Mở đầu
Trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đang trong đà phát triển mạnh mẽ, chúng ta đang ở trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN, phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Hướng tới mục tiêu trên, Việt Nam đang hết sức nỗ lực nhưng trong quá trình thực hiện cũng gặp phải không ít khó k
51 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tình hình thực hiện nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hăn như xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng kỹ thuật lạc hậu... Để vượt qua những khó khăn đó, tạo tiền đề cho một nền kinh tế phát triển không thể không kể đến vai trò to lớn của đầu tư xây dựng cơ bản, là một yếu tố quyết định, có tính sống còn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những năm gần đây, lượng vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản ngày càng gia tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong lĩnh vực đầu tư phát triển, ngày càng có nhiều công trình có quy mô lớn được đầu tư cho thấy đầu tư xây dựng cơ bản ngày càng có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế. Vấn đề đáng quan tâm ở đây là lượng vốn đầu tư quan trọng tăng hay giảm theo các yếu tố nào? Ta có thế xây dựng mô hình nào đó thể hiện mối quan hệ giữa nguồn vốn xây dựng cơ bản và các yếu tố trên không? Mô hình xây dựng liệu có phù hợp không? Ngoài ra, những mục tiêu phát triển kinh tế mà kế hoach đã đề ra có thể đạt được hay không?...Thực tế, việc quản lý và sử dụng nguồn vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản ở nước ta còn rất nhiều bất cập, tình trạng thất thoát, lãng phí, thiếu hiệu quả trong đầu tư còn rất phổ biến. Trong khi đó, khả năng cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản thì có hạn, vì vậy bài toán đặt ra là làm thế nào để quản lý lượng vốn đó và sử dụng nó một cách có hiệu quả nhất, đạt mục tiêu đề ra với chi phí thấp nhất?
Chính vì lý do đó mà em đã chọn đề tài: “Tình hình thực hiện nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Đề tài em nghiên cứu nhằm đánh giá tổng quát thực trạng sử dụng nguồn vốn từ ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản của nước ta, phân tích những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế, yếu kém còn tồn tại để từ đó đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ngân sách trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản, góp phần vào sự phát triển kinh tế của nước ta.
Trong quá trình hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp, em đã nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của thầy giáo Ts. Trần Bá Phi, giảng viên của khoa Toán Kinh Tế, trường ĐH Kinh tế Quốc dân. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian cũng như khả năng kinh nghiệm thực tế nên chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy, cô để em có thể hoàn thành tốt đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Chương 1: Sự cần thiết phải tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn ngân sách cho đầu tư XDCB
I) Hoạt động đầu tư XDCB và vốn đầu tư XDCB:
1)Hoạt động đầu tư và hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản:
1.1) Hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm duy trì năng lực sản xuất hiện có hoặc tăng thêm năng lực sản xuất để đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Do vậy, đối với nền kinh tế, hoạt động đầu tư là một lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì hoạt động của các cơ sỏ vật chất kỹ thuật của nền kinh tế.
Hoạt động đầu tư có thể tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau. Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư, hoạt động đầu tư được chia thành:
- Đầu tư cơ bản: Thực chất là một phần của hoạt động đầu tư vào tài sản cố định thông qua việc tái sản xuất các tài sản cố định, làm tăng khối lượng thực thể của tài sản cố định, bảo đảm bù đắp số tài sản cố định bị hao mòn và tăng thêm phần xây lắp dở dang. Đến lượt mình, đầu tư cơ bản lại được chia thành đầu tư xây dựng cơ bản và mua sắm trang thiết bị.
- Đầu tư vào tài sản lưu động: Là hoạt động đầu tư mua sắm các loại nguyên, nhiên liệu dự trữ cho quá trình sản xuất, đầu tư cho việc tiêu thụ thành phẩm và thanh lý các loại hàng tồn kho…
1.2) Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản:
- Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận của hoạt động đầu tư cơ bản nói chung, đó là việc sử dụng vốn để tiến hành các hoạt động xây dựng cơ bản tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân thông qua các hình thức xây mở rộng, hiện đại hoá hoặc khôi phục tài sản cố định.
