Phần i
Nguyên vật liệu và tầm quan trọng của việc tăng cường công tác quản lý nguyên vật liệu
A.Nguyên vật liệu là một yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1.Khái niệm và phân loại nguyên vật liệu
a.Khái niệm:
Quá trình sản xuất trong doanh nghiệp là quá trình kết hợp hài hoà của ba yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Với tư cách là đối tượng lao động, nguyên vật liệu là yếu tố đầu vào không thể thiếu của quá trình sản xuất. Ng
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Tình hình quản lý nguyên vật liệu tại Công ty Bê tông Xây dựng Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyên vật liệu tham gia cấu thành thực thể chính của sản phẩm và chuyển hoá toàn bộ giá trị của nó vào giá trị sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Giá trị của nguyên vật liệu là một phần giá trị của vốn lưu động, do vậy nó mang đầy đủ đặc điểm của vốn lưu động.Trong quá trình tham gia vào sản xuất, nguyên vật liệu bị tiêu hao toàn bộ hoặc bị biến đổi về hình thái vật chất ban đâù để cấu thành thực thể vật chất của sản phẩm.
b. Phân loại nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu sử dụng trong mỗi công ty thường rất đa dạng về chủng loại và mỗi loại lại có những tính năng tác dụng riêng. Chính vì vậy, để đảm bảo cho việc quản lý, sử dụng nguyên vật liệu có hiệu quả chúng ta phải tiến hành phân loại nguyên vật liệu.
Nếu căn cứ vào công dụng trong quá trình sản xuất, nguyên vật liệu được chia thành:
-Nguyên vật liệu là những sản phẩm chưa qua chế biến công nghiệp (như đay ,bông, chè búp) hoặc là sản phẩm của công nghiệp khai thác (như quặng, gỗ, đá...) dùng để chế tạo sản xuất trong ngành công nghiệp chế biến.
-Vật liệu: là nguyên liệu đã được trải qua một hoặc một số bước trong quá trình công nghệ chế tạo công nghiệp (gỗ xẻ là vật liệu, sợi là vật liệu ...)
-Nhiên liệu: là những thứ tạo nhiệt năng như than đá, củi, xăng dầu...Thực chất nhiên liệu là một loại nguyên vật liệu phụ nhưng do vai trò quan trọng của nhiên liệu đối với nền kinh tế quốc dân và do yêu cầu kỹ thuật về bảo quản sử dụng, về đặc tính lý hoá hoàn toàn khác với các loại nguyên vật liệu phụ khác nên nhiên liệu được tách riêng thành một loại.
+Căn cứ vào tính chất sử dụng, nguyên vật liệu được chia thành hai loại:
- Nguyên vật liệu thông dụng: là nguyên vật liệu phổ biến cho các ngành như: sắt, thép gỗ
- Nguyên vật liệu chuyên dùng: là những loại nguyên vật liệu dùng riêng cho từng ngành, từng xí nghiệp như: tinh bột, hoá chất, bột PVC
+ Căn cứ vào nguồn hình thành người ta chia nguyên vật liệu thành:
- Nguyên vật liệu mua ngoài
- Nguyên vật liệu tự sản xuất
2. Vai trò của nguyên vật liệu đối với quá trình sản xuất
Nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố cấu thành nên quá trình sản xuất. Nguyên vật liệu là nhân tố cấu thành nên thực thể sản phẩm, quyết định trực tiếp đến chất lượng sản phẩm do chúng có đặc điểm sủ dụng là chỉ dùng một lần và giá trị chuyển hết sang giá trị thành phẩm.
Nguyên vật liệu bao gồm cả nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ đều ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản suất. Nếu xét về mặt vật chất thì nguyên vật liệu là yếu tố cấu thành nên thực thể sản phẩm, nếu xét về mặt giá trị thì tỉ trọng của yếu tố nguyên vật liệu chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu giá thành, nếu xét về lĩnh vực vốn thì số tiền bỏ ra mua nguyên vật liệu chiếm một lượng lớn trong tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp, nếu xét về chi phí quản lý thì quản lí nguyên vật liệu cần một lượng chi phí tương đối lớn trong tổng chi phí quản lý.
B. Những nội dung cơ bản của công tác quản lý nguyên vật liệu
Công tác quản lý nguyên vật liệu là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý doanh nghiệp, nó là thước đo để đánh giá trình độ quản lý doanh nghiệp của các cán bộ quản lý.
Nếu công tác quản lý nguyên vật liệu được tổ chức không tốt sẽ không chỉ gây ra sự trì trệ trong sản xuất mà còn tạo ra sự lãng phí rất lớn cho doanh nghiệp và xã hội.
Để đảm bảo công tác quản lý nguyên vật liệu của nguyên vật liệu của doanh nghiệp cần thực hiện các công việc sau.
