LỜI MỞ ĐẦU.
Sau 20 năm đổi mới , đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá , đang chuyển mình từ một nước nghèo lạc hậu sang một nền kinh tế hiện đại , năng động . Việt Nam đã và đang đổi mới mọi mặt của đời sống để có thể hoà nhịp với thế giới khi gia nhập WTO và AFTA những sân chơi nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn , đặc biệt là những thử thách trong việc thu hút vốn cho đầu tư phát triển kinh tê- xã hội. Luôn với chủ trương “ vốn trong nước là chủ yếu , vốn nướ
59 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1956 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tình hình thu hút vốn ODA cho đầu tư phát triển kinh tế - Xã hội tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2001-2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c ngoài là quan trọng”. Việc thu hút và sử dụng vốn ODA nói riêng cũng không ngoại trừ quan điểm vậy.
Vốn ODA có thể giúp hàng trăm triệu người được đổi đời , được đến trường , sử dụng nước sạch , xoá đói giảm nghèo …nhưng đôi khi nó còn khuyến khích sự bất tài , tham nhũng, chính sách lệch hướng của nơi nhận ODA . Những vai trò của nó thì không thể chối cãi được . Tìm hiểu về ODA cũng là phạm trù rất rộng , để có thể tìm hiểu kỹ hơn qua việc :
Xem xét tình hình thu hút vốn ODA của tỉnh Quảng Ninh giai đoạn vừa qua sẽ phần nào cho chúng ta thấy bối cảnh . Quảng Ninh là mảnh đất đầy tiềm năng được coi là một trong mũi nhọn trong tam giác kinh tế miền Bắc. Trong những năm qua nhìn chung thu hút vốn ODA vào tỉnh có tăng lên xong bên cạnh việc sử dụng còn chưa hiệu quả phần nào giảm lòng tin của các nhà tài trợ . Để phát huy thế mạnh của tỉnh góp phần vào công cuộc hội nhập của Việt Nam cần một loạt các giải pháp mà tỉnh cần thực hiện.
Em chọn đề tài “ Tình hình thu hút vốn ODA cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2001-2008”.
Mặc dù đã được tham khảo rất nhiều tài liệu có giá trị cũng như sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn nhưng cũng không tránh khỏi sai sót trong các vấn đề đưa ra. Em rất mong có sự đóng góp của thầy cô để đề án của em tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS .Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN ODA VÀO TỈNH QUẢNG NINH .
TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN ODA.
Một số khái niệm liên quan ODA.
Khái niệm ODA được Uỷ ban Viện Trợ phát triển ( DAC- Development Assistance Committee ) của tổ chức OECD chính thức đề cập vào năm 1969.
Viện trợ phát triển chính thức (ODA) là nguồn vốn hỗ trợ chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoản viện trợ và cho vay với các điều kiện ưu đãi : ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát triển , được các cơ quan chính thức của các chính phủ trung ương và địa phương hoặc các cơ quan thừa hành của chính phủ , các tổ chức liên chính phủ , các tổ chức phi chính phủ tài trợ . Vốn ODA phát sinh từ nhu cầu cần thiết của một quốc gia , môt địa phương , một ngành , được tổ chức quốc tế hay nước bạn xem xét và cam kết tài trợ thông qua một hiệp định quốc tế được đại diện có thẩm quyền hai bên nhận và hỗ trợ vốn ký kết. Hiệp định quốc tế hỗ trợ này được chi phối bởi công pháp quốc tế.
Nghị định 17 – CP ra ngày 04 / 05 / 2001 của chính phủ Việt Nam quy định: “ Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà tài trợ ( Chính phủ nước ngoài, Các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia ) dưới các hình thức chủ yếu : Hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ chương trình và hỗ trợ dự án với yếu tố không hoàn lại ( hay còn gọi là thành tố hỗ trợ ) đạt ít nhất 25%”.
Như vậy, có thể hiểu khái niệm về ODA một cách chung nhất như sau: Hộ trợ phát triển chính thức (ODA) là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi của các cơ quan tài chính thuộc các tổ chức Quốc tế, các cơ quan đại diện hợp tác phát triển quốc tế của các nước nhằm hỗ trợ cho sự phát triển và thịnh vượng của các nước khác ( không tính đến các khoản viện trợ cho mục đích thuần tuý quân sự ).
Các điều kiện ưu đãi có thể là:
Lãi suất thấp ( dưới 3%/năm).
Thời gian ân hạn ( chỉ phải trả lãi, chưa phải trả nợ gốc) dài.
Thời gian trả nợ dài ( 30-40)năm.
Các cơ quan chính thức cung cấp ODA ( nguồn cung cấp) trên thế giới quan trọng nhật hiện nay là:
Tổ chức Uỷ ban trợ giúp phát triển DAC (Development Asistance Committee) thuộc tổ chức kinh tế phát triển OECD.
Các tổ chức tài chính quốc tế.
Các cơ quan hợp tác phát triển của các cường quốc kinh tế.
+Viện trợ không hoàn lại : có quy mô nhỏ, chiếm khoảng ít nhất 25% tổng nguồn vốn ODA song cũng chỉ là tương đối tuỳ dự án , và chỉ giới hạn trong các lĩnh vực nhân đạo, y tế, văn hoá, giáo dục, cải cách và nâng cao năng lực quản lý hành chính nhà nước.
+ Vốn vay: có quy mô lớn , chiếm khoảng 75% tổng nguồn vốn ODA nhưng được vay với lãi suất thấp và thời gian hoàn trả dài.
+ Để tiến hành cung cấp và tiếp nhận vốn hỗ trợ phát triển chính thức, cần phải có các Điều ước quốc tế về ODA.
Điều ước quốc tế về ODA: là thoả thuận bằng văn bản được ký kết giữa đại diện của nước tiếp nhận với đại diện của Nhà tài trợ về các vấn đề có liên quan đến ODA, bao gồm các Nghị định, Nghị định thư, văn kiện chương trình, dự án và các văn bản trao đổi giữa các bên có giá trị tương đương.
2. Đặc điểm của vốn ODA
2.1.Vốn ODA có tính chất ưu đãi.
ODA là nguồn vốn mang tính chất ưu đãi hơn cả bởi vì bao giờ cũng có một phần cho không khá lớn.Còn phần cho vay chủ yếu là vay ưu đãi với lãi suất thấp hơn các khoản vay thông thường rất nhiều ( thường dưới 3%/năm).Mức độ ưu đãi nhiều hay ít được thể hiện ở mức lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ.Một khoản vốn vay ODA thường có thời gian sử dụng vốn dài, thường 30-40 năm ( với các khoản vay từ ADB, WB và JBIC ) gồm 2 phần : thời gian ân hạn từ 5-10 năm, và thời gian trả nợ khác nhau ở từng giai đoạn.
Bảng 1.1.Một số thí dụ xác định yếu tố cho không trong viện trợ.
Thời gian (năm)
Hoàn trả Ân hạn
Yếu tố cho không(%)
+ Cho không
+ Vay thương mại
(ví dụ lãi suất 10%/năm)
+ Vay,lãi 3%
+ Vay, lãi 2%
+ Vay, lãi 1%
+ Vay, lãi 0.75%
+ Vay, lãi 0%
3
7
2.5
7
25 7
100
0
35
45
55
70
76
Nguồn: Nhìn lại 5 năm thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam
Để được xếp vào ODA, một khoản cho vay phải có thành tố viện trợ cho không quy đổi tối thiểu 25%.Thành tố hỗ trợ cho không giúp lượng hoá mức độ ưu đãi của một khoản vay vốn ODA so với một khoản vay thương mại thông thường.
Vốn ODA chỉ được dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển . Các nước này có thể nhận được vốn ODA khi đáp ứng các điều kiện nhất định:
+Tổng sản phẩm quốc nội thấp. Những nước có tỷ lệ GDP/người càng thấp thì tỷ lệ viện trợ không hoàn lại và các điều kiện ưu đãi càng cao . Khi các nước này đạt trình độ phát triển nhất định thì sự ưu đãi cũng sẽ giảm đi.
+Khi các nước này đạt trình độ phát triển nhất định thì sự ưu đãi chính sách và phương hướng ưu tiên của các bên cho vay.
2.2.Vốn ODA thường gắn với các điều kiện ràng buộc.
ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong những điều kiện nhất định và một phần sản phẩm quốc dân từ quốc gia phát triển sang quốc gia đang phát triển.ODA thường đi theo các điều kiện ràng buộc về kinh tế, chính trị, xã hội do bên cấp ODA áp đặt cho bên nhận hoặc do những tác động khách quan từ môi trường đem lại nhằm có lợi ích lâu dài cho bên nhận hoặc làm tăng hiệu quả viện trợ.
Thứ nhất, ODA gắn liền với điều kiện chính trị.
ODA là một trong những phương tiện để thực hiện ý đồ chính trị của nước cấp viện trợ đối với nước nhận viện trợ. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh ODA dùng để lôi kéo thêm đồng minh vì có sự đối đầu Đông- Tây , nhằm cân bằng lực lượng . Kể từ ngày các nước XHCN cũ ở Đông ÂU thay đổi thể chế chính trị vào những năm đầu của thập kỷ 90 , các nước phương Tây đã cung cấp vốn ODA , tạo điều kiện giúp đỡ các nước này chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường . Bên cấp viện trợ và các nguồn vốn chính thức khác thường cấp viện trợ cho những người bạn về chính trị và đồng minh quân sự mà không cấp cho đối tượng là kẻ thù. Trong các nước cấp viện trợ thì Nhật nặng về Châu Á với 20% dành cho vùng Nam Á và 48,8% dành cho vùng viễn đông . Viện trợ của Đức và Áo dành phần lớn cho các nước Đông Âu và Liên Xô cũ , còn Viện trợ của Mỹ hầu như dành cho Trung Đông. Một ví dụ khác là hầu hết các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị, xác định vị trí và ảnh hưởng của mình tại các nước và các khu vực tiếp nhận ODA. Hoa Kỳ dùng ODA làm công cụ để thực hiện ý đồ gây "ảnh hưởng chính trị trong thời gian ngắn", một mặt dùng viện trợ kinh tế để bày tỏ sự thân thiện, tiến đến gần gũi thân thiết về chính trị, mặt khác tiếp cận với quan chức cao cấp của các nước đang phát triển để mở đường cho hoạt động ngoại giao trong tương lại. Mỹ "lái" các nước nhận viện trợ chấp nhận một lập trường nào đó của Mỹ trong ngoại giao và tác động, can thiệp vào sự phát triển chính trị của các nước đang phát triển. Nhật Bản cũng sử dụng ODA như một công cụ ngoại giao lợi hại. Nhờ tăng cường viện trợ cho các nước đang phát triển, Nhật Bản đã tranh thủ sự ủng hộ của các nước này để trở thành thành viên của hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc. Nhật muốn quốc tế hoá đồng tiền của mình bằng cách hình thành số nợ tính bằng đồng Yên và gắn với những dự án có công ty Nhật tham gia.
Thứ hai, ODA gắn với điều kiện kinh tế.
Các nước viện trợ nói chung đều muốn đạt được những ảnh hưởng về kinh tế , đem lại lợi nhuận cho hàng hoá và dịch vụ trong nước. Họ gắn quỹ viện trợ với việc mua hàng hoá và dịch vụ nước họ như là một biện pháp nhằm tăng cường khả năng làm chủ thị trường xuất nhập khẩu và giảm bớt tác động của viện trợ đối với cán cân thanh toán. Các nước như Bỉ , Đức , Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá và dịch vụ của nước mình, Canada là 70% viện trợ phải mua hàng hoá và dịch vụ của họ. Thuỵ Sĩ là 1,7% ;Hà Lan là 2,25%; New Zeland là 0% . Tính chung trong toàn khối DAC là 22% viện trợ phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của quốc gia viện trợ.
Mặt khác các nước cho vay đều nhìn thấy lợi ích từ hỗ trợ các nước đi vay để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và vốn, xét về lâu dài là lợi về an ninh, kinh tế, chính trị khi mà kinh tế các nước nghèo tăng trưởng.
Nhật còn quy định vốn phải được thực hiện bằng đồng Yên Nhật. Tuy là nguồn hỗ trợ có tính ưu đãi nhưng ODA không phải là cho không. ODA là khoản cung cấp có vay có trả, gắn với những ràng buộc của nước, tổ chức cung cấp viện trợ. Mỗi nước cung cấp ODA đều có chính sách riêng của mình và những quy định ràng buộc khác nhau đối với nước nhận, nhiều khi những ràng buộc này rất chặt chẽ. Ví dụ: Nhật Bản quy định vốn ODA của họ (hoàn lại và không hoàn lại) đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật.Trong tình trạng đồng Yên Nhật lên giá mạnh thì việc sử dụng ODA của Nhật cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng mới có thể đạt được hiệu quả.
Vốn ODA còn dọn đường cho dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chảy vào nước tiếp nhận viện trợ.
Thứ ba, ODA gắn liền với các nhân tố xã hội.
Công chúng các nước OECD luôn ủng hộ nguyên tắc giúp đỡ những người cần giúp đỡ. Ở các nước có ODA dưới 0,7% GNP , hơn 70% dân chúng cho rằng chính phủ nên tăng ngân sách viện trợ phát triển của nước mình . Ở Nhật Bản , một nước cấp viện trợ lớn nhất trên thế giới , theo thăm dò của chính phủ khoảng 47% số người được đòi hỏi muốn duy trì mức viện trợ hiện tại và 33% muốn tăng hơn nữa.
Về phía nước nhận viện trợ phần lớn là các nước nghèo , hạn hẹp về nguồn vốn cần nguồn ODA để phát triển đất nước . Nhưng chính việc nhận viện trợ bên cạnh kinh tế là được giao lưu văn hoá với các nước viện trợ , nhưng cũng thui chột đi bản sắc văn hoá dân tộc truyền thống và có hiệu năng lan toả rất mạnh. Do định hướng giá trị , chuẩn mực văn hoá các nước là khác nhau nên khi văn hoá du nhập thường được tiếp nhận với một lăng kính khác ví dụ như sức ỳ của tư duy, ỷ lại cho rằng vốn ODA là của chùa là hỗ trợ thì chẳng cần lợi nhuận lớn làm gì , không cần trả nợ ngay thì sử dụng thong thả . Hay một bộ phận không nhỏ lợi dụng chức vụ lấy công làm tư , bớt xén của chùa .