- Phân loại hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản: Xét theo mục đích của hoạt động đầu tư, đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm:
+ Các hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản làm tăng quy mô và cơ cấu tài sản cố định, tăng số lượng và khối lượng của tài sản cố định ( xây mới).
+ Các hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản nhằm khôi phục lại quy mô và cơ cấu tài sản cố định ban đầu ( duy tu bảo dưỡng, sửa chữa ).
Xét theo tính chất của hoạt động đầu tư, đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm:
+ Các hoạt động đầu tư làm gia tăng hoặc khôi phục tài sản cố định phi sản xuất như các công trình công cộng, đương giao thông, các công trình kiến trúc, nhà ở và các cơ sở quân sự.
- Đầu tư XDCB có những đặc điểm nổi bật được thể hiện thông qua sản phẩm của nó, đó là công trình xây dựng. Công trình xây dựng là sản phẩm của công nghệ xây lắp gắn liền với đất ( bao gồm cả khoảng không, mặt nước, mặt biển và thềm lục địa ) được tạo thành bằng vật liệu xây dựng, thiết bị và lao động. Công trình xây dựng mang một số đặc điểm sau:
+ Một là, công trình xây dựng gắn liền với một địa điểm nhất định.
+ Hai là, công trình XDCB được xây dựng và sử dụng tại cùng một địa điểm nhất định, tức sản phẩm xây dựng là cố định.
+ Ba là, công trình xây dựng mang tính đơn chiếc, riêng lẻ; mỗi công trình thường có thiết kế riêng cho phù hợp với yêu cầu đầu tư và điều kiện địa chất, khí hậu của từng vùng. Do đó, các công trình xây dựng có thể cùng công dụng, công suất sử dụng, nhưng lại khác nhau về khối lượng và giá cả xây dựng trên những địa điểm khác nhau. Ngoài ra, các yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm không cố định và thường xuyên phải di chuyển vì vậy tính ổn định trong sản xuất rất khó đảm bảo, điều này phụ thuộc nhiều vào khâu quản lý sản xuất của nhà thầu trong quá trình thi công.
+ Bốn là, công trình xây dựng thường có kích thước và quy mô lớn, thời gian kiến tạo và sử dụng lâu dài dẫn đến chu kỹ sản xuất của các nhà thầu trong Xây dựng cơ bản thường kéo dài, vốn đầu tư vào dự án bị ứ đọng. Đòi hỏi các Chủ đầu tư và các nhà thầu phải tìm biện pháp rút ngắn thời gian xây dựng và đảm bảo chất lượng công trình. Công trình xây dựng được sử dụng trong một thời gian dài, do đó trước khi bỏ vốn đầu tư phải dự tính trước các tình huống có thể xảy ra trong tương lai. Mặt khác, do thời gian sử dụng lâu dài nên việc đánh giá hiệu quả của dự án, công trình trong thời gian 1 đến 2 năm thì khó có thể chính xác.
2) Vốn đầu tư xây dựng cơ bản
2.1) Khái niệm
- Theo Nghị định 385/HĐBT ngày 7 tháng 11 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Quốc hội ) về việc sửa đổi, bổ sung, thay thế Điều lệ quản lý XDCB đã ban hành kèm theo Nghị định 232/CP ngày 6/6/1981 thì: “Vốn đầu tư Xây dựng cơ bản là toàn bộ chi phí bỏ ra để đạt được mục đích đầu tư, bao gồm: Chi phí cho việc khảo sát quy hoạch xây dựng, chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế và xây dựng, chi phí mua sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị và các chi phí khác được ghi trong tổng dự toán”. Các văn bản pháp luật sau Nghị định này không đưa ra định nghĩa về vốn đầu tư XDCB nữa. Tuy nhiên, thuật ngữ “vốn đầu tư XDCB” vẫn được sử dụng rộng rãi trong nhiều văn bản pháp luật hiện nay.
- Vốn đầu tư XDCB đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế, nó là một trong những yếu tố cần thiết để xây dựng cơ sở vật chất cho nền kinh tế nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho nền kinh tế.
