng của họ (Ví dụ như ở Aschentina, Braxin, Chile, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và một số nước ở Châu Phi, Đông Nam á...). Sự kiện này làm thu hẹp khả năng hoạt động của các công ty tái bảo hiểm quốc tế ở những nước đó. Nhiều công ty tái bảo hiểm mới được thành lập và ngày càng có nhiều công ty bảo hiểm tiến hành đồng thời dịch vụ tái bảo hiểm. Do đó cuộc cạnh tranh giữa họ ngày càng gay gắt và dưới nhiều hình thức khác nhau. 1.2 Các hình thức tái bảo hiểm. Sự ra đời và quá trình lịch sử phát triển của tái bảo hiểm cho thấy vào thời gian ban đầu không có sự phân biệt rõ ràng nào về hình thức tái bảo hiểm, bởi vì trong nhiều thế kỷ chỉ có một hình thức tái bảo hiểm duy nhất được biết và ứng dụng rộng rãi trên thị trường bảo hiểm thế giới. Đó là: “tái bảo hiểm lựa chọn cho từng rủi ro riêng biệt”. Đầu thế kỷ 19, để đáp ứng nhu cầu của ngành bảo hiểm đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, ngành tái bảo hiểm bắt đầu phát triển nhanh chóng và lúc đó, các hình thức tái bảo hiểm mới được tạo lập. Có thể phân chia tái bảo hiểm thành 3 hình thức cơ bản sau: Tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn (tái bảo hiểm tạm thời). Tái bảo hiểm bắt buộc. Tái bảo hiểm lựa chọn – bắt buộc kết hợp. Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn (Facultative Reins). Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất. Danh từ “Tuỳ ý lựa chọn” (Facultative) có liên quan đến ý niệm là trong loại tái bảo hiểm này, công ty nhượng (ceding company) có toàn quyền lựa chọn rủi ro cần phải tái bảo hiểm và ngược lại, nhà tái bảo hiểm (Reinsurer) có quyền nhận hay từ chối rủi ro đó. Mỗi dịch vụ bảo hiểm đem nhượng theo cơ sở tùy ý lựa chọn là một hợp đồng tái bảo hiểm tách biệt bao gồm toàn bộ hay một phần rủi ro mà công ty nhượng muốn nhượng cho thị trường tái bảo hiểm. Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn được tiến hành theo trình tự: Trước hết công ty nhượng thông báo cho tái bảo hiểm một dịch vụ nào đó mà họ cần tái bảo hiểm dưới hình thức một phiếu đề nghị (slip), trong đó ghi các đặc điểm chính của rủi ro được tái bảo hiểm, chẳng hạn như: Tên địa chỉ của người được bảo hiểm. Tính chất của rủi ro được bảo hiểm. Ngày bắt đầu và ngày chấm dứt của thời gian bảo hiểm. Số tiền được bảo hiểm, phí bảo hiểm, phần giữ lại của công ty nhượng. Tỷ lệ thủ tục phí tái bảo hiểm... Sau khi nhận được phiếu đề nghị này, nhà tái bảo hiểm có toàn quyền tự do lựa chọn toàn bộ hay một phần tỷ lệ nào đó hay bằng một số tiền cố định trên cơ sở rủi ro được đề nghị. Nhà tái bảo hiểm xác nhận phần tham gia của mình thông thường bằng cách ghi trực tiếp vào bản thứ hai của phiếu đề nghị và gửi trả lại cho công ty nhượng. Tuy nhiên để đảm bảo tính thời gian, việc xác nhận có thể thực hiện bằng điện tín hay qua điện thoại, nhưng sau đó vẫn phải xác nhận bằng văn bản để đảm bảo tính pháp lý của hợp đồng. Dĩ nhiên, nhà tái bảo hiểm có quyền từ chối tham gia hợp đồng nếu họ không muốn. Theo tập quán thì việc nhà tái bảo hiểm im lặng không trả lời không được xem như là một sự chấp nhận. Trước khi chính thức có ý kiến nhận hay khước từ, nhà tái bảo hiểm có thể yêu cầu biết thêm những chi tiết khác để đánh giá rủi ro mà mình sẽ nhận như: những chi tiết về việc định giá phí bảo hiểm... Cuối cùng, chỉ khi nào nhận được thông báo chấp nhận của nhà tái bảo hiểm thì dịch vụ theo hình thức tuỳ ý lựa chọn mới coi như hoàn thành. Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn có nhiều ưu điểm và nhược điểm. Có thể xem qua một số ưu nhược điểm chủ yếu sau: ưu điểm: + Giúp công ty nhượng, nhất là công ty bảo hiểm của các quốc gia đang phát triển và non trẻ, có kinh nghiệm ít có thể hoàn thành việc nhận bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro ở địa phương mà có giá trị bảo hiểm lớn, vượt quá khả năng tài chính thông thường của mình bằng việc sử dụng chuyên môn và khả năng của thị trường tái bảo hiểm quốc tế. + Giúp công ty nhượng có điều kiện lựa chọn để duy trì kim ngạch bảo hiểm của mình được cân đối, tức là giúp cho công ty nhượng có thể loại bỏ được những rủi ro đặc biệt lớn hoặc nguy hiểm mà một khi tổn thất thuộc đơn vị rủi ro này xảy ra có thể làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mình trong năm kế hoạch ở một nghiệp vụ bảo hiểm riêng biệt nào đó. + Giúp cho công ty nhượng có quyền chủ động trong việc chấp nhận bảo hiểm phục vụ nhu cầu của người được bảo hiểm về những loại rủi ro mà có thể không được chấp nhận trong các hợp đồng tái bảo hiểm truyền thống của mình, chẳng hạn như: rủi ro về động đất, ngập lụt, đình công, bạo loạn, chiến tranh hay những rủi ro tương tự khác... Nhược điểm: + Công ty nhượng phải thông báo đầy đủ chi tiết của nghiệp vụ bảo hiểm gốc; có nghĩa là khi áp dụng hình thức này nhiều lần thì nhà tái bảo hiểm thường xuyên cần phải tiếp xúc và biết được ý đồ bên trong của các hợp đồng bảo hiểm gốc và kim ngạch bảo hiểm của công ty nhượng dẫn đến có thể bị tiết lộ những thông tin có lợi cho sự cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm gốc. + Không đảm bảo thời gian tính trong việc phân tán rủi ro tái bảo hiểm, tức là công ty nhượng không có sự bảo đảm chắc chắc của thị trường tái bảo hiểm khi họ nhận bảo hiểm một rủi ro nào đó, công ty nhượng sẽ mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm nếu thị trường đó có, công ty nhượng sẽ mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm nếu thị trường đó có công ty bảo hiểm khác có khả năng phục vụ tốt hơn, hoặc không có khả năng để nhận bảo hiểm cho rủi ro có giá trị lớn, hay ít nhất cũng làm cho công ty mất uy tín vì sự chậm trễ trả lời người được bảo hiểm. + Chi phí hành chính, thủ tục giấy tờ tốn kém làm giảm thu nhập kinh doanh, ít lãi. + Thường xuyên phải đàm phán tái lập lại hợp đồng tái bảo hiểm trước khi ký kết bảo hiểm gốc với khách hàng mà trong nhiều trường hợp đáng lẽ không cần thiết phải thay đổi hay huỷ bỏ hợp đồng đã ký đó. + Trong trường hợp khi khả năng tiếp nhận rủi ro của thị trường tái bảo hiểm quốc tế đã gần đạt tới mức tối đa (dày đặc), hoặc khi phí bảo hiểm gốc quá thấp so với phí trung bình của thị trường thì hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn chỉ có thể thực hiện được với một mức phí cao hơn so với mức phí gốc hoặc buộc phải giảm bớt mức thủ tục phí tái bảo hiểm. Trong trường hợp này, mức sai biệt đó sẽ do công ty nhượng buộc phải giảm bớt phần trách nhiệm mà mình cam kết trong bảo hiểm gốc. Tái bảo hiểm bắt buộc (Obligatory): Tái bảo hiểm là sự thoả thuận giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm trong đó công ty nhượng bắt buộc phải nhượng cho nhà tái bảo tất cả các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc mà hai bên đã thoả thuận từ trước. Ngược lại, nhà tái bảo hiểm cũng bắt buộc phải chấp nhận toàn bộ các đơn vị rủi ro đó. ở đây, công ty nhượng toàn quyền trong việc chấp nhận bảo hiểm gốc, định phí... mà không phải tham khảo ý kiến của nhà tái bảo hiểm . Đồng thời, công ty nhượng cũng đơn phương thanh toán các vụ tổn thất có liên quan đến những rủi ro được bảo hiểm với mục đích bảo vệ quyền lợi chung của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm. Ngược lại, nhà tái bảo hiểm chia sẻ những vận may rủi với công ty nhượng và sẽ chấp nhận thanh toán tổn thất thuộc phạm vi hợp đồng tái bảo hiểm để thoả thuận. Cũng như loại hình bảo hiểm tùy ý lựa chọn, tái bảo hiểm bắt buộc cũng tồn tại ưu và nhược điểm nhất định: ưu điểm: + Từ những phân tích trên có thể thấy với hình thức tái bảo hiểm, nhà tái bảo hiểm và nhà bảo hiểm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau hơn là những dịch vụ bảo hiểm nhượng theo hình thức tuỳ ý lựa chọn. + Với hình thức này, nhà tái bảo hiểm thu được số phí lớn nhất do mọi rủi ro đều được san sẻ giữa hai bên, điều này phù hợp với “quy luật số đông” giúp nhà tái bảo hiểm thực hiện được tốt vai trò kinh tế quốc dân của họ về đẩy mạnh những tiến bộ khoa học kỹ thuật của ngành bảo hiểm bằng việc chấp nhận những rủi ro mới và các dạng bảo hiểm mới. Nhược điểm: Bên cạnh những ưu điểm trên thì một nhược điểm nổi trội cần bàn đến đó là hình thức tái bảo hiểm bắt buộc không khai thác hết khả năng tài chính của nhà bảo hiểm; điều này được thể hiện ở chỗ, có nhiều rủi ro mà nhà bảo hiểm có khả năng đảm nhận được nhưng vẫn bắt buộc phải tái đi theo quy định. 1.2.3. Tái bảo hiểm kết hợp tuỳ ý lựa chọn- bắt buộc. Mỗi hình thức tái bảo hiểm có những hạn chế và ưu điểm nhất định do đó để khai thác ưu điểm của hình thức này và hạn chế nhược điểm của hình thức kia người ta thường kết hợp các hình thức đó lại trong một hợp đồng tái bảo hiểm gọi là tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn- bắt buộc. Đây là hình thức tái bảo hiểm mà công ty nhượng không bắt._. buộc phải nhượng tất cả các dịch vụ mình đã nhận ngược lại nhà tái bảo hiểm bắt buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà công ty nhượng chuyển giao với điều kiện là những