Thứ tư, Có khả năng gây ra gánh nặng nợ nần cho nước tiếp nhận .
Trong thời gian đầu tiếp nhận và sử dụng vốn ODA, do những điều kiện vay ưu đãi nên yếu tố nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước đi vay chủ quan với nguồn vốn này không sử dụng một cách có hiệu quả . Nước đi vay không trả được lãi và vốn vay ODA theo đúng cam kết và để lại gánh nặng nợ nước ngoài cho thế hệ sau . Do đó, nước đi vay khi hoạch định chính sách tiếp nhận vốn ODA cần phải kết hợp với chính sách thu hút các nguồn vốn khác để chúng hỗ trợ nhau nhằm tăng cường nguồn vốn , tăng khả năng trả nợ tạo thế chủ động.
- Gánh nặng nợ: Mới chỉ sau 14 năm tái lập việc tiếp nhận ODA ở Việt Nam , số nợ vay đã khá lớn. Hiện tại hầu hết các khoản nợ ODA đều chưa đến hạn trả gốc nhưng theo dự báo trong vòng hơn 10 năm tới chúng ta sẽ phải lần lượt trả các khoản nợ này, ước tính mỗi năm phải trả từ 10% - 14% kim ngạch xuất khẩu cho tất cả các khoản vay. Khi đó trong một chừng mực nhất định, ta phải trả giá và tốc độ tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể bị chậm lại. Đây thực sự là gánh nợ lớn cho các thế hệ tương lai cùng với mục tiêu phát triển bền vững.
- Sự ràng buộc làm lãng phí: Hầu hết các khoản vay đều chịu sức ép trong việc phải mua hàng hoá, vật tư thiết bị hoặc sử dụng các dịch vụ (chuyên gia, tư vấn khảo sát, thiết kế...) của tổ chức, Nhà nước cung cấp ODA với giá không hề rẻ. Phía nhà cung cấp thường có những động thái nhằm thu hồi một phần tiền vay ngay trong quá trình sử dụng vốn vay, giải quyết được hàng hoá tồn đọng, việc làm, thu nhập cho các công ty của chính quốc.
- Các tổ chức tài trợ khi tài trợ cho một dự án cụ thể thường đưa ra các tiêu chuẩn kỹ thuật rất cao, thường được hiểu rằng đây là các tiêu chuẩn, chuẩn mực hoặc thông lệ quốc tế. Các tiêu chuẩn này nhiều khi rất sai khác với tiêu chuẩn của Việt Nam, gây lãng phí rất nhiều trong quá trình sử dụng vốn vay.
Sử dụng ODA là một sự đánh đổi. Việc tiếp nhận nhiều hơn và sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả là một bài toán không dễ có ngay lời giải. Các nhà quản lý và các đơn vị sử dụng vốn ODA cần có những chính sách và hành động cụ thể nhằm phát huy được những thế mạnh, hạn chế nhiều nhất những ảnh hưởng bất lợi của ODA, có như vậy mới đạt được mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.
3.Phân loại ODA.
3.1. Phân loại theo tính chất nguồn vốn .
+ Viện trợ không hoàn lại.
Bên nước ngoài cung cấp viện trợ ( mà bên nhận không phải hoàn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình dự án theo sự thoả thuận trước giữa các bên. Có thể coi viện trợ không hoàn lại như một nguồn thu của ngân sách nhà nước , được sử dụng như hình thức nhà nước cấp phát lại cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Thường được sử dụng ưu tiên cho những chương trình và dự án thuộc lĩnh vực y tế, dân số, xoá đói giảm nghèo , hỗ trợ vùng sâu , vùng xa, giáo dục đào tạo… và còn hỗ trợ cho hoạt động sản xuất trong một số trường hợp cá biệt là góp phần tạo công ăn việc làm cho nhiều người , giải quyết các vấn đề về xã hội…
Viện trợ không hoàn lại thực hiện dưới hai hình thức:
Hỗ trợ kỹ thuật
Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
+ Viện trợ có hoàn lại .
ODA hoàn lại ( ODA cho vay ưu đãi , hay tín dụng ưu đãi ) là các khoản ODA mà các nhà tài trợ cho các nước cần vốn vay một khoản tiền tuỳ theo quy mô và mục đích của dự án với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ thích hợp. Đồng thời , khoản viện trợ có hoàn lại có chứa đựng thành tố hỗ trợ quy đổi đạt ít nhất 25% trị giá khoản vay (đối với Việt Nam có quy định tại khoản 2 điều 1 Nghị định số 17/2001/NĐ-CP ngày 04/5/2001 của chính phủ) . Tín dụng ưu đãi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn ODA trên thế giới và là nguồn phụ thêm để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước , vì vậy nó được sử dụng dưới hình thức tín dụng đầu tư cho các mục đích có khả năng thu hồi vốn , hoàn trả lại cho nhà nước cả vốn lẫn lãi để trả nợ nước ngoài.
+ ODA cho vay hỗn hợp.
Đó là các khoản ODA kết hợp một phần từ ODA không hoàn lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD).
3.2. Phân loại theo nước tiếp nhận.
+ ODA thông thường : Hỗ trợ cho những nước có thu nhập bình quân đầu người thấp thường có thu nhập bình quân đầu người dưới 2 USD/ngày, tương đương 720USD/năm.
+ ODA đặc biệt : Hỗ trợ cho những nước đang phát triển với thời hạn cho vay ngắn, lãi suất cao hơn.
3.3. Phân loại theo nguồn cung cấp.
+ ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước khác thông qua hiệp định được ký kết giữa hai chính phủ . Thông thường trong tổng số ODA lưu chuyển trên thế giới , phần viện trợ song phương chiếm tỷ trọng lớn có khi lên đến 80 % , lớn hơn rất nhiều nếu so với phần viện trợ đa phương . Vì ODA song phương là nguồn vốn được chuyển trực tiếp giữa hai chính phủ với nhau nên thủ tục tiến hành cung cấp và tiếp nhận so với nguồn ODA đa phương đơn giản hơn và thời gian ký kết viện trợ cũng nhanh hơn . Song các nước cung cấp lại yêu cầu nội dung của các khoản viện trợ phải rất chi tiết và cụ thể.
+ ODA đa phương: Là hỗ trợ phát triển chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB…) hay tổ chức khu vực ( ADB, EU…) hoặc của một chính phủ nước này dành cho một chính phủ khác nhưng được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như: UNDP, UNICEF…Có hai loại tổ chức đa phương chủ yếu là các tổ chức tài chính quốc tế và các tổ chức thuộc hệ thống liên hợp quốc.
Ngoài hai nguồn cung cấp trên, không thể không kể đến sự đóng góp tích cực của các tổ chức phi chính phủ ( NGO- Non Government Organization ) trong việc cung cấp ODA trên thế giới.
3.4. Phân loại theo mục đích.
+ Hỗ trợ cơ bản: Sử dụng cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường , đây thường là những khoản vay ưu đãi.Các nước tiếp nhận ODA theo hình thức này nhưng được tính giá khá cao khi là vật tư cho không,..
+ Hỗ trợ kỹ thuật: Thông qua các chuyên gia quốc tế , các tổ chức tài trợ thực hiện việc chuyển giao công nghệ , truyền đạt những kinh nghiệm quản lý những bí quyết kỹ thuật cho nước nhận tài trợ , xây dựng năng lực , nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư , hoàn thiện thể chế, đào tạo nguồn nhân lực, …Nguồn ODA cho mục đích này thường là viện trợ không hoàn lại.
3.5. Phân loại theo tính rằng buộc.
+ ODA rằng buộc
+ ODA không rằng buộc.
Nguồn vốn ODA có tính rằng buộc thường bị rằng buộc dưới hai hình thức là rằng buộc mục đích sử dụng và nguồn cung cấp hàng hoá , dịch vụ.
3.6. Phân loại theo cách thức thực hiện.
+ Theo dự án: đây là cách thức chủ yếu , vốn ODA được thực hiện theo những dự án cụ thể .
+ Phi dự án: hỗ trợ cho cán cân thanh toán bằng cách hỗ trợ tài chính trực tiếp thông qua tiền tệ, hàng hoá ,hỗ trợ để trả nợ và hỗ trợ theo phương thức là các chương trình theo một mục đích tổng quát và trong một thời gian nhất định nhưng không xác định cụ thể vốn sẽ đựơc sử dụng như thế nào.
4. Các phương thức cung cấp vốn ODA .
4.1. Hỗ trợ cán cân thanh toán.
Bao gồm các khoản ODA nhằm hỗ trợ ngân sách nhà nước . Hình thức này thực hiện dưới dạng sau:
Chuyển giao tiền tệ trực tiếp cho nước nhận ( loại này ít gặp ).
Viện trợ hàng hoá ( hay viên trợ nhập khẩu ) , tức là chính phủ nước nhận ODA tiếp nhận một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với các khoản cam kết, bán cho thị trường nội địa và thu nội tệ.
Ngoại tệ hoặc hàng hoá chuyển vào trong nước theo hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán có thể được chuyển hoá thành hỗ trợ ngân sách. Điều này xảy ra khi nhập vào nhờ hình thức này được bán trên thị trường trong nước và số thu nhập bằng bản tệ được đưa vào ngân sách của chính phủ.
4.2. Hỗ trợ chương trình.
Đây là viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào . Ví dụ như tài trợ cho nhập khẩu một số hàng hoá hoặc tài trợ cho sự phát triển chung về giáo dục.
4.3. Hỗ trợ dự án.
Loại viện trợ này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA , điều kiện để được nhận viện trợ dự án là phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng mục sử dụng ODA . Có hai loại:
+ viện trợ cơ bản : thường cấp cho những dự án xây dựng công trình đường xá , cầu cống , kết cấu hạ tầng. Có kèm theo một bộ phận chủ yếu của viện trợ kỹ thuật dưới dạng thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó hoặc để soạn thảo , xác nhận các báo cáo cho các đối tác viện trợ.
+ viện trợ kỹ thuật:
Viện trợ tri thức ( chiếm tỷ trọng lớn nhất) bao gồm viện trợ cho hoạt động chuyển giao công nghệ , đào tạo kỹ thuật hoặc phân tích về mặt quản lý , kinh tế, thương mại , thống kê…
Viện trợ tăng cường cơ sở
Lập kế hoạch tư vấn cho chương trình.
Nghiên cứu tiền đầu tư
Hỗ trợ các lớp đào tạo , tham quan , khảo sát ở nước ngoài như cấp học bổng đào tạo dài hạn hoặc thiết bị nghiên cứu.
5. Tác dụng của vốn ODA.
ODA thể hiện mối quan hệ đối ngoại giữa các bên ( bên tài trợ và bên nhận viện trợ) , tuy vậy đối với góc đứng khác nhau thì nó sẽ có ý nghĩa khác nhau:
5.1. Với các nước tài trợ .
+ Tác dụng tích cực:
-Viện trợ song phương tạo điều kiện cho các công ty của các nước cung cấp ODA cho hoạt động thuận lợi hơn tại các nước nhận viện trợ một cách gián tiếp .Các công ty này nhận được sự ưu đãi của các nước sở tại trong công việc kinh doanh như : giành được quyền ưu tiên trong các cuộc đấu thầu , bán sản phẩm , làm cho các sản phẩm của họ tăng thêm tính cạnh tranh so với các sản phẩm cùng loại có xuất xứ từ nước khác.
-Cùng với sự gia tăng của vốn ODA , các dự án đầu tư của các công ty thuộc nước viện trợ cũng tăng theo với những điều kiện thuận lợi , đồng thời kéo theo sự gia tăng về thương mại giữa hai quốc gia, nước nhận viện trợ có thêm điều kiện tốt để phát triển kinh tế , sức mua của thị trường nội địa tăng cũng có nghĩa là thị trường xuất khẩu của các nước viện trợ cũng được mở rộng.
-Ngoài những nguồn lợi về kinh tế , nước viện trợ còn đạt được những mục đích về chính trị, ảnh hưởng của họ về kinh tế - văn hoá đối với nước tiếp nhận cũng tăng lên.
-Đối với những quốc gia hỗ trợ dự án , khi chấp nhận cung cấp ODA , có nghĩa là một động tác cộng phí từ ngân sách nhà nước họ đã được hình thành , tiếp theo các nhà thầu của nước này trúng thẩu để họ trực tiếp thực hiện dự án theo nội dung điều ước hỗ trợ vốn . Đồng thời khi chuyên gia hay nhà thầu nước ngoài vào làm việc tại nước nhận họ sẽ được miễn thuế thu nhập , thuế lợi tức tại nước nhận ODA.
+ Tác dụng tiêu cực:
Ảnh hưởng tiêu cực lớn nhất đối với các nhà cung cấp vốn ODA là áp lực của công chúng nước họ. Họ cho rằng việc chính phủ cung cấp tài trợ cho các nước khác đồng nghĩa với việc làm giảm thu nhập và mức sống của nhân dân trong nước . Áp lực này càng trở nên mạnh mẽ hơn trong điều kiện kinh tế của các nước cung cấp viện trợ gặp khó khăn do những suy thoái và khủng hoảng kinh tế trong nước. Điều này xảy ra với một số nước cung cấp viện trợ như Nhật Bản trong thập kỷ 90 , Hàn Quốc trong những năm cuối thập kỷ 90 ,sau khi khủng hoảng khu vực Đông Á và Đông Nam Á …và ảnh hưởng đến những chương trình đầu tư trong nước.
5.2. Đối với các nước tiếp nhận vốn ODA.
+ Tác dụng tích cực:
-Thứ nhất, Viện trợ đẩy tăng trưởng kinh tế , giảm tình trạng nghèo đói , cải thiện các chỉ tiêu xã hội.
Viện trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: mối quan hệ giữa viện trợ và tăng trưởng bình quân đầu người ở các nước đang phát triển không phải dễ dàng nhìn thấy được . Bởi vì viện trợ chỉ tác động một cách gián tiếp đến tăng trưởng thông qua việc tăng vốn đầu tư vào lĩnh vực chủ yếu hỗ trợ lĩnh vực khác tạo đà phát triển. Đó là cơ sơ hạ tầng.