1.Xây dựng và thực hiện các kế hoạch mua sắm nguyên vật liệu
Các doanh nghiệp cần lập kế hoạch mua sắm nguyên vật liệu để xác định toàn bộ nguyên vật liệu cần mua trong năm thông qua các chỉ tiêu sau:
*Lượng nguyên vật liệu cần dùng
*Lượng nguyên vật liệu cần dự trữ.
*Lượng nguyên vật liệu cần mua sắm.
a.Lượng nguyên vật liệu cần dùng.
Lượng nguyên vật liệu cần dùng là lượng nguyên vật liệu cần thiết để sản xuất ra một khối lượng sản phẩm theo kế hoạch một cách hợp lý và tiết kiệm nhất. Lượng nguyên vật liệu cần dùng phải đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất sản phẩm cả về mặt hiện vật và giá trị, đồng thời doanh nghiệp cũng cần phải tính đến nhu cầu vật liệu để chế thử sản phẩm mới. Lượng nguyên vật liệu cần dùng không thể tính chung chung mà phải tính cho từng loại nguyên vật liệu theo chủng loại, quy cách. Tính toán nguyên vật liệu phải dựa trên cơ sở định mức tiêu dùng nguyên vật liệu của mỗi loại sản phẩm, nhiệm vụ sản xuất, chế thử sản phẩm mới và sửa chữa trong kỳ kế hoạch.
Để tính toán lượng nguyên vật liệu cần dùng ta có thể áp dụng công thức tính toán sau:
Vcd=S [(SixDvi)+(PixDvi)-Pdi]
Trong đó:
Vcd: Là lượng nguyên vật liệu cần dùng
Si:Là số lượng sản phẩm i kỳ kế hoạch
Dvi: Định mức tiêu dùng nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm i kỳ kế hoạch.
Pi: Số lượng phế phẩm cho phép của sản phẩm i kỳ kế hoạch.
Pdi: Lượng phế phẩm dùng lại của sản phẩm i.
b.Xác định lượng nguyên vật liệu cần dự trữ
Để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục, đạt hiệu quả kinh tế cao cần phải có một lượng nguyên vật liệu dự trữ hợp lý. Lượng nguyên vật liệu dự trữ hợp lý vừa đảm bảo sự liên tục cho quá trình sản xuất vừa tránh ứ đọng vốn ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả sử dụng vốn. Dự trữ nguyên vật liệu hợp lý cũng có nghĩa là tiết kiệm chi phí quản lý nguyên vật liệu như chi phí về bảo quản nhà kho, bến bãi, chi phí phát sinh do chất lượng nguyên vật liệu giảm, do giá thị trường giảm.
Lượng nguyên vật dự trữ là lượng nguyên vật liệu tồn kho hợp lý được quy định trong kế hoạch để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục, bình thường. Căn cứ vào công dụng, tính chất của nguyên vật liệu, nguyên vật liệu dự trữ được chia làm ba loại.
* Dự trữ thường xuyên
* Dự trữ bảo hiểm
* Dự trữ theo mùa
c.Xác định lượng nguyên vật liệu cần mua sắm
Xác định chính xác lượng nguyên vật liệu cần mua sắm giúp cho việc xây dựng kế hoạch vốn lưu động được hợp lý hơn do chi phí về mua sắm nguyên vật liệu chiếm đa phần trong vốn lưu động. Lượng nguyên vật liệu cần mua trong năm phụ thuộc vào các yếu tố sau:
* Lượng nguyên vật liệu cần dùng
* Lượng nguyên vật liệu dự trữ đầu kỳ
* Lượng nguyên vật liệu dự trữ cuối kỳ
Công thức xác định nguyên vật liệu cần mua sắm như sau:
Vc=Vcd+Vd2-Vd1
Trong đó:
Vc: Lượng nguyên vật liệu cần mua
Vcd: Lượng nguyên vật liệu cần dùng
Vd1: Lượng nguyên vật liệu dự trữ đầu kỳ
Vd2: Lượng nguyên vật liệu dự trữ cuối kỳ
d. Kế hoạch mua sắm nguyên vật liệu
Sau khi xác định dược lượng nguyên vật liệu cần dùng, cần dự trữ và cần mua trong năm, chúng ta phải xây dựng kế hoạch mua sắm nguyên vật liệu.Xây dựng kế hoạch này nghĩa là xác định số lượng, chất lượng, thời điểm mua của mỗi lần xác định số lần mua trong năm.
Khi kế hoạch tiến độ mua nguyên vật liệu được xác định hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp không bị ứ đọng vốn, đảm bảo dự trữ hợp lý về số lượng, chất lượng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
2.Tổ chức mua sắm nguyên vật liệu
a.Tìm kiếm nhà cung cấp
Đối với mỗi doanh nghiệp, việc tìm kiếm được một nhà cung cấp tin cậy có thể cung ứng lượng vật tư có chất lượng cao, giá cả phải chăng sẽ giúp cho công ty giảm được chi phí về nguyên vật liệu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Các công ty nên tìm kiếm nhiều nhà cung cấp điều này không những tránh được độc quyền trong việc cung cấp nguyên vật liệu mà còn làm cho các nhà cung ứng phải cạnh tranh để bán nguyên vật liệu, như vậy công ty sẽ mua được với giá ưu dãi hơn.
b)Ký hợp đồng
Ký hợp đồng là một công việc quan trọng trong công tác mua sắm nguyên vật liệu.