dịch vụ đó phải phù hợp với nội dung và điều khoản đã quy ước của hợp đồng tái bảo hiểm thoả thuận. Như vậy, so với hình thức tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn, nhà tái bảo hiểm bất lợi hơn vì không có quyền được từ chối không nhận những rủi ro mà một khi họ không muốn. Để bù đắp thiệt thòi nói trên, trong hình thức tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn- bắt buộc, nhà tái bảo hiểm có điều kiện thu nhập nguồn phí tái bảo hiểm lớn hơn và có phần thăng bằng hơn so với phần hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn. Tuy nhiên, trong hình thức này, tỷ lệ thủ tục phí tái bảo hiểm thường cao hơn so với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn. Trong hình thức tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn- bắt buộc vẫn có điều kiện được đặt ra là nội dung của hình thức này không có nghĩa chỉ có những rủi ro có khả năng dễ xảy ra tổn thất nhất thì đưa vào hợp đồng. Hay nói cách khác, công ty nhượng không được lợi dụng tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn- bắt buộc để lựa chọn rủi ro nhằm mục đích đẩy phần bất lợi cho nhà tái bảo hiểm. Để phòng ngừa trường hợp khả năng có thể xảy ra, nhà tái bảo hiểm phải nắm vững ý đồ của công ty nhượng, xem xét kỹ các rủi ro mà công ty nhượng đem tái bảo hiểm và thường xuyên phải canh chừng diễn biến của thoả ước mà mình đã ký kết. 1.3. Phương pháp tái bảo hiểm. Tái bảo hiểm phát triển ngày một hoàn thiện về hình thức cũng như phương pháp. Các hình thức tái bảo hiểm đều tiến hành theo 2 phương pháp: Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (tái bảo hiểm theo tỷ lệ). Tái bảo hiểm theo mức bồi thường (tái bảo hiểm không theo tỷ lệ). 1.3.1. Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (Proportional Reinsurance). Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm là một phương pháp tái bảo hiểm mà trong đó trách nhiệm của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm đối với đơn vị rủi ro được bảo hiểm được phân bổ theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên trên cơ sở số tiền được bảo hiểm. Vì lẽ đó, các dịch vụ tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm cũng được gọi là “tái bảo hiểm theo tỷ lệ”. Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm có một số đặc tính sau: Trách nhiệm của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm được tính theo tỷ lệ tương ứng của mỗi bên tham gia. Phí và bồi thường được chia sẻ giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên về số tiền bảo hiểm. Chẳng hạn, nếu phần tham gia của nhà tái bảo hiểm trên một rủi ro là 40% của giá trị rủi ro đó thì họ cũng sẽ nhận được 40% của số phí bảo hiểm và sẽ đóng góp tiền bồi thường vào mỗi vụ tổn thất thuộc rủi ro đó là 40%. Tức là, phần phí bảo hiểm do nhà tái bảo hiểm nhận đúng như phần rủi ro họ đảm nhận tính theo tỷ lệ. Phương pháp tái bảo hiểm tỷ lệ được chia thành 2 dạng chính là: Tái bảo hiểm thặng dư vốn (hay còn gọi là tái bảo hiểm “mức dôi ra”) (surplus), và Tái bảo hiểm phân ngạch thuần (hay còn gọi là tái bảo hiểm “số thành” hay tái bảo hiểm “tham gia”) (Quota share). Tuy cùng là phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ nhưng 2 dạng này có những đặc điểm khác nhau rõ rệt. Có thể khái quát một số điểm khác biệt sau: Trong tái bảo hiểm số thành, tỷ lệ tái bảo hiểm và tỷ lệ mức giữ lại của công ty nhượng được ấn định bằng một số tương đối (tức là bằng tỷ lệ phần trăm) nhất định do đó số phí được hưởng và số tiền bồi thường phải trả của nhà tái bảo hiểm và của công ty nhượng được phân chia tương xứng theo tỷ lệ ấn định đó. Ngược lại, trong tái bảo hiểm mức dôi, mức giữ lại được ấn định theo số tuyệt đối (tức là bằng số tiền), mức tái bảo hiểm là mức chênh lệch giữa giá trị bảo hiểm và mức giữ của công ty nhượng và được giới hạn bằng một số tiền tối đa do hai bên thoả thuận. Do đó, tỷ lệ tái bảo hiểm và tỷ lệ mức giữ lại thay đổi tùy thuộc vào giá trị bảo hiểm của từng đơn vị rủi ro riêng biệt; chính vì vậy, kết quả bồi thường của nhà tái bảo hiểm cho toàn bộ các dịch vụ được tái bảo hiểm có thể khác xa so với kết quả bồi thường của công ty nhượng. Để hiểu rõ hơn về những khác biệt trên ta đi sâu tìm hiểu về từng dạng cụ thể: Thứ nhất: Tái bảo hiểm thặng dư vốn (mức dôi) Tái bảo hiểm mức dôi là dạng tái bảo hiểm tỷ lệ cổ xưa và phổ biến nhất. Thông thường nó được sử dụng khi khối lượng dịch vụ gồm nhiều rủi ro có những số tiền rất chênh lệch được bảo hiểm. Dạng tái bảo hiểm này giúp công ty nhượng có được sự bù đắp cần thiết cho những rủi ro mà họ nhận bảo hiểm. Bên cạnh đó, công ty nhượng đảm bảo được sự cân bằng trong kinh doanh và có thể nhận bảo hiểm cho những rủi ro có giá trị lớn hơn khả năng tài chính của mình. Tái bảo hiểm mức dôi còn có ưu điểm là công ty nhượng có điều kiện giữ lại một khối lượng kim ngạch bảo hiểm lớn và do đó có mức phí thu nhập lớn không cần phải tái bảo hiểm. Công ty nhượng chỉ phải đem tái bảo hiểm những đơn vị rủi ro mà có giá trị bảo hiểm vượt quá khả năng giữ lại đã ấn định và mức tái bảo hiểm chỉ là phần chênh lệch giữa giá trị của rủi ro đó và mức giữ lại của công ty nhượng. Mức tái bảo hiểm được khống chế bằng một số tiền tối đa được hai bên thoả thuận khi tham gia vào hợp đồng tái bảo hiểm. Tuy nhiên, tái bảo hiểm theo dạng mức dôi có nhược điểm như sau: Chi phí hành chính tốn kém. Sử dụng nhiều nhân lực (nhất là đối với các nước không có điều kiện áp dụng máy tính điện tử). Trường hợp tổn thất rơi nhiều vào những rủi ro dưới mức giữ lại có thể làm ảnh hưởng đến kinh doanh của công ty nhượng. Tái bảo hiểm mức dôi thường được áp dụng nhiều nhất đối với các nghiệp vụ bảo hiểm cháy, tai nạn thân thể và nhân thọ, ngoài ra cũng được áp dụng ở các nghiệp vụ khác như: bảo hiểm vận chuyển, trộm cắp, tín dụng... Thứ hai: Tái bảo hiểm số thành (Quota Share). Dạng tái bảo hiểm số thành ít phổ biến hơn dạng tái bảo hiểm mức dôi và thường được dùng nhiều hơn cả là trong các nghiệp vụ bảo hiểm về trách nhiệm dân sự, xe ô tô, mưa đá, giông bão và bảo hiểm vận chuyển. Tái bảo hiểm số thành thường được công ty nhượng sử dụng kết hợp với một dạng tái bảo hiểm vượt mức bồi thường (tức là loại tái bảo hiểm không theo tỷ lệ). Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định người ta cũng có thể kết hợp cả hai dạng tái bảo hiểm tỷ lệ (số thành và mức dôi) để phân tán rủi ro. Trong hợp đồng tái bảo hiểm số thành, các đơn vị rủi ro được đem tái bảo hiểm theo các phần ấn định (fixed share), hay nói cách khác bằng một thoả ước phân ngạch. Nhà tái bảo hiểm và công ty nhượng cùng có nghĩa vụ phải đảm bảo tất cả các rủi ro được bảo hiểm của một nghiệp vụ hay một hạng rủi ro nhất định và nghĩa vụ đó được phân chia giữa các bên theo một tỷ lệ đồng nhất đã được quy định bằng thoả thuận từ trước. Trái với dạng tái bảo hiểm mức dôi, dạng tái bảo hiểm số thành không mang tính chất san bằng đối với các giá trị được bảo hiểm. Nó cung cấp một sự đảm bảo giản đơn và có hiệu quả trong mọi trường hợp, đặc biệt trong trường hợp có sự tích luỹ của một số lớn các vụ bồi thường tổn thất nhỏ hoặc trung bình mà gây ra bởi cùng một sự cố (chẳng hạn, trong nghiệp vụ bảo hiểm về mưa đá hay bảo hiểm giông bão đối với nông nghiệp thường xảy ra trường hợp tổn thất theo kiểu này). Đứng trên quan điểm thống kê và kế toán thì dạng tái bảo hiểm số thành là tái bảo hiểm giản đơn nhất để xử lý. Về cơ bản, dạng tái bảo hiểm này chỉ có một mức (one line), trong đó tỷ lệ mức giữ lại và mức tái bảo hiểm được ấn định bằng một tỷ lệ đều nhau cho mọi rủi ro nằm trong phạm vi hợp đồng tái bảo hiểm. Dạng tái bảo hiểm số thành có những ưu nhược điểm chính như sau: -Ưu điểm: + Là dạng tái bảo hiểm giản đơn, dễ xử lý, chi phí hành chính và cách quản lý đơn giản, ít tốn kém. + Đối với nhà tái bảo hiểm, tái bảo hiểm số thành có tính cân đối và dễ chấp nhận hơn so với dạng tái bảo hiểm mức dôi, có khả năng phân tán rủi ro tốt hơn so với các loại tái bảo hiểm khác. Nhà tái bảo hiểm có điều kiện tham gia vào mọi đơn vị rủi ro mà công ty nhượng nhận tái bảo hiểm; đồng thời công ty nhượng có thể yên tâm nhận mọi rủi ro mà có giá trị nằm trong phạm vi hạn mức khống chế tối đa đã quy ước vì mọi rủi ro này đều được chia sẻ cho nhà tái bảo hiểm cùng hưởng và cùng chịu chung vận may rủi của công ty nhượng. + Thủ tục phí tái bảo hiểm công ty nhượng nhận được là cao nhất, ngoài ra điều kiện về tạm giữ phí tái bảo hiểm (premium reserve) cũng có tỷ lệ cao, nhờ vậy công ty nhượng có điều kiện sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các việc khác. Nhược điểm: + Công ty nhượng phải đem tái bảo hiểm toàn bộ các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc theo một tỷ lệ định trước, kể cả những rủi ro rất nhỏ mà bản thân công ty nhượng đủ khả năng và điều kiện tự giữ lại được. + Mặc dù với dạng tái bảo hiểm số thành, công ty nhượng có thuận lợi hơn so với dạng tái bảo hiểm mức dôi trong việc thực hiện bảo hiểm với khả năng phân tán rủi ro