2.2) Phân loại vốn đầu tư xây dựng cơ bản
2.2.1) Nguồn vốn trong nước
- Nguồn vốn Nhà nước: Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước.
+ Đối với nguồn vốn ngân sách Nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. nguồn vốn này được hình thành từ một phần tích luỹ trong nước, một phần vốn khấu hao cơ bản do các đơn vị nộp Nhà nước ( chủ yếu là qua thuế ), một phần vốn vay trong nước thông qua việc phát hành tín phiếu Nhà nước, một phần vốn vay nợ và viện trợ không hoàn lại của nước ngoài bao gồm cả phần vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA. Vốn ngân sách Nhà nước theo phân cấp quản lý bao gồm có vốn ngân sách trung ương và vốn ngân sách địa phương, được cấp theo kế hoạch Nhà nước đã giao.
+ Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước.Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
+ Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: Được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn Nhà nước khá lớn. Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngaỳ càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
- Nguồn vốn từ khu vực tư nhân: Bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để.
- Thị trường vốn: Là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư – bao gồm cả Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động vốn nào có thể làm được.
2.2.2) Nguồn vốn nước ngoài
- Nguồn vốn ODA: Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn tài trợ phát triên chính thức ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn vay tương đối lớn, bao giờ ODA cũng có yếu tố không hoàn lại ( còn gọi là thành tố hỗ trợ ) đạt ít nhất 25%.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe ( tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để đạt được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không, việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này còn hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được các mục tiêu có tính nguyên tắc.
- Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại: Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại, nó có ưu điểm rõ ràng là không gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Đối với Việt Nam, việc tiếp cận với nguồn vốn này vẫn còn rất hạn chế.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đây là nguồn vốn đầu tư quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Nó có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những nghành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ phát triển nhanh ở nước nhận đầu tư.
- Thị trường vốn quốc tế: Đối với Việt Nam, để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, nhằm mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Nhà nước rất coi trọng việc huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triên sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm,, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nguồn huy động qua thị trường vốn cũng được Chính phủ quan tâm. Các đề án về phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu công ty ra nước ngoài cũng đã được xây dựng và xem xét. Tuy nhiên, đây là một hình thức huy động vốn rất mới mẻ và còn phức tạp đối với Việt Nam.
3) Quản lý Nhà nước về vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản
3.1) Ngân sách Nhà nước và vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản
- Theo Luật ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH11 thì ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Tong đó, chi ngân sách Nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, đảm bảo hoạt động của bộ máy Nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước, chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, trong các khoản chi của ngân sách Nhà nước có một phần dành ra để chi cho phát triển kinh tế xã hội và chiếm phần lớn trong số đó là chi cho đầu tư xây dựng cơ bản.
Ngân sách Nhà nước với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước tham gia hoạt động và phân phối vồn đầu tư thông qua hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước.
- Theo phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước, có thể chia nguồn vốn đầu tư từ NSNN thành: Vốn đầu tư của ngân sách Trung ương được hình thành từ các khoản thu của ngân sách trung ương nhằm đầu tư cho các dự án phục vụ cho lợi ích quốc gia. Vốn đầu tư của ngân sách địa phương được hình thành từ các khoản thu của ngân sách địa phương nhằm đầu tư cho các dự án phục vụ cho lợi ích của từng địa phương đó. Nguồn vốn này thường được giao cho các cấp chính quyền địa phương quản lý sử dụng.
- Theo mức độ kế hoạch hoá vốn đầu tư có:
+ Vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung ( vốn trong nước và vốn ngoài nước ): Nguồn vốn này được hình thành theo kế hoạch với tổng mức vốn và cơ cấu vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định giao cho từng bộ, ngành và từng tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương.
+ Vốn đầu tư từ nguồn thu được để lại theo Nghị quyết của Quốc hội, các địa phương được chủ động đầu tư.