Hợp đồng phải được ký kết theo đúng quy định của pháp luật.
Phải có đầy đủ các điều khoản, các thoả thuận,nội dung hợp đồng phải rõ ràng, chính xác về số lượng, chủng loại, chất lượngvật tư, phương thức vận chuyển, giao nhận, thanh toán...
Hợp đồng sau khi đã ký là một văn bản mang tính pháp lý để quy định trách nhiệm khi có phát sinh tranh chấp do vậy cần ký kết một hợp đồng phải thận trọng, phải có những người có trình độ xem xét và quyết định ký.
3.Tổ chức vận chuyển và tiếp nhận nguyên vật liệu.
Sau khi ký hợp đồng mua nguyên vật liệu, cán bộ quản lý vật tư có trách nhiệm tổ chức vận chuyển được ký kết. Do bên mua chịu trách nhiệm. Nếu phương tiện là của doanh nghiệp hay đi thuê đều phải khoán chi phí vận chuyển phải kiểm tra về số lượng, chất lượng khi nhận vật tư.
Tiếp nhận nguyên vật liệu là bước chuyển giao trách nhiệm giữa bộ phận mua, vận chuyển với bộ phận quản lý nguyên vật liệu trong nội bộ doanh nghiệp, nó còn là cơ sở để hạch toán chính xác chi phi lưu thông và giá cả nguyên vật liệu.Tổ chức tiếp nhận tốt sẽ giúp cho thủ kho nắm chắc được số lượng, chất lượng và chủng loại nguyên vật liệu, phát hiện kịp thời tình trạng của nguyên vật liệu, hạn chế nhầm lẫn tham ô, thất thoát.Tổ chức tiếp nhận phải thực hiện tốt hai nhiệm vụ sau:
Tiếp nhận chính xác số lượng, chủng loại và chất lượng nguyên vật liệu theo đúng quy định trong hợp đồng, hoá đơn, phiếu giao hàng, phiếu vận chuyển và thời gian giao hàng.
Đảm bảo chuyển nhanh chóng nguyên vật liệu từ điểm tiếp nhận vào kho tránh hư hỏng, mất mát.
Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ đó khi tiếp nhận phải thực hiện đầy đủ các thủ tục sau:
Khi nguyên vật liệu tiếp nhận phải có đủ các giấy tờ hợp lệ.
Mọi nguyên vật liệu phải qua thủ tục kiểm nhận và kiểm nghiệm xác định chính xác số lượng (cân, đong, đo, đếm), chất lượng, chủng loại.Sau khi kiểm tra phải có biên bản xác nhận khi tiếp nhận thủ kho phải khi rõ số thực nhận theo đúng chủng loại, kích cỡ, chất lượng của từng loại vật tư, cùng với người giao hàng ký vào phiếu nhập kho và bộ phận kí vào sổ giao chứng từ.
4.Tổ chức quản lý nguyên vật liệu trong kho
Để đảm bảo toàn vẹn về số lượng, chất lượng nguyên vật liệu ngăn chặn mất mát, hư hỏng cần phải tập trung dự trữ nguyên vật liệu trước khi đi vào sản xuất. Nơi tập trung dự trữ đó là kho, kho không chỉ là nơi dự chữ bảo quản nguyên vật liệu mà còn là nơi dự trữ thiết bị máy móc trước khi sản xuất, tập trung thành phẩm trước khi tiêu thụ. Chính vì vậy trong doanh nghiệp có nhiều loại kho khác nhau để phù hợp với từng đối tượng dự trữ.
Nếu căn cứ vào công dụng của kho, ta có thể chia thành: Kho nguyên vật liệu chính, kho nguyên vật liệu phụ, kho nhiên liệu, kho nửa thành phẩm, kho công cụ dụng cụ...
Nếu căn cứ vào địa điểm và phương pháp bảo quản, ta có thể chia thành: Kho trong nhà và kho ngoài trời.
Bên cạnh đó doanh nghiệp còn có thể có các kho đi thuê ngoài để dự trữ, tập trung vật liệu máy móc ... Đối với các kho đi thuê này cần phải kí hợp đồng với người cho thuê về các mặt như giá cả, về việc trông coi, bảo quản...Cần quan tâm đến chất lượng nhà kho sao cho không gây ảnh hưởng đến chất lượng nguyên vật liệu.