Viện trợ góp phần làm giảm đói nghèo : mục tiêu chính của viện trợ là làm giảm đói nghèo . Quá trình giảm đói nghèo ở các nước đang phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập bình quân đầu người . Với các nước tăng trưởng nhanh thu nhập của người nghèo tăng nhanh, mức độ đói nghèo sẽ giảm xuống. Bình quân ở các nước đang phát triển có thu nhập đầu người tăng thêm 1% , dẫn đến tỷ lệ nghèo đói giảm xuống 2% . Nói cách khác, các nước có cơ chế quản lý tốt viện trợ tăng 1% GDP thực tế tạo thêm 0,5% tăng trưởng và do vậy dẫn tới giảm tỷ lệ đói nghèo xuống 1%. Là chìa khoá tạo bước nhảy vọt để giảm nghèo.ODA góp phần làm thu nhập quốc dân trên đầu người Việt Nam tăng từ mức 100 USD/ người năm 1990 lên 403 USD / người năm 2000 và 726 USD / người năm 2006. Theo Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, Việt Nam đã giảm tỷ lệ nghèo từ 58,1% năm 1993 xuống còn 24,1% năm 2004. (Tính theo tỷ lệ người sống dưới mức 1 đô-la một ngày). Chính phủ Việt Nam hy vọng giảm tỷ lệ nghèo xuống còn 11% vào năm 2010.
Theo ông Ayumi Konishi, Giám đốc Ngân hàng Phát triển Châu Á tại Việt Nam thì: “Việt Nam là một trong số ít các nước (đang phát triển) đã thành công trong việc gắn kết tăng trưởng kinh tế với xoá đói giảm nghèo.”
Viện trợ góp phần cải thiện các chỉ tiêu xã hội: Tăng trưởng rõ ràng có tác động lớn đến cải thiện các chỉ tiêu xã hội, như tuổi thọ, tỷ lệ nhập học, tỷ lệ trẻ em sơ sinh tử vong ,tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng quan hệ chặt chẽ với thu nhập bình quân đầu người hay quan hệ chặt chẽ với viện trợ .
- Thứ hai, Viện trợ thúc đẩy đầu tư.
Viện trợ bổ sung cho nguồn vốn trong nước.Tất cả các quốc gia khi thực hiện CNH-HĐH đều cần một lượng vốn đầu tư rất lớn và đây là một thách thức với các nước đang phát triển. Vốn đầu tư lấy từ nguồn trong nứơc là chính , nhưng nguồn vốn này hiện đang rất hạn hẹp, cần bổ sung bằng nguồn vốn ODA . Được thực hiện đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng , xây dựng giao thông …lĩnh vực mà ít nhà đầu tư quan tâm vì lợi nhuận ít, thu hồi vốn chậm , tiền vốn lớn.
Viện trợ thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) : Nhờ có viện trợ mà nước nhận tài trợ có cơ chế quản lý tốt sẽ tạo ra môi trường thuận lợi , hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài ; có cơ sở hạ tầng vững chắc , giao thông thuận tiện , hệ thống pháp luật ổn định…Do đó nguồn FDI được thu hút nhiều hơn, sử dụng hiệu quả hơn.
Viện trợ thúc đẩy đầu tư tư nhân .Viện trợ tăng với quy mô 1% GDP sẽ làm tăng đầu tư tư nhân trên 1,9% GDP . Do vậy các nhà đầu tư tư nhân rất ủng hộ sự kết hợp giữa cơ chế quản lý tốt với viện trợ nước ngoài.
Viện trợ giúp cải thiện thể chế và chính sách kinh tế.
- Thứ ba, Tiếp cận với thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến và phát triển nguồn nhân lực: thông qua hình thức viện trợ kèm theo rằng buộc phải sử dụng dịch vụ , hàng hoá của các nhà tài trợ , nước nhận đầu tư có cơ hội được tiếp cận với những công nghệ sản xuất quản lý tiên tiến . Nhận thấy vai trò then chốt của phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế thì các nhà tài trợ rất chú trọng ưu tiên cho lĩnh vực này. Đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao , tác phong làm việc công nghiệp có khả năng đáp ứng yêu cầu nhà tài trợ thì hiệu quả dự án mới cao. Đầu tư cho nguồn nhân lực mang lại hiệu quả lâu dài.
+Tác dụng tiêu cực:
Hạn chế lớn nhất của viện trợ phát triển chính thức là các nước nếu muốn nhận được nguồn vốn này phải đáp ứng các yêu cầu của bên viện trợ . Thông thường sẽ bị rằng buộc về kinh tế, chính trị.
Tình trạng tập trung ODA vào các thành phố lớn trọng điểm tạo ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư và gián tiếp tạo hố ngăn cách giàu nghèo.
Nguồn vốn ODA dễ tạo ra tham nhũng trong các quan chức chính phủ nếu không có kiểm soát chặt chẽ. Tránh trở thành con nợ của thế giới .
=>Tóm lại, nguồn vốn ODA chỉ phát huy tác dụng của nó trong một cơ chế quản lý tốt , môi trường chính trị ổn định , chính sách thông thoáng. Ngược lại, thì chẳng những không phát huy tác dung tích cực mà để lại gánh nặng nợ nần.
Quảng Ninh đang là tỉnh phát triển , hiện đang mong muốn thu hút nhiều ODA và sử dụng nó một cách có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế của tỉnh nói riêng và sự nghiệp đất nước nói chung.Vì vậy tỉnh cần nhận thức tầm quan trọng vốn ODA mà có giải pháp hợp lý.
XU HƯỚNG MỚI CỦA ODA TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY.
Dòng vốn ODA đã và đang khởi động có nhiều sắc thái mới .
Ngày càng có thêm nhiều các cam kết quan trọng.
mục tiêu của Kiến tạo thế kỷ 21 – vai trò của hợp tác phát triển đã được các nước thành viên DAC xác định là : vào năm 2015 sẽ giảm 50% người sống ở mức nghèo khổ trên thế giới, phổ cập giáo dục tiểu học ở tất cả các nước…
Đi đôi với việc bảo vệ môi trường.
hiệp nghị về môi trường và phát triển liên hiệp quốc được tổ chức vào tháng 6/ 1992 . Các tổ chức tài chính quốc tế như WB hay ADB cũng đã điều chỉnh chính sách viện trợ ưu tiên cho những hoạt động bảo vệ môi trường , tạo môi trường trong sạch đẹp.
Nâng cao vai trò của phụ nữ trong quá trình phát triển .
phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước đang phát triển , vì vậy việc khuyến khích họ tham gia vào hoạt động kinh tế mang lại hiệu quả cao , không biết bao doanh nhân thành đạt là phụ nữ,. “ Phụ nữ trong phát triển – Woman in development (WID)” là một quan điểm đề cao vai trò người phụ nữ. Nhật Bản khẳng định quan điểm khuyến khích WID trong chương trình ODA của mình. Nhật tích cực đầu tư cho quỹ phát triển phụ nữ của liên hợp quốc , viện nghiên cứu và đào tạo quốc tế về sự tiến bộ của phụ nữ và các tổ chức kinh tế khác có liên quan đến WID.
Cạnh tranh giữa các nước đang phát triển trong thu hút vốn ODA ngày một tăng.
mặc dù các nước ODA cam kết chỉ trích 0,7% GNP của mình để viện trợ cho các nước đang phát triển song chưa có nước nào thực hiện cam kết này. Nhật Bản và Mỹ là những nước cung cấp ODA lớn nhật thế giới mà cũng chỉ dành 0,35% GNP hàng năm . Lượng vốn ODA có xu hướng giảm , trong khi nhu cầu về vốn cho đầu tư của các nước đang phát triển không ngừng tăng lên. Đứng trước thực trạng thiếu vốn này thì sự cạnh tranh giữa các nước đang phát triển không có vấn đề nêu trên nhằm thu hút vốn ODA là điều kiện tất yếu . Các nước đã phải hoàn thiện môi trường đầu tư trong nước ( như thủ tục hành chính , hoàn thiện môi trường pháp lý …) để tạo niềm tin ở các nhà tài trợ.
NỘI DUNG CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN ODA VÀO TỈNH QUẢNG NINH.
Trong hơn 10 năm qua , trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã có 44 dự án sử dụng vốn ODA . Xét một cách tổng quát thì hầu hết các dự án ODA do các Bộ, ngành ở trung ương vận động và đưa về giải ngân tại Quảng Ninh. Hay nói cách khác Quảng Ninh là đơn vị thụ hưởng dự án và chỉ tham gia vào giai đoạn triển khai sử dụng vốn của một chu trình thực hiện ODA . Tuy nhiên thông qua một số dự án do tỉnh tự vận động để có thể thấy rõ vai trò của vốn ODA đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Việc thu hút và sử dụng vốn ODA đã được thực hiện với cơ sở pháp lý là Nghị định số 17/2001/NĐ-CP, Nghị định 131/ 2006/NĐ-CP của Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức và thông tư số 06/20._.01/TT-BKH , thông tư số 04/2007/TT-BKH ngày 30/7/2007 hướng dẫn thực hiện các nghị định trên.
Chức năng nhiệm vụ được phân công như sau:
Bộ kế hoạch và đầu tư là cơ quan đầu mối của Chính phủ trong việc điều phối và quản lý các chương trình , dự án ODA bao gồm nội dung các công việc khép kín của một chu trình dự án ODA .
Bộ tài chính được Chính Phủ uỷ quyền đại diện ký kết các điều ước ODA ; tổ chức đàm phán các hiệp định vay ưu đãi và quản lý tài chính.
Các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh , thành phố tuỳ theo chức năng nhiệm vụ của mính tham gia vào các khâu của chu trình dự án ODA.
Tại tỉnh Quảng Ninh là cơ quan đầu mối vận động, thu hút, điều phối quản lý vốn ODA và các nguồn viện trợ phi Chính phủ của tỉnh; hướng dẫn các Sở, ban, ngành xây dựng danh mục và nội dung các chương trình sử dụng vốn ODA và các nguồn viện trợ phi Chính phủ; tổng hợp danh mục các chương trình dự án sử dụng vốn ODA và các nguồn viện trợ phi Chính phủ trình UBND tỉnh phê duyệt và báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Chủ trì, theo dõi và đánh giá thực hiện các chương trình dự án ODA và các nguồn viện trợ phi Chính phủ; làm đầu mối xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh xử lý những vấn đề vướng mắc giữa Sở Tài chính với Sở Kế hoạch và Đầu tư trong việc bố trí vốn đối ứng, giải ngân thực hiện các dự án ODA và các nguồn viện trợ phi Chính phủ có liên quan đến nhiều Sở, ban, ngành, cấp huyện, thành phố và cấp xã; định kỳ tổng hợp báo cáo về tình hình và hiệu quả thu hút sử dụng ODA và các nguồn viện trợ phi Chính phủ.
- Cơ quan đầu mối được phân công là sở kế hoạch và đầu tư. Có chức năng giúp UBND tỉnh trong việc quản lý thu hút và sử dụng vốn ODA , là cầu nối giữa địa phương với trung ương và với các địa phương trong tỉnh thụ hưởng ODA ; có trách nhiệm hướng dẫn các đơn vị ; cơ quan soạn thảo các văn kiện chương trình , dự án và triển khai thực hiện theo đúng các quy định của nhà nước.
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ODA CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2001-2008.
KHÁI QUÁT CHUNG TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN ODA Ở VIỆT NAM THỜI GIAN VỪA QUA.
Giai đoạn từ 1993 đến nay, Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ tích cực của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA đã đóng vai trò quan trọng, góp phần giúp Việt Nam đạt được tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân. Trong bối cảnh tình hình hiện nay, khi nguồn ODA khó có khả năng gia tăng trong khi nhu cầu phát triển đòi hỏi nguồn lực này rất lớn, Chính phủ Việt Nam cam kết hợp tác chặt chẽ với các nhà tài trợ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ODA.
Hiện nay Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác phát triển với 25 nhà tài trợ song phương, 19 đối tác đa phương và hơn 350 tổ chức phi Chính phủ nước ngoài (NGO). Từ năm 1993 tới nay, Việt Nam đã hợp tác với cộng đồng các nhà tài trợ tổ chức thành công 9 Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (Hội nghị CG) và được cộng đồng tài trợ cam kết hỗ trợ nguồn vốn ODA với giá trị là 19,94 tỷ USD:
Bảng1.2. Cam kết và thực hiện ODA thời kỳ 2001-2008.
Năm
Cam kêt vốn ODA
(triệu USD)
Thực hiện ODA
( triệu USD)
Tổng số
19.940
9.571
2001
1.810
413
2002
1.940
725
2003
2.260
737
2004
2.430
900
2005
2.400
1.000
2006
*2.200
1.242
2007
**2.100
1.350
2008
2.400
1.650
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Ðầu tư
Ghi chú: (*) Chưa kể 0,5 tỷ USD dự định hỗ trợ cải cách kinh tế
(**) Chưa kể 0,7 tỷ USD dự định hỗ trợ cải cách kinh tế
Ðể sử dụng nguồn vốn ODA đã cam kết, từ 1993 - 2001, Chính phủ Việt Nam đã ký kết với các nhà tài trợ các Ðiều ước quốc tế cụ thể về ODA trị giá 14,72 tỷ USD, đạt khoảng 73,8% tổng vốn ODA đã cam kết tính đến hết năm 2001, trong đó, ODA vốn vay khoảng 12,35 tỷ USD (84%) và ODA vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 2,37 tỷ USD (16%). Tình hình thực hiện ODA đã có bước tiến triển khá, năm sau cao hơn năm trước và thực hiện tốt kế hoạch giải ngân hằng năm. Từ năm 1993 tới hết năm 2001 vốn ODA giải ngân khoảng 9,5 tỉ USD, tương đương với khoảng 54% tổng nguồn vốn ODA đã cam kết.
Nguồn vốn ODA đã được tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội ưu tiên của Chính phủ, đó là: năng lượng điện (24%); ngành giao thông (27,5%); phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm cả thuỷ sản, lâm nghiệp, thuỷ lợi (12,74 %); ngành cấp thoát nước (7,8%); các ngành y tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ - môi trường (11,87%).
Ngoài ra, nguồn ODA cũng hỗ trợ đáng kể cho ngân sách của Chính phủ để thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế và thực hiện chính sách cải cách kinh tế (các khoản tín dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế mở rộng, Quỹ Miyazawa, PRGF và PRSC).
