Tình hình ruộng đất và Kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN ĐỨC THẮNG TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA BỂ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN ĐỨC THẮNG TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA BỂ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60.22.54

pdf107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình ruộng đất và Kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo sư Trần Văn Giàu từng viết: “Trải qua mấy ngàn năm, nước ta vẫn là một xứ nông nghiệp và lấy xã thôn làm đơn vị cơ sở. Tới đầu thế kỷ XIX, cương vực nước ta mới ổn định và thống nhất về mặt hành chính suốt từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mau, gồm khoảng 18.000 làng với các tên gọi khác nhau như xã, thôn, phường, giáp, điếm, ấp, lân, trang, trại, man, sách ... Làng nước gắn bó xương thịt với nhau, vì nước là thân thể, còn làng là chi thể. Cả làng và nước đều sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Cho nên, hai vấn đề nông nghiệp và xã thôn là vô cùng quan trọng đối với sự tồn vong và lớn mạnh của dân tộc ta...” [8, tr.5] Chính vì lẽ đó việc quản lý nông nghiệp và ruộng đất là một trong những công việc trọng tâm của các vương triều phong kiến Việt Nam nói chung và triều Nguyễn nói riêng. “Nhà nước Quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền có nắm chắc được ruộng đất mới có cơ sở để thu tô thuế-mà trong các xã hội tiền tư bản đều sống bằng nguồn thu từ tô thuế của dân. Với một đất nước nông nghiệp như Việt Nam vấn đề quản lý ruộng đất đặc biệt quan trọng. Việc quản lý chặt chẽ và có hiệu quả ruộng đất nhà nước có thể chi phối được mọi mặt của xã hội, trong đó trước hết là chi phối người nông dân. Đồng thời trên cơ sở làm tốt công việc này quyền sở hữu tối cao của nhà nước đối với ruộng đất trong cả nước mới được xác lập một cách vững chắc” [31] Chúng ta đi vào nghiên cứu chế độ sở hữu ruộng đất của các triều đại là đi vào vấn đề cơ bản, then chốt để giải mã lịch sử xã hội Việt Nam phong kiến. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 Nhà nước phong kiến lấy nông nghiệp làm gốc, là cơ sở của nền kinh tế đất nước. Chính vì vậy, tình hình ruộng đất và nông nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng, qua việc nghiên cứu tình hình ruộng đất và nông nghiệp giúp chúng ta hiểu biết về chính sách về ruộng đất, thực trạng nông nghiệp từng địa phương. Từ thực tiễn đó cho chúng ta những hiểu biết cơ bản, toàn diện về những vấn đề xã hội, chính trị của từng địa phương. Đồng thời giúp lý giải thêm những vấn đề liên quan đến sản xuất, tập quán sản xuất, sinh hoạt văn hoá, các mối quan hệ xã hội cũng như sự phân hoá giai cấp trong làng xã. Từ những kinh nghiệm được đúc kết trong quá trình nghiên cứu tình hình ruộng đất và nông nghiệp không chỉ có tác dụng tìm hiểu địa phương đó trong một khoảng thời gian nhất định là nửa đầu thế kỷ XIX, mà còn có ý nghĩa trong cuộc sống hiện đại. Chúng ta có thể học tập từ cha, ông ta trên nhiều lĩnh vực như: quản lý ruộng đất, kinh nghiệm canh tác, cải tạo tự nhiên, tìm hiểu về dòng họ mình thời xưa, kết cấu làng bản trong lịch sử… Xuất phát từ quan điểm nghiên cứu, tìm hiểu tình hình nông nghiệp và chế độ quản lý ruộng đất triều Nguyễn - một trong những vấn đề cơ bản của lịch sử phong kiến Việt Nam, từ đó tìm hiểu tình hình ruộng đất, nông nghiệp của huyện Ba Bể qua một thời kỳ lịch sử cụ thể là nửa đầu thế kỷ XIX. Việc nghiên cứu này cũng có thể góp phần thực hiện chính sách của Đảng, nhà nước trong việc đầu tư phát triển kinh tế, xã hội các tỉnh trung du miền núi phía Bắc nói chung và Bắc Kạn nói riêng. Chúng tôi lựa chọn đề tài “Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn) nửa đầu thế kỷ XIX ” làm đề tài tốt nghiệp. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp từ lâu đã được các sử gia phong kiến nhà Nguyễn chú ý. Có thể ra các tác phẩm tiêu biểu có đề cập đến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 vấn đề nông nghiệp và ruộng đất như: Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh dư địa chí... Từ sau năm 1945 trở lại đây đã có nhiều công trình nghiên cứu sâu rộng về tình hình ruộng đất và nông nghiệp Việt Nam trong lịch sử như: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI-XVIII của Trương Hữu Quýnh, Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX của Vũ Huy Phúc, Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn của Trương Hữu Quýnh - Đỗ Bang (chủ biên), Địa Bạ Hà Đông của Phan Huy Lê và P.Brocheux, Địa bạ cổ Hà Nội của Phan Huy Lê, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu... Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu về tình hình nông nghiệp và ruộng đất Việt Nam, dựa trên nguồn sử liệu chính thống và những nguồn tư liệu địa phương như văn bia, gia phả, hương ước…Trên cơ sở đó thu được thành quả to lớn, hệ thống hoá chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn và tác động của nó đối với kết cấu xã hội… Những thành quả trên là cơ sở tham khảo quan trong giúp chúng tôi trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài. Trong phạm vi địa phương đã có một số công trình nghiên cứu được xuất bản thành sách,có đề cập tới vấn đề đang được nghiên cứu như: Bản sắc và truyền thống văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, Lịch sử Đảng bộ huyện Ba Bể (tập 1,2,3), Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ… Đây là những tác phẩm nghiên cứu trực tiếp về huyện Ba Bể, là nguồn tư liệu để nghiên cứu kết hợp làm nổi bật vấn đề. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi thừa hưởng rất ít các kết quả nghiên cứu của những người đi trước. Đặc biệt, một công trình nghiên cứu có đối tượng là địa bạ huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến nay chưa được thực hiện. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Mặc dù vậy, một số luận văn Thạc sĩ hay khoá luận tốt nghiệp của sinh viên về tình hình ruộng đất và nông nghiệp từng địa phương gần đây đã được thực hiện như: Khoá luận tốt nghiệp Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Phú Lương (Thái Nguyên), nửa đầu thế kỷ XIX của Nguyễn Thị Mai Anh,Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Đồng Hỷ (Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX của Mai Thị Hồng Vinh, Luận văn Thạc sĩ Huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn thế kỷ XIX của Nông Quốc Huy, Huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên qua tư liệu địa bạ triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX của Lê Thị Thu Hương… Chúng tôi xem các thành quả nghiên cứu của những người đi trước là những ý kiến gợi mở, những kinh nghiệm quý báu để thực hiện đề tài nghiên cứu địa bạ của mình, nhằm mục đích tìm hiểu các vấn đề trên. Đặc biệt những địa phương có đặc thù gần gũi về mặt địa lý đối với địa bàn huyện Ba Bể sẽ là đối tượng để chúng tôi so sánh và đối chiếu. Như vậy, cho đến nay, chưa có một tác phẩm là kết quả của một công trình nghiên cứu toàn diện về nông nghiệp và địa bạ vùng trung du và miền núi phía Bắc được xuất bản. Chính vì vậy, vẫn còn nhiều vấn đề về chế độ sở hữu ruộng đất, thành phần dân tộc, tình hình ruộng đất nông nghiệp ... của vùng này còn trống vắng cần được nghiên cứu. 3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: thực hiện đề tài “Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể(tỉnh Bắc Kạn) nửa đầu thế kỷ XIX ”, trên cơ sở nguồn tư liệu khai thác được, chúng tôi mong muốn góp phần phản ánh một cách khách quan, khoa học về ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn vào thời điểm giữa thế kỷ XIX. Từ đó, đề tài tiến hành phân tích và đưa ra một số nhận xét về tình hình ruộng đất và cơ cấu kinh tế - xã hội của địa phương. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 - Đối tượng nghiên cứu: tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX. - Giới hạn nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn nửa đầu thế kỷ XIX. Đây là giai đoạn lịch sử Việt Nam có nhiều biến động về kinh tế, chính trị, xã hội. Điều đó đã tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của huyện Ba Bể, khi đó còn nằm trong tỉnh Thái Nguyên. 4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu - Nguồn tư liệu thành văn: bao gồm những tài liệu chính sử của quốc sử quán triều Nguyễn như Lịch triều hiến chương loại chí, Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, Đồng Khánh dư địa chí ... Đặc biệt những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI-XVIII của Trương Hữu Quýnh, Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam của Vũ Huy Phúc, Địa Bạ Hà Đông của Phan Huy Lê và P.Brocheux, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu ... - Nguồn tư liệu địa phương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, Địa lý tỉnh Bắc Kạn... - Nguồn tư liệu thực địa, điền dã: các tài liệu truyền miệng, truyện kể, truyền thuyết, ca dao, tục ngữ địa phương... - Nguồn tư liệu địa bạ: bao gồm 21 đơn vị địa bạ có niên đại Minh Mệnh 21 (1840) và một đơn vị địa bạ có niên hiệu Gia Long 4 (1805) đang được lưu giữ tai Trung tâm lưu tr÷ quốc gia I, Hà Nội với các ký hiệu từ 8195 đến 8257. Hầu hết các thôn, xóm đều có địa bạ, đây là cơ sở để chúng tôi phục dựng lại tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiêp của huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Trên cơ sở thực tế là nguồn tư liệu gốc địa bạ triều Nguyễn, chúng tôi đặc biệt chú ý khâu giám định, biên dịch tư liệu chữ Hán. Trên cơ sở khảo sát tư liệu gốc kết hợp với phân tích, định lượng để bóc tách và xử lý tư liệu trong nguồn tư liệu địa bạ vốn đề cập đến nhiều vấn đề, nhằm tìm hiểu chính xác tình hình sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của huyện Ba Bể, đồng thời xử lý số liệu, so sánh, đối chiếu với các nguồn tư liệu khác có liên quan. Kết hợp khai thác nguồn tư liệu thành văn, đồng thời chúng tôi sử dụng phương pháp hồi cố và điền dã làm trọng tâm. Sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc, phương pháp thống kê, đối sánh,phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân loại, phương pháp phê phán tư liệu nhằm mục đích làm rõ vấn đề nghiên cứu. 5. Đóng góp của luận văn Đề tài này được thực hiện nhằm đạt được những thành quả cụ thể: Từ góc độ địa lý lịch sử phân tích một cách khái quát về vị trí địa lý huyện Ba Bể. Thống kê chi tiết địa bạ huyện Ba Bể tới từng chủ sở hữu. Trên cơ sở các kết quả thống kê diện tích, chúng tôi tiến hành phân tích và đối chứng so sánh, rút ra những kết luận về ảnh hưởng của những thập kỷ chiến tranh, loạn lạc tới tình hình ruộng đất và nông nghiệp, đặc điểm chế độ sở hữu ruộng đất của huyện Ba Bể. Trên cơ sơ phân tích địa bạ, luận văn tìm hiểu phong tục tập quán liên quan đến ruộng đất và nông nghiệp của đồng bào các dân tộc huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX. Đúc rút những kinh nghiệm của cha, ông trong việc quản lý và khai thác đất đai. Cung cấp thêm tư liệu giúp địa phương phát triển kinh tế nông nghiệp một cách có hiệu quả nhất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 6. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm 103 trang, được chia làm 3 phần, phần mở đầu (7 trang), phần nội dung ( 86 trang), phần kết luận (5 trang). Ngoài ra còn có 5 trang tài liệu tham khảo và phần phụ lục. Phần nội dung được chia làm 3 chương: Chương 1: Khái quát về huyện Ba Bể - Tỉnh Bắc Kạn (17 trang). Chương 2: Tính hình ruộng đất huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX (41 trang). Chương 3: Kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX (28 trang). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN BA BỂ - TỈNH BẮC KẠN 1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 1.1.1. VÞ trÝ ®Þa lý Huyện Ba Bể ngày nay là huyện miền núi, vùng cao của tỉnh Bắc Kạn, cách thị xã tỉnh lỵ 60 km về phía Tây bắc, cách thủ đô Hà Nội 230 km. Ba Bể nằm ở Tây Bắc tỉnh Bắc Kạn, phía bắc giáp huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng và huyện Pác Nặm (trước đây là 10 xã thuộc Ba Bể năm 2003 được chia tách thành lập huyện Pắc Nặm), phía tây giáp huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang, phía đông giáp huyện Ngân Sơn, phía nam giáp huyện Bạch Thông và Chợ Đồn. Huyện Ba Bể nằm trong toạ độ địa lý từ 22027’ đến 22035’ vĩ độ Bắc và 105044’ đến 105058’ kinh độ Đông. Huyện Ba Bể có vị trí địa lý tương đối thuận lợi để giao lưu, phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội với các huyện trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Theo số liệu thống kê mới nhất năm 2009, huyện có tổng diện tích là 678,09km 2 tương đương 68.412 ha (bằng 14,1% diện tích tỉnh Bắc Kạn), trong đó hơn 90% là rừng núi và sông, hồ. Trung tâm của huyện là huyện lị Chợ Rã và 15 xã trực thuộc là: Mỹ Phương, Chu Hương, Yến Dương, Địa Linh, Hà Hiệu (đầu thế kỷ XIX có tên là Hạ Hiệu đến cuối thế kỷ XIX đổi tên thành Hà Hiệu) [20,tr.3], Phúc Lộc, Bành Trạch, Cao Trĩ, Khang Ninh, Cao Thượng, Thượng Giáo, Nam Mẫu, Quảng Khê, Đồng Phúc, Hoàng Trĩ. Ba Bể là một huyện miền núi với bề mặt địa hình bị chia cắt mạnh và có độ dốc lớn, hướng núi không đồng nhất. Độ cao trung bình trên 600m so với mặt nước biển, nơi có địa hình cao nhất là 1517m nằm trên đỉnh Phia Bjooc. Địa hình Ba Bể nghiêng dần theo hướng đông bắc - tây nam. Huyện Ba Bể có địa hình hiểm trở nhưng hùng vĩ và đa dạng về sinh thái. Cánh cung sông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Gâm chạy dài theo hướng đông bắc - tây nam xuyên suốt địa giới của huyện với dãy Phja Bjoóc trùng điệp, hùng vĩ như một bức trường thành. ở Phía tây bắc và đông nam có hai ngọn núi Phja Mạ cao 1.980m và Phja Ngoàm cao 1.190m. Ba Bể có nhiều hang động kỳ thú, độc đáo có thể cải tạo thành nhiều điểm du lịch đặc sắc, hấp dẫn. Trên địa bàn huyện có hồ Ba Bể, đây là một hồ kiến tạo lớn nhất và cũng là một danh thắng nổi tiếng cả nước. Hồ Ba Bể nằm trên độ cao 145m, chứa khoảng gần 5 triệu m3 gồm ba hồ (Pộ Nằm, Pộ Lự, Pộ Làng) dài gần 9 km, nơi rộng nhất tới gần 2 km, sâu chừng 30 - 40m, là hồ kiến tạo được cấu tạo trong đá phiến và đá vôi. Hồ hơi eo lại ở giữa thành dạng một hành lang giữa các vách đá dựng đứng. Giữa hồ có 3 đảo nhỏ, lớn nhất là đảo An Mã cùng với hồ Ba Bể là vườn Quốc gia Ba Bể với một hệ thống rừng đặc dụng, di sản thiên nhiên quý giá có diện tích 23.340ha, ở đây có tới 417 loài thực vật và 299 loài động vật có xương sống. Huyện Ba Bể có rất nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt là ngành du lịch sinh thái. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để tỉnh Bắc Kạn đầu tư phát triển thoát nghèo. 1.1.2. Điều kiện tự nhiên Theo sách Đại Nam nhất thống chí mục thổ sản cho biết, châu Bạch Thông nói chung và Ba Bể nói riêng là vùng khá phong phú về các loại thổ sản và khoáng sản. Châu Bạch Thông có mỏ vàng Bằng Thành, mỗi năm thu thuế 15 lạng, mỏ sắt Quảng Khê 500 cân. Các loai lâm thổ sản quý đã được khai thác và sử dụng trong cuộc sống lao động và sản xuất như: “Cỏ tranh, lá cọ, các loại mây, hậu phác, sa nhân, tre nứa, tre gai, tre hoa (tức ban trúc, có vằn tròn, như hình trôn ốc, chất cứng rắn, người ta thường dùng làm đòn cáng), gỗ lim, gỗ sến, gỗ đinh, gỗ táu, gỗ xoan: các thứ kể trên đều sản ở các châu huyện Đông Hỉ, Phổ Yên, Phú Lương và Bạch Thông” [7, tr.181] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 Về địa hình: huyện Ba Bể có thể chia thành ba khu vực. Các xã phia Tây như Nam Mẫu, Quảng Khê, Cao Trĩ, Hoàng Trĩ với những dãy núi đá vôi cao trên 1000m, xen giữa là các thung lũng hẹp tạo thành những dãy núi dựng đứng treo leo. Độ cao phổ biến từ 600 - 1000m, độ dốc trên 30. Đây là vùng núi cao điển hình, ít có điều kiện phát triển nông nghiệp. Phía Nam là các xã với địa hình núi đất độ cao từ 300 - 400m, độ dốc bình quân trên 20 nhưng bị chia cắt mạnh bởi các khe suối, là địa bàn có thể phát triển nông nghiệp và nông - lâm kết hợp. Đây là vùng có tiềm năng lớn để phát triển các loại cây ăn quả, cây lâm nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Vùng trung tâm huyện và các xã phụ cận là các thung lũng phân bố dọc theo các dòng sông, dòng suối. Xen giữa các thung lũng là các dãy núi có độ cao trung bình từ 200 - 300m. Diện tích vùng này khoảng 1000ha đây là vùng tập trung các cánh dồng mầu mỡ của huyện. Với đặc điểm bao gồm cả ba loại hình núi đá vôi, núi đất và thung lũng là đặc điểm thuận lợi phát triển nông lâm nghiệp kết hợp,đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi Về khí hậu: Theo sách Đồng Khánh dư địa chí thì khí hậu chung của châu Bạch Thông là: “Khí trời nhiều lạnh rét, khí đất ẩm ướt, cuối xuân còn lạnh, đến mùa hạ mới hơi nóng, đầu thu đã rét, đến mùa đông rét đậm. Mùa đông và mùa xuân sương mù khí núi che phủ bầu trời, trước giờ Tý sau giờ Thân từ nhìn quanh không thấy núi” [10, tr.820] Ba Bể có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa nóng từ tháng tư đến tháng mười, mùa lạnh từ tháng mười một đến tháng ba năm sau. Nhìn chung Ba Bể có đặc điểm khí hậu tương đối thuận lợi cho việc phát triển nông - lâm nghiệp theo hướng đa dạng hoá cây trồng, vât nuôi. - Các dạng thời tiết chính: Thời tiết giá rét-gió Mùa Đông bắc, thời tiết nồm, thời tiết sương muối, thời tiết khô nóng, thời tiết mây mù.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 Sông ngòi, thuỷ văn: Ba Bể có những hệ thống sông suối khá dày và trực tiếp chi phối chế độ thuỷ văn của huyện, song các sông suối đa phần đều có đầu nguồn hẹp, độ dốc lớn nên thường gây ra lũ ống, lũ quét và ngập úng về mùa mưa, ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất cây trồng và làm xói lở, vùi lấp một phần diện tích nông nghiệp. Cụ thể Ba Bể có các hệ thống sông chính: - Sông Năng: Bắt nguồn từ vùng núi thuộc huyện Bảo Lạc - Cao Bằng chảy vào tỉnh Bắc Kạn ở xã Bằng Thành, huyện Pác Nặm. Một nhánh phụ bắt nguồn từ phần phía đông của dãy Phia Bjooc, theo hướng đông - tây, chảy qua các xã Chu Hương, Mỹ Phương, Hà Hiệu và nhập với nhánh chính trên địa bàn xã Bành Trạch đi qua thị trấn Chợ Rã, xã Thượng Giáo, xã Cao Trĩ, Khang Ninh, sau đó nhận được nước của sông Chợ Lèng rồi chảy sang địa phận Tuyên Quang.Tổng chiều dài 113km2, phần qua Bắc Kạn 87km2. Tổng lưu vực rộng 2270km2 với phần chảy qua Bắc Kạn rộng 890km2. Hướng chảy: Từ Cao Bằng - Bằng Thành (Pắc Nặm) - Xuân La - Anh Thắng - Bành Trạch. Hướng Tây Bắc - Đông Nam. Từ Bành Trạch- Cao Thượng - Tuyên Quang theo hường Đông – Tây. Sông qua núi Lũng Nham tạo thành động Puông dài 300m rộng và cao 30- 40m. Hết địa phận Bắc Kạn, sông bị chặn bởi nhiều tảng đá to, chia thành các dòng nhỏ và tạo thành thác Đầu Đẳng hùng vĩ dài hơn 1000m, chảy sát hồ Ba Bể nên sông có cửa thông với hồ là cửa Bế Cam (Nam Mẫu). Sông có tiềm năng thủy điện lớn hiện đang xây dựng nhà máy thuỷ điện Na Hang(Tuyên Quang). Cuối cùng sông Năng đổ vào sông Gâm ở Tuyên Quang. Sông Năng có nhiều sông, suối nhỏ đổ vào sông như sông Bộc Bố, sông Hà Hiệu. - Sông Chợ Lèng chảy vào lòng hồ Ba Bể bắt nguồn từ dãy núi Phia Booc chảy theo hướng đông nam - tây bắc, qua địa bàn huyện Ba Bể trên địa phận các xã Đồng Phúc, Quảng Khê, Nam Mẫu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 - Sông Tả Han và suối Bó Lù đều bắt nguồn từ dãy Phia Bjooc chảy vào hồ Ba Bể. - Suối Cao Thượng bắt nguồn từ xã Cổ Linh huyện Pắc Nặm chảy qua địa bàn xã Cao Thượng rồi hoà vào sông Năng. Điều kiện tự nhiên của Ba Bể có nhiều thuận lợi để phát triển nông - lâm nghiêp. Mặc dù vậy, Ba Bể cần phải đầu tư nâng cấp và phát triển mạng lưới giao thông đường bộ để mở rộng thị trường, tạo điều kiện thông thương giao lưu hàng hoá phát triển. Trong thời gian vừa qua mạng lưới giao thông của tỉnh Bắc Kạn nói chung và huyện Ba Bể nói riêng đã được quan tâm đầu tư xây dựng. Mạng lưới đường bộ gồm hệ thống quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện, đường đô thị, đường xã và đường thôn xóm với tổng chiều dài 1166 km, trong đó: Quốc lộ với tổng chiều dài 160 km với 42 cầu; Đường tỉnh với tổng chiều dài 367 km với 47 cầu; Đường huyện có tổng chiều dài 673 km với 106 cầu, mật độ đường đạt 24,31 km/km2. Do địa hình vùng này phức tạp nên hệ thống đường giao thông của tỉnh rất nhiều cầu, cống, với trên 1000 km đường bộ có tới 195 cây cầu và 1673 cống. Quốc lộ 3 chạy suốt theo chiều dài của tỉnh và các đường tỉnh lộ đều bắt đầu từ trục quốc lộ 3. Quốc lộ 279 (đường vành đai II) cũng đã và đang được từng bước năng cấp nối Bắc Kạn với Lạng Sơn và Tuyên Quang. Các tuyến khác như đường 254 Đèo So - Chợ Đồn- Ba Bể và đường Bằng Lũng qua Ba Hồ – Yên Thượng, huyện Chợ Đồn cũng đã được nâng cấp. Trong thời kỳ 2001-2006 đã đầu tư nâng cấp, xây dựng mới trên 500 km đường huyện, trên 1000 km đường liên xã, liên thôn đạt tỷ lệ 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã. Hoàn thành các cầu lớn như Thác Giềng, Yên Đĩnh, Hảo Nghĩa, Dương Quang, Bắc Kạn II. Đường liên xã tổng chiều dài trên 1000 Km, đạt tiêu chuẩn giao thông nội tỉnh loại A, B, mặt đường là đất cấp phối tự nhiên, ngoài ra hệ thống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 đường giao thông nội tỉnh, đường thôn xóm có chiều dài khoảng 4000 Km đạt tiêu chuẩn giao thông nội tỉnh loại B không tính vào mạng lưới giao thông đường bộ. Nhìn chung mạng lưới đường bộ trong tỉnh tạo thuận lợi trong việc giao lưu với các tỉnh bạn, nối liền trung tâm của tỉnh với trung tâm của huyện và trung tâm các xã. Về chất lượng tuy có được cải thiện song vẫn thấp so với yêu cầu cần thiết, có nhiều tuyến chưa được nâng cấp trải nhựa, đặc biệt là những tuyến nằm ở miền núi và các tuyến đường huyện xã. Nhìn chung, hệ thống giao thông của tỉnh Bắc Kạn tuy đã được Chính phủ đầu tư, song vẫn còn rất nhiều khó khăn, vì vậy để tạo môi trường đầu tư thuận lợi và đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh, khai thác được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, đòi hỏi phải nâng cấp trục quốc lộ 3 thành đường cao tốc, nhằm rút ngắn thời gian vận chuyển từ Bắc Kạn về các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, đồng thời tiến hành đồng bộ việc mở thêm các tuyến đường mới với việc nâng cấp các các tuyến đường hiện cũ. Trên địa bàn tỉnh có 5 dòng sông chảy qua nhưng chủ yếu là sông đầu nguồn, dòng chảy hẹp, mực nước nông lại nhiều ghềnh thác nên hệ thống giao thông đường thuỷ của Bắc Kạn không có điều kiện phát triển. Chỉ có sông Năng và sông Cầu có thể khai thác từng đoạn ngắn và