Người làm công tác quản lý nguyên vật liệu cần quan tâm đến hệ thống kho bãi, xác định vị trí đặt kho hợp lý sao cho chi phí vận chuyển đến nơi sản xuất là tối ưu; đảm bảo hạ thấp chi phí bảo quản toàn vẹn về số lượng, chất lượng nguyên vật liêu, nắm vững lượng nguyên vật liệu trong kho tại mọi thời điểm, sẵn sàng cấp phát kịp thời phục vụ sản xuất, đảm bảo việc xuất, nhập, kiểm kê.
Để đảm bảo tốt công tác trên, nội dung chủ yếu của công tác bảo quản là:
- Cán bộ quản lý kho phải có hệ thống sổ sách theo dõi rõ ràng, luôn luôn nắm vững số lượng, chất lượng đối với từng loại nguyên vật liệu để làm cơ sở cho việc lập kế hoạch tiến độ mua.
- Bảo đảm nguyên vật liệu: nguyên vật liệu sau khi sắp xếp phải bảo quản theo đúng quy định.
- Xây dựng và thực hiện tốt nội quy bảo quản, nội quy về nhập xuất nguyên vật liệu, nội quy về an toàn trong bảo quản.
5.Tổ chức cấp phát nguyên vật liệu
Cấp phát nguyên vật liệu nghĩa là chuyển nguyên vật liệu từ nơi bảo quản, dự trữ hoặc trực tiếp sau khi mua kịp thời cho các bộ phận sản xuất giúp cho bộ phận sản xuất có thể tận dụng triệt để, tận dụng hiệu quả công suất thiết bị và thời gian lao động của công nhân. Cấp phát nguyên vật liệu kịp thời góp phần nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu dẫn đến hạ giá thành sản phẩm. Không chỉ vậy, tổ chức tốt công tác cấp phát nguyên vật liệu còn là điều kiện tốt để thực hiện chế độ trả lương theo sản phẩm và chế độ hạch toán kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp.
Có 2 hình thức tổ chức cấp phát nguyên vật liệu như sau:
- Cấp phát theo yêu cầu của bộ phận sản xuất: Theo hình thức này các phân xưởng và bộ phận sản xuất gửi yêu cầu về lượng vật tư lên phòng vật tư. Đối chiếu theo yêu cầu đó và lượng vật tư trong kho dựa trên hệ thống định mức và nhiệm vụ được giao, phòng vật tư lập phiếu cấp phát cho các bộ phận sản xuất lên kho lĩnh nguyên vật liệu.
-Cấp phát theo hạn mức (theo tiến độ kế hoạch ): căn cứ vào hệ thống định mức tiêu dùng nguyên vật liệu, căn cứ vào số lượng, chủng loại sản phẩm đã xác định trong kế hoạch và tiến độ sản xuất. Phòng vật tư lập phiếu cấp phát hạn mức giao cho các bộ phận sản xuất.
Ngoài hai hình thức cấp phát trên, trong thực tế còn có hình thức “Bán nguyên liệu, mua thành phẩm, “Đây là bước phát triển cao của công tác quản lý nguyên vật liệu nhằm phát huy đầy đủ quyền chủ động sáng tạo trong các bộ phận sử dụng vật tư, đảm bảo hạch toán chính xác, hạn chế hư hỏng mất mát vật tư trong khâu sử dụng.Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi cán bộ quản lý vật tư, các nhân viên kinh tế phân xưởng phải có năng lực và trình độ quản lý.
6.Thanh quyết toán nguyên vật liệu
Thanh quyết toán nguyên vật liệu là việc bộ phận quản lý nguyên vật liệu và bộ phận sử dụng đối chiếu, so sánh giữa lượng nguyên vật liệu các đơn vị nhận về với lượng sản phẩm giao nộp để biết được kết quả của việc sử dụng nguyên vật liệu của các đơn vị sản xuất.
Dựa vào kết quả của công tác thanh quyết toán nguyên vật liệu, chúng ta thực hiện việc hạch toán và đánh giá tình hình sử dụng nguyên vật liệu, xem xét được tính hợp lý, tiết kiệm việc sử dụng nguyên vật liệu, đảm bảo hạch toán đầy đủ, chính xác vào giá thành; xem xét lại định mức, đánh giá nên giữ lại định mức đó hay thay đổi.
Thanh quyết toán nguyên vật liệu phải làm rõ được các vấn đề sau:
- Lượng nguyên vật liệu nhận được trong tháng hoặc quý
- Lượng nguyên vật liệu sản xuất ra sản phẩm
- Lượng nguyên vật liệu làm ra sản phảm hỏng, kém chất lượng
- Lượng nguyên vật liệu còn tồn đọng
- Lượng nguyên vật mất mát hao hụt
- Đánh giá chung tình hình sử dụng nguyên vật liệu
7.Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nguyên vật liệu
Để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguyên vật liệu thì việc tính toán các nhân tố ảnh hưởng tới tình hình quản lý nguyên vật liệu là một tất yếu:
- Nhân tố về các chính sách của nhà nước: mọi cá nhân và thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật vì vậy các chính sách của nhà nước luôn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước quản lý vĩ mô mọi hoạt động của nền kinh tế. Chính vì vậy, mọi chính sách có liên quan của nhà nước đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp nói chung và việc quản lý nguyên vật liệu nói riêng: ví dụ những mặt hàng, những nguyên vật liệu cấm nhập khẩu thì phải tìm kiếm thị trường trong nước, mức giá trần của một loại sản phẩm do nhà nước quy định sẽ ảnh hưởng đến việc tổ chức quản lý sử dụng nguyên vật liệu ...