Trong những năm qua, nhiều dự án đầu tư bằng vốn ODA đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng, góp phần tăng trưởng kinh tế, xoá đói, giảm nghèo như Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ 2 -1; nhà máy thủy điện sông Hinh; một số dự án giao thông quan trọng như Quốc lộ 5, Quốc lộ 1A (đoạn Hà Nội - Vinh, đoạn thành phố Hồ Chí Minh- Cần Thơ, đoạn thành phố Hồ Chí Minh- Nha Trang), cầu Mỹ Thuận..; nhiều trường tiểu học đã được xây mới, cải tạo tại hầu hết các tỉnh; một số bệnh viện ở các thành phố, thị xã như bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), bệnh viện Chợ Rẫy (thành phố Hồ Chí Minh); nhiều trạm y tế xã đã được cải tạo hoặc xây mới; các hệ thống cấp nước sinh hoạt ở nhiều tỉnh thành phố cũng như ở nông thôn, vùng núi. Các chương trình dân số và phát triển, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, tiêm chủng mở rộng được thực hiện một cách có hiệu quả. Ngoài ra, còn hàng loạt các công trình mới đầu tư bằng nguồn vốn ODA sẽ được đưa vào hoạt động trong thời gian tới.
Nhìn chung, việc sử dụng ODA trong thời gian qua là có hiệu quả, hỗ trợ tích cực cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam.
Ðạt được kết quả trên, là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
(1) Chính phủ luôn coi trọng việc hoàn thiện môi trường pháp lý để quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA. Tiếp theo Nghị định 20/CP của Chính phủ ban hành năm 1993, Nghị định 87/CP ban hành năm 1997 về quản lý và sử dụng ODA, ngày 4 tháng 5 năm 2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/2001/NÐ-CP (thay thế Nghị định 87/CP). Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp quy khác cũng được ban hành nhằm quản lý và tạo điều kiện thực hiện nguồn vốn ODA như Nghị định số 90/1998/NÐ-CP ngày 7/11/1998 về Quy chế vay và trả nợ nước ngoài; Quyết định 223/1999/QÐ-TTg ngày 7/12/1999 về Thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với các dự án sử dụng vốn ODA; Quyết định 211/1998/QÐ-TTg ngày 31/10/1998 về Quy chế chuyên gia đối với các dự án ODA ...
(2) Việc chỉ đạo thực hiện ODA của Chính phủ kịp thời và cụ thể như đảm bảo vốn đối ứng, vấn đề thuế VAT đối với các chương trình, dự án ODA, nhờ vậy nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án ODA đã được tháo gỡ.
(3) Công tác theo dõi và đánh giá dự án ODA đã đạt bước tiến bộ. Nghị định 17/2001/NÐ-CP đã tạo khuôn khổ pháp lý tổ chức hệ thống theo dõi và đánh giá chương trình, dự án ODA từ các Bộ, ngành trung ương tới địa phương và các Ban quản lý dự án. Trong năm 2000 và đầu năm 2001, Chính phủ đã giao liên bộ Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Ðầu tư và các cơ quan liên quan tiến hành kiểm tra và đánh giá tình hình sử dụng vốn vay đối với một số chương trình, dự án ODA. Kết quả kiểm tra và đánh giá cho thấy về cơ bản các dự án ODA vốn vay có hiệu quả. Tuy nhiên cũng phát hiện một số mặt còn yếu kém, nhất là công tác tổ chức thực hiện các chương trình, dự án ODA.
(4) Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ nhằm tăng cường quản lý ODA, làm hài hoà thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ để thúc đẩy tiến trình thực hiện các chương trình, dự án ODA: Ngày 12-13 tháng 4 năm 2000, tại Ðồ Sơn, Bộ Kế hoạch và Ðầu tư đã phối hợp với 3 nhà tài trợ (ADB, Nhật Bản, WB) tổ chức Hội nghị lần thứ nhất về quản lý các dự án đầu tư sử dụng vốn ODA nhằm xác định và tháo gỡ những vấn đề vướng mắc trong quá trình thực hiện chương trình, dự án ODA; tiếp đó ngày 31 tháng 8 năm 2001, Hội nghị lần thứ 2 với nội dung trên đã được tổ chức tại Hà Nội nhằm cập nhật và đánh giá tình hình thực hiện các biện pháp đã đề ra để cải thiện quá trình thực hiện vốn ODA. Một nhóm các nhà tài trợ khác, gồm Anh, Na uy, Phần Lan, Thuỵ Ðiển, Ðan Mạch, Thụy Sỹ đã phối hợp với các cơ quan của Chính phủ hoàn tất một số nghiên cứu về hài hoà thủ tục ODA.
Thực tiễn đã cho thấy hài hoà thủ tục giữa Chính phủ và nhà tài trợ là một trong những cách tiếp cận đúng đắn để bảo đảm chất lượng và tiến độ thực hiện ODA.
(5) Năng lực thực hiện và quản lý các chương trình, dự án ODA đã có bước tiến bộ. Bằng nhiều hình thức đào tạo khác nhau và qua thực tế thực hiện dự án, nhiều cán bộ của Việt Nam từ cấp cơ quan quản lý vĩ mô tới các Ban quản lý dự án đã làm quen và tích luỹ được kinh nghiệm thực hiện và quản lý nguồn vốn ODA.
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 3 tháng đầu 2008, công tác vận độn Việt Nam vẫn thuộc diện các quốc gia được hưởng nguồn viện trợ nước ngoài. Năm 2004, số vốn cam kết của các nhà tài trợ cho Việt Nam lên tới 3,4 tỷ đô-la, so với 2,7 tỷ đô-la năm 2003. Theo Tổ chức Hợp tác kinh tế và Phát triển (OECD), Việt Nam nằm trong nhóm 10 nước tiếp nhận viện trợ ODA lớn nhất. Cơ sở hạ tầng là lĩnh vực thu hút viện trợ ODA lớn nhất, chiếm tới 6 trên 10 dự án lớn nhất.
Tuy nhiên, vốn vay chiếm phần lớn trong tổng viện trợ ODA, hiện bằng khoảng 67% viện trợ ODA. Và số viện trợ được giải ngân trong 11 năm qua chỉ bằng ½ viện trợ cam kết. Đến năm 2004, một số khoản nợ đầu tiên của Việt Nam đã tới hạn phải trả. Tổng số nợ Chính phủ/GDP hiện đã lên tới 39%, tỷ lệ dịch vụ trả nợ so với kim ngạch xuất khẩu là 9,9% và bằng 6% tổng thu ngân sách. Các nguồn ODA là những khoản tiền đáng quý song phải chú ý đến tính hai mặt của nguồn lực này để đầu tư đúng chỗ và tránh lãng phí.
Những thành tích sử dụng viện trợ cho xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững của Việt Nam trong năm 2004 là tín hiệu cho thấy Việt Nam đang sử dụng có hiệu quả ODA. Các dự án phát triển nông thôn và cơ sở hạ tầng hàng năm đã giúp cải thiện đời sống địa phương và nâng cao tiềm lực sản xuất của địa phương, góp phần thúc đẩy sự phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Cam kết ODA cho Việt Nam năm 2006 đạt 3,75 tỉ USD, năm 2007 là 4,45 tỉ USD, còn cho năm 2008 con số này là 5,426 tỷ USD. Đây là mức cam kết kỷ lục, nâng tổng giá trị ODA cam kết trong 2 năm 2006-2007 đạt gần 9,88 tỷ USD, bằng 49% dự báo cam kết vốn ODA cho cả thời kỳ 2006-2010. Các nhà tài trợ cũng đang có sự chuyển dịch tài trợ khi đã đi vào các dự án lớn. Trước đây, ODA chủ yếu cho các dự án xoá đói giảm nghèo, vệ sinh môi trường, nhưng hiện đang chuyển hướng sang đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng có quy mô lớn. Điều này tạo điều kiện cho nước ta khởi công các dự án cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Chẳng hạn như 3 dự án lớn của Nhật Bản là đường sắt Bắc – Nam cao tốc, đường bộ Bắc – Nam cao tốc, Khu công nghệ cao Hoà Lạc, rồi dự án đường xe điện ngầm ở TP.HCM cũng do Nhật Bản tài trợ, dự án đường xe điện ngầm ở Hà Nội do Pháp và Nhật Bản tài trợ, các dự án khác như tuyến đường Hà Nội – Lào Cai do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đồng tài trợ với Cơ quan Phát triển Pháp (AFD)...
Hiện nay các công trình sử dụng vốn ODA đang được triển khai đúng kế hoạch nên khả năng giải ngân năm 2008 hoàn toàn có thể thực hiện đúng tiến độ.Tính đến hết quý I/2008, tổng giá trị ODA ký kết thông qua các hiệp định cụ thể với các nhà tài trợ đạt 369,06 triệu USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2007, trong đó vốn vay đạt 342,69 triệu USD và vốn viện trợ không hoàn lại đạt 26,37 triệu USD. Trong số này có những dự án tài trợ lớn như: ADB tài trợ cho dự án “Đường hành lang ven biển phía Nam thuộc tiểu vùng Mê Kông mở rộng” 150 triệu USD; Nhật Bản tài trợ “Chương trình ngân hàng - tài chính III” 75 triệu USD; dự án “Giáo dục trung học cơ sở vùng khó khăn nhất” trị giá 50 triệu USD, “Chương trình tín dụng hỗ trợ giảm nghèo lần thứ 6” (PRRSC6) trị giá 30,67 triệu USD...
Mặc dù gặp nhiều khó khăn do những biến động của thị trường, tình hình lạm phát vẫn gia tăng, nhưng nhờ những nỗ lực và các giải pháp của Chính phủ đề ra nhằm hoàn thiện thể chế về quản lý và sử dụng vốn ODA, tình hình thu hút vốn ODA trong quý 2/2008 vẫn được đánh giá rất khả quan. Theo Vụ Kinh tế đối ngoại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong quý 2/2008 này Việt Nam sẽ ký với Nhật Bản các Hiệp định trị giá khoảng 1 tỷ USD cho một số dự án cơ sở hạ tầng thiết yếu, ký với Liên minh châu Âu (EU) Hiệp định trị giá 10,8 triệu USD cho Dự án: “Phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam”, ký với Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) Hiệp định trị giá 1,5 triệu Euro (khoảng 2,3 triệu USD) viện trợ không hoàn lại cho Quỹ Đầu tư phát triển đô thị Tp.HCM (HIFU)... Cụ thể năm 2008 đã tập trung vào 4 điểm sau:
Thứ nhất, các ngành, các địa phương tập trung rà soát lại các công trình sử dụng vốn ODA do mình quản lý để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách nhằm tăng cường năng lực quản lý và sử dụng vốn ODA, đào tạo cán bộ quản lý dự án theo hướng chuyên nghiệp và bền vững.
Thứ hai, các địa phương phải tổ chức tốt việc thực hiện Đề án định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ chính thức (ODA) thời kỳ 2006-2010 và Kế hoạch hành động thực hiện Đề án này.
Thứ ba, tổ chức thực hiện tốt Quyết định số 48/2008/QĐ-TTg ngày 3/4/2008 ban hành Hướng dẫn chung lập Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức của Nhóm 5 ngân hàng, gồm: Ngân hàng Phát triển châu Á, Cơ quan Phát triển Pháp, Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản, Ngân hàng Tái thiết Đức, Ngân hàng Thế giới. Phối hợp với 5 nhóm ngân hàng này để thực hiện các giải pháp cấp bách và Kế hoạch hành động cải thiện tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA thời kỳ 2006-2010.
Thứ tư, tổ chức thực hiện theo “Khung theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA thời kỳ 2006-2010” để có những đánh giá, điều chỉnh kịp thời nhằm hạn chế tình trạng chậm giải ngân và để xây dựng kế hoạch cho những dự án tiếp theo.
=>Như vậy trong 5 năm gần đây Việt Nam liên tục đạt kỷ lục trong thu hút vốn ODA. Điều này chứng minh cho thực tế hiện nay Việt Nam đang nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế đối với chính sách phát triển kinh tế. Tuy vậy công tác quản lý và sử dụng ODA ở Việt Nam cũng còn có những mặt yếu kém và đứng trước những khó khăn, thách thức, nhất là ở các khâu chuẩn bị, tổ chức thực hiện và theo dõi đánh giá dự án.
II.TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN ODA Ở TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2001-2008.
1. Giới thiệu tổng quan về tình hình đầu tư tại tỉnh Quảng Ninh thời gian qua.
1.1.Vị trí địa lý và điếu kiện thuận lợi của tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, có tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh là: 6.110,81 km2, bờ biển dài 250 km, có biên giới đất liền với Trung Quốc 132,8 km; phía Bắc Giáp tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Quảng Tây Trung Quốc; phía Tây giáp tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương; phía Nam giáp thành phố Hải Phòng; phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ.
+Tỉnh Quảng Ninh có 1 thành phố, 3 thị xã, 10 huyện gồm: Thành phố Hạ Long; Các thị xã: Cẩm Phả, Uông Bí, Móng Cái; Các huyện: Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà, Tiên Yên, Ba Chẽ, Vân Đồn, Hoành Bồ, Đông Triều, Cô Tô, Yên Hưng.
+ Địa hình: Tỉnh Quảng Ninh có địa hình đa dạng bao gồm núi, đồi, đồng bằng ven biển và biển khơi được chia thành hai vùng chính:
Miền Tây: Gồm các địa phương Đông Triều, Uông Bí, Yên Hưng, Hoành Bồ, Hạ Long, Cẩm Phả; vùng này có diện tích: 2.337,5 km2, được xác định là vùng kinh tế động lực của tỉnh, tập trung phần lớn tài nguyên khoáng sản, thuận lợi phát triển công nghiệp khai khoáng, sản xuất vật liệu xây dựng. Ngoài ra, khu vực ven biển còn có các vũng, vịnh, đầm, đảo thuận tiện nuôi trồng thủy sản, phát triển nghề cá, du lịch, dịch vụ cảng biển.
Miền Đông: Gồm các huyện Ba Chẽ, Vân Đồn, Tiên Yên, Đầm Hà, Bình Liêu, Hải Hà, Cô Tô và thị xã Móng Cái; vùng này có diện tích: 3562 km2, là vùng có biên giới đất liền với Trung Quốc, mật độ dân cư thưa, chủ yếu là núi, đồi, độ dốc lớn, địa hình bị chia cắt mạnh tạo thành nhiều thung lũng và khe suối, thuận tiện cho việc phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng cây công nghiệp, cây đặc sản và phát triển buôn bán qua biên giới với Trung Quốc.