cũng chỉ vận chuyển được bằng thuyền gắn máy nhỏ. 1.2. Các thành phần dân tộc huyện Ba Bể Thành phần dân tộc của huyện Ba Bể được viết trong một số tài liệu không thống nhất trong việc xác định số lượng các dân tộc trên địa bàn huyện. Về cơ bản Ba Bể có 6 dân tộc chính sinh sống trên 16 đơn vị hành chính xã, thị trấn với 199 thôn, bản. Năm dân tộc đó là Tày, Kinh, Dao, Mông, Nùng, Sán Chí với 10.025 hộ, khoảng 47.000 người. Trong đó dân số nông thôn khoảng 43.54 người (chiếm tỷ lệ 92,7%). Mật độ dân số trung bình là 69 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 người/km2. Trong quá trình lịch sử, huyện Ba Bể đã tiếp nhận nhiều dân tộc di cư đến cùng làm ăn, sinh sống: “Trong toàn huyện, người Thổ (người Tày), người Nùng, người Mán ở xen nhau. Tiếng nói, quần áo, tập tục ăn cũng giống dân huyện Cảm Hoá.Người Mán cũng có Mán Đại Bản, Mán Đeo Tiền, Mán Sơn Miêu, phong tục khác nhau” [10, tr.820] 1.2.1. Người Tày: Người Tày ở Bắc Kạn là cộng đồng dân số có số dân đông nhất với 149.459 người chiếm 54,32% dân số toàn tỉnh. Người Tày ở Bắc Kạn gồm ba bộ phận cấu thành với những tên gọi khác nhau: + Bộ phận người Tày bản địa từ thời nguyên thuỷ đã có mặt và sinh sống ở Bắc Kạn + Bộ phận người Tày gốc Kinh từ dưới xuôi lên theo thời gian lâu dài đã Tày hoá + Bộ phận người Tày - Nùng từ Quảng Tây (Trung Quốc) sang Bắc Kạn. Bộ phận người Tày ở Ba Bể chủ yếu là người Tày Nặm (Tày nước để phân biệt với Tày Bốc tức Tày cạn ở huyện Pắc Nặm). Người Tày Nặm sống ở vùng thấp nhiều sông nước như các xã hạ lưu sông Năng, sông Cầu. Ngoài ra còn có người Tày Slo ở Mường Slo thuộc thung lũng sông Năng. Người Tày sống tập trung thành làng bản trong các thung lũng lòng chảo, lòng máng hoặc dọc theo hai bờ sông, suối. Có bản đông tới vài chục nóc nhà, cũng có bản chỉ có vài ba nóc nhà đơn sơ dựng bên sườn núi. Ở nhà sàn cho tới nay vẫn là truyền thống của đồng bào. Tại một số địa phương như Nghiêm Loan, đồng bào vẫn còn giữ được đặc trưng của nếp nhà sàn cổ xưa. Ở những vùng tiếp cận với thị trấn và các chợ như Phố cũ, xã Hà Hiệu, nhiều hộ đã bỏ nhà sàn chuyển sang ở nhà đất, nhà xây như ở dưới xuôi. Đồng bào Tày làm ruộng nước là chính, ngoài ra còn chống ngô và hoa mầu ở các soi, bãi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 1.2.2 Người Kinh: Ngay từ buổi đầu dựng nước, các triều đại phong kiến Lý - Trần đã rất chú ý đến cộng đồng các dân tộc miền núi phía Bắc, thể hiện qua việc phong tước, chọn phò mà là các tù trưởng có uy tín. Có lẽ bộ phận người Kinh đầu tiên ở vùng núi phía Bắc là những binh lính đồn trú ở biên giới, hay những người hầu cận của các vị công chúa phong kiến xuất hiện ở đây. Đặc biệt thời kỳ nội chiến Nam - Bắc triều (từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII), các thế lực họ Mạc, các lực lượng Lê - Trịnh phát triển mạnh lên miền núi, trong đó có Bắc Kạn. Một số người ở lại và bị Tày hoá. Sang đến thời Nguyễn rồi thời Pháp, người Kinh ở miền xuôi vẫn tiếp tục lên Bắc Kạn bằng nhiều con đường: lưu quan, binh lính, phu mỏ, phu làm đường…và họ tiếp tục bị Tày hoá. Số người Kinh lên Bắc Kạn khoảng đầu thế kỷ XX đến trước 1945 nằm trong bộ máy cầm quyền của Pháp như binh lính, thầy giáo, thầy thuốc và một số tiểu thương buôn bán nhỏ không bị Tày hoá mạnh như trước. Họ trở thành bộ phận người Kinh ở Bắc Kạn.Năm 1932 có khoảng 3.900 người Kinh ở Bắc Kạn, chủ yếu ở các thị trấn, thị xã. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Bắc Kạn đón tiếp nhiều cán bộ, bộ đội, thanh niên xung phong và cả đông bào tản cư lên tham gia kháng chiến. Sau năm 1954, một số người không trở về quê hương mà ở lại sinh cơ lập nghiệp rối thành người Bắc Kạn. Thời kỳ những năm 60 thế kỷ XX, theo lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiêù kiều bào đã từ nước ngoài trở về xây dựng tổ quốc. Nhiều người vốn quê ở Bắc Kạn đã trở về quê hương. Ngày này nhiều người là cán bộ chủ chốt của tỉnh Bắc Kạn. Từ năm 1963 trở đi, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đưa một số đồng bào Kinh lên miền núi khai hoang phát triển kinh tế- văn hoá, số người Kinh lên Bắc Kạn tăng nhanh với hàng nghìn hộ, phân bố hầu khắp các xã trong toàn tỉnh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 Người Kinh định cư ở Ba Bể chủ yếu từ sau năm 1963, hiện nay vẫn có người Kinh lên Ba Bể lập nghiệp theo con đường buôn bán hoặc hôn nhân. Người Kinh ở Ba Bể sống tập trung chủ yếu ở thị trấn, số đông làm nghề buôn bán. 1.2.3.Người Nùng: Người Nùng từ Trung Quốc đến sinh sống ở Bắc Kạn chủ yếu từ 6 - 7 đời gần đây. Ở Bắc Kạn chủ yếu có các nhóm Nùng là Nùng Phản Sinh, Nùng An, Nùng Giang, Nùng Cháo. Người Nùng ở Ba Bể chủ yếu là người Nùng An, phần lớn theo đường Quảng Hoá - Cao Bằng sang, một số sang Hoà An ngược sông Nguyên Bình đến các huyện Ba Bê, Bạch Thông. Người Nùng chủ yếu sống ở vùng thấp, lấy nghề nông lúa nước làm nguồn sống chính, họ ở xen canh trong vùng người Tày, sớm hoà nhập vào cộng đông dân cư địa phương, một số có xu hướng chuyển sang dân tộc Tày. 1.2.4 Người Dao: Có số dân đứng thứ hai sau người Tày, người H’Mông có số dân khoảng hơn nửa số dân người Dao. Người Dao và người H’Mông sinh sống chủ yếu ở vùng núi cao, làng bản thưa thớt, nhà cửa đơn sơ. Địa bàn sinh sống tập trung của đông bào là quanh chân núi Phja Bjoóc với phương thức du canh, du cư, phát nương làm rẫy, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu. Ngày nay, Đảng bộ, chính quyền địa phương đang từng bước giải quyết, ổn định đời sống của đồng bào, xoá bỏ nạn phá rừng. Người Dao ở huyện Ba Bể chủ yếu là người Dao thuộc ngành Dao đỏ với các nhành Dụ Lảy, Dụ Tsiăng. “- Dụ Lảy là tên tự gọi, còn gọi là Dao Quế Lâm. Nguyên chi này gốc ở Quế Lâm - Trung Quốc, hiện cư trú tập trung tại hai bên dãy núi Phja Bjoóc thuộc các huyện Ba Bể, Chợ Đồn, Bạch Thông. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 - Dụ Tsiăng (còn gọi là Dụ Nhiaa): Dụ Tsiăng là tên tự gọi, Dụ Nhiaa là do nhóm Dụ Kùn gọi. Đây là chi có dân số đông nhất và địa vực cư trú rộng nhất tại Bắc Kạn. Bao gồm hầu hết các vùng, khu vực của tỉnh” [3, tr.164]. Người Dao sống du canh là chính nhưng cũng có sống tập trung xen kẽ với các dân tộc khác. Mặc dù ở cùng bản với người Tày, Nùng nhưng người Dao thường tách ra ở một khu riêng biệt. Người Dao thường tập trung khoảng 5 - 7 gia đình sống tại một triền đồi, núi hay một khu vực nào đó đáp ứng được nhu cầu về nguồn nước và thuận lợi trong sinh hoạt, cũng như có điều kiện canh tác tốt. Người Dao ở Bắc Kạn thường sống ở khu vực tương đối thấp nhưng ở Ba Bể cư dân sống ở các núi cao như bản Nà Vài, Nà Hai (Quảng Khê), Tẩn Lùng, Lủng Mình (Đồng Phúc)….Bản của người Dao thường cư trú theo quan hệ dòng tộc, huyết thống. Rất ít bản có nhiều dòng họ, nhiều ngành, nhóm cùng sinh sống [3, tr.187]. Nền kinh tế truyền thống của người Dao chủ yếu là nông nghiệp, chăn nuôi và thu hái lâm thổ sản. Người Dao do cuộc sống du canh, du cư đời sống không ổn định, cư trú dựa vào nương rầy là chính nên nghề thủ công không được coi trọng. Các nghề dệt, rèn, đan lát…hầu hết là để phục vụ cho cuộc sống gia đình. sản phẩm thừa mới đem bán nhưng lãi suất thấp. Những nghề này chỉ được làm khi nông nhàn. 1.2.5.Người Mông: Người Mông ở Bắc Kạn tập trung đông nhất ở Ba Bể và Pắc Nặm với dân số là 9.938 người. Trong đó ở Ba Bể tập trung đông nhất ở xã Nam Mẫu: “+ Nam Mẫu (Ba Bể): 211 hộ, 1428 người, 49% dân số xã” [3, tr.319]. Người Mông ở Ba Bể là nhóm Mông Trắng từ Trung Quốc di cư sang Việt Nam, trước hết vào Cao Bằng, sau đó di cư tới các tỉnh trong đó có Bắc Kạn. Nhóm người Mông Trắng là nhóm người Mông đầu tiên di cư đến sống ở Bắc Kạn. “…Sớm nhất là các nhóm Mông Trắng đến phía Bắc các huyện Số hóa bởi Trung tâm Họ._.c liệu – Đại học Thái Nguyên 18 Pắc Nặm, Ba Bể tìm đất cư trú, lập nghiệp ở khu vực núi đá vôi thuộc các xã Nhạn Môn, Cổ Linh, Cao Tân, Cao Thượng…cách đây khoảng hơn trăm năm…Cũng từ Cao Bằng, nhóm người Mông Trắng còn chuyển đến cư trú tại các xã Nghiêm Loan huyện Pắc Nặm, Nam Mẫu huyện Ba Bể…” [3, tr.323]. Người Mông ở Ba Bể thường sống rải rác, ít khi tới 5 - 10 hộ, ở trên núi cao. Hộ thường sống phân tán nhà nọ cách nhà kia vài trăm mét trở lên. Người Mông độc lập với các dân tộc khác, rất hiếm khi làng người Mông có dân tộc khác cư trú và ngược lại. Hoạt động nông nghiệp chủ yếu của họ là trồng ngô trên những nương du canh, ít có nương cày (thổ canh) để trồng các loại cây lương thực, thực phẩm và chăn nuôi. Người Mông là những người thợ thủ công lành nghề trong việc trồng lanh dệt vải, đan lát, làm đồ gỗ, rèn sắt… 1.2.6. Đồng bào Sán Chí: Người Sán Chí sống trong các thung lũng, sườn đồi làm nghề nông như đồng bào các dân tộc Tày - Nùng. Người Sán Chí có dân số ít ỏi chỉ khoảng 15 hộ từ huyện Pắc Nặm xuống sinh sống lẫn với khu vực của người Dao ở quanh dãy Phja Bjoóc. 1.3. Sự biến đổi địa danh - địa giới huyện Ba Bể qua các thời kỳ lịch sử Thời Hùng Vương, vùng đất là huyện Ba Bể ngày nay thuộc bộ Vũ Định, một trong mười lăm bộ của nước Văn Lang. Trong một nghìn năm Bắc thuộc, thời thuộc Hán, Ba Bể thuộc vào quận Giao Chỉ, sang đời nhà Đường (thế kỉ VIII - IX - X) Ba Bể là vùng đất thuộc Châu Long, sau đó thuộc châu Võ Nga. Thời Đinh, Tiền Lê (thế kỉ X) chia các đơn vị hành chính làm 10 đạo. Đến đời nhà Lý, khi Lý Thái Tổ lên ngôi (1010) xây dựng lại nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đã đổi 10 đạo thời Đinh, Tiền Lê thành 24 lộ, lúc đó vùng đất Ba Bể nằm trong châu Thái Nguyên, sau đó thuộc châu Vũ Lặc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 Đến đời nhà Trần, vào năm Thiên ứng chính bình thứ 11 (1242) nhà nước chia đặt lại các đơn vị hành chính, đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ.Về phương diện hành chính, Ba Bể vẫn nằm trong châu Thái Nguyên và nằm trong Như Nguyệt Giang Lộ (gồm miền thượng lưu sông Cầu, Yên Thế và Thái Nguyên). Vào năm Quang Thái thứ 10 (1397), châu Thái Nguyên được đối thành trấn.Trong cuốn sách “Đất nước Việt Nam qua các đời” nhà học giả Đào Duy Anh đã xác định địa giới như sau: “Đại để trấn Thái Nguyên lúc đó là tương đương với tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, và nửa phía nam của tỉnh Cao Bằng ngày nay” [1, tr.150]. Vào thời thuộc Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), trấn Thái Nguyên lại đổi thành phủ Thái Nguyên lĩnh 11 huyện.Từ năm Tuyên Đức (niên hiệu của Minh Tuyên Tông (từ 1426 -1434) về sau vẫn lấy đất phủ Thái Nguyên đặt làm “Thái Nguyên thừa chính ty”, coi 3 phủ là phủ Thái Nguyên, phủ Phú Bình, phủ Thông Hoá (Bắc Kạn ngày nay). Năm 1428, Vương triều Lê được thành lập, Lê Thái Tổ chia cả nước thành 5 đạo, Vùng đất Bắc Kạn lúc đó thuộc Bắc Đạo. Đến năm Quang Thuận thư 7 (1466) Lê Thánh Tông định lại bản đồ cả nước, chia thành 12 đạo thừa tuyên, đất Bắc Kạn và Ba Bể thuộc Thái Nguyên Thừa Tuyên. Năm Quang Thuận thư 10 (1469) lại đổi Thái Nguyên Thừa Tuyên thành Ninh Sóc Thừa Tuyên. Theo sách Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu thì “Ninh Sóc Thừa Tuyên lúc đó lĩnh 3 phủ là phủ Cao Bằng, phủ Thông Hoá và phủ Phú Bình”. Cũng theo sách trên, riêng phủ Thông Hoá có: “1 huyện là huyện Cảm Hoá (gồm 50 xã và 10 trang) và 1 châu là châu Bạch Thông (gồm 70 xã và 3 trang) huyện Ba Bể là đất của ba tổng thuộc châu Bạch Thông. Vào thời kỳ này lần đầu tiên một đơn vị hành chính của huyên Ba Bể là Chợ Rã đã xuất hiện với tên gọi riêng trong một tài liệu chính thống của triều đình với tên gọi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 Chợ Slo. Tên gọi này xuất hiện trong tác phẩm Dư địa chí của Nguyễn Trãi ở mục Thái Nguyên thổ sản. Đời Hồng Đức thứ 21 (1483), vùng đất Ba Bể hiện nay vẫn thuộc xứ Thái Nguyên. Từ thời Lê Trung Hưng đến hết thời Nguyễn Gia Long (1802 - 1814) xứ Thái Nguyên lệ thuộc vào Bắc Thành, vùng đất Bắc Kạn vẫn thuộc trấn này. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đất nước được chia thành các tỉnh hạt, trấn Thái Nguyên lúc đổi được đổi tên thành tỉnh Thái Nguyên. Sách “Đại Nam nhất thống chí” (1882) đã ghi lại phạm vi của châu Bạch Thông lúc đó như sau: “ở cách phủ 41 dặm v ề phía Tây; đông tây cách nhau 271 dặm, nam bắc cách nhau 283 dặm; phía đông đến địa giới châu Vũ Nhai phủ Phú Bình 188 dặm, phía tây đến điạ giới châu Chiêm Hoá tỉnh Tuyên Quang 83 dặm, phía nam đến địa giới huyện Phú Lương và châu Định phủ Tùng Hoá 100 dặm, phía Bắc đến địa giới huyện Vĩnh Điện tỉnh Tuyên Quang 103 dặm. Từ đời Trần về trước, gọi là huyện Vĩnh Thông; thời thuộc Minh vẫn theo như thế, lệ phủ Thái Nguyên; đời Lê đổi tên hiện nay và gọi là châu, lệ phủ Tùng Hoá, do phiên thần họ Hoàng nối đời quản trị; bản triều đầu đời Gia Long vẫn theo như thế; năm Minh Mệnh thứ 16 đổi đặt lưu quan. Lãnh 9 tổng, 60 xã” [7, tr.153-155]. Huyện Ba Bể khi đó thuộc châu Bạch Thông, phủ Thông Hoá, tỉnh Thái Nguyên. Thời kỳ này một loạt địa danh của huyện Ba Bể đã xuất hiện trong chính sử của triều đình như các đợn vị hành chính chính thức: Chợ Hạ Hiệu, Chợ Quảng Khê, phố Chợ Rã [7, tr.176] Như vậy, đến thời điểm này vùng đất Bắc Kạn nằm trong địa hạt tỉnh Thái Nguyên. Đến năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) tỉnh Thái Nguyên gồm 3 phủ là: phủ Tòng Hoá, phủ Phú Bình, phủ Thông Hoá. Bắc Kạn ngày nay về cơ bản vẫn là đất phủ Thông Hoa gồm châu Bạch Thông (nay là đất các huyên Bạch Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 Thông, Chợ Đồn, Chợ Rã (tức huyện Ba Bể), huyện Cảm Hoá (nay thuộc địa phận các huyện Na Rì, Ngân Sơn, vùng Phủ Thông của huyện Bạch Thông). Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX đã xác định giới hạn huyện gồm có ba tổng với các xã sau: “- Tổng Thượng Giáo có 9 xã: Địa Linh, Công Bật, Xuân Phương, Cao Trĩ, Bành Trạch, Hồng La, Bạo Thị, Nhạn Môn, Nhân Thiếp. - Tổng Hạ Hiệu có 7 xã, trang: Hạ Hiệu, Chư Hoa, Cao Thượng, Nghiêm Loan, Bằng Thành, Cổ Đạo, Da Nham. - Tổng Quảng Khê có 6 xã, trang: Quảng Khê, Bằng Châu, Đồng Phúc, Nam Mẫu, Xuân Cưu, trang Mỹ Hoá Bán” [36, tr.82]. Sách Đồng Khánh dư địa chí đã chú thích rõ về duyên cách của châu Bạch Thông như sau: “Châu Bạch Thông đời Lý -Trần là đất huyện Vĩnh Thông, đới thuộc Minh đổi làm châu Vình Thông. Năm Quang Thuận 7 (1466) đời Lê Thánh Tông đổi làm châu Bạch Thông, đặt thuộc phủ Thông Hoá. Qua các triều đại sau đều không thay đổi. Nay là các huyện Bạch Thông, Chợ Đồn, Ba Bể tỉnh Bắc Kạn” [10, tr.818-819] Cũng theo sách trên, huyện Ba Bể vào thời điểm đó gồm 23 xã thôn thuộc ba tổng như sau: “- Tổng Quảng Khê, 6 xã: 1.Xã Quảng Khê 2. Xã Đồng Phúc 3. Xã Mỹ Hoá 4. Xã Xuân Ổ 5. Xã Bằng Châu 6. Xã Nam Mẫu - Tổng Thượng Giáo,11 xã: 1. Xã Thượng Giáo 2. Xã Công Bật 3.Xã Bộc Bố 4. Xã Xuân Phương 5. Xã Xuân La 6. Xã Nhạn Môn 7. Xã Nhân Tiếp 8. Xã Bành Trạch 9. Xã Địa Linh 10. Xã Truyền Cố 11.Xã Cao Trĩ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 - Tổng Hạ Hiệu, 7 xã: 1. Xã Hạ Hiệu 2. Xã Dạ Nham 3. Xã Nghiêm Loan 4. Xã Chư Hương 5.Xã Cao Thượng 6. Xã Cổ Đạo 7. Xã Bằng Thành” [10, tr.819] Sau khi đánh chiếm và áp đặt bộ phận cai trị trên địa phận Thái Nguyên, thực dân Pháp đã nhiều lần thay đổi đơn vị hành chính. Trong vòng 4 năm từ 1896 đến 1900 thực dân Pháp tiếp tục phân chia địa giới hành chính của các châu Bạch Thông, Chợ Rã, Thông Hoá, Cảm Hoá. Theo nghị định ngày 20 -8 - 1891 của Toàn quyền Đông Dương, địa bàn Bắc Kạn thuộc 2 đạo quan binh: Phần phía đông và nam thuộc Tiểu quân khu Thái Nguyên (Đạo quan binh I) và phần bắc thuộc Tiểu quân khu Lạng Sơn (Đạo quan binh II). Đến ngay 11 - 4 -1900, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định lấy phần đất thuộc phủ Thông Hoá thành lập tỉnh Bắc Kạn gồm 4 châu (sau đổi thành huyện) là: Bạch Thông, Chợ Rã (sau là huyện Ba Bể), Thông Hoá (sau đổi thành Na Rì) và Cảm Hoá (sau đổi thành Ngân Sơn). Huyện Ba Bể với tư cách là một đơn vị hành chính riêng của tỉnh Bắc Kạn lần đầu tiên xuất hiện. Theo tác phẩm Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ của tác giả Ngô Vi Liễn xuất bản năm 1938, đến đầu thế kỷ XIX, huyện Ba Bể có tên là châu Chợ Rã, đất đai về cơ bản vẫn là ba tổng Thượng Giáo, Hạ Hiệu, Quảng Khê và xã Hoàng Trĩ thuộc tổng Nhu Viễn xưa. Năm 1916, theo nghị định của thống sứ Bắc Kỳ, một số tổng của châu Bạch Thông, Chợ Rã và tổng An Biên Thượng thuộc Định Hoá (Thái Nguyên) tách ra lập thành châu Chợ Đồn. Từ đó đến Cách mạng tháng Tám, địa giới tỉnh Bắc Kạn được định hình 5 châu, 1 thị xã. Các châu lại chia thành 20 tổng và 103 xã. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 Do yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, từ năm 1965 đến năm 1997 địa giới tỉnh Bắc Kạn cũng có sự điều chỉnh.Ngày 21-4-1965 Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra quyết định số 103-QN-TVQH thành lập tỉnh Bắc Thái trên cơ sở hợp nhất 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Vào thời điểm này dân số tỉnh Bắc Kạn có 112.500 người. Ngày 29- 12- 1978, kì họp thứ 4 Quốc hội khoá IV nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết nghị phân định địa giới giữa Bắc Thái và Cao Bằng, tách 2 huyện Chợ Rã, Ngân Sơn thuộc tỉnh Bắc Thái nhập vào tỉnh Cao Bằng. Đến năm 1984 huyện Chợ Rã được đổi tên thành huyện Ba Bể : "Theo quyết định số 144 – HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 06 -11 – 1984, tên huyện Chợ Rã thuộc tỉnh Cao Bằng được đổi tên thành huyện Ba Bể, gắn với danh lam thắng cảnh nổi tiếng của dịa phương là hồ Ba Bể” [17; tr.45]. Để đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân các dân tộc và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngày 6- 11- 1996, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoa IX kì họp thứ 10 đã phê chuẩn việc phân chia lại địa giới hành chính của một số tỉnh, trong đó chia tỉnh Bắc Thái thành 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Tỉnh Bắc Kạn được tái thành lâp bao gồm 2 huyện Ba Bể, Ngân Sơn của tỉnh Cao Bằng và 4 huyện thị của tỉnh Bắc Thái là thị xã Bắc Kạn, huyện Na Rì, huyện Chợ Đồn, huyện Bạch Thông. 9 xã phía bắc của huyện Phú Lương (gồm các xã: Nông Thịnh, Nông Hạ, Yên Hân, Yên Cư, Thanh Bình, Bình Văn, Như Cố, Yên Đĩnh, Quảng Chu ) và thị trấn Chợ Mới đã được nhập trở lại huyên Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn. Huyện Ba Bể sau 18 năm sát nhập vào tỉnh Cao Bằng lại trở về là một đơn vị hành chính của tỉnh Bắc Kạn. Từ đó cho tới nay nhân dân huyện Ba Bể dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước đã phân đấu xây dựng cuộc sống và quê hương ngày càng giầu đẹp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 Tiểu kết: Trên cơ sở khái quát về huyện Ba Bể, chúng ta có thể thấy: Ba Bể là vùng đất cổ có truyền thống lịch sử lâu đời. Từ xưa nơi đây đã có con người sinh sống, nhiều địa danh của huyện như chợ Hạ Hiệu, Quảng Khê…từ sớm đã xuất hiện trong lịch sử. Ba Bể cũng là nơi có điều kiện tự nhiên đặc trưng của miền núi, với hơn 90% diện tích là đồi núi nhưng Ba Bể có một số cánh đồng rộng, được phù sa các con sông lớn bồi đắp. Đây là điều kiện tốt phát triển nông - lâm nghiệp kết hợp. Với năm dân tộc anh em cùng đoàn kết sinh sống và xây dựng quê hương, tạo thành bản sắc văn hoá đa dân tộc phong phú và sinh động trên mảnh đất này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 CHƢƠNG 2 TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT HUYỆN BA BỂ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX 2.1. Tình hình ruộng đất huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX 2.1.1. Tình hình ruộng đất huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn nửa đầu thế kỷ XIX theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) §Þa bạ là công cụ để nhà nước quản lý ruộng đất, đồng thời là nguồn tư liệu phong phú về nhiều mặt, đặc biệt và trực tiếp nhất là cung cấp bức tranh về ruộng đất nông nghiệp xưa. Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác dụng của địa bạ đối với nông nghiệp, có thể khái quát như sau. “ - Tình hình khai phá và sử dụng ruộng đất, đặc điểm của nền nông nghiệp cổ truyền. - Chế độ sở hữu ruộng đất với các hình thái sở hữu rất phức tạp như sở hữu nhà nước, sở hữu làng xã (công điền, công thổ), sở hữu tư nhân, sở hữu cộng đồng của họ, phe, giáp, đình, chùa, đền, miếu... - Tình trạng chiếm hữu ruộng đất và sự phân hóa xã hội ở nông thôn, kết cấu xã hội và các giai tầng trong làng xã, mức độ sở hữu ruộng của tầng lớp quan lại, nho sĩ, chức dịch... - Thống kê các dòng họ và sự phân bố theo các khu vực, góp phần nghiên cứu các quan hệ cộng đồng huyết thống và làng giềng, kết hợp với các tư liệu gia phả và đinh bạ nghiên cứu dân số học lịch sử....” [18, tr.9] Từ quan điểm trên, chúng ta thấy tư liệu gốc chính xác nhất để phục dựng lại “bức tranh” về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn nửa đầu thế kỷ XIX là các đơn vị địa bạ. Các địa bạ mà chúng tôi sưu tầm được đều là các địa bạ được lập vào đầu triều Nguyễn ở các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 niên đại: Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21 (1840) với tổng số có 22 đơn vị địa bạ. Các địa bạ trên đều là bản chính viết bằng chữ Hán hiện được lưu tại Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Hà Nội. Có 22 xã trên tổng số 24 xã của huyện, ở nửa đầu thế kỷ XIX, có địa bạ Minh Mệnh 21. Trong đó có 1 địa bạ được lập vào thời điểm Gia Long 4 và 21 địa bạ được lập vào thời điểm Minh Mệnh 21 Bảng 2.1. Thống kê địa bạ huyện Ba Bể nửa đầu thế kỉ XIX. Tên làng xã Gia Long 4 (1805) Minh Mệnh 21 (1840) Tên tổng Tên xã Quảng Khê Nam Mẫu X Quảng Khê X Bằng Châu X Đồng Phúc X Tr. Mỹ Hoà Bán X Xuân Ổ X Thượng Giáo Truyền Cố X Cao Trĩ X Thượng Giáo X Giao Lang X Địa Linh X Hồng La X Xuân Phương X Nhân Tiếp X Bộc Bố X Hạ Hiệu Cổ Đạo X Chư Hoa X Bằng Thành X Cao Thượng X Nghiêm Loan X Hạ Hiệu X Dạ Nham X Tổng Cộng 22 xã 1 21 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 Như vậy chúng ta nhận thấy rằng địa bạ huyện Ba Bể vào thời điểm nửa đấu thế kỷ XIX chỉ có một địa bạ Gia Long trong khi thời Minh Mệnh có 21 địa bạ chiếm số lượng áp đảo. Vì sao lại có tình trạng như vậy ? Chúng ta đều biết rằng, năm 1802 triều Nguyễn thành lập đã cho lập địa bạ các trấn Bắc Hà, tức vùng Đàng Ngoài thuộc quyền cai quản của chúa Trịnh trước đây. Các địa bạ này được hoàn thành vào năm 1805[19,tr.27]. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ nhà Nguyễn mới được thành lập bên cạnh việc bắt tay xây dựng chính quyền mới còn phải ổn định tình hình và đối phó với những tàn dư của vương triều Tây Sơn còn sót lại. Sử cũ đã ghi lại ngay sau khi Gia Long lên ngôi các cuộc khởi nghĩa của tưởng lĩnh Tây Sơn cũ đã bùng nổ. Có thể kể đến cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Tuyết ở Kim Môn (Hải Dương) vào năm 1803, và đặc biệt là khởi nghĩa ở Thái Nguyên đã lôi kéo và khuyến khích phong trào đấu tranh ở vùng núi phía Bắc. “Ngay sau khi vua Gia Long vừa lên ngôi, một số tướng lĩnh của Tây Sơn ẩn náu trong vùng rừng núi Thái Nguyên liên kết với các lực lượng ở địa phương, nổi dậy chống lại triều đình mới. Cùng với các cuộc nổi dậy ở Thái Nguyên, phong trào ở Tuyên Quang cũng phát triển khá mạnh…” [29,tr.184]. Tình hình nhiều biến động ở vùng rừng núi phía Bắc có thể lý giải về sự ít ỏi của địa bạ huyện Ba Bể thời Gia Long. Mặt khác, lịch sử nhà Nguyễn cũng ghi nhận sự thiếu hụt về địa bạ các địa phương trong nước khi lập địa bạ đầu thời Gia Long: “…Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) cho lập địa bạ ba trấn Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, các địa phương “không biết vì sao” đã có lệnh làm địa bạ từ năm Gia Long thứ 3 (1804) mà “giữa chừng lại thôi” [35,tr.15] Trước tiên chúng ta sẽ cùng xem xét về quy mô sở hữu ruộng đất của huyện Ba Bể. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Bảng 2.2: Thống kê địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ĐVT: m.s.th.t.p (Mẫu, sào, thước, tấc, phân) Số TT Tên làng xã Tổng diện tích ruộng đất Tƣ điền Thổ trạch, viên trì Các loại đất khác Tên tổng Tên xã Lƣu Hoang Thực trƣng Thần từ, phật tự Tha ma mộ địa 1 Q u ản g K h ê Nam Mẫu 21.7.7.5 19.2.7.5 2.5.0.0 2 Quảng Khê 140.0.3.4 136.0.3.4 4.0.0.0 3 Bằng Châu 167.2.3.6 162.7.3.6 4.5.0.0 4 Đồng Phúc 255.5.1.4 250.5.1.4 5.0.0.0 5 Tr. Mỹ Hoà Bán 21.8.6.8 21.8.6.8 6 Xuân Ổ 67.0.7.1 65.0.7.1 2.0.0.0 7 T h ư ợ n g G iá o Truyền Cố 19.7.9.1 17.3.9.1 2.4.0.0 8 Cao Trĩ 380.0.12.1 375.5.12.1 4.5.0.0 9 Thượng Giáo 208.3.5.7 51.8.1 151.5.4.7(*) 5.0.0.0 10 Giao Lang 29.7.14.0 28.7.14 1.0.0.0 11 Địa Linh 241.3.9.8 236.8.4.8 4.5.5.0 12 Hồng La 59.3.4.8 56.3.4.8 3.0.0.0 13 Xuân Phương 210.9.13.9 203.2.13.9 0.7.0.0 6.2.0.0 14 Nhân Tiếp 101.4.2 101.4.2 15 Bộc Bố 58.2.6.3 58.2.6.3 16 H ạ H iệ u Cổ Đạo 150.2.3.7 147.1.3.7 3.1.0.0 17 Chư Hoa 301.8.14.7 286.8.14.7 9.0.0.0 6.0.0.0 18 Bằng Thành 62.0.9.4 24.2.13.7.2 33.2.10.6.8 4.5.0.0 19 Cao Thượng 145.5.13.4 138.5.13.4 7.0.0.0 20 Nghiêm Loan 56.3.13.8 53.3.13.8 3.0.0.0 21 Hạ Hiệu 123.0.5 118.0.5 5.0.0.0 22 Dạ Nham 90.6.14.7 87.6.14.7 3.0.0.0 Tổng Cộng: 3 22 2912.6.2.2 123.0.7.8.2 2703.6.4.3.8 73.0.5 6.7.0.0 6.2.0.0 (*)(2 m thần từ) (Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 Bảng 2.3: Tình trạng phân bố các loại ruộng đất của huyện Ba Bể theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) STT Loại ruộng Diện tích (m.s.th.t) Tỷ lệ (%) 1 -Tư điền: + Thực trưng: + Lưu hoang: 2826.6.12.2 2703.6.4.3.8 123.0.7.8.2 97,08 92,85 4,23 2 - Thổ trạch, viên trì: 73.0.5.0 2,50 3 - Các loại đất khác: + Thần từ, phật tự: + Tha ma, mộ địa: 12.9.0.0 6.7.0.0 6.2.0.0 0,42 0,21 0,21 Tổng: 2912.6.2.2 100,00 (Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840 97.08% 2.5% 0.42% Tư điền Thổ trạch, viên trì Các loại đất khác Biểu đồ 2.1. Sự phân bố ruộng đất ở huyện Ba Bể Trên cơ sở phân tích, thống kê, xử lý số liệu của 22 xã có địa bạ Minh Mệnh 21 cho phép chúng ta hình dung về số lượng, tỷ lệ phần trăm của các loại ruộng đất của huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX. Tư liệu địa bạ đã cho Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 thấy 100% diện tích đất đai của huyện là tư điền và tư thổ chứ không có ruộng đất công. Trên thực tế phần thực trưng chiếm 92,85%, phần lưu hoang chỉ chiếm tỷ lệ là 4,23%, trong đó 100% là điền chứ không phải là thổ. Khi chúng ta so sánh với tỷ lệ phần trăm của 8 tỉnh đồng bằng sông Hồng là 21,75% [32, tr.26,30] thì tỷ lệ lưu hoang của huyện Ba Bể là nhỏ hơn rất nhiều. Tuy nhiên đặc điểm cơ bản của tình hình lưu hoang ở đây là hiện tượng lưu hoang cả một xã như hai xã Truyền Cố, Giao Lang. Ngoài ra, số ruộng lưu hoang ở các xã khác là tương đối lớn, như ở xã Thượng Giáo diện tích lưu hoang chiếm 24,51%, ở xã Bằng Thành con số đó là 38,70%. Chúng ta có thể lý giải hiện tượng trên là hậu quả của các cuộc chiến tranh nông dân kéo dài ở thời kỳ cuối Lê - đầu Nguyễn để lại. Đặc biệt là ảnh hưởng từ cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân (7/1833-3/1835). Theo tác phẩm Lịch sử Đảng bộ huyện Ba Bể (tập1), huyện Ba Bể thời gian này chính là địa bàn hoạt động của nghĩa quân Nông Văn Vân. Trên địa bàn huyện cũng đã nổ ra những trận đánh hết sức quyết liệt giữa quân triều đình và nghĩa quân. Tiêu biểu là trận đánh bại đạo quân Thái Nguyên của triều đình nổ ra trên địa bàn xã Bằng Thành [29,tr.43]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 Bảng 2.4: So sánh diện tích ruộng đất Ba Bể với một số huyện thuộc tỉnh Thái Nguyên có địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) Loại ruộng Huyện Ba bể Huyện Chợ Đồn Huyện Phú Lƣơng Huyện Đại Từ Huyện Ngân Sơn Diện tích Tỷ lệ (%) Diện tích Tỷ lệ (%) Diện tích Tỷ lệ (%) Diện tích Tỷ lệ (%) Diện tích Tỷ lệ (%) Tư Điền - Thực trưng - Lưu hoang 2826.6.12.2 2703.6.4.3.8 123.0.7.8.2 97,08 92,85 4,23 1510.2.14.1 1508.7.3.5 1.5.10.6 99,9 96,1 0,1 1939.2.4.6 1148.7.02.0 797.3.10.6 59,71 58,05 40,29 2161.8.8.4 1918.7.4.6 243.9.3.8 88,96 86,93 11,04 1766.4.9.3 1766.4.9.3 0.0.0.0 95,87 95,87 0 Thổ trạch, viên trì 73.0.5 2,50 60.4.00 3,8 3.9.14.0 0,21 36.7.4.0 1,67 75.9.2.5 4,13 Các loại đất khác 12.9 0,42 1.5.10.6 0,1 2.8.09.0 0,14 8.0.8.6 0,36 0.0.0.0 0 Tổng diện tích 2912.6.2.2 100 1570.6.14.1 100 1978.9.02.1 100 2207.4.6.0 100 1842.3.11.8 100 [37,tr.24] [2,tr.26] [38,tr.34] [16,tr.35] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 Qua số liệu thống kê nêu trên, chúng ta có thể thấy diện tích ruộng đất ở Ba Bể thuộc loại tương đối lớn so với địa bàn các huyện miền núi Thái Nguyên khác. Diện tích thổ trạch viên trì thuộc loại lớn nhưng diện tích các loại đất khác là đất thần từ, phật tự và đất tha ma mộ địa lại tương đối nhỏ. Hiện tượng ruộng đất lưu hoang vẫn còn lớn chứng tỏ tình hình xã hội có nhiều biến động. Diện tích tư điền của Ba Bể chiếm 97,08% đối chiếu với bảng so sánh như trên là rất lớn chỉ đứng sau Chợ Đồn, điều đó thể hiện mức độ tư hữu hoá cao. Nếu đem so sánh với những vùng đồng bằng con số này còn ấn tượng hơn nữa: “Số liệu thống kê cho thấy sở hữu tư nhân ở Hà Đông đầu thế kỷ XIX chiếm 65,34% trong tổng số ruộng đất. Biết rằng cùng vào khoảng thời gian đó, tỷ lệ ruộng tư trên quy mô cả nước chiếm 82,9%” [19, tr.24]. Mức sở hữu tư nhân của huyện Ba Bể cao hơn hẳn mức bình quân của cả nươc. Bảng 2.5: Thống kê các loại ruộng đất phân theo đẳng hạng (1840) STT Hạng ruộng Diện tích Tỷ lệ (%) 1 Hạng 2 8.7.0.0 0,29 2 Hạng 3 2897.9.12.9. 99,70 (Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840) Căn cứ vào các số liệu trên, chúng ta có thể thấy ruộng đất ở Ba Bể chủ yếu là ruộng loại 3 (tam đẳng) chiếm 99,70%, còn lại ruộng loại 2 (nhị đẳng) chỉ có 8.7 mẫu chiếm 0,29%. Tất cả ruộng loại 2 đều là ruộng thần từ, phật tự. Loại ruộng này tuy chiếm vị trí rất nhỏ bé nhưng là những thửa ruộng mầu mỡ nhất, được giao cho nhân dân trong xã cùng canh tác lấy hoa mầu cúng chùa như 6 mẫu ở xã Chư Hoa, 7 sào ở xã Xuân Phương, hoặc được giao cho một người thường là người trông coi chùa chiền như 2 mẫu ở xã Thượng Giáo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 Bảng 2.6: Quy mô sở hữu ruộng đất của các xã thôn thuộc huyện Ba Bể theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ơ STT Xã thôn Quy mô sở hữu Dƣới 50 mẫu 50->100 mẫu 100-> 200 mẫu 200-> 300 mẫu 300-> 500 mẫu Tổng Quảng Khê (6) 1 Nam Mẫu 1 2 Quảng Khê 1 3 Bằng Châu 1 4 Đồng Phúc 1 5 Tr. Mỹ Hoà Bán 1 6 Xuân Ổ 1 Tổng Thượng Giáo (9) 7 Truyền Cố 1 8 Cao Trĩ 1 9 Thượng Giáo 1 10 Giao Lang 1 11 Địa Linh 1 12 Hồng La 1 13 Xuân Phương 1 14 Nhân Tiếp 1 15 Bộc Bố 1 Tổng Hạ Hiệu (7) 16 Cổ Đạo 1 17 Chư Hoa 1 18 Bằng Thành 1 19 Cao Thượng 1 20 Nghiêm Loan 1 21 Hạ Hiệu 1 22 Dạ Nham 1 Tổng cộng: 21 xã thôn =100% 4 (18,18%) 6 (27,27%) 6 (27,27%) 4 (18,18%) 1 (10%) (Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 2.1.2. Tình hình sở hữu ruộng đất tư Trên địa bàn huyện Ba Bể, theo tài liệu địa bạ hoàn toàn không có ruộng đất công, chủ yếu là ruộng đất tư. Chúng ta nói tới tình hình sở hữu ruộng đất tư thực ra cơ bản là nói về sở hữu ruộng tư. Bảng 2.7: Quy mô sở hữu ruộng tƣ Quy mô sở hữu Số chủ Tỷ lệ (%) Diện tích sở hữu (m.s.th.t) Tỷ lệ (%) < 1 mẫu 2 0,42 1.3.7.5 0,04 1->5 mẫu 184 38,90 608.4.10.1.8 22,50 5->10 mẫu 258 54,54 1758.6.11.6 65,06 10->20 mẫu 29 6,14 335.1.5.1 12,40 Tổng cộng 473 100 2703.6.4.3.8 100,00 (Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840) 65.06% 12.4% 0.04% 22.5% 5 mẫu 5->10 mẫu 10->20 mẫu Biểu đồ 2.2: Quy mô sở hữu ruộng tƣ Từ bảng số liệu trên, chúng ta thấy số người sở hữu dưới 1 mẫu rất ít, chỉ có 0,42% và chiếm tỷ lệ 0,04% trên tổng số diện tích.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 Số người sở hữu từ 1 đến 5 mẫu chiếm 38,90% trên tổng số chủ sở hữu và chiếm 22,5% diện tích ruộng. Có tới 65,06% ruộng đất nằm trong tay tầng lớp khá giả từ 5 đến 10 mẫu chiếm 54,54% số người sở hữu. Số người sở hữu từ 10 đến 20 mẫu chiếm 6,14% số chủ sở hữu và 12,4% số ruộng. Như vậy nhìn vào tình trạng sở hữu tư điền của Ba Bể năm 1840 với sự có mặt của 473 chủ ruộng, trên tổng diện tích là 2703.6.4.3.8 thì mức bình quân một chủ sẽ là 5.7.2.3.8. Mức bình quân sở hữu cao nhất là xã Cao Trĩ với 10.1.7.6/người, và thấp nhất là xã Nam Mẫu, nơi có diện tích nhỏ nhất là 1.6.0.6/người. Hiện tượng chủ ruộng là các chức sắc chiếm diện tích lớn về ruộng đất vẫn xẩy ra. Ví dụ: Dịch mục Ma Thế Lưu ở xã Bằng Châu có nhiều ruộng đất nhất xã với 14 mẫu 1 sào 9 thước Hương mục Gia Hữu Quýnh với 11 mẫu chiếm diện tích lớn nhất xã Bộc Bố.Quy mô sở hữu ruộng tư của Ba Bể đặt trong không gian miền núi phía Bắc được thể hiện qua bảng sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 Bảng 2.8: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất tƣ của các huyện Ba Bể, Chợ Đồn, Phú Lƣơng, Đại Từ và Ngân Sơn Quy mô sở hữu Huyện Ba bể Huyện Chợ Đồn Huyện Phú Lƣơng Huyện Đại Từ Huyện Ngân Sơn Số chủ Diện tích Số chủ Diện tích Số chủ Diện tích Số chủ Diện tích Số chủ Diện tích <1 mẫu 2 1.3.7.5 1 0.9.00 2 1.7.00 4 2.9.8.2.0 1->5 mẫu 184 608.4.10.1.8 53 155.3.4.5 56 161.2.5.9 28 113.1.3.8 80 264.6.3.3.0 5->10 mẫu 258 1758.6.11.6 102 804.4.10.6 30 207.6.13.3 38 283.3.10.8 109 715.1.12.9.0 10->20 mẫu 29 335.1.5.1 29 400.1.1.1 24 331.9.2.0 44 687.1.6.8 47 603.1.6.6.0 20->30 mẫu 6 147.9.2.3 7 187.2.13.0 25 602.7.8.8 7 180.5.8.3.0 30->50 mẫu 3 163.8.14.1 6 232.3.4.4 Tổng cộng 473 2703.6.4.3.8 191 1508.7.3.5 122 993.7.3.3 141 1918.7.4.6 247 1766.4.9.3.0 [37,tr. 27 ] [2,tr.29] [38,tr.35] [16,tr.36 ] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 Trên cơ sở phân tích bảng thống kê trên chúng ta có thể nhận thấy một đặc điểm chung là các huyện miền núi phía bắc Thái Nguyên xưa ít có những đại điền chủ tập trung trong tay nhiều ruộng đất. Khi so sánh với một huyện miền cao là Quảng