- Nhân tố về tài nguyên thiên nhiên: nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú sẽ tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.Vì vậy nguồn nguyên vật liệu xa hay gần, nhiều hay ít đều ảnh hưởng đến việc định vị doanh nghiệp và việc cung ứng nguyên vật liệu cho hoạt động của doanh nghiệp.
- Trình độ, đạo đức của cán bộ quản lý nguyên vật liệu: trình độ đạo đức của cán bộ làm công quản lý nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý vật tư ở tất cả mọi khâu: trình độ của cán bộ thu mua kém dẫn đến chất lượng của nguyên vật liệu có thể thấp mà vẫn phải mua với giá cao, đạo đức của thủ kho kém dẫn đến thất thoát nguyên vật liệu ...
- Các nhân tố về trình độ tay nghề, ý thức kỷ luật của người lao động: con người luôn luôn là chủ thể, là trung tâm của mọi hoạt động, để sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu không chỉ là nhiệm vụ của cán bộ quản lý mà còn chịu ảnh hưởng của trình độ tay nghề, ý thức của người công nhân trực tiếp sản xuất. Chính vì vậy, người làm công tác quản lý cần quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng cho người lao động không chỉ về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn về ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động.
Ngoài những nhân tố chủ yếu trên, tuỳ thuộc vào tính chất sản xuất của mỗi doanh nghiệp mà việc quản lý nguyên vật liệu còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như: khí hậu, lạm phát, sự xuất hiện các vật liệu thay thế...
C.Tăng cường công tác quản lý nhằm sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu
1. Thực chất của việc sử dụng hợp lý ,tiết kiệm nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là yếu tố cấu thành chính nên thực thể sản phẩm do vậy sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu thực chất chính là góp phần lớn nhất làm hạ giá thành sản phẩm, nhằm duy trì khả năng cạnh tranh, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội.
2. ý nghĩa của việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu
Lượng nguyên vật liệu sử dụng hàng năm trong các doanh nghiệp rất lớn và ngày càng tăng theo quy mô sản xuất, nếu sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên vật liệu thì với một lượng nguyên vật liệu như trước chúng ta có thể sản xuất ra một lượng sản phẩm lớn hơn. Như vậy, chúng ta có thể giảm chi phí về vốn dự trữ nguyên vật liệu, vốn nhập khẩu nguyên vật liệu, chi phí lãi vay ...
Sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên vật liệu là một biện pháp cơ bản để tăng số lượng sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm, góp phần vào việc giảm nhu cầu về vốn dự trữ nguyên liệu, vốn nhập khẩu nguyên liệu, tiết kiệm ngoại tệ.
Trong cơ cấu giá thành sản phẩm, chi phí về nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn (khoảng từ 60-80%), cho nên sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu là phương hướng chủ yếu để hạ giá thành sản phẩm.
Bên cạnh những lợi ích do tiết kiệm và sử dụng hợp lý nguyên vật liệu mà công ty có được, thì việc này còn đem lại hiệu quả lớn cho xã hội. Tiết kiệm nguyên vật liệu là tiết kiệm lao động sống, tiết kiệm chi phí xã hội, góp phần bảo vệ môi trường.
3. Một số biện pháp nhằm sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu
Để có thể khai thác triệt để khả năng sử dụng tiết kiệm và hợp lý nguyên vật liệu thì chúng ta phải dựa trên cơ sở phân tích một cách khoa học tình hình sử dụng nguyên vật liệu để đề ra được những biện pháp cụ thể phù hợp với doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
-Tăng cường công tác quản lý nhằm xoá bỏ hao hụt, mất mát.
Khi trong công ty có hao hụt, mất mát nguyên vật liệu cần điều tra, xem xét rõ ràng nguyên nhân phát sinh. Nếu hao hụt mất mát là do nguyên nhân khách quan như thời tiết, máy móc, thiết bị ...thì cần nhanh chóng tìm biện pháp khắc phục. Nếu là nguyên nhân chủ quan thì doanh nghiệp cần có các biện pháp nhằm giáo dục, nâng cao trách nhiệm của cán bộ công nhân viên chức. Doanh nghiệp cần xây dựng chế độ động viên khen thưởng cả về vật chất lẫn tinh thần cho cá nhân, đơn vị có thành tích, kỷ luật nghiêm những người vô trách nhiệm hoặc có hành vi gian lận bằng các biện pháp hành chính.