+ Quảng Ninh có tiềm năng kinh tế đa dạng và phong phú.
Than đá là nguồn tài nguyên chính. Từ lâu Quảng Ninh đã là khu công nghiệp than lớn của cả nước, trữ lượng khoảng 3 tỉ tấn. Mỗi năm khai thác 6 - 7 triệu tấn than. Quảng Ninh là vùng du lịch nổi tiếng, có Vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên của thế giới.
Ngoài than, Quảng Ninh có ưu thế về vật liệu xây dựng (đá vôi, đất sét, cát, đá Pyproxit Tấn Mài...) để sản xuất gạch, ngói, xi măng, đáp ứng nhu cầu nguyên, nhiên liệu cho nhiều ngành công nghiệp trong cả nước. Quảng Ninh có thuận lợi về kinh tế cảng biển, trong đó có cảng nước sâu Cái Lân, tương lai là một trong những cảng quan trọng của quốc gia.
Đất nông nghiệp có trên 74.000 ha, trong đó 35.000 ha đất canh tác, sản xuất mỗi năm 150 - 160 ngàn tấn lương thực, đáp ứng cơ bản nhu cầu khu vực nông thôn. Đất lâm nghiệp có 390.000 ha, tỉ lệ che phủ của rừng đạt trên 23%.
Ven biển , cá biển 20000 -25000 tấn/năm. Hơn 40000 ha bãi biển , 20 ha eo vịnh và hàng chục ha vùng nông ven vịnh Hạ Long, Bái Tử Long.
1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội tỉnh Quảng.
Kinh tế tăng trưởng ở mức cao, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP, giá so sánh) ước tăng 12,8% so với cùng kỳ; các nguồn lực và các ngành có lợi thế được phát huy đời sống nhân dân tiếp tục cải thiện...Tính chung trong lĩnh vực dịch vụ, giá trị tăng thêm 6 tháng đầu năm 2008 ước đạt 3.336,8 tỷ đồng, tăng 18,4% so với cùng kỳ, cao hơn mức kế hoạch đề ra của cả năm từ 1,4 – 2,4% (kế hoạch 16 - 17%). Các hoạt động thương mại và dịch vụ diễn ra khá sôi động và đạt tốc độ tăng trưởng cao. Với tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã hội ước đạt 6.398,9 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tăng khá, tổng thu ngoại tệ ước đạt 653 triệu USD, tăng 16,8%, trong đó xuất khẩu hàng hoá 649 triệu USD; kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ ước đạt 4,2 triệu USD, tăng 9,6%. Một số sản phẩm xuất khẩu tăng khá so với cùng kỳ là: Than, tùng hương, dầu thực vật, gạch ngói...
Khách du lịch đến Quảng Ninh ước đạt 2,16 triệu lượt người, bằng 65% kế hoạch, tăng 32% so với cùng kỳ (trong đó khách quốc tế 767 ngàn lượt). Cơ cấu khách quốc tế đến Quảng Ninh có những tín hiệu tích cực. Số khách đến từ Trung Quốc tăng 2,3 lần, Nhật Bản tăng 1,5 lần, Thái Lan tăng 2 lần, Pháp tăng 0,78 lần, Anh tăng 2,08 lần; lượng khách lưu trú tăng 41%. Doanh thu từ hoạt động du lịch đạt 1.107.480 triệu đồng, đạt 85% kế hoạch năm. Đặc biệt doanh thu từ dịch vụ vui chơi có thưởng, hoạt động lữ hành, phòng nghỉ, ăn uống, bán hàng hoá tăng cao. Mô hình tàu lưu trú nghỉ đêm trên vịnh đạt kết quả rất tốt. Trong 6 tháng đã có 9.380 chuyến tàu lưu trú trên vịnh với khoảng 115.400 lượt khách nghỉ. Sự chuyển biến cả về chất và lượng của ngành Du lịch với các chỉ tiêu tăng cao so với cùng kỳ và gần đạt kế hoạch năm là do lượng khách du lịch bằng đường biển đến Hạ Long đông nhất từ trước đến nay. Mỗi tháng trung bình đón từ 10.000- 12.000 lượt khách. Mô hình thí điểm quản lý hoạt động lữ hành Trung Quốc đi du lịch bằng tàu biển bước đầu đạt kết quả tốt, được khách du lịch đánh giá cao.Du lịch được coi là ngành dẫn đầu tàu về thu nhập ở Quảng Ninh.
Các hoạt động dịch vụ khác như giao thông - vận tải đã đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh và đi lại của nhân dân. Khối lượng luân chuyển hàng hoá 6 tháng đầu năm ước tăng 11% so với cùng kỳ; luân chuyển hành khách tăng 20,8%. Tổng doanh thu vận tải tăng 17,3%, trong đó bốc xếp cảng sông tăng 8%, cảng biển tăng 3%. Đầu năm nay các tuyến xe buýt nội thị trên địa bàn Hạ Long, Cẩm Phả, Uông Bí đã được đưa vào hoạt động tạo thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân. Hoạt động bưu chính, viễn thông phát triển nhanh trong việc gia tăng dịch vụ cung cấp. Mạng lưới viễn thông quốc tế, liên tỉnh, nội tỉnh tiếp tục được nâng cấp, mở rộng. Ước 6 tháng đầu năm nay đã phát triển thêm 145.477 máy điện thoại, nâng tổng số máy điện thoại trên địa bàn tỉnh lên 572.183 máy, đạt tỷ lệ 52 máy/100 dân. Dịch vụ tài chính, ngân hàng đạt tốc độ tăng trưởng cao, tăng 37% so với cùng kỳ.
Đây là sự bứt phá mới về tổng vốn đầu tư so với cả năm 2006 tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh đạt trên 17.000 tỷ đồng thì chỉ trong 6 tháng đầu năm nay đã đạt 11.050 tỷ đồng, tăng 55% so với cùng kỳ. Đầu tư từ các doanh nghiệp Nhà nước là 2.148 tỷ đồng (riêng TKV là 1.824 tỷ đồng). Khu vực dân cư và doanh nghiệp ngoài quốc doanh 700 tỷ đồng; các doanh nghiệp FDI 612 tỷ đồng; các dự án lớn (điện, xi măng…) 6.890 tỷ đồng. Khu công nghiệp Hải Hà thực hiện 15 tỷ đồng, đạt 13% kế hoạch. Tổng vốn đầu tư ngân sách Nhà nước thực hiện đạt 556 tỷ đồng, bằng 40% kế hoạch, trong đó vốn ngân sách tập trung do tỉnh quản lý thực hiện 290 tỷ đồng. Vốn do các huyện, xã quản lý thực hiện đạt 65 tỷ đồng. Một số công trình trọng điểm của tỉnh tiếp tục được quan tâm chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện như: Trụ sở liên cơ quan số 2 phấn đấu cuối năm sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng trong tháng 1-2008; sân vận động Hồng Gai đã hoàn thành bước thiết kế kỹ thuật-tổng dự toán; Bệnh viện Lao và Phổi Quảng Ninh đang hoàn thiện để phê duyệt; Nhà hát Hạ Long đang lựa chọn phương án kiến trúc… Nhìn chung, công tác đầu tư XDCB 6 tháng đầu năm nay có chuyển biến tích cực, thể hiện ở việc triển khai kế hoạch các nguồn vốn sớm; bố trí đúng mục tiêu (trong đó nguồn ngân sách tập trung đã dành 82% kế hoạch vốn (280/341 tỷ đồng) bố trí cho các công trình hoàn thành và chuyển tiếp) nên đã hạn chế được việc dàn trải trong đầu tư. Công tác chuẩn bị thực hiện đầu tư cũng được triển khai tích cực. Trong tổng số 69 công trình được ghi kế hoạch khởi công mới, tính đến 30- 5, UBND tỉnh phê duyệt kết quả đấu thầu 28 công trình, phê duyệt kế hoạch đấu thầu 14 công trình. Đối với nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước, kế hoạch cho vay năm 2007 của Trung ương đối với các dự án trên địa bàn tỉnh là 1.145 tỷ đồng, trong đó chủ yếu cho 2 dự án Nhà máy xi măng: Thăng Long và Hạ Long. Hiện tại các chủ đầu tư đang tích cực triển khai thi công xây dựng, lắp đặt máy móc, ước trong 6 tháng đầu năm sẽ giải ngân được 250 tỷ đồng, bằng 22% kế hoạch. Về vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): Trong 6 tháng đầu năm tỉnh đã chỉ đạo các ngành, địa phương đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án sử dụng vốn ODA trên địa bàn như: Dự án thoát nước vệ sinh môi trường Hạ Long - Cẩm Phả, y tế nông thôn, trồng rừng Việt - Đức… Hiện nay 2 dự án sử dụng nguồn vốn ODA của (Nhật Bản) đã được đồng ý về chủ trương đầu tư là Dự án bảo vệ môi trường thành phố Hạ Long (230 triệu USD) và dự án Cầu Vân Tiên (90 triệu USD), tỉnh đang hoàn thiện cung cấp hồ sơ theo yêu cầu của các Bộ, ngành Trung ương và nhà đầu tư.
Đánh giá tình hình kinh tế- xã hội 6 tháng đầu năm thấy rằng: Mặc dù kinh tế duy trì tăng trưởng ở mức cao, các ngành kinh tế trọng điểm chưa đạt kế hoạch đề ra. Để hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cả năm 2008 đòi hỏi phải có sự nỗ lực phấn đấu cao hơn nữa của toàn tỉnh.
Khái quát chung tình hình thu hút vốn ODA vào tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2001-2008.
2.1.Tình hình thu hút vốn ODA chung .
2.1.1.Tình hính cam kết và ký kết ODA.
Là tỉnh có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên phong phú chính vì vậy Quảng Ninh sớm được chú ý của các nhà đầu tư. Đến năm 1990 , Quảng Ninh đã thu hút được khoản ODA đầu tiên. Hầu như trong suốt giai đoạn 1990 đến 1998 , các khoản ODA được cam kết và ký kết chủ yếu là do các cơ quan trung ương thực hiện và phân bổ về Quảng Ninh thực hiện giống như phân bổ ngân sách nhà nước hàng năm. Trong giai đoạn hiện nay tình hình cam kết có điều kiện thay đổi càng khó khăn hơn cho việc vay ODA nhưng không thể phủ nhận được lượng vốn ODA ký kết đã bước đầu tăng lên. Được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1.3. Tình hình cam kết và ký kết ODA qua các thời kỳ.
Hình thức hợp tác ODA
1990-1995
1996-2000
2001-2005
2005-2010
Tổng cộng
Gía trị tài trợ
Gía trị tài trợ
Gía trị tài trợ
Gía trị tài trợ
Gía trị tài trợ
Song phương
59
50.97
243.95
15.29
369.21
Đa phương
4.3
0
38.73
9.02
52.05
Tổng cộng
63.3
50.97
282.68
24.31
421.26
Ghi chú : - Các dự án ODA lớn hầu hết được thực hiện trong nhiều năm.
- Các dự án chỉ tính 1 lần.
Nguồn : Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Ninh
2.1.2.Về quy mô và cơ cấu vốn ODA.
Huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển là khâu quyết định đối với sự nghiệp phát triển của mỗi địa phương . Nhận thức được tầm quan trọng này tỉnh Quảng Ninh đã tập trung huy động các nguồn lực , trong đó dành sự ưu tiên huy động vốn ODA thông qua các chương trình xây dựng hạ tẩng (điện , giao thông nông thôn, các công trính cấp thoat nước…). Đến nay Quảng Ninh thu hút được 44 dự án vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) , với tổng số tài trợ 420 triệu USD trong đó có 32 dự án đã kết thúc với giá trị tài trợ 142 triệu USD ;12 dự án đang triển khai ở các mức độ khác nhau với giá trị tài trợ khoảng278 triệu USD . Trong đó , các dự án viện trợ không hoàn lại có 30 dự án với số vốn tài trợ khoảng 133 triệu USD chiếm khoảng 31.67% và vốn vay có 14 dự án với số vốn khoảng 287 triệu USD chiếm 68.33% tổng giá trị vốn ODA của Quảng Ninh. Các dự án ODA tập trung chủ yếu trong lĩnh vực giao thông (chiếm 45%), lĩnh vực cấp thoát nước ( chiếm 42%), lĩnh vực môi trường , y tế , giáo dục , văn hoá …chiếm phần còn lại.
Phần lớn các khoản vay ODA của Quảng Ninh đều hương lãi suất ưu đãi khoảng từ (0.75%-2%/năm), với thời hạn vay thường dài trên 30 năm và có khoảng 10 năm ân hạn . Mức độ giải ngân vốn ODA của các dự án là khác nhau. thường phụ thuộc vào tính chất và thời gian thực hiện .
Nhưng nhìn chung thì cơ cấu vốn ODA trong tổng vốn đầu tư còn khá khiêm tốn chỉ đạt 3,36% năm 2004 thấp hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước (13-15%).
2.1.3.Tình hình thu hút ODA vào Quảng Ninh theo đối tác viện trợ.
Trong số đó, dự án viện trợ của chính phủ các nước Ôxtrâylia, Đức, Thái Lan, Nhật Bản chiếm 45-50% tổng vốn thực hiện. Dự án của các tổ chức quốc tế FAO, UNICEF, UNHCR, WB, ADB... chiếm khoảng 20 - 25% tổng giá trị thực hiện. Các dự án phi chính phủ như PLAN (Anh), FES (Đức), GVC (Italia), CARE (Ôxtrâylia) và một số dự án khác của các nước Canada, Mỹ, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Thuỵ Sỹ... chiếm khoảng 20 - 25% tổng giá trị thực hiện.
Các dự án viện trợ có quy mô tương đối lớn như: Dự án cấp nước thị xã Móng Cái do Chính phủ Ôxtrâylia tài trợ 3,91 triệu USD đã đưa vào sử dụng; Dự án PAM 5322 do Tổ chức FAO tài trợ 3,036 triệu USD; Dự án trồng rừng Việt - Đức II do Chính phủ Cộng hoà liên bang Đức tài trợ 1,37 triệu USD; Dự án trồng rừng Việt - Đức III (2001 - 2003) với tổng giá trị là 1,593 triệu USD. Ngoài ra dự án ;Hỗ trợ trẻ em nghèo phát triển giáo dục; của Tổ chức PLAN, hàng năm đã tài trợ từ 500 - 700 nghìn USD; Tổ chức tình nguyện dân sự GVC của Italia hàng năm tài trợ cho nhiều dự án với số tiền từ 200 - 300 nghìn USD...