+ Vốn đầu tư theo các chương trình, dự án quốc gia như: chương trình 135, chương trình kiên cố hoá kênh mương, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng…
+ Vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước nhưng được để lại tại đơn vị để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất như nguồn vốn quảng cáo, nguồn thu học phí…
- Nguồn vốn ngân sách Nhà nước đầu tư cho xây dựng cơ bản không có khả năng thu hồi trực tiếp với số lượng lớn, có tác dụng chung cho nền kinh tế, xã hội, các thành phần kinh tế khác không có khả năng hoặc không muốn tham gia đầu tư. Vì là nguồn vốn cấp phát trực tiếp từ NSNN không hoàn lại nên đây là nguồn vốn dễ bị thất thoát, lãng phí nhất đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ.
3.2) Quản lý Nhà nước về vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản
3.2.1) Các hình thức quản lý dự án:
- Các hình thức quản lý dự án: Căn cứ điều kiện năng lực của tổ chức, cá nhân, yêu cầu của dự án, người quyết định đầu tư xây dựng công trình quyết định lựa chọn một trong các hình thức quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình sau đây:
+ Thuê tổ chức tư vấn quản lý dự án khi chủ đầu tư công trình khong đủ điều kiện năng lực;
+ Trực tiếp quản lý dự án khi chủ đầu tư xây dựng công trình có đủ điều kiện năng lực về quản lý dự án.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của chủ đầu tư và Ban quản lý dự án trong trường hợp chủ đầu tư thành lập Ban quản lý dự án:
Chủ đầu tư có nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Tổ chức thẩm định, phê duyệt các bước thiết kế, dự toán xây dựng công trình sau khi dự án được phê duyệt;
+ Phê duyệt kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời dự thầu, hồ sơ mời đấu thầu và kết quả đấu thầu đối với các gói thầu không sử dụng vốn ngân sách Nhà nước;
+ Ký kết hợp đồng với các nhà thầu;
+ Thanh toán cho nhà thầu theo tiến độ hợp đồng hoặc theo biên bản nghiệm thu;
+ Nghiệm thu để đưa công trình xây dựng vào khai thác, sử dụng.
3.2.2) Quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình
- Nguyên tắc quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình:
+ Chi phí của dự án đầu tư xây dựng công trình được xác định theo công trình phù hợp với bước thiết kế xây dựng và được biểu hiện bằng tổng mức đầu tư, tổng dự toán, dự toán xây dựng công trình.
+ Chi phí dự án đầu tư xây dựng của các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước được lập và quản lý trên cơ sử hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí trong hoạt động xây dựng hệ thống giá xây dựng và cơ chế chính sách có liên quan do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.
- Quyết toán vốn đầu tư xây dựng công trình:
+ Chủ đầu tư có trách nhiệm thực hiện quyết toán vốn đầu tư xây dựng công trình ngay sau khi công trình hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng theo yêu cầu của người quyết định đầu tư.
+ Vốn đầu tư được quyết toán là toàn bộ chi phí hợp pháp đã được thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác, sử dụng. Chi phí hợp pháp là chi phí được thực hiện đúng với thiết kế, dự toán được phê duyệt, đảm bảo đúng định mức, đơn giá, chế độ tài chính kế toán, hợp đồng kinh tế đã ký kết và các quy định khác của Nhà nước có liên quan. Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì vốn đầu tư được quyết toán phải nằm trong giới hạn tổng mức đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
3.2.3) Quản lý thi công xây dựng công trình
- Nội dung quản lý thi công xây dựng công trình: Quản lý thi công xây dựng công trình bao gồm quản lý chất lượng xây dựng, quản lý tiến độ xây dựng, quản lý khối lượng thi công xây dựng công trình, quản lý an toàn lao động trên công trường xây dựng, quản lý môi trường xây dựng. Riêng quản lý chất lượng xây dựng được thực hiện theo các quy định của Nghị định về quản lý chất lượng công trình xây dựng.
- Quản lý tiến độ thi công công trình:
+ Công trình xây dựng trước khi triên khai phải được lập tiến độ thi công xây dựng. Tiến độ thi công xây dựng công trình phải phù hợp với tổng tiến độ của dự án đã đợưc phê duyệt.