- Tăng tốc độ luân chuyển nguyên vật liệu:
Muốn sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu chúng ta cần quan tâm đến việc luân chuyển nguyên vật liệu ở cả 2 khâu: khâu dự trữ và sản xuất. Để tổ chức tốt việc luân chuyển nguyên vật liệu cán bộ quản lý nguyên vật liệu cần chú ý đến việc tính toán các định mức sản xuất, mức dự trữ; cần chú trọng nâng cao năng suất lao động để có thể đẩy mạnh tốc độ luân chuyển nguyên vật liệu, hạn chế tối đa tình trạng ứ đọng vốn.
-Không ngừng giảm bớt phế liệu, phế phẩm, hạ thấp định mức tiêu dùng nguyên vật liệu.
Muốn vậy, các doanh nghiệp cần tập chung giải quyết các vấn đề: Tăng cường công tác cải tiến kỹ thuật, ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, nâng cao trình độ lành nghề cho công nhân, xây dựng và hoàn thiện hệ thống định mức tiêu dùng nguyên vật liệu, xây dựng và thực hiện nghiêm chỉnh chế độ bảo quản, sử dụng và sửa chữa máy móc, thiết bị, coi trọng việc tổ chức hạch toán nguyên vật liệu và phế phẩm; áp dụng chế độ khuyến khích lợi ích vật chất trong việc sử dụng tiết kiệm hay lãng phí nguyên vật liệu... Ngoài ra cần phải đặc biệt coi trọng những biện pháp để giảm mức tiêu dùng nguyên vật liệu trong khâu thiết kế và công nghệ.
4.Những chỉ tiêu đánh giá trình độ sử dụng nguyên vật liệu.
Các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau sẽ sử dụng các chỉ tiêu đánh giá khác nhau. Các doanh nghiệp thuộc ngành chế biến như luyện kim, đường, ép dầu, đồ hộp ....thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
Hệ số chất có ích
=
Trọng lượng chất có ích trong nguyên liệu
trong nguyên liệu (H1)
Trọng lượng nguyên liệu
Hệ số sử dụng
=
Trọng lượng chất có ích thu được
chất có ích (H2)
Trọng lượng chất có ích có trong nguyên liệu
+Hệ số thành phẩm (H3)
H3=H1 x H2
Đối với các doanh nghiệp khác như cơ khí, may mặc, gỗ, da ... người ta sử dụng chỉ tiêu:
+Hệ số sử dụng nguyên liệu (Hsd):
Hsd =
Trọng lượng của sản phẩm
Trọng lượng nguyên liệu bỏ vào
Hệ số này càng gần 1 càng tốt
Ngoài hệ thống các chỉ tiêu trên còn sử dụng các chỉ tiêu sau đây:
Hệ số phế phẩm, hệ số phế liệu, hệ số phế liệu dùng lại... để đánh giá trình độ sử dụng nguyên vật liệu
phần II
Tình hình quản lý nguyên vật liệu tại công ty Bê tông xây dựng hà nội
i. Giới thiệu chung về công ty :
Quá trình hình thành và phát triển
Công ty Bê tông xây dựng Hà Nội tiền thân là nhà máy Bê tông đúc sẵn Hà Nội được thành lập 6 tháng 5 năm 1961 theo quyết định số 472/BKT của Bộ kiến trúc nay là Bộ xây dựng, sau đổi là Công ty liên hợp Bê tông xây dựng Hà Nội. Từ ngày 1 tháng 6 năm 1996, Công ty liên hơp Bê tông xây dựng Hà Nội sáp nhập vào Tổng công ty xây dựng Hà Nội và được đổi tên là Công ty Bê tông xây dựng Hà Nội.
Từ ngày thành lập tới nay công ty đã trải qua các giai đoạn phát triển chính như sau:
Thời kỳ từ năm 1961 đến 1964:
Nhà máy Bê tông đúc sẵn Hà Nội là đơn vị sản xuất công nghiệp bê tông đầu tiên của ngành xây dựng Hà Nội hoàn thành và đi vào sản xuất đúng vào thời kỳ miền Bắc thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961 – 1965). Nhiệm vụ chủ yếu của thời kỳ này là sản xuất các cột điện li tâm, Panel, tấm mái, ống nước li tâm… phục vụ các công trình dân dụng, công nghiệp, các tuyến đường dây tải điện, ống cấp thoát nước. Sản lượng tăng dần từ 6000 M3 lên 8000 m3, mức tăng trưởng là 15%. Nhà máy cung cấp sản phẩm xây dựng nhiều công trình của đất nước như nhà máy Thuỷ điện Thác Bà, toà nhà Quốc Hội, trường đại học Bách khoa, kinh tế quốc dân.
