LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, đất nước ta đã có nhiều thay đổi lớn cả về kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội. Hoà nhập với những biến đổi to lớn của nền kinh tế, ngành xây dựng, lắp đặt nước ta có những bước phát triển đáng kể. Hiện nay ngành thu hút hàng triệu lao động tham gia trong các hình thức tổ chức kinh doanh xây dựng lắp đặt khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế. Ngành xây dựng lắp đặt đã và đang vươn lên về mọi mặt để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng nhanh của các địa phương, các d
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1979 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt trên Thị trường bảo hiểm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh nghiệp cũng như toàn bộ dân cư trong cả nước.
Cùng với sự phát triển của ngành xây dựng lắp đặt, bảo hiểm xây dựng lắp đặt ở nước ta đã ra đời và phát triển theo dù ra đời muộn hơn so với thế giới cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Với mục tiêu là san sẻ rủi ro và đảm bảo về mặt tài chính cho xã hội, bảo hiểm xây dựng - lắp đặt ngày càng thể hiện rõ vai trò của mình góp phần vào sự ổn định và phát triển của đất nước.
Thấy rõ được tầm quan trọng và thiết thực cũng như những nét riêng biệt của nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác, nên em đã chọn đề tài: “Tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt trên thị trường bảo hiểm Việt Nam”. Kết cấu của đề án ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm có 3 chương:
Chương I: Tổng quan về nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt
Chương II: Thực trạng khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của cô giáo – Ths Tô Thiên Hương đã giúp em hoàn thành đề án này. Do thời gian và sự hiểu biết còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn đề bài viết được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
XÂY DỰNG LẮP ĐẶT
Sự cần thiết và quá trình phát triển nghiệp vụ Bảo Hiểm XD LĐ
Lịch sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ Bảo hiểm XD LĐ
1.1.1.1 Trên thế giới
Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng bất kể lý do gì khi xảy ra rủi ro thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều tài sản, làm ngưng trệ hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức và cá nhân. Làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro gây ra, nhưng bảo hiểm vẫn là biện pháp được ưu tiên và được sử dụng nhiều nhất.
Cùng với sự ra đời của ngành bảo hiểm nói chung thì bảo hiểm xây dựng lắp đặt cũng xuất hiện. Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là bộ phận của bảo hiểm kỹ thuật. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm kỹ thuật luôn gắn liền với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. So với các loại hình bảo hiểm khác thì bảo hiểm kỹ thuật ra đời muộn hơn rất nhiều. Đơn bảo hiểm kỹ thuật đầu tiên trên thế giới được cấp năm 1859, trong khi đó bảo hiểm hàng hải xuất hiện năm 1547, bảo hiểm hoả hoạn năm 1667. Bảo hiểm kỹ thuật có mặt hầu hết trong các lĩnh vực của hoạt động kinh tế và xã hội trên toàn thế giới. Từ việc bảo hiểm cho các máy móc sản xuất, các thiết bị dụng cụ tinh vi trong y tế, phòng thí nghiệm cho tới việc bảo hiểm hiểm các công trình xây dựng lớn như các toà nhà chọc trời, sân bay bến cảng, tàu vũ trụ, nhà máy điện nguyên tử…
Nhu cầu tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và kỹ thuật làm cho bảo hiểm kỹ thuật phát triển hơn bao giờ hết và trở thành một trong những loại hình bảo hiểm quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Bảo hiểm kỹ thuật đã có sự phát triển rất nhanh và tương đối hoàn chỉnh bao gồm các loại hình chính sau:
Bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu
Bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt
Bảo hiểm đổ vỡ máy móc
Bảo hiểm thiết bị điện tử
Bảo hiểm mất thu nhập cho máy móc ngừng hoạt động
Bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí
Các loại hình bảo hiểm trong bảo hiểm kỹ thuật có liên quan chặt chẽ với nhau. Mỗi loại hình đảm bảo cho một giai đoạn hay một khâu quá trình sản xuất.