Hoà (Cao Bằng), ta thấy tuyết đại đa số các chủ ruộng nêu trên không một ai vượt qua 50 mẫu và tỷ lệ phần trăm rất nhỏ bé. Số chủ sở hữu 30->50 mẫu ở Phú Lương là 3 người chiếm 2.22%, ở Đại Từ là 6 người chiếm 4,26%, trong khi đó ở Quảng Hoà có chủ sở hữu tới 70 mẫu ruộng [41, tr.77]. Ngay cả khi so sánh với một huyện miền xuôi là Phú Bình, tỷ lệ cũng rất chênh lệch. Số chủ sở hữu từ 30-50 mẫu ở Phú Bình là 7 người chiếm 0,43%, nhưng nắm 3,13% diện tích, số chủ sở hữu lớn hơn 50 mẫu là 2 người nắm giữ 1,36 % diện tích. Trong khi đó ở Ba Bể không có chủ ruộng nào vượt quá 20 mẫu. Tình trạng đất đai tập trung trong tay giai cấp địa chủ quyền quý chứng tỏ hiện tượng bao chiếm ruộng đất vẫn tồn tại Mặc dù phần đầu trong quá trình đối sánh với các địa phương lân cận, chúng ra đã thấy sự tư hữu hoá cao về ruộng đất tư nhưng ở Ba Bể chưa có sự tập trung sở hữu lớn ruộng đất trong tay các địa chủ. Nếu so sánh với một địa phương đồng bằng Bắc Bộ là Thái Bình thì điều đó sẽ sáng rõ: “Trong khi đó sở hữu tư nhân ở Bắc Bộ có những đặc điểm khác biệt…, trong đó số chủ sở hữu trên 5 mẫu chiếm tới 63,2% và số ruộng của họ chiếm gần hết tổng số ruộng tư (88,9%). Hơn nữa, ruộng đất tập trung chủ yếu vào các lớp chủ sở hữu có từ 10 mẫu ruộng trở lên (hơn 64%), đặc biệt, đối với lớp chủ sở hữu trên 50 mẫu ruộng thì tỷ lệ ruộng đất của họ gấp gần 7 lần tỷ lệ phần trăm của họ so với tổng số chủ” [35, tr.14]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 Bảng 2.9: Bình quân sở hữu của một chủ ruộng ĐVT: m.s.th.t.p (Mẫu, sào, thước, tấc, phân) STT Tên Tổng Tên Xã Tƣ điền Diện tích có thể tính sở hữu Số chủ Bình quân sở hữu một chủ 1 Q u ản g K h ê Nam Mẫu 19.2.7.5 19.2.7.5 12 1.6.0.6 2 Quảng Khê 136.0.3.4 136.0.3.4 18 7.5.9.5 3 Bằng Châu 162.7.3.6 162.7.3.6 23 7.0.12.2 4 Đồng Phúc 250.5.1.4 250.5.1.4 31 8.2.6.3 5 Tr. Mỹ Hoà Bán 21.8.6.8 21.8.6.8 9 2.4.4.1 6 Xuân Ổ 65.0.7.1 65.0.7.1 18 3.6.2.0 7 T h ư ợ n g G iá o Truyền Cố 17.3.9.1 0.0.0.0 8 Cao Trĩ 375.5.12.1 375.5.12.1 37 10.1.7.6 9 Thượng Giáo 203.3.5.7 151.5.4.7(*) 25 6.0.9.1 10 Giao Lang 28.7.14 0.0.0.0 11 Địa Linh 236.8.4.8 236.8.4.8 41 5.7.11.4 12 Hồng La 56.3.4.8 56.3.4.8 11 5.1.3.1 13 Xuân Phương 203.2.13.9 203.2.13.9 48 4.2.5.2 14 Nhân Tiếp 101.4.2 101.4.2 11 9.2.2 15 Bộc Bố 58.2.6.3 58.2.6.3 10 5.8.3.6 16 H ạ H iệ u Cổ Đạo 147.1.3.7 147.1.3.7 24 6.1.4.5 17 Chư Hoa 286.8.14.7 286.8.14.7 43 6.6.10.8 18 Bằng Thành 57.5.9.4 33.2.10.6.8 11 3.0.3.8.8 19 Cao Thượng 138.5.13.4 138.5.13.4 30 4.6.2.9 20 Nghiêm Loan 53.3.13.8 53.3.13.8 9 5.9.4.8 21 Hạ Hiệu 118.0.5 118.0.5 41 2.0.13.0 22 Dạ Nham 87.6.14.7 87.6.14.7 21 4.1.11.4 Tổng cộng: 3 22 2912.6.22 2703.6.4.3.8 473 5.7.2.3.8 (Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 Diện tích đất tư của Ba Bể chỉ chiếm 2,50%, tất cả đều là đất thổ trạch, viên trì. Thổ trạch, viên trì là sở hữu tư nhân.Hầu hết các xã đều có tư thổ(trừ Trang Mỹ Hoà Bán, Xuân Phương, Nhân Tiếp, Bộc Bố), tư thổ của Ba Bể không chia cho từng chủ mà do bản xã đồng cư. Bảng 2.10: Sự phân bố đất tƣ (thổ trạch, viên trì) STT Tên tổng Tên xã Thổ trạch, viên trì (m.s.th.t) Tỷ lệ (%) 1 Quảng Khê Nam Mẫu 2.5.0.0 11,52 2 Quảng Khê 4.0.0.0 2,86 3 Bằng Châu 4.5.0.0 2,69 4 Đồng Phúc 5.0.0.0 1,96 5 ._.m cỗ bày cúng trong lễ hội này phải cao tới 12 tầng nhằm thể hiện ý nghĩa tạ ơn 12 tháng trong năm đã qua và cầu xin 12 tháng trong năm tới thời tiết sẽ thuận hoà, mùa màng tươi tốt hơn. Song song với quá trình làm cỗ, các chàng trai, cô gái còn làm quả còn, quả yến, đẽo quay... để đem đến dự hội. Một vật phẩm hết sức quan trọng được thực hành trong quá trình làm cỗ là làm một chiếc Pẻng Bjoóc (bánh hoa). Bánh được nặn từ bột nếp thành hình bông hoa (có nơi làm theo hình con chim), sau đó đun sôi mỡ lên đổ cho thấm dần vào. Chờ bánh ráo hết mỡ lại đổ tiếp lượt khác. Cứ thế, bột sẽ chín dần bằng mỡ đã sôi. Việc làm bánh này đòi hỏi một đôi bàn tay khéo léo với một nghệ thuật nấu ăn hết sức công phu. Việc làm bánh này có lẽ gắn kết cùng với truyền thuyết về nàng Bjoóc, nàng Ngo, và nàng Ve. Truyện kể rằng: Xưa, loài người còn đói khổ, lầm than nhiều lắm. Ở trên thượng giới, Ngọc Hương tình cử 3 con gái của mình là nàng Bjoóc, nàng Ngo và nàng Ve xuống trần gian giúp loài người làm ăn. 3 nàng ở trên đỉnh núi cao Phja Bjoóc khai khẩn đất hoang, rồi mỗi nàng vạch một đường nước từ trên đỉnh núi chảy xuống cho dân có nước cày cấy, làm ăn. Chỗ ấy ngày nay người ta gọi là Ao Tiên. Cũng vì ao ấy có 3 đường nước chảy nên có người gọi là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 Thôm Slam Lái (ao ba lối). Cuộc sống của người dân vì thế mà ngày một thêm no đủ, ấm êm. Nơi các nàng ở hoa trái ngập tràn, ai đến đó cứ mặc sức ăn uống, vui chơi mà không bị các nàng quở trách. Nhưng có một điều cấm kỵ là chỉ được ăn uống no nê chứ không được mang về. Ai cố tình phạm phải điều này thì sẽ bị lạc chẳng thể tìm nổi lối ra. Ngày nọ, đang thanh bình thì quân giặc ở đâu kéo đến quấy phá, cướp bóc. Thế giặc rất mạnh, người dân không thể nào chống nổi nên đành rút chạy đến chỗ các nàng ở. Cầu mong các nàng che chở, giúp đỡ. Thấy vậy, các nàng liền bảo người dân lấy thóc nắm lại rồi ném xuống. Ngay lập tức, những hạt thóc ấy nổ tung ra như bỏng và lăn ầm ầm xuống đè nát lũ giặc hung hãn. Dấu vết những hạt bỏng đó nay còn tìm thấy tất nhiều ở vùng chân núi Phja Bjoóc. (Thực chất dây là những tảng đá Gra nít thô - trên mình có những đốm trắng). Thắng giặc, các nàng quay về trời. Còn người dân, để tưởng nhớ và tạ ơn các nàng họ đã làm Pẻng Bjoóc (bánh hoa) để cúng các nàng vào các kì hội xuân. Bánh hoa được làm nở phồng, giòn thông qua việc tưới mỡ là vì thế. (Khi nắm thóc ném ra đã nở tung – dân gian tưởng tượng rằng đó là một loại bỏng nhưng không chịu sự tiếp xúc trực tiếp của bếp lửa). Đó là một câu chuyện, một truyền thuyết gắn liền với việc dâng tặng vật phẩm cho thần linh với một ý nghĩa nhân văn hết sức sâu đậm, mang dáng dấp và bản sắc văn hoá riêng cho một vùng đất. Tiếc rằng dường như nó đã thất truyền, hoặc ít nhất là rất lâu chưa có cơ hội được thể hiện. Lễ hội Lồng Tổng bao giờ cũng được tổ chức ở một vạt ruộng to nhất của làng bản. Với những làng bản có đền miếu cùng một bãi đất to rộng, bằng phẳng - lễ hội cũng có thể được tổ chức ở đây. Vào lễ hội, cây còn đã được dựng sẵn từ nhiều hôm trước. Đó là một tín hiệu để khách lạ của làng bản xa cùng đến tụ hội, vui chơi, thăm hỏi và chúc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 tết lẫn nhau. Ngày tổ chức lễ hội cũng được quy định cụ thể cho từng làng bản nên người cư trú cùng trong một khu vực có thể được tham gia rất nhiều lễ hội. Chẳng hạn vùng Bạch Thông trước đây, lễ hội Lồng Tổng được tổ chức bắt đầu từ ngày mồng 4 tết âm lịch và kết thúc vào ngày 20 tháng giêng, lễ hội Lồng Tổng ở Nà Mu – Phủ Thông (nay là hội Lồng Tổng Phủ Thông - được tổ chức vào ngày 10 tháng giêng âm lịch). Để tiến hành lễ hội, chủ lễ (là một trong bốn đối tượng nói ở trên) trước hết phải đến trước nơi bày đặt các mâm lễ (có thể bày ở trên bờ ruộng hoặc làm sàn có mái che cho từng mâm) thắp hương, khấn vái, tạ ơn trời đất, tạ ơn thần Nông, thần Núi, thần Sông, thần Rừng... trong năm đã phù hộ cho làng bản ấm no, hoà thuận. Sau đó chủ lễ tiếp tục khấn cầu mong các thần năm nay tiếp tục phù hộ cho làng bản nhiều hơn nữa. Nếu chủ lễ là ông thầy Tào, thì hành lễ còn có thể có cả sách cúng (hội Loàn ở xã Yên Thượng, huyện Chợ Đồn). Cúng xong, chủ lễ thường lấy một bát nước (hoặc rượu) vẩy ra xung quanh với ngụ ý cầu cho năm mới mưa thuận. gió hoà, đời sống lao động sản xuất lại tiếp tục được đầy đủ, ổn định, no ấm. Sau nghi lễ của chủ lễ, các gia chủ đã tiến hành làm cỗ bày ở đó sẽ thắp hương ở mâm cỗ của mình, khấn vái, cầu khẩn cho xứ đồng của mình không gặp phải bệnh tật, tai ương... Chờ tàn tuần hương, chủ lễ và một vài đại diện khác trong làng bản tiến hành chấm cỗ. Việc chấm cỗ ở đây cốt là để đánh giá sự chu đáo, cẩn thận và tài nghệ của người làm cỗ chứ không cốt ganh đua phần thưởng. Lúc này ở dưới sân chơi, nơi có cắm cột còn, hội tung còn đã diễn ra rất nhộn nhịp. Kẻ tung, người bắt. Những đôi trai gái có tình ý với nhau có thể tự tìm còn của nhau để bắt lấy. Chỉ bằng quả còn và ánh mắt trao nhau trong hội xuân mà nhiều đôi trai gái người Tày đã thành vợ, thành chồng. Tuy nhiên, ở trò chơi này quan niệm – tín ngưỡng và cách ứng xử trong tín ngưỡng âm – Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 dương của người Tày rất rõ. Nó thể hiện trực tiếp ở cột còn, phoỏng còn (vòng tròn dán giấy theo hình bát quái) và quả còn. Cụ thể là: - Cột còn: - cây vũ trụ (có thể thấy rõ nhất trong văn hoá nhà mồ các dân tộc Tây Nguyên). - Phoỏng còn: (vòng tròn dán giấy xanh, đỏ cắt theo hình bát quái): tượng âm – tĩnh. - Quả còn: - tượng dương - động. Theo quan niệm của đồng bào Tày, năm nào không có ai tung còn xuyên qua được Phoỏng còn thì năm đó làm ăn sẽ không thuận lợi, mùa màng có thể gặp dịch bệnh, đói kém (âm dương chưa giao hoà). Để khắc phục việc này, có năm làng phải cử người mang súng ra bắn thủng Phoỏng còn để cầu may. Ngoài trò chơi tung còn, các chàng trai – cô gái còn tổ chức đánh yến, hát lượn giao duyên... tụ tập thi đánh quay, chơi sảng... Ngoài ra còn có trò chơi kéo co – có thể chia từng đội theo chòm bản (hoặc bản trên, bản dưới hay bản này với bản khác). Chia đội xong, hai bên sẽ cùng bước vào thi dưới sự điều khiển, giám sát của một người đàn ông trong bản. Lúc đầu, theo hướng dẫn của chủ lễ, hai bên sẽ lần lượt kéo và có lúc thắng, lúc thua – họ tin rằng làm như thế việc mưa nắng, đảm bảo nguồn nước... sẽ tốt ở cả hai bản. Tuỳ theo số lượng người của các bản mà có thể có nhiều hoặc ít đội tham gia kéo co. Sau khi cuộc kéo co có tính chất “làm phép” kết thúc, các chàng trai sẽ bước vào cuộc thi kéo co thực sự theo đúng khả năng hiện có của mỗi đội. Đặc sắc và đáng chú ý nhất trong hệ thống trò chơi dân gian tổ chức tại lễ hội Lồng Tổng là múa sư tử. Tuy nhiên, vì điều kiện, khả năng cụ thể của mỗi thôn bản mà trò chơi này có thể có hoặc không có. Vì vậy, ngày trước chỉ những thôn bản sung túc, có nhiều người tài giỏi võ nghệ mới lập được đội múa sư tử, và có khả năng mời các đội múa sư tử ở vùng lân cận về dự hội. Lễ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 hội Lồng Tổng ở bản nào có nhiều đội múa sư tử thì càng chứng tỏ tầm vóc, quy mô và sự sang trọng của lễ hội bản đó. Thực chất, múa sư tử là một hình thức gắn biểu diễn võ thuật vào các trò vui trong dịp hội xuân. Khác với đầu sư tử trong múa sư tử của người Kinh, đầu sư tử trong múa sư tử của người Tày nhỏ, gọn hơn, khi múa có thể nhào lộn được. Ngoài sư tử, thông thường cón có thêm mặt nạ Báo Đông (đười ươi) hoặc mặt nạ khỉ cùng múa võ đi theo và diễn trò với nhau. Nhạc cụ đi kèm theo là trống, chiêng (hoặc thanh la). Lúc tiếng chiêng trống khoan thai, chậm rãi là sư tử và Báo Đông đang diễn trò bình thường, tính biểu diễn võ thuật ở mức độ vừa phải, khi chiêng trống khua vung mạnh, rầm rĩ là lúc các trò diễn được biểu diễn ở mức độ cao, tinh xảo, nhiều động tác võ thuật điêu luyện. Tiếng trống chiêng vừa có tác dụng giữ nhịp cho cuộc biểu diễn, vừa có tác dụng cổ vũ cho các võ sĩ. Trong khi biểu diễn, có thể có thêm các đội