tốt và linh hoạt, nhưng công ty nhượng không chủ động được trong việc khống chế tỷ lệ bồi thường đối với mức giữ lại của mình, đồng thời không có khả năng để giảm hệ số biến thiên của phần tổn thất thuộc mức giữ lại. Thứ ba: Tái bảo hiểm kết hợp số thành- mức dôi. Đây không phải là dạng thứ ba của hình thức tái bảo hiểm theo tỷ lệ mà là sự kết hợp giữa hai dạng tái bảo hiểm tỷ lệ là số thành và mức dôi với nhau. Với những công ty bảo hiểm mới thành lập, việc kết hợp hai dạng tái bảo hiểm tỷ lệ là rất phù hợp và thường được áp dụng. Sở dĩ như vậy là vì các công ty bảo hiểm mới bắt đầu hoạt động kinh doanh, khối lượng dịch vụ mà họ nhận bảo hiểm chưa đủ ổn định để có thể tránh khỏi trường hợp không may có rủi ro lớn xảy ra, đồng thời để đảm bảo cho công ty nhượng có thể hoạt động đứng vững trên thị trường và phục vụ được những nhu cầu khác nhau của khách hàng mua bảo hiểm, công ty nhượng cần thiết phải có tái bảo hiểm theo hình thức mức dôi. Bên cạnh đó, vì mới thành lập nên công ty nhượng thường chưa thể có đủ số tiền dự trữ đảm bảo để đương đầu với những biến thiên về tổn thất theo các chu kỳ khác nhau, do vậy cần phải bảo vệ phần giữ lại gộp của mình bằng một hợp đồng tái bảo hiểm số thành. Thông thường khi áp dụng hai dạng tái bảo hiểm kết hợp này, công ty nhượng đem tái bảo hiểm cho cùng một số nhà tái bảo hiểm, tức là cả hai khoản nhượng này đều cùng được đưa tái bảo hiểm vào một thoả ước chung và được thể hiện ở nhiều dạng khác nhau. Thường thì trong dạng tái bảo hiểm kết hợp, dạng tái bảo hiểm số thành là hợp đồng cơ sở và dạng tái bảo hiểm mức dôi làm hợp đồng bổ sung tự động. Dạng tái bảo hiểm kết hợp có ưu và nhược điểm sau: Ưu điểm: + Công ty nhượng đảm bảo khả năng gia tăng về nhận trách nhiệm bảo hiểm một cách tự động mà không ảnh hưởng đến mức giữ lại của bản thân công ty (tức là không phải tăng mức giữ lại). + Hợp đồng cơ sở (số thành) ổn định hơn và phân tán tái bảo hiểm dễ dàng hơn. Nhược điểm: + Thủ tục và chi phí điều hành phức tạp hơn sử dụng hợp đồng số thành thuần tuý. + Phần đem tái bảo hiểm vào hợp đồng mức dôi cần phải có bảng thông báo tái bảo hiểm. + Thủ tục phí tái bảo hiểm thu được của phần đưa vào hợp đồng mức dôi thấp hơn so với thủ tục phí tái bảo hiểm đưa vào hợp đồng số thành (vì tỷ trọng giữa phí và trách nhiệm thấp). 1.3.2. Tái bảo hiểm theo mức bồi thường (tái bảo hiểm không tỷ lệ). Tái bảo hiểm theo mức bồi thường là một hình thức tái bảo hiểm mà trong đó công ty nhượng ấn định một giới hạn bồi thường bằng một số tiền mà họ có thể tự gánh chịu cho tổn thất là hậu quả của mỗi một sự cố đối với một loại hay các loại bảo hiểm mà mình đảm trách và phần tổn thất vượt quá hạn mức đó được chuyển cho nhà tái bảo hiểm gánh chịu. Tái bảo hiểm theo mức bồi thường có một số đặc điểm sau: Trách nhiệm của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm đối với tổn thất không chia sẻ theo tỷ lệ về phí, trách nhiệm cũng như về bồi thường. Vì thế hình thức tái bảo hiểm này còn được gọi là tái bảo hiểm phi tỷ lệ. Tiêu chuẩn cơ bản để phân định trách nhiệm giữa các bên là số tiền bồi thường tổn thất. Công ty nhượng phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những tổn thất dưới hoặc cho tới mức bằng hạn mức bồi thường tự giữ lại, được gọi là “mức tự bồi thường” (Priority). Nhà tái bảo hiểm chỉ bồi thường cho phần tổn thất chênh lệch của những tổn thất vượt quá mức bồi thường của công ty nhượng cho tới một hạn mức tối đa được thoả thuận trước trong hợp đồng tái bảo hiểm, được gọi là “hạn mức trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm” (Liability limitation of Reinsurance). Từ những tính chất nêu trên có thể thấy hình thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ này có những ưu và nhược điểm chính sau đây: Ưu điểm: Là hình thức tái bảo hiểm chỉ bảo vệ cho trường hợp có tổn thất quá lớn và được bảo vệ 100% mức tổn thất vượt quá “điểm tự bồi thường” (Excess point), nên công ty nhượng có thể khống chế mức bồi thường tối đa của mình bằng một mức tiền ấn định. Về lý thuyết thì sự biến thiên của mức tổn thất thuộc phần tổn thất do công ty nhượng tự bồi thường được tính toán nhỏ hơn mức biến thiên tổn thất của công ty nhượng nếu như áp dụng tái bảo hiểm theo hình thức tái bảo hiểm theo tỷ lệ. Vì nhà tái bảo hiểm không có trách nhiệm bồi thường cho những vụ tổn thất có số tiền bồi thường thấp hơn điểm tự bồi thường của công ty nhượng, nên công ty nhượng có số phí bảo hiểm lớn hơn. Chi phí hành chính ít tốn kém (vì công ty nhượng không phải phân loại từng đơn vị rủi ro bảo hiểm, tính toán mức giữ lại, phí tái bảo hiểm, mức tái bảo hiểm...). Chủ yếu chi phí hành chính cho loại tái bảo hiểm này là: chi phí tính toán số phí tái bảo hiểm ban đầu, điều chỉnh thanh toán phí bổ sung và chi phí thông báo, giải quyết thanh toán bồi thường của nhà tái bảo hiểm khi có tổn thất vượt trên điểm tự bồi thường của công ty nhượng. Nhược điểm: Phương pháp tính phí phức tạp và khó chính xác, đòi hỏi phải có kinh nghiệm và kỹ thuật tính toán cao, đặc biệt đối với dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ trên cơ sở thảm hoạ lớn. Mức tự bồi thường nếu tính quá cao thì có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty nhượng, nhưng nếu tính quá thấp thì chi phí hành chính cuả nhà tái bảo hiểm lại tăng. Không có tác dụng nhiều trong việc hỗ trợ dàn mỏng tài chính của hoạt động kinh doanh của công ty nhượng (công ty nhượng có khó khăn trong việc thanh toán phí tái bảo hiểm vì phí tái bảo hiểm thường phải đóng trước). Phải trả thêm phí tái bảo hiểm trong trường hợp có bồi thường thuộc trách nhiệm hợp đồng tái bảo hiểm và có điều khoản tái lập trách nhiệm bảo vệ (Reinstatement). Tái bảo hiểm theo mức bồi thường có thể chia thành 2 loại cơ bản: tái bảo hiểm vượt mức bồi thường và tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường. 1.3.2.1. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường (Excess of loss). Người nhượng giữ lại mức tự bồi thường bằng một số tiền nhất định; phần vượt quá thuộc về trách nhiệm của người nhận tái. Công ty nhượng bồi thường theo hạn mức giữ lại gọi là “mức tự bồi thường”; nhà tái bảo hiểm bồi thường phần vượt quá gọi là “hạn mức trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm”. Khi yêu cầu cần bảo vệ có hạn mức trách nhiệm quá cao thì số tiền bảo hiểm có thể chia thành nhiều “lớp” (layers) đảm bảo khác nhau. Trong trường hợp như vậy, mức cao nhất (trần) của lớp thứ nhất sẽ là mức thấp nhất (sàn) của lớp thứ hai và “trần” của lớp thứ hai sẽ là “sàn” của lớp thứ ba... Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường có các dạng: Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ không hạn mức; Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường có hạn mức từng sự cố; Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo tai hoạ khốc liệt. Các dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ nói trên đều được áp dụng trên một hoặc kết hợp cả hai cơ sở sau: Cơ sở theo từng đơn vị rủi ro (per risk). Cơ sở theo sự cố. Cụ thể từng dạng như sau: Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ không hạn mức Là loại tái bảo hiểm áp dụng cho từng đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc và không hạn chế tổng số tiền bồi thường trong trường hợp có nhiều tổn thất xảy ra từ một sự cố. Hay nói cách khác, nhà tái bảo hiểm bồi thường không hạn định số vụ và tổng số tiền của các vụ tổn thất xảy ra dù là một tổn thất riêng biệt hay là một sự cố tổng hợp. Mục đích của việc thu xếp tái bảo hiểm theo dạng này là để giảm bớt hay thay thế cho các dạng tái bảo hiểm theo tỷ lệ thông thường. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường có hạn mức từng sự cố Là loại tái bảo hiểm bổ sung cho loại trên, trong đó mức bồi thường của nhàtái bảo hiểm ngoài việc phải chịu trách nhiệm đối với những tổn thất tính riêng từng đơn vị rủi ro vượt quá điểm vượt mức bồi thường (excess point), nó còn được khống chế ở một mức tối đa ấn định trong trường hợp nhiều rủi ro xảy ra cùng một sự cố có tổng số tiền bồi thường quá lớn. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo tai hoạ khốc liệt (Catastrophe Excess of Loss) Là dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ đảm bảo cho công ty nhượng tránh được những trường hợp tổn thất quá mức bình thường đối với những sự cố nằm ngoài khả năng kiểm soát bảo hiểm thông thường. Mục đích là bảo vệ đối với sự tích tụ hay kết gộp nhiều tổn thất xảy ra cùng một sự cố hay một sự việc có tính chất thật quan trọng hay khốc liệt. 1.3.2.2 Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường (stop loss or loss ratio) Là dạng tái bảo hiểm mà nhà tái bảo hiểm chỉ có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp khi kết quả toàn bộ nghiệp vụ của công ty nhượng có một tỷ lệ bồi thường vượt quá một tỷ lệ hoặc một mức tiền ấn định trước. Điểm vượt mức mà trên mức đó nhà tái bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường phải được quy định sao cho công ty nhượng không thể kiếm lời về phần họ chịu trách nhiệm. Hay nói cách khác, tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường nhằm mục đích bảo vệ cho công ty nhượng chống lại một sự gia tăng đột biến của tỷ lệ bồi thường trong một ngành bảo hiểm hay một dạng dịch vụ bảo hiểm nhất định nào đó trong một khoảng thời gian quy định, bất luận tình trạng đó do nguyên nhân nào gây ra. Khoảng thời gian này thường là năm kế hoạch (năm tài chính) và tỷ lệ bồi thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm giữa tổn thất phải bồi thường và số phí đã thu hoặc đã được hưởng của năm tài chính, hoặc cũng có thể biểu thị bằng một mức tiền ấn định. Trong một số trường hợp, giới hạn trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm sẽ quy định vừa bằng số tương đối (tỷ lệ %), vừa bằng số tuyệt đối (số tiền) và giới hạn đó sẽ ứng dụng với số nào có kết quả nhỏ hơn. 1.3.2.3 Tái bảo hiểm kết hợp mức dôi và vượt mức bồi thường. Thực hiện hình thức này việc phân chia trách nhiệm được tiến hành trước hết cho hợp đồng mức dôi; nhưng khi tổn thất xảy ra, công ty nhận tái bảo hiểm vượt mức bồi thường sẽ bảo vệ cho công ty nhượng hoặc công ty nhận tái bảo hiểm mức dôi. 1.4. Hợp đồng tái bảo hiểm 1.4.1. Định nghĩa Hợp đồng tái bảo hiểm là một thoả ước được ký kết giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm; trong đó nhà tái bảo hiểm cam kết bồi thường cho công ty nhượng phần trách nhiệm mà công ty nhượng phải gánh chịu trong hợp đồng bảo hiểm của mình. Từ định nghĩa này, ta thấy hợp đồng tái bảo hiểm có ba đặc trưng: Nhà tái bảo hiểm cam kết bồi thường cho công ty nhượng – người ký hợp đồng chuyển nhượng tái bảo hiểm; Tái bảo hiểm có thể bồi thường toàn bộ hoặc một phần đối với những trách nhiệm mà công ty nhượng phải gánh chịu theo hợp đồng tái bảo hiểm. Hợp đồng tái bảo hiểm là hợp đồng riêng biệt giữa nhà tái bảo hiểm với công ty nhượng, còn người được bảo hiểm không tham gia vào hợp đồng tái bảo hiểm. 1.4.2. Những điều khoản cơ bản trong hợp đồng tái bảo hiểm. 1.4.2.1. Hoa hồng tái bảo hiểm – Thủ tục phí (Commission) - Thủ tục phí tái bảo hiểm là một khoản tiền mà nhà tái bảo hiểm trả cho công ty nhượng khi nhà tái bảo hiểm tham gia nhận hợp đồng tái bảo hiểm của công ty nhượng. Số tiền này được biểu thị bằng một tỷ lệ phần trăm của số phí đem tái bảo hiểm. Thủ tục phí tái bảo hiểm hoàn toàn khác với môi giới phí, là số tiền nhà tái bảo hiểm trả riêng cho Người môi giới khi dịch vụ bảo hiểm được đem tái bảo hiểm gián tiếp qua môi giới. Thông thường trong các dạng tái bảo hiểm, thủ tục phí cho áp dụng đối với dạng tái bảo hiểm theo tỷ lệ. Sở dĩ nhà tái bảo hiểm cần thiết phải trả cho công ty nhượng một khoản thủ tục phí là để giúp công ty nhượng trang trải các chi phí dịch vụ khi tiến hành các hợp đồng bảo hiểm gốc. Kết quả thực tế về tổn thất có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả tài chính của công ty nhượng. Nếu kết quả thực tế xấu hơn dự kiến kế hoạch thì công ty nhượng vẫn có thể có “lãi” do thủ tục tái bảo hiểm trong khi kết quả của nhà tái bảo hiểm bị thua lỗ. Ngược lại, nếu kết quả thực tế quá tốt so với kế hoạch thì nhà tái bảo hiểm lại được hưởng số lãi quá lớn. Thủ tục phí tái bảo hiểm thường được chia thành ba loại chính như sau: Thứ nhất: Thủ tục phí cố định (Fixed Rate) Là một khoản tiền nhà tái bảo hiểm trả cho công ty nhượng được biểu thị bằng một tỷ lệ phần trăm cố định của số phí tái bảo hiểm. Thứ hai: Thủ tục phí theo thang luỹ tiến (Sliding Scale Commission) Để tránh sự ảnh hưởng của kết quả bồi thường đối với thủ tục phí tái bảo hiểm theo hình thức cố định, người ta có thể thoả thuận về thủ tục phí được điều chỉnh tăng giảm theo nấc thang. Cơ sở để tính thủ tục phí theo thang luỹ tiến là lấy mức thủ tục phí cố định làm chuẩn từ đó quy định mức tăng giảm theo tỷ lệ của bồi thường. Thang luỹ tiến được khống chế ở mức tối đa và mức tối thiểu. Như vậy kết quả bồi thường càng thấp bao nhiêu thì tỷ lệ thủ tục phí tái bảo hiểm lại tăng lên bấy nhiêu và ngược lại. Tỷ lệ bồi thường Tỷ lệ thủ tục phí 75% 20% 73% 21% 71% 22% 69% 23% 67% 24% 63% 25% 61% 26% 59% 27% 57% 28% 55% và dưới 29% Với thang luỹ tiến này, số tiền thủ tục phí tái bảo hiểm ít nhất sẽ là 20% và hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả nghiệp vụ. Vào cuối kỳ quy định theo thoả thuận, thủ tục phí tái bảo hiểm sẽ được tính lại và điều chỉnh theo tỷ lệ của thang luỹ tiến trên cơ sở của tỷ lệ bồi thường của năm nghiệp vụ. Tỷ lệ bồi thường này được tính theo công thức sau: Trong đó: Tổn thất phải trả = Tổn thất cộng chi phí liên quan mà nhà tái bảo hiểm phải trả trong năm kế hoạch (cộng thêm lỗ lãi của năm trước mang sang (nếu có)) (+) Khoản dự phòng cho những tổn thất chưa giải quyết tính ở cuối năm kế hoạch (dư cuối kỳ) (-) Khoản dự phòng cho những tổn thất chưa giải quyết tính ở đầu năm kế hoạch (dư đầu kỳ) Phí thực thu = Số phí thu trong năm kế hoạch (+) Phí dự trữ cho những rủi ro còn phải đảm bảo tính ở thời điểm đầu năm kế hoạch (dư đầu kỳ) (-) Phí dự trữ cho những rủi ro còn phải đảm bảo tính ở thời điểm cuối năm kế hoạch (dư cuối kỳ). Thứ ba: Thủ tục phí theo lãi (Profit Commission) Mục đích của phương pháp này là thu lại một phần lãi cho công ty nhượng Trong trường hợp kết quả kinh doanh thực tế tốt hơn nhiều so với tỷ lệ bồi thường trung bình dự kiến. Theo phương pháp này, nhà tái bảo hiểm sẽ phải trả thêm cho công ty nhượng một khoản lợi nhuận nhất định (được tính bằng tỷ lệ % của lợi nhuận thực tế mà nhà tái bảo hiểm hưởng khi kết quả hợp đồng tái bảo hiểm có lãi). 1.4.2.2. Phí tạm giữ và bồi thường tạm giữ (Premium reserve and Loss reserve) Phí tạm giữ. Đây là điều kiện thường được đặt ra theo quy định của luật lệ sở tại của công ty nhượng được coi là một sự bảo lãnh cho nhà tái bảo hiểm hoàn thành trách nhiệm của họ theo hợp đồng. Phí tạm giữ còn là một khoản dự phòng riêng giúp cho công ty nhượng có thuận lợi trong việc giải quyết bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm gốc trước khi quyết toán đòi bồi thường của nhà tái bảo hiểm, bởi vì việc thanh toán tái bảo hiểm thường được lập theo một thời điểm nhất định (theo tháng, quý hay nửa năm). Ngoài ra, đối với một số nước, việc tạm giữ lại một khoản phí tái bảo hiểm của nhà tái bảo hiểm là một điều kiện quan trọng trong việc thực hiện thanh toán cân đối của những dịch vụ tái bảo hiểm chuyển ra nước ngoài và cũng là mối quan hệ giữa sự bảo lãnh của nhà tái bảo hiểm và khả năng thanh toán của công ty nhượng. Thông thường, trong thực tế khoản dự phòng này được tính bằng một tỷ lệ phần trăm cố định của phí tái bảo hiểm toàn phần (gross) (khoảng từ 35% đến 40%). Phí tạm giữ của năm nghiệp vụ bảo hiểm này sẽ được hoàn trả lại cho nhà tái bảo hiểm vào thời điểm tương ứng của năm kế tiếp và được tính thêm một khoản lãi xuất nhất định (từ 3% đến 5%). Trong trường hợp nếu nhà tái bảo hiểm rút lui không tiếp tục tham gia tái bảo hiểm cho hợp đồng năm tiếp theo nữa, trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm sẽ được giải quyết theo một trong hai cách sau: + Hoặc tiếp tục chịu trách nhiệm đối với những rủi ro còn hiệu lực cho tới khi chấm dứt toàn bộ những rủi ro được bảo hiểm trong năm nghiệp vụ bảo hiểm đó (Run- off). + Hoặc thoả thuận chuyển giao toàn bộ trách nhiệm còn tồn tại sang cho nhà tái bảo hiểm mới tham gia cho năm tới (Cut- off). Bồi thường tạm giữ (hay còn gọi là dự phòng tổn thất) Là khoản tiền mà công ty nhượng tính toán trên cơ sở những vụ tổn thất đã xảy ra nhưng chưa được giải quyết trong năm. Khoản này công ty nhượng sẽ giữ lại không thanh toán cho nhà tái bảo hiểm vào thời điểm quyết toán của năm tài chính mà dùng để thanh toán cho các vụ tổn thất đó trong kỳ thanh toán kế tiếp. Thông thường mức tạm giữ bồi thường là 100% tổng số tiền ước tính. Khoản này sẽ được hoàn trả cho nhà tái bảo hiểm vào kỳ tương ứng của năm kế tiếp. Điều khoản ứng dụng về bồi thường tạm giữ cũng tương tự như điều khoản về phí tạm giữ, bao gồm những điểm chính sau: + Khoản tạm giữ này là tiền mặt hoặc bằng chứng khoán có giá trị ngang tiền mặt. + Lãi xuất do công ty nhượng thoả thuận. + Khoản bồi thường phải thanh toán ngay (cash loss) thường không được đối trừ trong khoản bồi thường tạm giữ này, nhưng trong trường hợp thanh toán tái bảo hiểm thực hiện theo quý, công ty nhượng có thể thoả thuận đồng ý đối trừ các khoản bồi thường phải thanh toán ngay trong bản quyết toán theo quý. 2. Hoạt động tái bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng lắp đặt Như phần trên đã trình bày, bảo hiểm ra đời là một tất yếu khách quan đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển kinh tế. Song song với nó, tái bảo hiểm ra đời và phát triển không ngừng. Thông qua những phương pháp và hình thức đặc thù của mình, tái bảo hiểm với tư cách là “nhà bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm” đã thúc đẩy sự phát triển của ngành kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm trên phạm vi quốc tế. Trong hoạt động xây dựng lắp đặt, tái bảo hiểm đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đó là vì đối tượng bảo hiểm trong xây dựng lắp đặt thường có giá trị lớn trong khi khả năng tài chính của công ty bảo hiểm có hạn. Giá trị bảo hiểm đối với các công trình xây dựng lắp đặt có thể lên tới hàng chục triệu, hàng trăm triệu USD và thậm chí hàng tỷ USSD. Lẽ dĩ nhiên là không một công ty bảo hiểm nào mạo hiểm chấp nhận bảo hiểm và giữ lại toàn bộ giá trị bảo hiểm lớn như vậy. Nếu tổn thất xảy ra gây thiệt hại lớn về tài chính, công ty bảo hiểm sẽ gặp khó khăn trong việc bồi thường, thậm chí có thể dẫn đến phá sản. Vì thế, một giải pháp hữu hiệu được các công ty bảo hiểm sử dụng vừa có tác dụng bảo đảm an toàn trong sản xuất mà vẫn đảm bảo có lãi đó là tái bảo hiểm. Công ty nhận tái bảo hiểm sẽ đứng ra đảm nhận một phần trách nhiệm bảo hiểm cho công ty bảo hiểm. Nhờ vậy công ty bảo hiểm có thể chấp nhận bảo hiểm cho những công trình có giá trị lớn, rất lớn. Qua đó, một mặt công ty nhận tái đã giúp cho công ty bảo hiểm tăng khả năng ký kết bảo hiểm từ đó góp phần tăng lợi nhuận; mặt khác, tái bảo hiểm đã giúp cho cán cân thu chi của công ty bảo hiểm cân bằng, tình hình kinh doanh ổn định, không có những thay đổi bất thường, đảm bảo khả năng thanh toán của công ty luôn ở mức giới hạn cho phép. Ngay trong trường hợp có tiềm lực về tài chính rất mạnh, các công ty bảo hiểm vẫn thực hiện việc chuyển giao rủi ro tuân theo nguyên tắc phân tán rủi ro. Họ chỉ giữ lại mức hợp lý phù hợp với khả năng tài chính của công ty và phù hợp với loại hình nghiệp vụ bảo hiểm đó, cụ thể ở đây là xây dựng lắp đặt. Như đã biết, rủi ro trong ngành công nghiệp này có đặc tính nguy hiểm, dễ phát sinh hiện tượng tập trung, tích tụ rủi ro có khả năng gây ra những tổn thất lớn bất ngờ. Hơn nữa, lĩnh vực xây dựng lắp đặt đòi hỏi phải có hình thức bảo hiểm cho loại trách nhiệm dân sự khá nguy hiểm để đảm bảo ổn định của nhà đầu tư. Vì thế việc dàn mỏng rủi ro là hết sức cần thiết. Ngược lại, để bù đắp phần nhượng đi, các công ty bảo hiểm có thể nhận việc chia sẻ rủi ro từ các công ty bảo hiểm khác theo một tỷ lệ hợp lý. Ngoài ra, có thể do không có kinh nghiệm, thiếu khả năng chuyên môn trong khai thác loại hình bảo hiểm xây dựng lắp đặt nên công ty bảo hiểm tiến hành tái bảo hiểm. Bằng cách này công ty bảo hiểm có thể nhận được sự tư vấn của công ty nhận tái bảo hiểm về chuyên môn, về mức phí bảo hiểm. Từ đó, công ty bảo hiểm có thể tránh được tình trạng phí bảo hiểm thu không đủ để bù đắp cho chi phí khai thác, chi phí quản lý và bồi thường. Từ những phân tích ở trên, có thể thấy rằng cũng như tái bảo hiểm nói chung, tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt là cần thiết. ở đây, công ty bảo hiểm nhượng một phần hợp đồng vì họ có lợi, dàn mỏng được rủi ro, thu xếp tái bảo hiểm giúp họ có thể cung cấp những đơn bảo hiểm vượt mức giữ lại của họ. Nhà tái bảo hiểm nhận tái vì họ cũng thu được lợi ích, từ những hợp đồng được ký kết, họ sẽ thu được khoản phí nhận tái bổ sung cho nguồn tài chính của mình. Giống như tái bảo hiểm nói chung, tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt cũng áp dụng các phương pháp và hình thức như đã trình bày ở phần trên. Tuy nhiên, do những đặc thù của loại hình xây dựng lắp đặt mà nhà tái bảo hiểm cân nhắc, áp dụng kỹ thuật tái bảo hiểm cho phù hợp nhằm đạt được kết quả cao nhất. Chương 2 Tình hình thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại VINARE. I. Vài nét về Tổng Công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam. 1. Sự ra đời và phát triển của Vinare Bảo hiểm thương mại là một ngành mới ở Việt Nam. Vào những năm 30 của thế kỷ trước, các đại lý bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm Pháp đã ký được những hợp đồng bảo hiểm đầu tiên ở nước ta, nhưng dưới thời Pháp thuộc không có một công ty bảo hiểm nào được thành lập. Ngày 15/01/1965, Công ty bảo hiểm Việt Nam được thành lập theo quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964 của Thủ tướng chính phủ. Tuy nhiên trong suốt một thời gian dài 1965-1975, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống xâm lược, hoạt động bảo hiểm ._.yết tranh chấp, kiện tụng, cung cấp thông tin mới, đào tạo bồi dưỡng cán bộ chuyên môn. - Thay mặt các doanh nghiệp bảo hiểm thành viên kiến nghị hoặc đề xuất lên các cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm những vấn đề liên quan đến chính sách, chế độ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. - Tham gia đóng góp ý kiến với cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm trong việc nghiên cứu, xây dựng định hướng chiến lược phát triển và quản lý ngành bảo hiểm. Trên thế giới, ở những nước có thị trường bảo hiểm phát triển, các Hiệp hội bảo hiểm được thành lập rất sớm và đóng góp tích cực vào sự phát triển của ngành này. Tại nước ta, Hiệp hội bảo hiểm ra đời tương đối muộn (năm 2001), tuy nhiên bước đầu đã có vai trò quan trọng giúp cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc giám sát hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, kết nối mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với cơ quan quản lý, giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và giữa doanh nghiệp với người tham gia bảo hiểm, nhằm duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm. Để có thể tiếp tục phát huy những thành tích đạt được ở trên, có thể có một số giải pháp sau cho Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam trong thời gian tới: - Mở rộng phạm vi hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm về đào tạo, trao đổi thông tin, hợp tác kinh doanh, đánh giá rủi ro, tính phí bảo hiểm, đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm, đề phòng hạn chế tổn thất. - Xem xét, sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia Hiệp hội, gắn quyền lợi và trách nhiệm của các doanh nghiệp bảo hiểm với Hiệp hội. - Củng cố tổ chức bộ máy lãnh đạo và các ban chuyên trách của Hiệp hội. Phải đảm bảo những người lãnh đạo Hiệp hội có đầy đủ năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm, có tinh thần trách nhiệm và đạo đức. Có cơ chế xứng đáng về tiền lương, tiền thưởng cho các cán bộ của Hiệp hội tạo động lực, khuyến khích họ lao động, cống hiến cho ngành bảo hiểm. - Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Hiệp hội và các cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm để kiểm tra, giám sát thường xuyên việc tuân thủ pháp luật của Nhà nước và điều lệ Hiệp hội nhằm điều chỉnh kịp thời những hành vi sai phạm. 3.5 Tăng cường vốn cho Vinare Đối với bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng vậy, vốn luôn là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm yếu tố này càng quan trọng hơn bao giờ hết bởi nó quyết định khả năng nhận, mức giữ lại..., và tạo lòng tin đối với khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay, có thể thấy một thực tế là khả năng tài chính của Vinare vẫn còn hạn chế. Trong những năm qua, Vinare đã cố gắng đến mức tối đa để giữ lại phí bảo hiểm cho thị trường trong nước. Nếu như năm 1995 trong nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt, tỷ trọng phí nhượng ra nước ngoài là 73% thì đến năm 2002 chỉ còn 54,7% và sang năm 2003 giảm xuống còn 47%. Có thể nói, đây là nỗ lực rất lớn của Vinare. Tuy nhiên, phần chuyển ra nước ngoài như vậy vẫn còn rất lớn chủ yếu là do bị hạn chế về vốn. Hiện nay, Vinare vừa tiến hành xong cổ phần hoá theo chỉ thị của Bộ tài chính, vốn điều lệ tăng lên rất đáng kể (500 tỷ đồng). Vì vậy, để tăng thêm vốn Vinare có thể niêm yết cổ phần trên thị trường chứng khoán, phát hành thêm cổ phiếu hoặc các hình thức khác theo pháp luật quy định để huy động vốn, đáp ứng được yêu cầu về vốn trong bối cảnh hiện nay. Bên cạnh đó, để có thể tăng vốn cho mình Vinare có thể kiến nghị lên Nhà nước bỏ thuế vốn và miễn thuế thu nhập cho Tổng công ty trong vòng từ 7- 10 năm. Ngoài việc bỏ thuế vốn thì Nhà nước có thể tạm thời miễn thuế thu nhập cho Vinare. Vinare là một tổ chức kinh doanh nhưng cũng có vai trò điều tiết thị trường bảo hiểm Việt Nam. Để tăng cường năng lực cho Vinare thì Nhà nước nên miễn thuế trong khoảng thời gian nhất định (khoảng 10 năm). Nhìn lại 10 năm hoạt động kinh doanh của Vinare từ khi thành lập cho đến nay ta thấy Tổng công ty đã nộp Ngân sách Nhà nước 54,8 tỷ đồng tức là bình quân Vinare đóng góp vào Ngân sách hơn 5 tỷ đồng. Như vậy, nếu được miễn thuế trong vòng 10 năm thì Vinare sẽ được bổ sung khoảng hơn 50 tỷ đồng. Số vốn bổ sung đó cộng với cố gắng tăng cường các quỹ dự phòng kỹ thuật, quỹ phát triển kinh doanh, Tổng công ty sẽ tăng cường đáng kể tiềm lực tài chính của mình. IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Vinare. 