+ Chủ đầu tư, nhà thầu thi công xây dựng, tư vấn giám sát và các bên có liên quan có trách nhiệm theo dõi, giám sát tiến độ thi công xây dựng công trình và điều chỉnh tiến độ trong trường hợp tiến độ thi công xây dựng ở một số giai đoạn bị kéo dài nhưng không được làm ảnh hưởng đến tổng tiến độ của dự án.
- Quản lý khối lượng thi công xây dựng công trình
- Quản lý môi trường xây dựng
II) Sự cần thiết phải tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn ngân sách cho đầu tư XDCB
1) Mục tiêu của quản lý vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản
Mục tiêu cơ bản của quản lý vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội. Điều cơ bản trước tiên của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là việc chọn phương án đầu tư có lợi nhất, đảm bảo tăng sản phẩm nhiều nhất trên một đồng vốn đầu tư, rút ngắn thời hạn thu hồi vốn cũng như đáp ứng các chi chí khác về kinh tế - xã hội của một dự án đầu tư phải có.
- Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư cũng có nghĩa là tăng năng suất lao động, tăng khối lượng sản phẩm, giảm giá thành, cải tiến chất lượng sản phẩm, tăng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm, phục vụ việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, nâng cao mức sống nhân dân…tạo ra những điều kiện cho việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân trong cộng đồng.
- Tái sản xuất mở rộng tài sản cố định đòi hỏi chi phí lớn và chỉ mang lại kết quả trong một thời gian dài. Vốn đầu tư bị tồn đọng không vận động, không sinh lời do quá trình xây dựng kéo đài. Do đó, điều quan trọng đối với xã hội là phải biết tiền vốn phải bỏ ra lúc nào và trong khoảng thời gian bao lâu, khi nào vốn đầu tư sẽ được hoàn lại. Vấn đề sử dụng hợp lý, nhanh chóng lại vốn đầu tư được giải quyết trên cơ sở xem xét các chỉ tiêu và tiêu chuẩn cụ thể đánh giá hiệu quả kinh tế vốn đầu tư XDCB. Các chỉ tiêu đó rất cần thiết khi xem tính hợp lý của đầu tư XDCB ở các giai đoạn kế hoạch hoá.
- Mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho XDCB thường đi kèm với những mục tiêu cụ thể như rút ngắn thời hạn thi công, thời hạn thu hồi vốn, thanh toán, quyết toán đúng thời hạn, giảm tối đa mức thất thoát lãng phí…
2) Những vấn đề chung về quản lý và đầu tư XDCB
Đầu tư xây dựng cơ bản là đầu tư cho tương lai, chất lượng và hiệu quả của công tác đầu tư xây dựng cơ bản có ảnh hưởng quyết định đến tốc độ phát triển và hiệu quả của nền kinh tế. Xây dựng cơ bản còn là một biện pháp quan trọng trong việc phát triển đồng đều giữa các vùng, miền và ngành kinh tế kỹ thuật.
2.1) Khái niệm, mục đích và yêu cầu của việc quản lý đầu tư và xây dựng.
Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong thời gian xác định. Dự án đầu tư là đầu tư và xây dựng mới, hoặc cải tạo, sữa chữa, nâng cấp các dự án đã đầu tư xây dựng, là đầu tư mua sắm tài sản kể cả thiết bị, máy móc không cần lắp đặt và sản phẩm công nghệ khoa học mới; là việc sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn…
Dự án đầu tư có đặc điểm rất nổi bật là chi phí đầu tư rất lớn, nó có vai trò quan trọng tạo ra cơ sở vật chất cải thiện đời sống vật chất hoặc tinh thần cho xã hội. Vì vậy mà mục đích và yêu cầu của quản lý đầu tư và xây dựng mà Nhà nước đặt ra là:
- Đầu tư và xây dựng phải phù hợp với chiến lược về quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
- Sử dụng các nguồn vốn đầu tư do Nhà nước quản lý đạt hiệu quả cao nhất, chống tham ô, lãng phí.
- Bảo đảm xây dựng theo quy hoạch xây dựng, kiến trúc đáp ứng yêu cầu bền vững mỹ quan, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong xây dựng, áp dụng công nghệ tiên tiến, bảo đảm chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp lý, thực hiện bảo hành công trình.