Thời kỳ từ năm 1965 đến 1975:
Thời kỳ này chia làm hai giai đoạn nhỏ:
Giai đoạn 1965 đến 1972
Đế quốc Mỹ phá hoại Miền Bắc nước ta bằng không quân, hải quân. Nhà máy tổ chức lại vừa sản xuất vừa tham gia chiến đấu cùng với nhiệm vụ sản xuất sản phẩm xây dựng kinh tế, nhà máy sản xuất các tầm Bê tông cho xây dựng các công trình Quốc phòng phục vụ chiến đấu như: Sân bay Đa Phúc, Kép, Sao Vàng, Hoà Lạc, các công sự đường hầm chiến đấu của bộ đội, Hầm trú ẩn cho các đồng chí cán bộ cao cấp của Đảng và nhà nước. Năm 1967 nhà máy bị giặc Mỹ ném bom, sản xuất bị ngưng trệ, sản lượng bị tụt xuống năm 1968 còn 2000m3 năm 1969 – 1970 nhà máy vừa sản xuất vừa phục hồi sản xuất kinh doanh, sản lượng tăng từ 1400m3 năm 1971.
Giai đoạn 1973 đến 1975
Miền Bắc nước ta không còn chiến tranh nhà máy lại tiếp tục xây dựng và sản xuất, tuyển chọn công nhân, chủ yếu sản xuất các cột điện cao hạ thế, ống cấp thoát nước, Panel, và các cấu kiện Bê tông khác phục vụ các công trình xây dựng ở thủ đô Hà Nội như Công ty cơ khí Đại Mỗ, nhà máy khoá Minh Khai nhà máy còn vinh dự được cử cán bộ công nhân viên tham gia xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thời kỳ 1976 đến nay
Miền nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất thời kỳ này chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn 1976 đến 1985
Tốc độ xây dựng ở miền Bắc nước ta được tăng dần nhiệm vụ sản xuất của nhà máy tăng lên, số lượng công nhân năm 1976 tăng lên là 600 người. Khối lượng sản xuất sản phẩm năm 1976 đạt 16270m3. Nhà máy tham gia xây dựng các công trình như Khách sạn Thắng Lợi, Bệnh viện nhi Thụy Điển, cung cấp cột điện cho các tỉnh của miền Bắc, hàng ngàn ống thoát nước cho thủ đô Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình… mức tăng trưởng giai đoạn này là 15% với thành tích đó nhà máy đã được nhà nước tặng thưởng huân chương Lao động hạng ba.
Giai đoạn năm 1986 đến nay:
Một sự kiện quan trọng giai đoạn này là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tại Hà Nội (tháng 12 – 1986) đánh dấu sự nghiệp đổi mới toàn diện trên toàn đất nước, trước hết là kinh tế. Từ đây nền kinh tế hàng hoá của nước ta vận hành theo nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế quản lý mới đòi hỏi nhà máy sản xuất kinh doanh phải tính toán lỗ lãi nâng cao hiệu quả kinh tế, chấp nhận cạnh tranh sản xuất hàng hoá và đấu thầu trong xây dựng. Nhà máy gặp không ít khó khăn trong việc chuyển đổi cơ chế, song bước đầu đã mang lại khởi sắc. Nhà máy tổ chức sản xuất tập trung vào hai lĩnh vực chính là sản xuất các sản phẩm công nghiệp và xây lắp, các sản phẩm như cột điện, ống nước, Panel, Bê tông thương phẩm và cấu kiện khác đã được cung cấp tại chân các công trình, cải tạo lưới đIện Thành phố, nông thôn như Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Nam Định, Hải Phòng…
Tháng 10 năm 1989, Nhà máy Bê tông đúc sẵn Hà Nội tách khỏi Tổng công ty xây dựng Hà Nội trực thuộc Bộ xây dựng. Nhiệm vụ chủ yếu của Công tylà sản xuất các sản phẩm Bê tông thương phẩm, vật liệu xây dựng, thi công các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp, thực hiện các dịch vụ chuyển giao công nghệ, nghiên cứu khoa học, kinh doanh nhà, tạo dựng sản phẩm mới để đủ sức cạnh tranh với kinh tế thị trường.