sư tử ở các thôn, bản khác kéo đến cùng tham dự và thi tài. Sư tử của bản này lúc này phải ra nghênh tiếp và mời sư tử của đội bạn cùng vào tham gia biểu diễn. Ngay trong quá trình biểu diễn, các sư tử, Báo Đông còn ngầm thể hiện, thi thố tài nghệ của mình với chính đội bạn. Cuộc vui trong phần hội vì thế có rất nhiều giây phút thăng hoa trong đỉnh cao của sự viên mãn ngày xuân. Các trò chơi, các làn điệu lượn giao duyên của các đôi trai gái có thể kéo dài tới lúc gần lặn mặt trời. Tàn cuộc người ta lại rủ khách về bản vui chung dưới mái ấm của nếp nhà sàn trong men rượu mùa xuân. Người ta mời nhau cơm rượu, chúc phúc cho nhau, trao cho nhau cái nghĩa, cái tình thắm nồng của làng bản. Các cuộc lượn đối đáp, giao duyên tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể mà có thể kéo dài tới tận sáng hôm sau. Sáng ấy, mặt trời lên, người ta lại rủ nhau đi dự hội ở bản bên. Việc ăn tết của người Tày xưa kia trong tháng giêng là thế. Và như vậy, phải chăng cần nhắc lại rằng việc người Tày ăn tết lại (Đắp Nọi) cũng là một hình thức kéo họ tĩnh tâm trở lại với đời sống thường Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 nhật, kéo họ sau những giây phút thăng hoa, trở về với cuộc sống lao động sản xuất. Việc vui này xin hẹn tiếp mùa sau Trong đó hội Lồng Tồng ở xã Hà Hiệu, Ba Bể là một trong những lễ hội tiêu biểu của người Tày vùng cao Bắc Kạn. Hội Lồng Tồng ở Hà Hiệu được tổ chức vào ngày 16/1 hàng năm kéo dài trong ba buổi chiều 15 và cả ngày 16. Tuần tự thì chiều 15 xã cúng thần, sáng 16 tiếp tục cúng và chuẩn bị cho phần hội. Chiều 16 mới chính thức vào hội. Công việc chuẩn bị được thực hiện hàng tháng trước lễ hội. Xã Hà Hiệu xưa dân cư còn rất thưa thớt, trước cách mạng tháng Tám số hộ là 46 nóc nhà [20, tr.5]. Hội Lồng Tổng ở Hà Hiệu do hai thủ từ đình Nà Slấn và Đon Chiêm đứng ra tổ chức hàng năm và thành lập ban tổ chức hội. Thủ từ hai đình này bắt buộc phải là người họ Dương - dòng họ chiếm đa số và có thế lực nhất xã, những người làm thủ từ được chọn và truyền cho nhau theo chế độ cha truyền con nối nhiều đời. Vào mỗi dịp tết, thủ từ đứng ra làm danh sách và thu tiền tổ chức lễ hội của từng hộ. Mỗi hộ hàng năm phải góp một suất tương đương 3 đồng đông dương, hộ nghèo có thể được giảm còn nửa suất là 1,5 đồng đông dương. Nhưng hộ tham gia phải là người gốc Hà Hiệu, những hộ ngụ cư không được tham dự. Sau khi thu đủ tiền ban tổ chức sẽ chuẩn bị lễ vật cúng là hai con lợn to và một con trâu (tầm 5 tuổi) Đầu xuân khi không khí tết vẫn còn đậm đã thủ từ họ Dương sẽ gióng lên ba hồi chín tường mõ tre để mời gọi mọi người góp mặt. Do điều kiện miền núi dân cư thưa thớt thường sống cách nhau vài ba quả đồi tiếng mõ tre là phương tiện liên lạc chính khi bản làng có công việc cần tập trung mọi người. Mõ tre được làm bằng hai đến ba ống Mai được đục rống ruột, có khoét lỗ ở giữa để thoát âm khi gõ sẽ vang xa hơn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 . Toàn bộ thanh niên trai tráng phải ra đình làm lễ thịt trâu, lợn cúng thần. Toàn bộ các công việc đều do thanh niên trong làng đảm nhiện, phụ nữ không được tham gia. Lễ cúng sẽ được tổ chức ở đình và hai đình Nà Slấn và Đon Chiêm thay nhau được chọn làm địa điểm cúng. Việc cúng tế do thủ từ đình đến phiên được chọn đảm nhiệm. Mỗi nhà đều phải tham gia một mâm cỗ cúng để ở đình gồm nhiều loại bánh như Khẩu Si, Khẩu Théc, chè Lam….Các hộ (cũng có thể có vài hộ cùng chung) thi nhau làm các món ăn, các loại bánh mới lạ, bày mân đẹp mắt để làm lẽ cúng thần, sau đó gióng trống chuyển sang phần hội. Có tổ chức thi làm bành và chấm giải cho mâm bánh đẹp nhất. Mâm cỗ của mỗi hộ cũng được bố chí theo một vị trí cố định. Mâm của những họ chính như họ Dương để ở giữa dưới bàn thờ, còn các mâm khác để ở hai hàng hai bên. Sau hai buổi cúng vào chiều 15 và sáng 16 sẽ tổ chức ăn uống. Ngoài mâm của thủ từ và các chức dịch, bô lão khoảng 2 đến 3 mâm được chuẩn bị sẵn, mọi người đều tự túc. Họ chặt lá chuối rừng để chải ngồi, mang theo rượu, cơm lam, muối đi ăn uống cúng với thịt là lộc cúng. Sau khi ăn xong được phần thịt mang về là một xâu thịt khoảng 2 -3 lạng. Chiều 16 là phần hội với nhiều trò chơi dân gian.Hội có các trò chơi như tung còn, đánh quay(tức sáng),, kéo co, đi cầu thăng bằng(tuấy hang vài),đánh yến (tức Diễn), đánh đu, đánh võ, đánh vật, múa sư tử(múa kỳ lân)… Trong niềm vui hội hè, nam nữ thanh niên còn hát lượn để tìm bạn tâm đầu ý hợp. Trò chơi tung còn là trò trơi quan trọng không thể thiếu trong các hội Lồng Tổng. Các thành phần cột còn và phoỏng còn có ý nghĩa tương tự với quan niệm chung tuy nhiên quả còn còn có một ý nghĩa khác. Quả còn được khâu bằng vải hình góc vuông có bốn mầu xanh, đỏ, vàng, đen. Bên trong có nhồi cát hoặc ngô, thóc với ý nghĩa cơ bản là bốn phương tụ họp chung vui. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 Cuối buổi chiều ngày 16 sẽ hạ cây phoỏng kết thúc lễ hội. Quả còn được vứt vào bụi dậm, vứt lên ngọn cây cao với ý nghĩa không ai vui chơi nữa bắt đầu vụ mùa làm việc mới. Tiểu kết: Trên địa bàn huyện Ba Bể có 5 dân tộc anh em cùng sinh sống. Mỗi dân tộc lại có phương thức canh tác nông nghiệp truyền thống riêng. Những phương thức canh tác đó đã làm đa dạng hoá các loại hình sản xuất nông nghiệp truyền thống, trên cơ sở canh tác nông nghiệp của người Tày là cơ bản. Không chỉ sáng tạo trong sản xuất, đồng bào các dân tộc huyện Ba Bể còn sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần độc đáo, thể hiện qua các lễ hội truyền thống mà hội Lồng Tổng là lễ hội tiêu biểu. Hội Lồng Tổng là thành tựu đặc sắc nhất của văn hoá dân gian làng xã ở địa phương này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 KẾT LUẬN Huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn là một huyện miền núi có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Trải qua một thời gian dài với bao thăng trầm bộ mặt của huyện đã hoàn thiện như ngày nay. 1. Với đặc điểm là một huyện thuần nông, người dân địa phương từ bao đời nay canh tác trên ruộng đồng và dựa vào những sản phẩm khai thác được từ tự nhiên làm nguồn sống đồng thời mang lại giá trị kinh tế chủ yếu cho nhân dân. Do địa hình, đất đai nhìn chung là thuận lợi, cùng với việc không có điều kiện phát triển công - thương nghiệp, từ xưa đến nay trồng trọt luôn giữ vị trí hàng đầu. Với địa hình miền núi phần lớn là núi đồi thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp kết hợp với chăn nuôi các loại gia súc nhỏ. Trong lịch sử phát triển của mình Ba Bể là nơi tiếp nhận nhiều luồng dân cư di cư tới. Trên địa bàn huyện dân tộc đầu tiên tới khai phá và sinh sống là một bộ phận người Tày bản địa.Các dân tộc ít người từ Trung Quốc theo đường Cao Bằng qua Ba Bể xuống phía Nam sinh sống, luồng dân cư từ Tuyên Quang sang hay đồng bào người Kinh từ dưới xuôi lên đã hoà hợp tạo thành bộ mặt các dân tộc Ba Bể hiện nay. Năm dân tộc anh em dù có nguồn gốc khác nhau, di cư đến Ba Bể bằng những con đường khác nhau nhưng đã sống hoà thuận, đoàn kết gắn bó với nhau. Với đặc điểm là vùng đất từ sớm đã có người khai phá và sinh sống lại có những địa danh là chợ lâu đới được nghi trong sử sách là một sự thừa nhận Ba Bể có nhiều lợi thế phát triển kinh tế. 2. Với việc phân tích 22 đơn vị địa bạ vào thời điểm nửa đầu thế kỷ XIX đến từng chủ hộ sở hữu tình hình ruộng đất ở Ba Bể đã được lột tả về cơ bản. Qua đó chúng ta thấy được nguồn tài nguyên được khai thác và loại hình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 kinh tế chủ yếu thời kỳ tiền Tư Bản, sự phân hoá xã hội, chế độ thuế khoá thu nhập chủ yếu của các xã hội phong kiến.. Chế độ sở hữu ruộng đất ở Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX là sự thắng thế tuyệt đối của sở hữu tư nhân. Sự vằng bóng của ruộng đất công chứng minh quá trình tư hữu hoá phát triển cao.Ruộng đất tư chiếm ưu thế tuyệt đối với 100% ruộng đất các loại. Trong sử hữu tư nhân nổi bật lên một đặc điểm là ở Ba Bể ruộng đất không tập trung trong tay các địa chủ lớn mà tập trung trong tay các dòng họ lớn. Trên địa bàn huyện không có những địa chủ tập trung trong tay vài ba trục mẫu ruộng nhưng có những nhóm họ tập trung trong tay vài trăm mẫu. Điều này thể hiện ảnh hưởng lớn của chế độ thổ ty ở miền núi. Cụ thể là ở Châu Bạch Tông là địa phận của dòng họ Hoàng. Nhưng ở ba tổng là địa bàn huyện Ba Bể ngày nay dòng họ Ma mới là những chủ nhân thật sự. Về quy mô sở hữu theo dòng họ, điểm đáng chú ý là sự phân bố không đều giữa các dòng họ, giữa các dòng họ, các nhóm họ và phân bố không đều về bình quân diện tích sở hữu của các chủ ruộng trong huyện. Xã Cao Trĩ có bình quân sở hữu một chủ ruộng cao nhất với 10.1.7.6/một chủ ruộng còn xã Nam Mẫu có bình quân thấp nhất với 1.6.0.6/một chủ ruộng. Quy mô sở hữu ruộng đất giữa các xã trong huyện là không đều nhau. Có những xã chỉ có diện tích sở hữu hơn 10 mẫu trong khi có những xã có diện tích hơn 300 mẫu. Hiện tượng chủ ruộng là phụ nữa đứng tên sở hữu cũng xuất hiện nhưng chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé. Mặc dù vậy điều này cũng thể hiện sự tiến bộ đặc biệt với điều kiện miền núi nơi chế độ Quằng - thổ ty còn đậm nét. .Việc ruộng đất hoang hoá chứng minh rằng tình hình kinh tế, xã hội huyện Ba bể có nhiều biến động. Hiện tượng ruộng bỏ hoang là hiện tượng phổ biến ở các địa phương thời bấy giờ. Nhưng hiện tượng bỏ hoang cả một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 xã chủ yếu xẩy ra ở miền núi vào thời điểm nửa đầu thế kỷ XIX, điều này xẩy ra do chiến tranh loạn lạc và do tập quán du canh du cư của đồng bào các dân tộc thiểu số. Sự chênh lệch về diện tích sở hữu ruộng đất giữa các hộ gia đình có thể là do sự khác biệt về lực lượng lao động, đất rộng, người thưa, kế hoạch làm ăn...nhưng quan trọng hơn cả là sự khác biệt về thế lực kinh tế, xã hội. Những dong họ đến trước có công khai phá đất đai được chiếm hữu nhiều ruộng đất tốt hơn, có thế lực và giầu mạnh hơn. Mối quan hệ giữa nhà nước và làng xã với sự xung đột trong lợi ích về ruộng đất là một vấn đề không mới. Nhà nước luôn tìm cách khống chế và kiểm soát làng xã nhưng ngược lại làng xã với tính tự trị cao luôn tìm cách chống lại. Đây là một cuộc đấu tranh dài và chỉ kết thúc khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đới năm 1945. Mối quan hệ tương trợ giữa làng xã và làng xã được thể hiện rõ nét. Nhiều làng xã có nhưng địa vực khác nhau nhưng nếu xét về dòng họ lại có quan hệ mật thiết. Mối quan hệ giữa làng xã và làng xã ở huyện Ba Bể vào đầu thế kỷ XIX, tuy không có hiện tượng phụ canh với sự xâm nhập về ruộng đất nhưng đồng bào các dân tộc vẫn sống hoà thuận, tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống lao động, sản xuất. Trong giao lưu văn hoá thể hiện qua các lễ hội đình chùa, sự hoà nhập, giao thoa về mặt tín ngưỡng, tôn giáo là biểu hiện về sự hoà hợp giữa các dân tộc. 3. Với đặc điểm chế độ ruộng đất như trên, đồng thời do địa hình bị chia cặt mạnh nhiều đồi núi, kinh tế Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX là một nền kinh tế trông trọt lạc hậu năng suất thấp. Nông nghiệp trồng trọt bao gồm cả canh tác lúa nước, nương rẫy và làm vườn. Canh tác lúa nước là hình thức chủ yếu của người Tày, Nùng còn nương, rẫy là loại