2.2) Một số vấn đề cụ thể về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản
2.2.1) Giai đoạn chuẩn bị đầu tư
Là giai đoạn mà chi phí có tỷ trọng không lớn so với tổng mức vốn đầu tư của cả dự án hay công trình, nhưng là một giai đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó quyết định đến nội dung, mục đích, yêu cầu của quá trình đầu tư xây dựng cơ bản.
Công tác chuẩn bị đầu tư bao gồm:
- Nghiên cứu sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư;
- Tiến hành tiếp xúc, thăm dò thị trường trong nước hoặc nước ngoài để tìm nguồn cung ứng vật tư thiết bị hoặc tiêu thụ sản phẩm. Xem xét khả năng có thể huy động các nguồn vốn để đầu tư và lựa chọn hình thức đầu tư;
- Tiến hành điều tra, khảo sát và chon địa điểm xây dựng;
- Lập dự án đầu tư;
- Thẩm định dự án để quyết định đầu tư;
Trong đó, việc lập dự án, thẩm định dự án là quan trọng nhất, nó giúp chủ đầu tư, các cấp ra quyết định đầu tư, lựa chọn phương án đầu tư tốt nhất, quyết định đầu tư đúng hướng và đạt được lợi ích kinh tế xã hội mà dự án đầu tư mang lại. Quản lý quá trình này phải dựa vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, quy hoạch phát triển ngành và địa phương trong từng giai đoạn, từng thời kỳ nhất định, pháp luật và các chính sách hiện hành, lựa chọn phương án khai thác sử dụng có hiệu quả, cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động, góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Tuỳ theo nhóm dự án mà lập dự án đầu tư có thể được thực hiện theo hai bước là báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi hoặc thực hiện một bước là ngiên cứu khả thi.
2.2.2) Giai đoạn thực hiện đầu tư:
Là giai đoạn mà chi phí có tỷ trọng rất lớn so với tổng mức vốn đầu tư của dự án, là giai đoạn quyết định việc thực hiện nội dung, mục đích của dự án đầu tư. Quản lý tốt giai đoạn này sẽ góp phần tiết kiệm được chi phí, chống được lãng phí và thất thoát trong xây dựng đồng thời quyết định đến chất lượng, hiệu quả của cả dự án hoặc công trình đưa vào khai thác, sử dụng.
Nội dung của giai đoạn thực hiện dự án đầu tư bao gồm:
- Xin giao đất hoặc thuê đất theo quy đinh của Nhà nước;
- Tổ chức đền bù giải phóng mặt bằng, chuẩn bị mặt bằng xây dựng;
- Tuyển chọn tư vấn khảo sát, thiết kế, giám định kỹ thuật và chất lượng công trình;
- Thẩm định thiết kế, tổng dự toán công trình;
- Tổ chức đấu thầu mua sắm thiết bị, thi công công trình;
- Xin giấy phép xây dựng ( nếu quy định phải có ) và giấy phép khai thác tài nguyên ( nếu có);
- Ký kết hợp đồng với nhà thầu để thực hiện dự án;
- Thi công xây lắp công trình;
- Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các hợp đồng;
- Quyết toán vốn đầu tư xây dựng sau khi hoàn thành xây lắp đưa dự án vào khai thác sử dụng;
Trong giai đoạn này, việc quản lý chặt chẽ trong các khâu đều có những ý nghĩa rất quan trọng đến việc tiết kiệm vốn đầu tư, hạn chế được lãng phí, tiêu cực trong đầu tư xây dựng cơ bản, đảm bảo được chất lượng kỹ thuật, mỹ thuật trong XDCB, đem lại hiệu quả trong đầu tư.
Trong những năm gần đây, với chủ trương chung của Nhà nước yêu cầu thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và nâng cao chất lượng sản phẩm được đầu tư và xây dựng, Chính phủ, các Bộ ban ngành, các địa phương đã có những văn bản pháp luật quy định cụ thể, chi tiết thực hiện quy chế đấu thầu, tuyển chọn tư vấn, khảo sát thiết kế, giám sát kỹ thuật lắp đặt thiết bị và xây dựng, đấu thầu trong mua sắm tài sản, đấu thầu trong mua sắm thiết bị và xây lắp.