Tháng 4 năm 1995, Công ty liên hợp Bê tông xây dựng Hà Nội về trực thuộc Tổng công ty xây dựng Hà Nội và đổi tên thành Công ty Bê tông xây dựng Hà Nội. Trong giai đoạn Công ty tập trung đầu tư thiết bị máy móc mở rộng sản xuất đổi mới công nghệ: Đầu tư năm trạm trộn bê tông, hai xe bơm bê tông, mười lăm xe chuyên dùng chở bê tông thương phẩm, cẩu trục, cẩu tự hành, xe nâng hàng…
Về mô hình tổ chức sản xuất đến nay Công ty đã có chín đơn vị thành viên hoạt động trong nhiều lĩnh vực bao gồm:
Xí nghiệp Bê tông đúc sẵn Chèm
Xí nghiệp kinh doanh vật tư và dịch vụ
Xí nghiệp cơ khí sửa chữa và điện nước
Xí nghiệp Bê tông thương phẩm
Xí nghiệp xây dựng số 1
Xí nghiệp xây dựng và phát triển nông thôn
Xí nghiệp xây dựng và chống thấm chuyên ngành
Trung tâm nghiên cứu công nghiệp Bê tông nhiệt đới
Chi nhánh công ty tại Thành phố Hồ Chí Minh
Trong giai đoạn này, Công ty đã tham gia xây dựng và cung cấp các sản phẩm cải tạo lưới điện, đường ống cấp thoát nước cho Hà Nội, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Nghệ An, Nhà máy xi măng Bút Sơn. Cung cấp sản phẩm xây dựng các công trình lớn như: Như khu công nghiệp Nomura, Hải Phòng, Sài Đồng, Nhà máy ô tô Hoà Bình, Nhà máy xi măng Nghi Sơn, Khách sạn Horison, Lallvier, Hà Nội Tower. Công ty có nhiều sản phẩm đạt huy chương vàng về chất lượng cao như:
Sản phẩm cột điện (12/ 6/ 1991)
Panel hộp (12/ 6/ 1991)
Dải phân cách đường bộ (2/ 4/ 1994)
- ống cấp thoát nước (2/ 4/ 1994)
Bê tông thương phẩm (1994)
Để hoà nhập với thị trường khu vực và thế giới, Công ty đã tổ chức hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và được cấp giấy chứng nhận ISO – 9002
Sau hơn 10 năm đổi mới sản xuất kinh doanh, Công ty Bê tông xây dựng Hà Nội đều hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch năm sau cao hơn năm trước, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện.
2. Cơ cấu tổ chức
Công ty Bê tông xây dựng Chèm có lực lượng cán bộ công nhân viên là 740 người, việc quản lý đIều hành số lượng con người đông đảo như thế là một việc làm rất quan trọng với mục đích giữ gìn kỉ luật lao động, công việc, khơi dậy phát huy phẩm chất của mỗi cá nhân tạo nên sức mạnh tập thể, cũng như việc liên kết giúp đỡ nhau trong công việc của các thành viên trong công ty. Công ty đã có được cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý chặt chẽ hợp lý. Công ty đã xác định rõ chức năng nhiệm vụ của các phòng ban mối liên hệ giữa các phòng ban chức năng. Qua đánh giá năng lực hiệu quả công việc của các thành viên công ty có sự sắp xếp đúng người đúng việc tạo nên guồng máy vận hành nhịp nhàng hiệu quả theo cơ cấu quản lý trực tuyến chức năng. Trong đó những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của công ty đều là những người có trình độ từ đại học và trên đạI học, họ đều được thử thách qua công việc
Sơ đồ 1
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty
GIám đốc
Phó GIám đốc 2
Phó GIám đốc 3
P. KInh tế
Phó GIám đốc 1
P. TàI chính kế toán
Văn phòng
P. Dự án và xây dựng
P. Quản lý chất lượng
P. TC thanh tra bảo vệ
P. Tổng hợp
P. Kĩ thuật
Phân xưởng cốt thép
XN KD vật tư dịch vụ
Phân xưởng tạo hình
XN BT thương phẩm
XN BT đúc sẵn Chèm
TT nghIên cứu BT nhIệt đớI
XN CK sửa chữa đIện nước
Các XN xây dựng
‘
Chức năng các phòng ban
2.1.Ban lãnh đạo công ty
GIám đốc Công ty
+ Quan hệ công vIệc : Phụ trách chính.
+ Quyền hạn: ĐIều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
+Trách nhIệm trực tiếp phụ trách công tác tIếp thị, công tác tổ chức lao động tiền lương, công tác tài chính kế toán, kế hoạch đầu tư liên doanh liên kết, kinh tế đối ngoại, hệ thống quản lý chất lượng.
Phó Giám đốc:
+ Quan hệ công vIệc: Giúp việc cho GIám đốc công ty
+ Quyền hạn: ĐIều hành lĩnh vực xây lắp, thủ trưởng cơ quan, đIều hành công việc chung khi Giám đốc đi vắng.
+ Trách nhiệm: Trực tiếp phụ trách công tác tiếp thị, phụ trách các xí nghiệp xây lắp, thủ trưởng cơ quan Công ty, công tác thi đua khen thưởng, bảo vệ quân sự.
2.2. Phòng Tài chính kế toán
- Phòng Tài chính kế toán có chức năng: Tham mưu cho Giám đốc Công ty, tổ chức triển khai thực hiện công tác tài chính kế toán, thông tin kinh tế và hạch toán kinh của toàn công ty theo điều lệ, đồng thời kiểm tra kIểm soát mọi hoạt động kinh tế tài chính của Công ty theo Pháp luật.
- Tổ chức và chỉ đạo công tác tàI chính hạch toán kinh doanh trong toàn Công ty, phục vụ sản xuất kinh doanh.
2.3. Phòng kinh tế
- Tham mưu giúp việc cho Giám đốc Công ty trong lĩnh vực kế hoạch sản xuất kinh doanh. Xây ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0088.doc