Có rất nhiều nhà tài trợ đầu tư vào QuảngNinh. Trong số đó đối tác quen thuộc nhất vẫn là Nhật Bản.Tuy là nước cung cấp ODA lớn nhất và tổng số ODA cam kết tài trợ cho Quang Ninh chỉ đứng thứ 1, lượng vốn ODA đầu tư vào là những dự án trọng điểm của tỉnh như: thị xã Uông Bí đã vay từ vốn AOCF (Nhật) 14 tỷ đồng để xây mới Nhà máy nước Đồng Mây và dự án sử dụng vốn ODA của Nhật Bản là Dự án Bảo vệ môi trường Hạ Long (với vốn đầu tư 230 triệu USD) và Dự án Cầu Vân Tiên (90 triệu USD) Cảng Cái Lân khởi công xây dựng ngày 26-9-2000 với tổng vốn đầu tư 1.409 tỷ đồng bằng nguồn vốn vay ODA của Nhật Bản. ODA của Nhật Bản dành cho Quảng Ninh cũng rất đa dạng , bao gồm cả tài trợ không hoàn lại , cho vay và hỗ trợ kỹ thuật . Các lĩnh vực mà Nhật Bản tài trợ cho tỉnh là đường giao thông , cấp điện cấp nước …với tổng số ODA đã giải ngân là 241.024 tỷ VNĐ đạt 85.36% mức cam kết. Khởi công vào ngày 18/5/2003, Dự án cầu Bãi Cháy được thực hiện bằng vốn vay ODA Nhật Bản và vốn đối ứng trong nước với tổng mức đầu tư 2.140 tỷ đồng do Viện Cầu và kết cấu Nhật Bản (JBSI) thiết kế. Ban Quản lý các dự án 18 thay mặt Bộ GTVT thực hiện công tác quản lý dự án; liên danh Tư vấn giám sát do JBSI đứng đầu bao gồm: JBSI - PCI - TEDI - Hyder CDC. Toàn bộ dự án được chia làm 3 gói thầu xây lắp: 1 gói thầu về cầu chính (gói thầu BC2 ) do Liên danh nhà thầu Nhật Bản Shimizu & Sumitomo Mitsui thi công và 2 gói thầu về đường dẫn lên cầu (gói thầu BC1) do Cienco1 - Licogi thi công và (BC3) do liên danh Cienco1 - Trường Sơn thi công
+ ADB: Thông qua các Bộ ngành ở Trung ương , ADB đã cung cấp cho Quảng Ninh khoản vay lớn với mức vốn ký kết là 144.3 tỷ VNĐ. Đây là nhà tài trợ lớn thứ 2 cho Quảng Ninh . Lĩnh vực mà ADB tài trợ là nông nghiệp và phát triển nông thôn (2 dự án) , y tế , cấp nước .
+ WB : Hàng năm cũng dành sự quan tâm đáng kể cho tỉnh với dự án như Dự án thoát nước và vệ sinh môi trường Hạ Long - Cẩm Phả, ngày 3-10 đại diện Ngân hàng Thế giới (WB).
+ Đan Mạch :hỗ trợ 21 tỷ đồng cho Quảng Ninh . Thời gian vừa qua Đan Mạch có hỗ trợ thực hiện hợp phần Su Ma giai đoạn I và tiếp tục thực hiện Su Ma giai đoạn II với trị giá 21 tỷ đồng . Hợp tác của DANIDA với Quảng Ninh mới chỉ dừng ở lĩnh vực cấp nước . Tuy nhiên tỷ lệ ưu đãi mà DANIDA dành cho tỉnh cũng cao ( thời gian vay 30 năm , có 10 năm ân hạn , lãi suất 0% , tỷ lệ mua sắm hàng hoá có xuất sứ Đan Mạch là 50% .)
+UNIDO: Hỗ trợ cho tỉnh theo quy định giới hạn ở hình thức hỗ trợ kỹ thuật . Hỗ trợ kỹ thuật , UNIDO cũng đã dành cho Quảng Ninh khoản ODA đầu tiên và kết quả triển khai được đánh giá là tốt.
+Na Uy : Nhà tài trợ này cũng dành ưu tiên cho Quảng Ninh thông qua dự án hỗ trợ xây dựng thể chế . Các mục tiêu hỗ trợ đã thực hiện với kết quả tốt , tỷ lệ giải ngân tương đối cao.
+Italy: Thủ tục yêu cầu phía Italy đang là trở ngại lớn cho việc triển khai dự án . Tuy vậy Quảng Ninh cũng đã rất tích._.hút ODA đang dần được bộc lộ , tỉnh Ninh Bình cũng đang rất hy vọng vào nguồn “ xúc tác” này để tạo đà cho sự phát triển trong tương lai.
II.NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ THU HÚT ODA CÓ HIỆU QỦA VÀO TỈNH QUẢNG NINH.
Nhóm các giải pháp nhằm kiến nghị với Chính phủ và các Bộ, ngành ở Trung ương.
Hoàn thiện môi trường pháp lý.
Để nâng cao khả năng thu hút hợp lý và sử dụng hiệu quả vốn ODA , thì không chỉ tỉnh mà các cơ quan cấp trên cần giải quyết một số vấn đề. Cần nghiên cứu xây dựng một pháp quy có tính pháp lý cao hơn các văn bản hiện hành về quản lý vay nợ và viện trợ nước ngoài dành cho tỉnh Quảng Ninh.Nghị định số 17/2001/NĐ-CP ngày 04/05/2001 của chính phủ ban hành quy chế quản lý và được thay bằng nghị định 78/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 và thông tư hướng dẫn số 04/7/2007/TT-BKH thay cho thông tư số 06/2001/TT-BKH của bộ kế hoạch và đầu tư. Cùng hàng loạt các văn bản về chế độ xuất nhập khẩu , thuế…
Cần tiếp tục hoàn thiện : cơ chế điều phối giữa các bộ , ngành ở trung ương với nhau , giữa trung ương với địa phương , quy chế cho vay lại , các chính sách thuế cụ thể hơn, giải phóng mặt bằng , đấu thầu . Đồng thời hướng các thủ tục trong nước hài hoà với các thủ tục của các nhà tài trợ và thông lệ quốc tế .
1.2.Chính phủ cần công bố Quy hoạch sử dụng vốn ODA .
Cơ cấu thể chế cần tạo điều kiện cho đủ thông tin , đảm bảo tính minh bạch , nâng cao trách nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể , các cơ quan tham mưu cần tham mưu để chính phủ công khai hoá quy hoạch huy động và sử dụng vốn ODA . Đặc biệt là phân ODA theo vùng lãnh thổ cần càng công khai để đảm bảo công bằng giữa các địa phương.
Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với việc sử dụng ODA.
Cơ chế tài chính thực hiện dưới hai hình thức sau:
Chính phủ cho phép dự án được hưởng quy chế cấp phát từ ngân sách dù là nguồn ODA hay không hoàn lại.
Chính phủ cấp phát một phần và cho vay một phần.
Tuỳ từng địa phương , dự án mà áp dụng quy chế cho phù hợp. Quy định cụ thể về cấp phát , cho vay lại và cho vay lại một phần chưa được thực hiện theo một quy chuẩn nhất định. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương , chính phủ cân ban hành quy chế phân bổ ODA theo hình thức cấp phát , quy chế về khung lãi suất cho vay lại.
1.3.Có cơ chế cụ thể và bố trí vốn đối ứng cho các dự án.
Xây dựng cơ chế tạo nguồn vốn dự phòng trong ngân sách nhà nước riêng cho dự án ODA nhằm đáp ứng kịp thời nguồn vốn cho việc chuẩn bị dự án, giảm bớt tính bị động trong điều hành vốn đối ứng . Nên có quy định về định mức chi tiêu vốn đối ứng cho các dự án ODA hợp lý để đảm bảo đồng bộ.
Ban hành bổ sung một số văn bản quản lý về cơ chế thẩm định gía, định mức chi tiêu, quy chế thu hồi vốn trực tiếp và hoàn trả một phần vốn vay nước ngoài . Có cơ chế thực chi với dự án ODA , qui định bắt buộc đánh giá chương trình sau khi đã hoàn thành để xác định khả năng trả nợ.
1.4.Thống nhất chính sách thuế đối với các dự án ODA.
DA viện trợ không hoàn lại: Các dự án viện trợ không hoàn lại được miễn hoàn toàn các khoản thuế gián thu tức là chủ dự án ODA không hoàn lại trực tiếp NK hoặc uỷ thác NK được miễn thuế NK, không phải trả thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) nếu có đối với hàng hoá NK để thực hiện dự ánvà được hoàn lại số thuế GTGT đã trả khi trực tiếp mua hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT tại VN để thực hiện dự án. Trường hợp chủ dự án giao thầu cho các nhà thầu chính theo giá không có thuế GTGT thì Nhà thầu chính khi xây lắp công trình hoặc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho các chu dự án không tính thuế GTGT đầu ra và được hoàn lại số thuế GTGT đầu vào đã trả khi mua hàng hoá dùng để xây lắp công trình hoặc sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cung ứng cho chủ dự án.
Đối với thuế trực thu thì việc miễn thuế được thực hiện trên cơ sở quy định tại hiệp định về viện trợ không hoàn lại. Căn cứ điều kiện, tính chất, đặc điểm của từng dự án ODA viện trợ không hoàn lại mà Chính phủ VN sẽ cam kết với nhà tài trợ việc miễn thúe trực thu tại hiệp định. Đối với những dự án ODA vay ưu đãi đã được NSNN cấp phát toàn bộ hoặc cấp phát một phần, một phần cho vay lại được phê duyệt trước ngày 29/5/2001: Nếu chủ dự án đầu tư vào các lĩnh vực, ngànhnghề, địa điểm thuộc đối tượng khuyến khích đầu tư theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được miễn thuế NK đối với hàng hoá thuộc loại trong nước sản xuất được hoặc đã sản xuất được nhưng chưa đúng yêu cầu chất lượng. Đối với hàng hoá NK thuộc diện chịu thuế thì Chủ dự án được ngân sách nhà nước cấp vốn đối ứng để nộp thuế NK, thuế GTGT, thuế TTĐB(nếu có) đối với hàng hoá NK sử dụng cho dự án.
Đối với hàng hoá, dịch vụ mua trong nước, chủ dự án được hoàn lại số thuế GTGT đã trả khi trực tiếp mua hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT tại VN để thực hiện dự án (nếu không được NSNN cấp vốn để trả thuế GTGT). Trường hợp chủ dự án giao thầu cho các nhà thầu chính theo giá không có thuế GTGT thì nhà thầu chính khi xây lắp công trình hoặc cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho các chủ dự án không tính thuế GTGT đầu ra và được hoàn lại số thuế GTGT đầu vào đã trả khi mua hàng hoá, dịch vụ dùng để xây lắp công trình hoặc sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho chủ dự án. Sau khi được hoàn thuế GTGT chủ dự án phải thực hiện ghi tăng vốn đầu tư ngân sách cấp cho dự án và hàng năm quyết toán đầy đủ vào giá trị công trình, tài sản của đơn vị. Ngoài ra, đối với các dự án ODA nói chung:
Chuyên gia nước ngoài làm việc cho các dự án ODA nếu được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy xác nhận là chuyên gia nước ngoài thực hiện các chương trình, dự án ODA thì sẽ được hưởng ưu đãi về thuế, phí như được miễn thuế NK, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế GTGT, lệ phí trước bạ và thuế thu nhập cá nhân theo quy định tại Phần I Thông tư số 52/2000/TT-BTC ngày 5/6/2000 của Bộ Tài chính.
Các nhà thầu nước ngoài được miễn thuế NK hoặc không phải trả thuế GTGT đối với máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải do các nhà thầu chính nước ngoài, nhà thầu phụ nước ngoài NK theo phương thức tạm nhập tái xuất để phục vụ thi công công trình của các dự án ODA trong thời hạn thi công công trình của dự án ODA và được miễn thuế XK khi tái xuất. Trường hợp nhà thầu chính không tái xuất mà nhượng bán tại thị trường VN thì phải được Bộ Thương mại chấp thuận và phải nộp thuế NK, thuế GTGT thuế TTĐB (nếu có) và các loại thuế khác thì theo quy định của pháp luật thuế hiện hành. Như vậy, việc áp dụng các chính sách thuế ưu đãi đối với các dự án ODA đã đảm bảo phù hợp với cam kết của các nhà tài trợ và thể hiện quan điểm của Chính phủ VN trong việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA.
1.5. Hài hoà các thủ tục theo hướng đồng bộ quy trình giữa Chính phủ và nhà tài trợ.
Có sự khác biệt về quy trình thẩm định các dự án giữa Việt Nam với từng nhà tài trợ , việc yêu cầu cần tuân thủ các quy định của điều ước quốc tế về ODA nếu quy định của chúng ta khác với điều ước quốc tế . Sự thiếu tương thích về hình thức các báo cáo phục vụ phê duyệt dự án…gây nên tình trạng dự án phải trải qua nhiều khâu. Chính phủ cần điều chỉnh thủ tục theo hướng phù hợp dần với các thông lệ đó.
2 Nhóm các giải pháp đối với tỉnh Quảng Ninh.
2.1.Tăng cường hiệu lực quản lý và điều hành các dự án ODA.
- Nâng cao chất lượng và hiệu lực quản lý của bộ máy hành chính các cấp ở địa phương về ODA . Thống nhất đầu mối thu hút và quản lý ODA cũng như đầu mối về quản lý tài chính. Đề cao tính độc lập tự chủ của đơn vị thụ hưởng dự án , đồng thời giám sát chặt chẽ quá trình từ vận hành cho đến sử dụng vốn ODA và đến khâu vận hành.
- Thực hiện tốt các khâu từ tổng hợp nhu cầu vốn của các đơn vị đến các khâu vận hành sau đầu tư.