1. Tiến hành nghiên cứu thị trường,đưa ra chiến lược khai thác có hiệu quả. Thông tin về thị trường và chiến lược khai thác sản phẩm đối với bất cứ một doanh nghiệp cũng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó có tác dụng định hướng, chỉ đạo và đưa ra những giải pháp đúng đắn nhằm thu hút khách hàng. Vì vậy, Vinare cần thiết phải lập một bộ phận chuyên trách về vấn đề này. Bộ phận chuyên trách này có nhiệm vụ nghiên cứu diễn biến trên thị trường, những kết quả cũng như tồn tại cần giải quyết, tổng hợp những số liệu tổng thể trên thị trường. Dựa trên số liệu này, Vinare cần xây dựng cho mình một chiến lược cụ thể để đẩy mạnh khai thác tái bảo hiểm. Tiềm năng bảo hiểm xây dựng là rất lớn nhưng hiện nay kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Nguyên nhân khách quan là do nhận thức của nhân dân về bảo hiểm xây dựng lắp đặt còn thấp. Vì thế, Vinare cần phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm gốc đẩy mạnh công tác quảng cáo, truyền bá thông tin về bảo hiểm, tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Từ đó, giúp khách hàng tiếp cận với bảo hiểm xây dựng lắp đặt, đồng thời cũng nâng khả năng khai thác kinh doanh về nghiệp vụ này của Tổng công ty. 2. Điều chỉnh tỷ lệ hoa hồng trong tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Như đã trình bày ở phần trước, phương pháp tái bảo hiểm được sử dụng trong tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt là phương pháp tỷ lệ. Trong tái bảo hiểm tỷ lệ, giá mà người nhận tái phải trả để nhận được dịch vụ chính là hoa hồng phí. Tỷ lệ hoa hồng trong nước do Vinare trả và tỷ lệ hoa hồng do các công ty nước ngoài trả chênh nhau ít nhất là 5%. Do sự chênh lệch đáng kể về tỷ lệ hoa hồng đó mà đa phần các công ty bảo hiểm gốc không muốn nhượng cho Vinare ngoài phần bắt buộc. Cho nên, để có thể giành được khách hàng với các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm nước ngoài thì một tỷ lệ hoa hồng cạnh tranh là điều nhất thiết phải tính đến. Tăng tỷ lệ hoa hồng, thậm chí có thể ngang bằng với tỷ lệ các công ty nước ngoài trả. Mặc dù tỷ lệ hoa hồng nhận tái trong lĩnh vực nhận tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt của Vinare hiện nay là 26%, khá cao so với các loại hình khác. Tuy nhiên, Vinare cần cố gắng nâng tỷ lệ hoa hồng, hạn chế sự chênh lệch so với tỷ lệ hoa hồng của các công ty nước ngoài. Đây là việc làm tất yếu nếu muốn giành được thêm dịch vụ tự nguyện. Bổ sung điều khoản hoa hồng theo lãi vào các hợp đồng nhận tái. Các công ty bảo hiểm gốc khi nhượng cho các công ty bảo hiểm nước ngoài thì ngoài phần hoa hồng cố định thông thường còn nhận thêm hoa hồng theo lãi với tỷ lệ 15- 17% lãi của hợp đồng tái bảo hiểm. Trong khi đó, các hợp đồng tái bảo hiểm cố định của Vinare chỉ có hoa hồng tái bảo hiểm thông thường. Điều này làm giảm tính hấp dẫn của Vinare. Vì vậy, cùng với việc tăng tỷ lệ hoa hồng tái bảo hiểm, việc đưa ra điều khoản hoa hồng theo lãi trong các hợp đồng tái bảo hiểm là rất cần thiết. Một hợp đồng tái bảo hiểm với tỷ lệ hoa hồng cao cộng với khoản tiền lãi hợp lý cùng với những lợi thế vốn có của Vinare chắc chắn sẽ giúp Tổng công ty nhận được nhiều dịch vụ tự nguyện hơn từ các công ty trong nước. Và như thế, mặc dù phải trả một số tiền khá lớn do giải pháp này nhưng xem xét chắc chắn rằng số lượng dịch vụ tăng lên sẽ bù đắp được những chi phí này, đem lại cho Tổng công ty một khoản lợi nhuận cao hơn. Xác định mức giữ lại hợp lý. Mức giữ lại trước khi tái đi phần trách nhiệm đã cam kết với khách hàng là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của Vinare. Nếu mức giữ lại quá thấp, Tổng công ty sẽ khó tích luỹ tài chính vì một phần lớn lợi nhuận mất đi. Ngược lại, nếu mức giữ lại quá lớn vượt quá khả năng tài chính, nguy cơ rơi vào tình trạng “thiếu hụt” về khả năng thanh toán hoặc nghiêm trọng hơn là bị phá sản khó có thể tránh khỏi. Đối với tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt, hiện nay, cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm khác, Vinare tính toán mức giữ lại chủ yếu dựa trên số liệu thống kê của nhiều năm triển khai nghiệp vụ này kết hợp với bảng phân loại rủi ro. Tuy nhiên, do trình độ chuyên môn hạn chế cùng với số liệu thống kê nghèo nàn, chưa chính xác nên có thể nói mức giữ lại chưa hoàn toàn hợp lý. Hiện nay Vinare mới chỉ tính toán mức giữ lại chung của toàn bộ nghiệp vụ trong một năm hoạt động, còn việc xác định mức giữ lại cụ thể cho từng loại hình nghiệp vụ vẫn tuân theo bảng thang giữ lại do Công ty tái bảo hiểm Đức Munich Re đưa ra. Bảng thang giữ này lại được đưa ra trên cơ sở số liệu thống kê trên thế giới nhiều năm nay. Tuy nhiên, trong hoạt động xây dựng lắp đặt, rủi ro ở Việt Nam có những đặc thù riêng, nếu áp dụng một thang giữ lại chung như vậy sẽ không thể chính xác. Theo thống kê hàng năm, rủi ro lũ lụt là một rủi ro gây ra nhiều tổn thất đối với loại hình bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Nhưng rủi ro lắp đặt nếu phân chia theo khu vực cũng rất khác nhau do mỗi vùng có một đặc trưng khí hậu riêng. Rủi ro lũ lụt ở miền Bắc luôn thấp hơn ở miền Nam và miền Trung. Vì vậy, việc đánh giá lũ lụt đối với từng vùng là rất phức tạp. Mật độ rủi ro bảo hiểm khác nhau theo các tỉnh. Các công trình xây dựng chủ yếu tập trung vào một số tỉnh thành phố có tiềm năng phát triển lớn. Rủi ro trong xây dựng lắp đặt khác biệt với các rủi ro khác ở chỗ nó có thể xảy ra tại một phạm vi địa lý rất hẹp như nhà cửa nhưng có khi lại trải dài trên một phạm vi địa lý rộng như  đường sá. Sự khác nhau về giới hạn địa lý làm cho cường độ và tính chất rủi ro rất khác nhau. Với những lý do cụ thể trên, vấn đề cấp thiết đặt ra đối với Vinare là nên tính toán lại mức giữ lại cho cụ thể hơn, phù hợp hơn với thực tế ở Việt Nam. Đối với những loại công trình xây dựng lắp đặt chưa có số liệu thống kê về tổn thất, áp dụng mức giữ lại do các công ty tái bảo hiểm lớn trên thế giới đưa ra trên cơ sở nghiên cứu cụ thể tình hình Việt Nam. Đối với những công trình đã có số liệu tổn thất nhiều năm cần tính toán mức giữ lại theo tỷ lệ tổn thất của từng vùng. Với những công trình xây dựng có phạm vi dàn trải lớn cần tính toán kỹ cho từng khu vực cụ thể. Để có thể thực hiện được điều đó, việc thu thập số liệu thống kê một cách chi tiết và chính xác về tình hình tổn thất tại từng vùng là hết sức cần thiết và cần được chú trọng. Chỉ có trên cơ sở đó, Vinare mới có thể xây dựng được một chương trình bảo hiểm với mức giữ lại thật hợp lý, cụ thể cho từng khu vực. 4. Chú trọng chính sách giữ khách hàng. Khách hàng của doanh nghiệp tái bảo hiểm là tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm gốc, tái bảo hiểm có quan hệ giao kết hợp đồng tái bảo hiểm với doanh nghiệp này. Số lượng dịch vụ hay nói cách khác hoạt động của doanh nghiệp tái bảo hiểm phụ thuộc rất lớn vào sự thành công hay thất bại của các khách hàng này. Khách hàng trong tái bảo hiểm có thể phân thành hai loại: đó là khách hàng truyền thống và khách hàng tiềm năng. Khách hàng truyền thống là khách hàng đã và đang có quan hệ hợp đồng với doanh nghiệp. Khách hàng tiềm năng là khách hàng sẽ có quan hệ giao kết hợp đồng tái bảo hiểm trong tương lai. Với bất kỳ một doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm nào cũng vậy, muốn duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của mình vấn đề trước mắt là phải bảo vệ được thị trường hiện có song song với thu hút khách hàng mới. Vinare cũng không nằm ngoài quy luật ấy, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi công ty đã mất đi một phần đáng kể phí tái bảo hiểm tự nguyện của các công ty trong nước do họ không tiếp tục duy trì hợp đồng. Có thể dễ dàng thấy được lợi ích của việc giữ một khách hàng cũ so với khách hàng mới ở các điểm sau: Tiết kiệm được chi phí: để có một khách hàng mới công ty phải bỏ ra rất nhiều chi phí nhất là những chi phí ban đầu như chi phí quảng cáo, khuếch trương công ty, sản phẩm, chi phí thương mại và một phần lớn chi phí quản lý gắn với việc lập một khách hàng mới... Nếu những khách hàng này tiếp tục tái tục hợp đồng, tất nhiên sẽ tiết kiệm được những chi phí này, đặc biệt chi phí in ấn, quản lý hợp đồng bảo hiểm giảm đi một lượng đáng kể. Tăng mức nhượng tái của khách hàng: từ những quan hệ chặt chẽ được thiết lập qua quan hệ nhượng tái bảo hiểm, niềm tin, mức độ tín nhiệm của khách hàng đối với công ty sẽ tăng lên. Và chắc chắn cùng với sự tiến triển của nghiệp vụ bảo hiểm gốc, nhu cầu kí kết các hợp đồng mới, tăng phần tái bảo hiểm tự nguyện sẽ tăng lên. Nắm bắt được các kết quả kỹ thuật: thông thường đối với một khách hàng cũ việc xác định những thông số kỹ thuật liên quan đến đối tượng tái bảo hiểm bao giờ cũng dễ dàng, thuận tiện hơn so với những khách hàng mới, ví dụ như thông tin về phí gốc thu được, tỷ lệ tổn thất,... từ đó giúp công ty dễ dàng hơn trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý. - Lôi kéo khách hàng mới: việc giữ khách hàng cũ không những làm ổn định và tăng doanh số phí nhận mà còn có tác dụng mang lại cho công ty những khách hàng mới, nhất là những công ty bảo hiểm gốc mới ra đời mà