Cho đến nay bảo xây dựng, lắp đặt cũng như bảo hiểm kỹ thuật có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Về mặt kỹ thuật nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt tương đối phức tạp so với các loại hình bảo hiểm khác. Với xu thế phát triển như hiện nay, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt còn phát triển và tiến xa hơn nữa trong tương lai.
1.1.1.2 Ở Việt Nam
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975 và có sự xuất hiện của Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt mới bắt đầu có sự phát triển nhất định. Ban đầu khi triển khai nghiệp vụ Bộ Tài Chính cho phép sử dụng đơn bảo hiểm, quy tắc và biểu phí của công ty Munich Re. Thị trường bảo hiểm lúc này chưa phát triển cả về cung lẫn cầu.
Sau khi đất nước mở cửa (1986) và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Bảo hiểm xây dựng lắp đặt ở nước ta có những bước phát triển rất đáng mừng từ hành lang pháp ký cho đến sự hoạt động của cung cầu bảo hiểm trên thị trường. Ngày 20/10/1994 Chính phủ ban hành Nghị định 177/CP quy định về quản lý đầu tư. Điều 52 quy định rõ các chủ đầu tư phải mua bảo hiểm công trình xây dựng lắp đặt, các tổ chức tư vấn xây lắp, nhà thầu xây lắp phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho các sản phẩm tư vấn, thiết bị vật tư nhà xưởng phục vụ thi công, tai nạn lao động đối với người lao động, trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba trong quá trùnh thực hiện dự án. Nghị định 42/CP thay thế NĐ 77/CP, thông tư số 663/TC/ĐT – TCNH ngày 24/6/1996 về việc ban hành quy tắc và biểu phí, phụ phí và khấu trừ bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng và lắp đặt. Đơn bảo hiểm xây dựng và lắp đặt đầu tiên ở Việt Nam được cấp là đơn bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt cho trạm thi phát vệ tinh mặt đất Láng Trung. Đây là công trình liên doanh giữa tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam và hãng Teltra của Úc. Và gần đây nhất ngày 12/04/2004 Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 33/2004/QĐ-BTC về việc ban hành quy tắc, biểu phí bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều công ty bảo hiểm hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh cùng với các công ty nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam làm cho thị trường bảo hiểm trong nước trở nên rất sôi động và cạnh tranh khốc liệt.
Sự cần thiết của Bảo hiểm XD LĐ
Đối với xã hội
Ngày nay, nhu cầu xây dựng lắp đặt là một nhu cầu không thể thiếu đối với sự phát triển của các nền kinh tế trên thế giới từ những quốc gia khó khăn lạc hậu nhất đến những cường quốc lớn mạnh nhất thế giới. Và cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học - kỹ thuật, giá trị và qui mô của các công trình không ngừng tăng lên đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của sự phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro rất lớn bởi một số lý do sau:
Thứ nhất, cuộc cách mạng công nghiệp khiến các nền kinh tế phát triển ngày càng cao nhưng cũng kéo theo việc ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến khí hậu trái đất. Gần đây, chúng ta đã được chứng kiến rất nhiều thảm hoạ thiên nhiên mà con người với khoa học kỹ thuật hiện đại cũng không thể kiểm soát được gây hậu quả rất nghiêm trọng. Ngành xây dựng với đặc trưng là thực hiện ngoài trời và trong thời gian dài là một trong những ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất của những rủi ro đó.
Thứ hai, các công trình xây dựng ngày nay sử dụng nhiều công nghệ hiện đại, tự động hoá nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro hơn, các vụ nổ vật lý, hoá học sẽ rất dễ xảy ra nếu không có sự xem xét, kiểm tra, thử nghiệm kỹ lưỡng trước khi đưa vào sử dụng.
Thứ ba, nguy cơ về con người. Nguy cơ phá hoại hay lỗi điều hành hay bất kỳ một sự bất cẩn nào cũng có thể là nguyên nhân gây ra rủi ro thiệt hại cho các công trình xây dựng.