- Thực hiện tốt các khâu từ tổng hợp nhu cầu vốn của các đơn vị đến các khâu như lựa chọn , lập hồ sơ dự án, thẩm định và phê duyệt dự án , tổ chức triển khai tránh tình trạng phê duyệt các dự án sử dụng vốn ODA tràn lan như giai đoạn vừa qua. Ngoài ra , tỉnh cần cẩn thận trong việc lựa chọn đơn vị tư vấn sao cho đủ năng lực , gắn trách nhiệm của họ với dự án.
- Mặt khác , Quảng Ninh cần thực hiện đơn giản hoá thủ tục hành chính theo hướng thuận lợi cho dự án. Thành phố Hạ Long đã quyết định đầu tư hơn 500 triệu đồng để triển khai ứng dụng phần mềm tin học hoá giải quyết thủ tục hành chính tại bộ phận “một cửa” (trực thuộc UBND TP). Số kinh phí này được đầu tư mua phần mềm, trang bị hệ thống máy vi tính, màn hình cảm ứng, hệ thống mã vạch, hệ thống xếp hàng tự động, sửa chữa trụ sở bộ phận “một cửa”… Sau khi hoàn thiện việc triển khai ứng dụng phần mềm tin học hoá giải quyết thủ tục hành chính tại bộ phận “một cửa”, các thủ tục hành chính của người dân đến liên hệ sẽ được in mã vạch và đánh số tự động. Người dân chỉ cần thực hiện các thao tác đơn giản trên màn hình cảm ứng là có thể biết hồ sơ của mình được thực hiện đến đâu. Đồng thời, quy trình giải quyết các thủ tục hành chính sẽ minh bạch và công khai hơn, bắt buộc cán bộ phải thực hiện hết trách nhiệm. Dự kiến đến cuối tháng 9, phần mềm này sẽ bắt đầu đi vào hoạt động.
3. Bố trí vốn đối ứng.
Vốn đối ứng là vấn đề đau đầu nhất đối với các dự án sử dụng vốn ODA tại Quảng Ninh. Một điều kiện bắt buộc mà các nhà tài trợ trước khi tài trợ đều yêu cầu . Mặc dù đây chỉ là khoản vốn chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong mỗi chương trình , dự án dùng để trang trải cho các kinh phí để tiếp nhận vốn ODA , nhưng lại là vấn đề tương đối khó so với một tỉnh như Quảng Ninh . Rất nhiều công trình cần xây dựng . Tỉnh cần một mặt phân bổ cụ thể các nguồn vốn do trung ương phân bổ ngân sách hàng năm , đáp ứng đủ và ưu tiên cho các dự án ODA trong quy hoạch . Mặt khác , đề nghị nhà nước hỗ trợ nguồn kinh phí bổ trợ hàng năm nhằm đáp ứng yêu cầu sử dụng vốn ODA của tỉnh.
4.Hoàn thiện hệ thống thông tin hữu hiệu vốn ODA.
đối với cấp độ quốc gia thì hệ thống thông tin ODA có 2 kênh nhưng đối với địa phương Quảng Ninh có 4 kênh thông tin khác nhau là : kênh thông tin giữa nhà tài trợ và các bộ, ngành ở trung ương , kênh thứ hai là giữa bộ ngành ở trung ương với Quảng Ninh , kênh thứ ba là kênh thông tin giữa Quảng Ninh với các nhà tài trợ và kênh thứ tư là kênh thông tin trong nội bộ tỉnh Quảng Ninh . Hệ thống thông tin này có được vận hành hiệu quả hay không thì cần có cơ chế thích hợp.
Hệ thống thông tin ODA đã bước đầu được xác lập, ở trung ương bộ kế hoạch và đầu tư đã xây dựng trang Web riêng về ODA và bản tin ODA phát hành rộng rãi nhằm thông tin về tình hình ODA đến các nhà tài trợ và các địa phương . Tỉnh Quảng Ninh , sở kế hoạch và đầu tư cũng đã thiết lập một trang web giới thiệu tình hình kinh tế xã hội và các dự án kêu gọi đầu tư. Không ngừng quảng bá hình ảnh địa phương khu danh lam thắng cảnh đẹp như vịnh Hạ Long , tuần châu, bãi cháy , yên tử … tới bạn bè nước ngoài. Để hoàn thiện hệ thống thông tin này, tỉnh cần xây dựng một hệ thống trao đổi thông tin hữu hiệu giữa các ngành các cấp trong tỉnh , tăng cường trao đổi thông tin với bên ngoài bằng nhiều hình thức .
5.Ban hành quy chế quản lý thu hút và sử dụng vốn ODA.
-Quy trình huy động vốn cho các chương trình , dự án phải căn cứ vào một số cơ sở sau : Tất cả đơn vị có nhu cầu đăng ký sử dụng vốn phải thực hiện tốt khâu của quy trình từ lựa chọn , thẩm định..tính toán đầy đủ các khía cạnh liên quan đến chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn , đặc biệt khả năng trả nợ . Về cơ chế bảo lãnh của chính phủ , cần sớm sửa đổi cho các dự án quan trọng khi giá trị vay bảo lãnh nằm ngoài khả năng bảo lãnh của ngân hàng thương mại . Về cơ chế cho vay lại, cần sửa theo đúng hướng tạo ra khung pháp lý chung về các điều kiện cho vay lại , Bộ tài chính là người đại diện người vay của chính phủ đối với nước ngoài , thực hiện hoặc uỷ quyền cho vay lại trong nước đối với các nguồn vốn ODA. Về quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài , chỉ đưa vào NSNN phần trả nợ cho các dư án cho vay lại theo nghĩa vụ trả nợ , số chênh lệch giữa lãi suất cho vay lại , và lãi suất vay của nước ngoài và những khoản nợ gốc được thu hồi trước thời hạn trả nợ nước ngoài được tích luỹ trong Quỹ để đảm bảo khả năng trả nợ trong tương lai và bù đắp các rủi ro . Cần thực hiện tốt một số cơ chế , chính sách khác có liên quan, như chính sách đền bù giải phóng mặt bằng , di dân , tái định cư, các khoản thanh toán , lương , sinh hoạt phí cho chuyên gia nước ngoài , chuyển giao kỹ thuật , công nghệ của nước tài trợ.
6. Quy hoạch sử dụng vốn ODA cần được sớm hoàn chỉnh .
Việc đổi mới và nâng cao quy hoạch huy động và sử dụng vốn ODA là nhằm khắc phục tình trạng trùng lặp tài trợ , làm lãng phí nguồn lực và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn , đồng thời giúp cho các nhà tài trợ có được thông tin ổn định về nhu cầu vốn. Quy hoạch là bứơc khởi đầu đối với mỗi dự án cụ thể, đổi mới công tác này có thể giúp cho những nhà quản lý thực hiện hiệu quả hơn. Thông qua quy hoạch nhà tài trợ có thể nhận biết được thông tin đâu tư tỉnh Quảng Ninh. Hiện nay công tác quy hoạch sử dụng vốn ODA của tỉnh còn chưa quan tâm đúng mức.Mặc dù có danh mục các dự án ưu tiên sử dụng ODA đã được UBND tỉnh chính thức đăng ký với bộ kế hoạch và đầu tư trong giai đoạn 2008-2010 , nhìn chung còn chưa đầu tư trí tuệ, các ngành mới dừng lại ở một số ngành tham mưu. Cần có nội dung quy hoạch hướng vào huy động vốn và tổ chức tài trợ trên cơ sở đó dự báo hạn mức huy động , định hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế , xoá đói giảm nghèo và đạt mục tiêu xã hội . Đồng thời tổ chức thực hiện , kiểm tra , theo dõi lập quy hoạch chính xác.
7.Nâng cao năng lực và trách nhiệm , trình độ của cán bộ quản lý.
Tuy thời gian qua đã có một số dự án ODA do tỉnh chủ động vận động đội ngũ cán bộ tham gia các khâu của chu trình đầu tư nhưng bộc lộ những bất cập. đòi hỏi phải đào tạo và đào tạo lại để đáp ứng yêu cầu đặt ra . Đào tạo và luân chuyển, thử thách cán bộ qua thực tiễn. Đảng bộ Quảng Ninh nhất trí về nguyên tắc rằng, không có sự đốt cháy giai đoạn trong công tác cán bộ, mà đội ngũ cán bộ đều phải có sự trưởng thành qua công việc. Cán bộ từ nhiều nguồn, sau khi được đào tạo, quy hoạch nhất thiết phải được thử thách để trao nhiệm vụ thích hợp. Bước đầu bố trí họ tham gia công việc có mức độ, chủ yếu là tích lũy kinh nghiệm xử lý công việc qua quan sát, học hỏi, tiếp cận lĩnh vực của mình một cách có kế hoạch. Cán bộ trưởng thành dần từ những kinh nghiệm được học hỏi trong công việc, qua những thử thách của thực tiễn. Qua đó, tỉnh lựa chọn những nhân tố tốt, và tiếp tục tạo điều kiện để họ ngày càng tiến bộ. Việc đánh giá, nhận xét cán bộ tuân thủ nghiêm ngặt những hướng dẫn, quy định của công tác xây dựng Đảng, bảo đảm tính khoa học và phù hợp yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh việc đào tạo những chức danh lãnh đạo, quản lý, công tác xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh luôn là mối quan tâm thường xuyên, liên tục của các cấp ủy. Vì bản thân người cán bộ lãnh đạo, quản lý dù giỏi đến đâu, nếu không có một tập thể vững mạnh làm nền tảng, thì không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Những năm qua, Quảng Ninh làm tốt công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, mà thành công của Hội nghị biểu dương các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh năm 2008, với những kết quả tốt đẹp đã là minh chứng cụ thể.
- Tăng cường năng lực cán bộ làm việc trong các cơ quan hành chính các cấp , nhất tại sở kế hoạch và đầu tư của tỉnh. Tổ chức cho cán bộ du học tiếp thu kinh nghiệm của nước bạn để đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế . Một nghề nghiệp chuyên môn cần cấp chứng chỉ.
- Thường xuyên cập nhật những thông tin mới nhất về quản lý các dự án ODA cho cán bộ hành chính và giám đốc dự án .Nội dung hướng vào phổ biến các tài liệu hướng dẫn về chu trình của dự án , chính sách , nghiệp vụ , kinh nghiệm theo dõi , đánh giá dự án , thể chế trình độ năng lực cán bộ nhất trong các PMU.
- Phổ cập trình độ ngoại ngữ , tiếng Anh , trình độ tin học cho đội ngũ cán bộ bởi hiện nay chúng ta làm nhiều dự án cần dịch thuật.
8.Nâng cao nhận thức và mở rộng hơn nữa quan hệ đối tác tài trợ .
Áp dụng phương thức tiếp cận tổng hợp theo ngành , dự án . Tiếp tục khẳng định cải cach thủ tục pháp lý để tranh thủ sự đồng tình của các tổ chức tài chính quốc tế và chính phủ bạn . Tăng cường hình thức vận động tài trợ khác nhau như hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ , hội nghị đối tác.
Nâng cao sự nhận thức về vốn ODA không nên coi đó là viện trợ không hoàn lại mà phải xuất phát từ lợi ích quốc gia , hiệu quả kinh tế xã hội trên cơ sở lựa chọn dự án lớn .
Tiếp tục phát triển qua hệ đối tác các nước bạn , ban hành ấn phẩm định kỳ về các thông tin thống kê và phân tích tỉnh hình huy động và sử dụng vốn quốc gia , tình hình thực hiện và hiệu quả dự án ODA . Quy định trách nhiệm nhân viên, chế độ báo cáo , kiểm soát cụ thể trong hệ thống quản lý .
Tăng cường trao đổi thông tin và đối thoại giữa các nhà tài trợ với các cơ quan Việt Nam để cùng phân tích đánh giá tình hình phát triển nói chung.
9. Một số giải pháp bổ trợ khác.
- Cần duy trì ổn định về chính trị , ổn định môi trường đầu tư thu hút nhà tài trợ .
- Tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt giữa đồng Việt Nam so với một sô đồng ngoại tệ. Thực hiện thanh toán nợ nước ngoài một cách đẩy đủ và đúng hạn , tạo niềm tin cho nhà tài trợ.
kết luận.
Trên cơ sở phân tích tình hình thu hút vốn ODA vào tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2001-2008, cho thấy được những thành tựu đã đạt được nhìn chung góp phần tích cực thúc đầy kinh tế xã hội của tỉnh. Vốn ODA không ngừng tăng lên và nhiều khởi sắc. Phát huy tác dụng của nguồn viện trợ chính thức xoá đói giảm nghèo nâng cao đời sống nhân dân . Bên cạnh còn nhiều bất cập trong việc sử dụng vốn ODA như thất thoát lãng phí , tỷ lệ nợ nước ngoài còn cao, chính điều đó làm nản lòng của các nhà tài trợ . Nhận thức vốn ODA là quan trọng , đề ra những giải pháp để góp phần khẳng định vai trò “ xúc tác” của ODA. Trên cơ sở đề cập hệ thống các quan điểm và định hướng thu hút , sử dụng vốn ODA của Việt Nam , đề tài đề xuất một loạt các giải pháp cụ thể nhằm tăng cường thu hút vốn ODA vào Quảng Ninh tốt hơn.
Vịnh Hạ Long đựơc công nhận là kỳ quan thế giới , cùng với lợi thế du lịch , tài nguyên khoáng sản phong phú , thu hút lượng lớn nhà tài trợ vào tỉnh Quảng Ninh những năm tiếp sau là không thể chối cãi . Để thúc đẩy vào công nghiệp hoá , hiện đại hoá Việt Nam thì cần hoàn thiện công tác đầu tư tỉnh Quảng Ninh hơn nữa .
Tình hính đầu tư vào Quảng Ninh khả quan là “ cú huých” thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam , Việt Nam tiếp tục có bức phá mới sau gia nhập WTO phấn đấu đạt mức tăng trưởng 8,5% (GDP).
Với các dự án đã thực hiện, Quảng Ninh quyết tâm rút ngắn thời gian hoàn thành, nhằm nhanh chóng đưa vào khai thác. Với ưu thế là tỉnh có sản xuất công nghiệp tương đối phát triển, chiếm tỷ trọng cao trong GDP (trên 50%), do đó đầu tư cho kết cấu hạ tầng công nghiệp được tỉnh đặc biệt quan tâm, nổi bật các dự án: Bến số 2, số 3 và số 4 của Cảng Cái Lân; tuyến đường sắt Yên Viên - Cái Lân; thực hiện nạo vét luồng vào Cảng Cái Lân; dự án nâng cấp, mở rộng các nhà máy đóng tàu; các dự án xây dựng nhà máy điện, nhà máy xi-măng...