khách hàng cũ là một cổ đông hoặc có phần có vốn góp lớn. Vì thế, Tổng công ty nên đặc biệt quan tâm đến khía cạnh khai thác khách hàng qua mối liên hệ này, tận dụng những khách hàng cũ như là một kênh truyền thông, một phương pháp khai thác dịch vụ hiệu quả nhưng ít tốn kém nhất. Để giữ được khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới Vinare cần chú ý đến những điểm sau đây: - Chính sách giá: ở đây, trong tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt chính là chính sách chi trả hoa hồng. Như đã trình bày ở trên, một tỷ lệ hoa hồng cạnh tranh cùng với tỷ lệ lãi hợp lý là một công cụ cạnh tranh rất hiệu quả, tăng tính hấp dẫn đối với khách hàng. Vì thế, trong tương lai công ty nên từng bước tăng tỷ lệ hoa hồng một cách hợp lý, thậm chí có lên mức ngang bằng với các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm nước ngoài. - Chính sách dịch vụ: trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt và do đặc thù của sản phẩm bảo hiểm, nên trong lĩnh vực kinh doanh này vấn đề tổ chức dịch vụ khách hàng, giữ khách hàng luôn được coi trọng. Để nâng cao chất lượng dịch vụ tái bảo hiểm cung cấp cho khách hàng trong bảo hiểm xây dựng lắp đặt cần chú ý đến đến những khía cạnh sau: + Luôn chủ động tiếp xúc với các công ty tái bảo hiểm gốc khi các hợp đồng tái bảo hiểm sắp kết thúc để thảo luận, đàm phán về việc thực hiện hợp đồng, sửa đổi, bổ sung các điều kiện, điều khoản của hợp đồng cho phù hợp với sự thay đổi của thị trường và các yếu tố liên quan nhằm đảm bảo lợi ích của hai bên. + Phân tích, tư vấn cho công ty bảo hiểm gốc trong công tác khai thác dịch vụ, quản lý rủi ro. Như đã trình bày ở trên, các dịch vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt rất phức tạp đặc biệt là trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển ngày nay. Vì thế, công tác khai thác dịch vụ cũng khó khăn không kém. Nó đòi hỏi các chuyên gia có trình độ cao, nghiệp vụ vững vàng. Tuy nhiên, do chuyên môn và kinh nghiệm còn hạn chế các công ty bảo hiểm trong nước nên công tác khai thác dịch vụ còn rất nhiều bất cập. Vì thế, Vinare cần có kế hoạch cử cán bộ nghiệp vụ của mình giúp đỡ các công ty này đặc biệt trong công tác điều tra, thu thập thông tin, đánh giá rủi ro ban đầu đối tượng được bảo hiểm. Sau khi đã ký kết được hợp đồng, vấn đề quan trọng đặt ra đối với các công ty bảo hiểm gốc là công tác quản lý rủi ro. Việc làm này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro, tổn thất không chỉ đối với bản thân các công ty mà cả Vinare. Với ưu thế là một doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ tái bảo hiểm kỹ thuật có trình độ nghiệp vụ cao, Vinare có thể tập huấn, hướng dẫn cán bộ, nhân viên của các doanh nghiệp trong nước thực hành công tác quản lý rủi ro, thậm chí có thể chỉ đạo trực tiếp công tác này tại các công trình xây dựng lắp đặt. + Giải quyết bồi thường nhanh gọn, cố gắng tối đa trong việc phối hợp, giúp đỡ các công ty bảo hiểm gốc giải quyết khiếu nại lớn, phức tạp: bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm khi tổn thất xảy ra là vấn đề trọng tâm của hoạt động nhượng tái bảo hiểm. Bởi vì khi mua bảo hiểm, có nghĩa là khách hàng đã trả nhượng lại một phần dịch vụ khai thác được ngược lại Vinare phải cam kết chịu trách nhiệm bồi thường cho phần này nếu không may có tổn thất xảy ra. Chính vào thời điểm này, các công ty bảo hiểm có thể gặp khó khăn về tài chính, đặc biệt trong trường hợp tổn thất lớn. Vì thế, sự trợ giúp đúng lúc, nhanh chóng và chính xác thu xếp số tiền bồi thường trong lúc này có thể là cách quảng cáo tốt nhất đối với công ty. Từ đó, giúp Vinare giữ được khách hàng truyền thống và mở ra triển vọng khai thác được những khách hàng tiềm năng trong tương lai. + Giúp đỡ các công ty bảo hiểm gốc trong việc đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ làm nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt: do mới triển khai bảo hiểm xây dựng lắp đặt, khả năng tài chính lại không cao, các doanh nghiệp trong nước hiện nay đang phải đối mặt với sự thiếu những cán bộ thực sự có kỹ năng trình độ đáp ứng được yêu cầu của bảo hiểm kỹ thuật. Với vai trò là người hỗ trợ thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển cùng với mối quan hệ chặt chẽ với thị trường bảo hiểm thế giới, Vinare cần tăng cường hơn nữa trong việc phối hợp với các công ty bảo hiểm gốc đào tạo thường xuyên đội ngũ cán bộ này. Qua đó, mối quan hệ cũ chắc chắn sẽ ngày càng được củng cố. 5. Tuyển dụng, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn giỏi. Trong lĩnh vực kinh doanh nào cũng vậy, con người luôn là nhân tố trọng tâm nhất, quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Đặc biệt, do đặc thù của loại hình tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt xuất phát từ bảo hiểm kỹ thuật rất phức tạp. Loại hình này đòi hỏi những người làm công tác tái bảo hiểm phải am hiểu về kỹ thuật, chủ yếu là kỹ thuật trong xây dựng công trình, lắp đặt máy móc thiết bị. Hơn nữa, khoa học kỹ thuật luôn phát triển không ngừng, với sự ra đời nhanh chóng của công nghệ, kỹ thuật mới, vì vậy nếu không cập nhật kịp thời thì sẽ trở nên lạc hậu so với thế giới. Vì vậy, Vinare nên tuyển dụng các kỹ sư chuyên ngành kỹ thuật về xây dựng lắp đặt đồng thời am hiểu về bảo hiểm, tái bảo hiểm; cùng với đó cần có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng thường xuyên, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ được tiếp xúc với công nghệ mới nhanh nhất. Đối với một số lĩnh vực quan trọng như xác định mức giữ lại, đề phòng nghiệp vụ, đầu tư tài chính, giám định tổn thất Vinare có thể thuê thêm chuyên gia trong nước và nước ngoài để quản lý một số lĩnh vực theo quy định của pháp luật, kết hợp với đội ngũ cán bộ trực tiếp tại công ty. 6. Xây dựng hệ thống môi giới của Tổng công ty. Trong hoạt động tái bảo hiểm, môi giới đóng vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa rất lớn đối với cả doanh nghiệp bảo hiểm và tái bảo hiểm. Trên thế giới, việc thu xếp bảo hiểm tái bảo hiểm từ lâu đã trở thành phổ biến và ngày càng phát triển. Tại Việt Nam hiện nay, hoạt động này chưa thực sự được chú ý đến. Thị trường bảo hiểm Việt Nam đến thời điểm này chỉ có hai công ty môi giới nhưng chưa thực sự hoạt động theo những nguyên tắc chung của môi giới là đại diện cho khách hàng thu xếp hợp đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm. Tại Vinare, nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt cũng như các nghiệp vụ khác đều được nhận trực tiếp từ khách hàng mà không thông qua môi giới. Nhưng các công ty bảo hiểm gốc trong nước chỉ chiếm khoảng 30- 40% thị trường bảo hiểm xây dựng lắp đặt, trong khi đó 60-70% còn lại mặc dù dưới danh nghĩa là dịch vụ của các công ty này nhưng thực chất là phần khai thác trái phép của các công ty nước ngoài giới thiệu cho họ với điều kiện phải ưu tiên tái bảo hiểm cho họ. Chính vì điều này mà Vinare mất đi một phần lớn các dịch vụ trên thị trường. Môi giới tái bảo hiểm có thể hiểu là người hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp bảo hiểm gốc làm việc với các doanh nghiệp tái bảo hiểm trong việc bảo hiểm cho chính doanh nghiệp bảo hiểm gốc. Môi giới tái bảo hiểm thường nắm rất vững về kỹ thuật nghiệp vụ, đặc biệt là những thông tin về thị trường. Về lý thuyết, người môi giới sau khi nghiên cứu nhu cầu của khách hàng sẽ tìm kiếm doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm có thể đáp ứng nhu cầu tốt nhất với chi phí thấp nhất. Thực tế trên thế giới cho thấy rằng, hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm đều yêu cầu môi giới tái bảo hiểm tư vấn, giúp đỡ khi các rủi ro được bảo hiểm quá lớn so với khả năng tài chính của họ trong việc thanh toán bồi thường tổn thất nếu rủi ro xảy ra. Đối với các rủi ro tiềm ẩn lớn, môi giới tái bảo hiểm sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm phân tích phạm vi rủi ro để thu xếp tái bảo hiểm khi cần thiết. Thông qua môi giới tái bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ được an toàn về tài chính, do đó sẽ có khả năng bảo vệ khách hàng lớn hơn và đem lại sự ổn định cao hơn cho xã hội. Tuy nhiên, khi chọn cách này, các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm phải tính đến những ưu đãi cho môi giới như thù lao, đào tạo, bảo trợ,... và như thế lẽ tất nhiên, chi phí cho dịch vụ bảo hiểm này sẽ tăng lên nhưng phần tăng này sẽ được bù đắp bằng số lượng dịch vụ tăng lên do môi giới đem lại. Thị trường bảo hiểm càng phát triển thì vai trò của môi giới càng được đề cao, và lúc đó hoạt động nhận nhượng tái bảo hiểm sẽ chủ yếu thực hiện qua môi giới tái bảo hiểm. Vì thế, để đảm bảo số lượng dịch vụ khai thác được không ngừng tăng lên, Vinare cần thiết phải có kế hoạch xây dựng cho mình một hệ thống môi giới thông qua việc nghiên cứu kỹ những môi giới có uy tín sau đó xác lập mối quan hệ chặt chẽ trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Từ đó, các môi giới sẽ ưu