hình canh tác cơ bản của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 người Dao, Sán Chí. Sự xuất hiện của các dân tộc Mông, Dao, Sán Chí trên địa bàn huyện do lối sống du canh du cư đi tìm đất đai sinh sống. Có thể khẳng định rằng các dân tộc ở Ba Bể có những nét văn hoá riêng, đặc sắc và khá độc đáo gắn liền với nông nghiệp. Trên cơ sở văn hoá của dân tộc chính là người Tày, chúng ta có thể nhận thấy một số đặc điểm riêng. Người Tày vẫn giữ được những đặc điểm văn hoá cơ bản của dân tộc mình nhưng trong đời sống thực tế đã có một số biến đổi. Lễ hội của người Tày ở Ba Bể có thời gian ngắn và ít tốn kém hơn ở những nơi khác, ngày tổ chức và địa điểm cũng không có sự bắt buộc cố định, tuỳ theo sự lựa chọn từng năm Sự kết hợp giữa các yếu tố văn hoá của người Kinh và người Tày qua các biểu hiện về tôn giáo như đình, chùa làm đa dạng và dày thêm các lớp văn hoá ở nơi đây. Do đặc điểm cư dân sống gần hồ Ba Bể hàng nghìn năm nay cuộc sống gắn với hồ, phụ thuộc vào hồ qua nhiều thế hệ nên có tín ngưỡng thờ thần nước rất độc đáo và rất riêng Từ những luận điểm trên chúng ta có thể khẳng định ở Ba Bể thời kỳ trước đã có sự giao thoa văn hoá tự nhiên giữa các vùng, các dân tộc. Nhân dân các dân tộc Ba Bể luôn coi nhau như anh em một nhà và góp phần xây dựng bản sắc văn hoá của quê hương mình. Bước vào thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách đầu tư để bảo tồn và phát huy bản sắc các dân tộc Việt Nam trong đó có Ba Bể.Ví dụ: Hội lồng tồng đã được tổ chức thường xuyên theo định kỳ hàng năm trong thời gian gần đây, nhà nước đã đầu tư xây dựng và bảo tồn bản nhà sàn Nà ngòi( xã Nam Mẫu) – một bản người Tày có những đặc trưng văn hoá vùng hồ. Có thể khẳng định hiện nay ở Phú Đình đã có sự giao thoa về văn hoá một cách có định hướng theo đường lối văn hoá của Đảng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 4. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay một dân tộc không thể phát triển đi lên nếu không dựa trên một nền tảng vững chắc. Nền tảng ấy bao gồm nhiều yếu tố khác nhau trong đó có các yếu tố kinh tế - văn hoá truyền thống cấu thành từ bản sắc của các dân tộc. Nếu như trong tiến trình lịch sử, sức sống mãnh liệt của văn hoá các dân tộc Việt Nam đã tạo lên sức mạnh to lớn trong công cuộc dựng và giữ nước thì trong hoàn cảnh mới, sức sống ấy sẽ là sức bật đưa Việt Nam tiến lên. Chúng ta sẽ hội nhập với quốc tế, khu vực và thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trên cơ sở gìn giữ những nét văn hoá từ ngàn xưa kết hợp với các yếu tố mới. Thực hiện xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đưa đất nước ta tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của tri thức - công nghệ hiện đại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (2005), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, tr.150. 2. Nguyễn Thị Mai Anh (2009), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Phổ Yên (Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX, Khoá luận tốt nghiệp, trường ĐHSP Thái Nguyên. 3. Bản sắc và truyền thống văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Kạn (2004), NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội, tr.155. 4. Các dân tộc ít người Việt Nam (các tỉnh phía Bắc)(1978),Viện Dân tộc học, Nxb Khoa học Xã hội. 5. Phan Huy Chú (1999), Lịch chiều hiến chương loại chí, Tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 6. Đại Nam Thực lục chính biên (1968), tập XX, Hà Nội. 7. Đại Nam nhất thống chí, Sử quán triều Nguyễn (1992), Tập 4, Nxb Thuận Hóa. 8. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn -Vĩnh Long, NXb Hồ Chí Minh. 9. Địa lý tỉnh Bắc Kạn (2002), Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bắc Kạn. 10. Đồng khánh dư địa chí ( 2005 ), Nhóm biên tập bản điện tử Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, tr.819 - 820. 11. Nguyễn Kiên Giang (1953), Phác qua Tình hình ruộng đất và đời sống nông dân trước Cách mạng tháng Tám, Nxb Sự thật, Hà Nội. 12. Nguyễn Thị Hà (2008), Huyện Chiêm Hóa-Tuyên Quang nửa đầu thế kỷ XIX, Luận văn tốt nghiệp đại học, trường ĐHSP Thái Nguyên. 13. Vũ Thị Thu Hà (2009), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Phổ Yên (Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX qua địa bạ triều Nguyễn, Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên,trường ĐHSP Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 14. Lê Thị Thu Hương (2008), Huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên qua tư liệu địa bạ triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX, Luận văn thạc sĩ, trường ĐHSP Thái Nguyên. 15. Yên Thị Hương (2009), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Võ Nhai (Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX, Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên,trường ĐHSP Thái Nguyên. 16. Nông Quốc Huy (2008), Huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn thế kỷ XIX, Luận văn Thạc sĩ,trường ĐHSP Thái Nguyên. 17. Huyện uỷ Ba Bể, Lịch sử Đảng bộ huyện Ba Bể (2008), Đề cương chi tiết. 18. Phan Huy Lê (1996 ), Địa bạ cổ Hà Nội sưu tập và giá trị tư liệu, Tập 1, Nxb Hà Nội. 19. Phan Huy Lê và P.Brocheux (1995), Địa bạ Hà Đông, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 20. Lịch sử xã Hà Hiệu, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn (sửa đổi 01/01/2008) UBND xã Hà Hiệu và Hội người cao tuổi Hà Hiệu soạn và chính sửa, tr.7. 21. Lã Văn Lô - Nguyễn Hữu Thuần - Mai Văn Trí - Ngọc Anh - Mạc Như Đường (1959), Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. 22. Lã Văn Lô - Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 23. Lã Văn Lô (1973), Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Nxb Khoa học Xã hội. 24. Lã Văn Lô - Hà Văn Thư (1980), Bàn về cách mạng tư tưởng và văn hóa ở vùng các dân tộc thiểu số, Nxb Văn hoá, Hà Nội. 25. Lã Văn Lô và Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày - Nùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 26. Các Mác (1959), Tư Bản, quyển 3, tập 3, NXB Sự thật, Hà Nội, tr.33. 27. Đặng Phong (1970), Kinh tế thời nguyên thuỷ ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 28. Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.147. 29. Nguyễn Phan Quang (1981), "Khởi nghĩa Nông Văn Vân ở Cao - Lạng (1833 – 1834)", Nghiên cứu lịch sử, số 4, tr.43. 30. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỷ XIX (1802 – 1884), Nxb thành phố Hồ Chí Minh, tr.60-61. 31. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI- XVIII, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, HN. 32. Trương Hữu Quýnh - Đỗ Bang (chủ biên) (1997), Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa. 33. Nguyễn Văn Siêu (1997), Đại Việt địa dư toàn biên, Viện sử học và Nxb Văn học, Hà Nội. 34. Trần Kông Tấu (2006), Tài nguyên Đất, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 35. Phan Phương Thảo (2004), Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định qua tư liệu địa bạ, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, tr.14. 36. Dương Thị The, Phạm Thị Thoa (1999), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, (Bản dịch của Viện Hán Nôm), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 37. Khổng Thị Thìn (2009), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Chợ Đồn - Bắc Kạn qua tư liệu địa bạ năm Minh Mệnh 21 (1840), Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên,trường ĐHSP Thái Nguyên. 38. Hoàng Xuân Trường (2009),Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Đại Từ (Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX, Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên,trường ĐHSP Thái Nguyên. 39. Tục ngữ ca dao Tày vùng hồ Ba Bể (2007 ), Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Bắc Kạn, Nxb Văn hoá Dân tộc, tr.21. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 40. Vương Hoàng Tuyên (1963), Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở Bắc Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 41. Đàm Thị Uyên (1999), Tổng Lạc Giao qua tư liệu địa bạ 1805-1830, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường,trường ĐHSP Thái Nguyên. 42. Đàm Thị Uyên (1999), Huyện Quảng Hoà (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến giữa thế kỉ XIX, Luận án Tiến sĩ. 43. Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 44. Viện Dân tộc học (1992), Các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 45. Mai Thị Hồng Vĩnh (2009), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Đại Từ (Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX, Khoá luận tốt nghiệp Đại học, trường ĐHSP, Đại học Thái Nguyên. TÀI LIỆU ĐỊA BẠ 46. Giao Lang xã địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8221F1:8 47. Xuân ổ xã địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8253F1:13 48. Da Nham xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8224F1:13 49. Nhân Tiếp xã địa bạ Minh Mệnh 21,TTLTQGI, 8205F1:12 50. Bộc Bố xã địa bạ Minh Mệnh 21,TTLTQGI, 8204F1:10 51. Nam Mẫu xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8201F1:10 52. Truyền Cố xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8206F1:8 53. Bằng Thành xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8202F1:15 54. Mỹ Hóa Bán xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8239F1:8 55. Cao Thượng xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8213F1:16 56. Đồng Phúc xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8246F1:16 57. Cao Trĩ xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8257F1:20 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 58. Hạ Hiệu xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8226F1:18 59. Xuân Phương xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8256F1:24 60. Hồng La xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8248F1:10 61. Nghiêm Loan xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8236F1:10 62. Cổ Đạo xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8244F1:13 63. Bằng Châu xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8195F1:14 64. Chư Hoa xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8238F1:21 65. Quảng Khê xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8196F1:12 66. Thượng Giáo xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8251F1:14 TÀI LIỆU ĐIỀN DÃ 67. Ma Thế Trọng, 81 tuổi, Phố Cũ, tiểu khu 8, thị trấn Chợ Rã 68. Bế Ích Pèng, 70 tuổi, xã Quảng Khê 69. Đàm Đình Phùng, 80 tuổi, thôn Nà Ma, xã Hà Hiệu 70. Ô Phúc Bình, 80 tuổi, thôn Cốc Lót, xã Hà Hiệu 71. Dương Xuân Nghiêm, 70 tuổi, bản Vài, xã Khang Ninh 72. Dương Hữu Tương, 70 tuổi bản Vài, xã Khang Ninh 73. Ma Thế Khanh, 66 tuổi, Thị trấn Pắc Nặm, xã Bộc Bố, huyện Pắc Nặm 74. Dương Đăng Long, 71 tuổi, thôn Pác Nghệ, xã Địa Linh 75. Hoàng Văn Trọng, 70 tuổi, thôn Đon Vai, xã Chu Hương 76. Nông Viết Toại, 70 tuổi, Bản Áng, thị xã Bắc Kạn 77. Ma Thế Thiện, 61 tuổi, thủ từ chùa An Mã. 78. Dương Văn thục,55 tuổi, phó phòng văn hoá huyện Ba Bể 79. Th.S. Bàn Tuần Năng- Phó phòng bảo tàng &QLDT Sở VHTT Bắc Kạn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 PHỤ LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9543.pdf
Tài liệu liên quan