Trong quá trình thi công xây lắp công trình, việc quản lý kỹ thuật và chất lượng công trình, việc nghiệm thu công trình thực hiện theo quy chế giám sát chất lượng công trình đã được Bộ Xây Dựng ban hành. Việc cấp vốn và thanh toán phải đảm bảo đúng thành phần nghiệm thu, khối lượng, chất lượng và đơn giá xây lắp hoàn thành thành theo thiết kế, dự toán đã được duyệt, theo hồ sơ dự thầu, theo hợp đồng đã cam kết. Những khối lượng phát sinh không đủ yếu tố đều không được thanh toán và phải loại khỏi giá trị quyết toán của công trình. Cuối cùng là quyết toán vốn đầu tư là thẩm tra và phê duyệt quyết toán, xác định tổng vốn đầu tư cơ cấu vốn đầu tư được thực hiện.
2.2.3) Giai đoạn kết thúc xây dựng đưa dự án vào khai thác sử dụng
Là giai đoạn của quá trình thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản, chi phí trong giai đoạn này có tỷ trọng rất nhỏ trong tổng mức vốn đầu tư. Nó bao gồm các công việc:
- Bàn giao công trình cho người sử dụng, lập và bàn giao hồ sơ hoàn công, đưa vào lưu trữ theo pháp luật về về lưu trữ của Nhà nước;
- Kết thúc xây dựng trả lại đất mượn hoặc thuê tạm phục vụ thi công. Nghĩa vụ theo hợp đồng xây dựng chỉ được chấm dứt hoàn toàn khi hết thời hạn bảo hành công trình;
- Bảo hành công trình: Người cung cấp tài liệu, số liệu khảo sát phục vụ thiết kế, xây lắp, nghiệm thu, giám định công trình, chủ nhiệm đề án thiết kế, chủ thầu xây lắp, người cung cấp vật tư thiết bị xây dựng và người giám sát xây dựng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng sản phẩm hoặc kết quả công tác mình thực hiện. Thời hạn bảo hành, quyền, nghĩa vụ về bảo hành của các bên, thủ tục thực hiện và nghĩa vụ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã quy định.
- Vận hành dự án: Sau khi nhận bàn giao công trình, chủ đầu tư có trách nhiệm khai thác, hoàn thiện tổ chức và phương pháp quản lý nhằm phát huy đầy đủ và có hiệu quả các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đã được đề ra trong dự án đầu tư.
- Thu hồi và hoàn trả vốn đầu tư: Là nguyên tắc bắt buộc đối với tất cả các dự án đầu tư có khả năng thu hồi vốn. Tất cả các dự án đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà nước mà chủ đầu tư có trách nhiệm hoàn trả vốn hoặc trả nợ vay thì nguồn vốn để thu hồi và trả nợ vay bao gồm toàn bộ khấu hao cơ bản, một phần lợi nhuận và các nguồn vốn khác ( nếu có ).
Chương 2 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới việc thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước
1) Các nhân tố
Việc thực hiện nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản do rất nhiều yếu tố ảnh hưởng, vấn đề về cơ chế quản lý, chậm giải ngân, chậm tiến độ, không thống nhất cách làm từ trên xuống dưới…là những nguyên nhân dễ thấy làm cho nguồn vốn đầu tư thực hiện bị giảm. Tuy nhiên, đó là những nguyên nhân khá chung chung, thuộc về mặt cơ chế chính sách. Trong bài này sẽ đề cập tới các nhân tố cụ thể ảnh hưởng tới việc thực hiện nguồn vốn đầu tư từ phía chi phí trong xây dựng cơ bản. Thị trường sắt thép gần đây đang biến động lớn, đó là những gì mà các nhà xây dựng quan tâm nhất hiện nay. Sắt thép khan hiếm, giá cả tăng cao, nhiều công trình dở dang vì không mua được sắt thép. Ta sẽ thử xây dựng một mô hình hồi quy, trong đó biến được giải thích là giá trị thực hiện nguồn vốn XDCB thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước, các biến độc lập là các b._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33001.doc