tiên mang lại dịch vụ cho Vinare mà vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc là tìm kiếm doanh nghiệp tái bảo hiểm tốt nhất cho khách hàng. 7. Tăng cường quan hệ hợp tác với thị trường tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt quốc tế. Thị trường tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt nước ngoài vốn là một thị trường Vinare gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy để có thể tiếp cận và khai thác dịch vụ từ thị trường thế giới, Vinare cần thực hiện ngay những giải pháp sau: Tăng cường mở rộng quan hệ tái bảo hiểm giữa Vinare với thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm quốc tế. Qua đó sẽ giúp Vinare gây dựng được tiếng tăm, uy tín của công ty trên thị trường tái bảo hiểm thế giới. Từ đó, Vinare có cơ hội nghiên cứu thị trường quốc tế, lựa chọn cho mình thị trường mục tiêu hoạt động nhượng tái bảo hiểm trên cơ sở đảm bảo an toàn tài chính khi tái bảo hiểm và đạt được lợi ích kinh tế cao nhất. Đồng thời, Vinare nên hạn chế tái bảo hiểm tập trung nhiều vào một công ty hay cho một thị trường để tránh rủi ro mất an toàn tài chính và bị lệ thuộc quá nhiều vào một công ty. Điều này thực sự có ý nghĩa khi các công trình xây dựng lắp đặt luôn đứng trước khả năng có thể xảy ra tích tụ rủi ro khi có tổn thất lớn mang tính thảm hoạ như động đất, lũ lụt trên diện rộng, sụt lở đất... Hoặc có thể là những rủi ro của bản thân những công ty bảo hiểm sau những biến động bất lợi trên thị trường thế giới vừa qua, rất nhiều công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm gặp khó khăn và tuyên bố phá sản.s Trong thanh toán tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt với các công ty tái bảo hiểm nước ngoài hiện nay, Vinare còn gặp hạn chế rủi ro về ngoại hối do tỷ giá VND/USD thường thay đổi. Vì thế, Vinare cần xem xét kỹ lưỡng, sử dụng tỷ giá áp dụng khi thanh toán tái bảo hiểm cho nước ngoài là tỷ giá tại thời điểm thanh toán phí tái bảo hiểm và tỷ giá áp dụng khi đòi bồi thường tái bảo hiểm từ nước ngoài là tỷ giá áp dụng vào thời điểm thanh toán bồi thường bảo hiểm gốc. Tỷ giá áp dụng là tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm hiện hành. Một vấn đề cấp thiết khác đặt ra với Vinare là phải thiết lập văn phòng đại diện và tiến tới mở chi nhánh ở những thị trường tái bảo hiểm quan trọng. Kinh nghiệm thành công của Công ty tái bảo hiểm quốc gia Hàn Quốc Korea Re – công ty tái bảo hiểm đứng thứ 37 trong thị trường tái bảo hiểm theo xếp hạng của S-P cho thấy để mở rộng hoạt động nhận tái cần phải mở rộng các chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở nhiều nước. Trước mắt, Vinare nên thành lập văn phòng tại các nước trong khu vực, thiết lập mối quan hệ và đặt đại diện ở Singapore hoặc Malaysia- những quốc gia có thị trường bảo hiểm tương đối phát triển. Thành lập chi nhánh sẽ có nhiều tác dụng đến hoạt động kinh doanh của công ty, cụ thể là kinh doanh tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt như: nghiên cứu công tác tái bảo hiểm của các nước trong khu vực, Vinare từ đó thu được các thông tin cần thiết cho hoạt động tái bảo hiểm. Ngoài ra, đối với hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt, trong những năm tiếp theo, Vinare cần cố gắng nâng cao khả năng đàm phán tái tục hợp đồng tái bảo hiểm cố định bằng cách tìm hiểu thật kỹ đối tác, chuẩn bị đầy đủ thông tin liên quan đến việc tái tục hợp đồng để đưa ra những khả năng xảy ra trong đàm phán và phương án xử lý. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực nhượng tái của mình, Vinare cần chào tái bảo hiểm cho nhiều công ty nhận tái bảo hiểm khác trên thị trường trong nước cũng như quốc tế để lựa chọn được phương án tái bảo hiểm tốt nhất và công ty nhận tái bảo hiểm thích hợp. 8. Nâng cấp hệ thống thông tin. Công nghệ thông tin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế ngày nay. Đặc biệt, do tính chất của bảo hiểm là một hoạt động mang tính toàn cầu nó càng tỏ ra quan trọng. Sự xuất hiện của máy tính điện tử kết nối toàn cầu, khu vực, trong nước, nội bộ doanh nghiệp đã góp phần rất lớn vào việc giảm nhẹ sức lao động trong ngành bảo hiểm, tiết kiệm chi phí từ đó tăng lợi nhuận. Hiện nay, hầu hết các công ty bảo hiểm đều đã được vi tính hoá, từ khâu tính phí đến quản lý khách hàng, tính toán tổn thất và mức bồi thường. Tại Vinare, máy tính đã tỏ rõ hiệu quả của nó trong hoạt động kinh doanh nói chung và nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt nói riêng. Tuy nhiên, để có thể theo kịp được sự thay đổi như vũ bão của khoa học kỹ thuật Vinare cần chú ý một số vấn đề sau: - Đầu tư mới hệ thống máy vi tính: thay thế các máy tính cũ, lạc hậu bằng các máy tính mới, hiện đại đảm bảo cho việc liên lạc qua mạng, cập nhật thông tin nhanh chóng. - Cần tuyển dụng, đào tạo thêm cán bộ tin học đồng thời với việc nâng cao kiến thức vi tính cho cán bộ nhân viên. Kết luận Tóm lại, qua ba chương ở trên, chuyên đề đã cố gắng nêu lên những nét cơ bản về tình hình thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam: những thành tựu và đóng góp vào sự phát triển chung của thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng như những bất cập khó khăn cần khắc phục. Trên cơ sở đó, chuyên đề thực tập tốt nghiệp đưa ra một số kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm tăng tính hiệu quả hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm nói chung và tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt nói riêng tại Vinare trong thời gian tới. Do sự hạn chế về thời gian cũng như trình độ, chuyên đề chắc chắn không tránh được thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cán bộ nghiệp vụ tái bảo hiểm và các bạn quan tâm đến đề tài này. Một lần nữa, em xin cảm ơn cô giáo, thạc sỹ Nguyễn Thị Chính- giảng viên Bộ môn Bảo hiểm, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội và các cán bộ nghiệp vụ Phòng Tái Bảo Hiểm Xây dựng Lắp đặt đã giúp em hoàn thành đề tài này. Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế bảo hiểm Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm Tạp chí Bảo hiểm- Tái bảo hiểm Việt Nam Số 1/2003 Số 3/2003 Số 1/2004 Số 3/2004 Số 1/2005 Tài liệu về tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt của Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam. Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I: Khái quát chung về bảo hiểm xây dựng lắp đặt và Tái bảo hiểm Xây dựng lắp đặt 2 Khái quát về bảo hiểm xây dựng lắp đặt 2 Sự cần thiết của bảo hiểm xây dựng lắp đặt 2 Đặc điểm của Bảo hiểm xaat dựng lắp đặt 5 Nội dung của Bảo hiển xây dựng lắp đặt 6 Những nội dung cơ bản của Tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt 11 Tổng quan về Tái bảo hiểm 11 Sự cần thiết và tác dụng của Tái bảo hiểm 11 Các hình thức Tái bảo hiểm 14 Phương pháp Tái bảo hiểm 18 Hoạt động Tái bảo hiểm 28 2. Hoạt động tái bảo hiểm và Bảo hiểm xây dựng lắp đặt 33 Chương II: Tình hình thực hiện nghiệp vụ Tái bảo hiểm xây và lắp đặt tại Việt Nam 35 I. Vài nét về công ty Tái Bảo Hiểm Quốc Gia Viẹt Nam 35 Sự ra đời và phát triển của Vinare 35 Cơ cấu tổ chức bộ máy của Tổng công ty Cổ phần Tái Bảo hiểm Quốc Gia Việt Nam 36 Chức năng, nhiệm vụ 36 Kết quả hoạt động của Vinare qua mười năm hoạt động 40 II. Thị trường Bảo hiểm xây dựng lắp đặt ở Việt Nam 41 III. Tình hình thực hiện 44 Nhận tái Bảo Hiểm 44 Công tác kiểm soát tổn thất 54 Giải quyết khiếu nại 56 Nhượng Tái bảo hiểm 58 Kết quả kinh doanh hoạt động Tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt 63 IV. Đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ Tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Tổng công ty 66 1. Những thuận lợi 66 Những khó khăn 69 Chương III: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ Tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt 76 I. Xu hướng phát triển thị trường Tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Việt Nam 76 II. Phương hướng phát triển nghiệp vụ kinh doanh Tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Vinare 78 III. Kiến nghị 79 1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách 79 2. Đổi mới phương thức quản lý 80 3. Thực hiện nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế 80 4. Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam 81 5. Tăng cường vốn cho Vinare 83 IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Vinare 84 1. Tiến hành nghiên cứu thị trường, đưa ra chiến lược khai thác có hiệu quả 84 Điều chỉnh tỷ lệ hoa hồng 85 Xác định mức giữ lại hợp lý 92 Chú trọng chính sách giữ khách hàng................................. Tuyển dụng, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn giỏi 89 Xây dựng hệ thống môi giới 90 Tăng cường quan hệ hợp tác với thị trường Tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt quốc tế 91 8. Nâng cấp hệ thống thông tin 93 Kết luận 94 Tài liệu tham khảo 95 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0067.doc
Tài liệu liên quan