Tập trung sức phát triển kinh tế, nhưng đồng thời Quảng Ninh hết sức quan tâm thực hiện tốt chủ trương của Đảng về bảo đảm công bằng xã hội, chú trọng xây dựng nền tảng văn hóa tinh thần ngay trong từng bước phát triển. Để làm tốt trọng trách này, Quảng Ninh tăng cường quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo, chỉ đạo chặt chẽ để nâng cao chất lượng giáo dục. Tiến hành xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa - xã hội. Tích cực đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có trình độ; tích cực tham gia xuất khẩu lao động. Tiếp tục làm tốt công tác xóa đói, giảm nghèo. Thực hiện tốt chính sách với các đối tượng là thương binh, gia đình liệt sĩ, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Cùng với đó, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân, phòng chống có hiệu quả các dịch bệnh. Khai thác có hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững.
việc Hàn Quốc quyết định nâng mức hỗ trợ vốn phát triển chính thức (ODA) giai đoạn 2008-2011 lên 11 tỷ USD cho Việt Nam minh chứng quyết tâm của muốn đồng hành cùng Việt Nam như một đối tác tin cậy. Các khoản viện trợ sẽ tập trung vào cơ sở hạ tầng như đường sá , giao thông , viễn thông , cảng và hợp tác nguồn nhân lực . Lĩnh vực phát triển giao thông sẽ chiếm 67,5%, lĩnh vực phát triển hệ thống cấp thoát nước - hạ tầng xã hội sẽ chiếm 13,2% . Các khoản viện trợ không hoàn lại dành cho xây cơ sở dạy nghề, y tế, xoá đói giảm nghèo.
Thời kỳ 2001-2005, trên địa bàn tỉnh ta có 57 dự án ODA của 14 nhà tài trợ từ Pháp, Đan Mạch, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Phần Lan, áo, Bỉ, Lúc xăm bua, Canada, Liên minh Châu Âu (EU), Ngân hàng phát triển châu á (ADB), Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên hợp quốc (UNDCP), Ngân hàng thế giới (WB). Trong đó, có 32 dự án đã hoàn thành với số vốn thực hiện đạt 1.726 tỷ đồng, 25 dự án đang thực hiện với số vốn giải ngân đạt 341 tỷ đồng. Năm 2006 và dự kiến năm 2007 có 38 dự án ODA đang triển khai thực hiện với tổng vốn thực hiện ước đạt 691,6 tỷ đồng, trong đó có 12 dự án mới bắt đầu triển khai từ năm 2007 với số vốn cam kết là 1.153,4 tỷ đồng. Đối với các dự án NGO, hiện đã được triển khai khắp 19 huyện, thành phố, thị xã. Thời kỳ 2001-2005, các nguồn vốn NGO đã viện trợ trên 140 dự án, giải ngân 142 tỷ đồng, chiếm khoảng 0,53% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và 2,8% trong tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước của tỉnh. Ngoài các tổ chức cũ tiếp tục tài trợ, năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2007 có một số tổ chức với năng lực tài chính mạnh đã vào khảo sát và hỗ trợ dự án như: tổ chức ORBIS Mỹ; PyD Tây Ban Nha... Cả tỉnh có 46 dự án lớn nhỏ, tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, phòng chống dịch cúm gia cầm, HIV/AIDS, nâng cao năng lực... vốn cam kết tài trợ đạt khoảng 75 tỷ đồng.
Theo tính toán, để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh ta từ năm 2006-2010 đạt mức tăng trưởng 12,5-13,5%/năm thì cần phải huy động nguồn vốn đầu tư phát triển từ khoảng 80 ngàn tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ODA và NGO phải huy động đạt khoảng 6 ngàn tỷ đồng, tương đương với số vốn cam kết từ 9-10 ngàn tỷ đồng. Để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng rất lớn của các cấp, ngành. Bên cạnh việc tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về ODA và NGO, truyền tải các danh mục dự án dự án kêu gọi tài trợ trên trang Website của tỉnh, kể cả các hoạt động xúc tiến đầu tư ở nước ngoài thì cần phải tăng cường năng lực thu hút gắn với việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, NGO. Đồng thời, công tác quản lý nguồn vốn phải thực hiện một cách minh bạch và có trách nhiệm theo hướng tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, có giải pháp cụ thể để phòng chống tham nhũng. Đặc biệt, phải xây dựng mối quan hệ tốt với các bộ, ngành Trung ương và nhà tài trợ, cải tiến chất lượng tiếp xúc giữa tỉnh với các bộ, ngành, phát huy vai trò làm chủ và nâng cao tính chủ động của các ngành, các huyện trong việc vận động thu hút ODA và NGO. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của các cơ quan và thống nhất công tác vận động, quản lý các dự án về một đầu mối.
Tổng quan về tình hình đầu tư
Những tín hiệu tăng trưởng về đầu tư từ đầu năm 2001 và sự ra đời của một loạt các chính sách khuyến khích đầu tư mới đang tạo đà cho nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước vào làm ăn tại Bắc Giang
Việc thiếu vắng dự án đầu tư lớn thời gian qua đã buộc chính quyền địa phương xem xét lại vấn đề môi trường đầu tư. Kết quả là vào năm 2000, địa phương đã đưa ra những chính sách khuyến khích mới về thu hút đầu tư trong và ngoài nước với mức ưu đãi tối đa. Hoạt động đầu tư, do đó, bắt đầu được cải thiện. Có thể thấy rõ biểu hiện tăng trưởng này vào thời gian đầu năm 2001.
Về tăng trưởng hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Là một tỉnh miền núi còn gặp nhiều khó khăn, nên thời gian qua, Bắc Giang nhận được khá nhiều nguồn vốn đầu tư phát triển chính thức (ODA) của Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu á (ADB) và nguồn vốn viện trợ phi chính phủ từ nhiều quốc gia khác nhau dành cho phát triển cơ sở hạ tầng và kinh tế xã hội địa phương. Ước tính năm 1999, nguồn vốn này chiếm 10% tổng số vốn đầu tư toàn địa bàn. Từ năm 1997 đến năm 2000, trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã triển khai 44 dự án viện trợ với tổng giá trị thực hiện là 18 triệu USD. Trong số đó, dự án viện trợ của chính phủ các nước Ôxtrâylia, Đức, Thái Lan, Nhật Bản chiếm 45-50% tổng vốn thực hiện. Dự án của các tổ chức quốc tế FAO, UNICEF, UNHCR, WB, ADB... chiếm khoảng 20 - 25% tổng giá trị thực hiện. Các dự án phi chính phủ như PLAN (Anh), FES (Đức), GVC (Italia), CARE (Ôxtrâylia) và một số dự án khác của các nước Canada, Mỹ, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Thuỵ Sỹ... chiếm khoảng 20 - 25% tổng giá trị thực hiện.
Các dự án viện trợ có quy mô tương đối lớn như: Dự án cấp nước thị xã Bắc Giang do Chính phủ Ôxtrâylia tài trợ 3,91 triệu USD đã đưa vào sử dụng; Dự án PAM 5322 do Tổ chức FAO tài trợ 3,036 triệu USD; Dự án trồng rừng Việt - Đức II do Chính phủ Cộng hoà liên bang Đức tài trợ 1,37 triệu USD; Dự án trồng rừng Việt - Đức III (2001 - 2003) với tổng giá trị là 1,593 triệu USD. Ngoài ra dự án ;Hỗ trợ trẻ em nghèo phát triển giáo dục; của Tổ chức PLAN, hàng năm đã tài trợ từ 500 - 700 nghìn USD; Tổ chức tình nguyện dân sự GVC của Italia hàng năm tài trợ cho nhiều dự án với số tiền từ 200 - 300 nghìn USD...
Hiện nay, Bắc Giang đang triển khai 2 dự án mới, đó là Dự án phát triển nông thôn tổng hợp giảm nghèo do WB tài trợ với tổng số vốn 15 triệu USD cho 41 xã đặc biệt khó khăn thuộc 4 huyện miền núi trong thời gian 5 năm (2001-2005) và Dự án xây dựng hợp tác xã nông nghiệp hiện đại, tăng thu nhập, cải thiện điều kiện sống và làm việc cho các hộ nông dân xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên do Bộ Ngoại giao và Tổ chức GVC - Italia tài trợ với số vốn 850 nghìn USD, thực hiện trong 3 năm (2001-2003).
Còn với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), việc thu hút dự án chỉ thực sự nhảy vọt từ năm 2001. Từ năm 1993, Bắc Giang có 3 dự án đầu tư nước ngoài đã ;xông đất; với tổng vốn đầu tư nước ngoài khoảng 1,7 triệu USD. Từ năm 1993 đến năm 2000, nhiều nhà đầu tư nước ngoài tới Bắc Giang khảo sát, thăm dò rồi lại ra đi. Cũng vì thế mà một thời gian dài, địa phương không thu hút được dự án nào. Đầu năm 2001, bức xúc trước thực trạng này, Bắc Giang đã tiến hành đổi mới chính sách thu hút đầu tư, đặc biệt là bổ sung thêm một số chính sách hỗ trợ nhà đầu tư tiền đền bù đất và một phần kinh phí đào tạo nghề cho công nhân là người địa phương. Cùng thời điểm, hệ thống cơ sở hạ tầng của Bắc Giang đã cải thiện rõ rệt với sự phát triển của điện lưới quốc gia, giao thông đi lại thuận lợi, nhất là khi tuyến đường 1A mới và đường 18 đi qua Bắc Giang đã hoàn tất. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Đức, Nga...tiếp tục đến khảo sát, tìm cơ hội đầu tư và một số đã ở lại. Trong năm 2001, địa phương đã thu hút được thêm 3 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn khoảng 10 triệu USD. Đây là tín hiệu dự báo triển vọng lạc quan hơn của lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Bắc Giang trong thời gian tới.
Về tăng trưởng họat động thu hút vốn đầu tư trong nước
Từ năm 1997 đến nay, địa phương đã huy động được trên 2.500 tỷ đồng vốn đầu tư trong nước, chiếm 83% tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn, bình quân mỗi năm đạt 600 tỷ đồng. Nguồn vốn này được đầu tư chủ yếu cho việc xây dựng, nâng cấp hệ thống hạ tầng kỹ thuật của địa phương, đặc biệt là giao thông, thuỷ lợi, trung tâm đô thị. Nhờ đó, cơ sở hạ tầng được cải thiện rõ nét, về giao thông đã cơ bản hoàn thành quốc lộ 1A mới, cầu và đường tỉnh lộ trên một số tuyến 293, 296, 299, một số hồ đập lớn như hồ Làng Thum, hồ Suối Nứa v.v, tạo đà thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong giai đoạn 2001 - 2005, Bắc Giang sẽ tập trung huy động mọi nguồn vốn đầu tư, phát huy nội lực và tranh thủ các Bộ, Ngành trung ương để có thể thu hút khoảng 5.600 tỷ đồng đầu tư phát triển một số doanh nghiệp lớn và cơ sở hạ tầng thuộc các lĩnh vực trọng yếu về giao thông, điện, bưu chính - viễn thông, thuỷ lợi và đô thị v.v. Một số dự án đáng chú ý trong giai đoạn này là dự án xây mới nhà máy Đạm II của Chính phủ, nhà máy sản xuất bột giấy của Tổng công ty Giấy Việt Nam.
Nguồn vốn đầu tư cũng sẽ tập trung cho cả việc xây dựng các cây cầu lớn và nâng cấp toàn bộ các tuyến tỉnh lộ còn lại; đầu tư xây dựng thị xã Bắc Giang trở thành thành phố loại III và Trường Cao đẳng Sư phạm Ngô Gia Tự trở thành trường dạy nghề lớn nhất của Tỉnh.
Tuy nhiên, Bắc Giang vẫn phải khắc phục một số hạn chế trong huy động vốn, mà nguyên nhân bắt nguồn từ thực lực nền kinh tế còn ở mức khiêm tốn. Ví dụ, tổng thu ngân sách thể hiện mức huy động chưa cao, chiếm khoảng 4% GDP, trong khi mức trung bình cả nước là 18%. Do đó nguồn thu ngân sách địa phương chỉ đáp ứng được khoảng 1/4 nhu cầu chi tiêu, số còn lại do ngân sách Trung ương và các nguồn khác hỗ trợ. Thứ hai, tích luỹ đầu tư trong nội bộ nền kinh tế chưa mạnh. Số liệu năm 1999 cho thấy con số này khoảng 9% GDP (tương ứng 284 tỷ đồng) để lại tích luỹ đầu tư, chỉ đảm bảo 50% nguồn vốn đầu tư phát triển của địa phương.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Giáo trình “ Kinh tế đầu tư” - khoa kinh tế đầu tư - Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản kinh tế quốc dân năm 2007.
Giáo trình “Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ”-khoa kinh tế đầu tư - Đại học kinh tế quốc dân .
Giáo trình “Đầu tư nước ngoài” , Vũ Chí Lộc, nhà xuất bản giáo dục , 1997.
Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người , báo cáo phát triển thế giới , nhà xuất bản văn hoá thông tin, 2005.
Báo cáo nghiên cứu và trao đổi , 31/12/2007.
Bộ kế hoạch và đầu tư (2007), cơ sở dữ liệu về viện trợ phát triển Việt Nam – Công cụ quản lý và điều phối nguồn vốn ODA . Hội nghị giữa kỳ Nhóm tư vấn các nhà tài trợ , tháng 6/2007, Hạ Long.
Số liệu của sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Ninh.
Tạp chí quản lý nhà nước , số 146 (8/2008).
Tạp chí thông tin và dự báo kinh tế xã hội , số 21 (9/2007).
Tạp chí quản lý kinh tế ,số 19 (3+4/2008).
Tạp chí kinh tế và dự báo, số 3/2008.
Website của Bộ Tài Chính trang điện tử : http// WWW. Mofgov.vn.
Website của tổng cục thống kê: http//WWW. Gos.gov.vn.
Báo đầu tư : http//WWW. Vic.com.vn.
Sở kế hoach và đầu tư Quảng Ninh.htm
Giao thông vận tải .com.vn.(4/12/2006).
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24904.doc