Mỗi rủi ro xảy ra đối với các công trìng xây dựng thường gây ra thiệt hại rất lớn về tiền của, tính mạng và sức khoẻ của rất nhiều còn người và thường có sức ảnh hưởng đến cả nền kinh tế - xã hội.
Trong các biện pháp đề phòng và khắc phục tổn thất đối với ngành xây dựng - lắp đặt thì bảo hiểm có thể xem là biện pháp hiệu quả nhất. Thông qua bảo hiểm xây dựng – lắp đặt, công tác đề phòng hạn chế tổn thất của các công trình có hiệu quả hơn nhờ sự tham gia của các nhà bảo hiểm. Đặc biệt, mọi rủi ro tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm đều được công ty bảo hiểm bồi thường kịp thời góp phần khắc phục tổn thất và nhanh chóng ổn định sản xuất kinh doanh và từ đó góp phần đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội.
Đối với người được bảo hiểm
Mỗi công trình xây lắp là một qui hoạch tổng thể có liên quan đến rất nhiều khía cạnh của các vấn đề pháp luật, kỹ thuật… nên đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của nhiều bên. Tất cả các bên liên quan đến công việc xây lắp và có quyền lợi trong công trình, được nêu tên hay chỉ định trong bản phụ lục bảo hiểm đều có thể là người được bảo hiểm.
Tác dụng chung và quan trọng nhất của bảo hiểm là đảm bảo về tài chính cho người đuợc bảo hiểm. Bảo hiểm xây dựng - lắp đặt có tác dụng đối với người được bảo hiểm cụ thể như sau:
Từ việc hình thành quỹ, công ty bảo hiểm sẽ nhanh chóng bồi thường cho người được bảo hiểm khi rủi ro tổn thất xảy ra trong phạm vi bảo hiểm, góp phần ổn định sản xuất kinh doanh cho người được bảo hiểm một cách nhanh chóng nhất.
Nhà bảo hiểm sẽ phối hợp cùng người được bảo hiểm trong công tác đề phòng hạn chế tổn thất nhằm hạn chế tối đa nguy cơ xảy ra rủi ro tổn thất.
Nhờ tham gia bảo hiểm, chủ đầu tư có thể tự chủ về tài chính, hạch toán dự trù một cách chính xác hơn, đảm bảo kế hoạch sản xuất kinh doanh mà không cần lãng phí một khoản tiền đầu tư lớn dự trữ cho việc đối phó với rủi ro tổn thất nếu không tham gia bảo hiểm.
Ở nước ta hiện nay, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra mạnh mẽ, các công trình xây dựng và lắp đặt phục vụ đất nước ngày càng nhiều và quy mô lớn. Điều đó cũng làm tăng rủi ro trong các quá trình xây dựng và lắp đặt làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Vì vậy, bảo hiểm xây dựng lắp đặt ngày càng trở nên cần thiết và thiết thực với các chủ đầu tư, các nhà thầu và đất nước.
Nội dung cơ bản của nghiệp vụ Bảo hiểm XD LĐ
Theo quyết định số 33/2004/QĐ-BTC thì bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm được hiểu như sau:
Bên mua bảo hiểm là chủ đầu tư (hoặc ban quản lý dự án). Trường hợp phí bảo hiểm đã được tính vào giá trúng thầu thì nhà thầu thực hiện việc mua bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm
Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm
Nội dung cơ bản của bảo hiểm xây dựng
Người được bảo hiểm
Mỗi công trình xây dựng là một qui hoạch tổng thể liên quan đến rất nhiều khía cạnh của các vấn đề pháp luật, hợp đồng và kỹ thuật cho nên việc hợp tác chặt chẽ giữa các bên là vấn đề cần thiết không thể thiếu được. Chính vì vậy việc xác định rõ người được bảo hiểm trong một công trình xây dựng là rất cần thiết. Trong bảo hiểm xây dựng, tất cả các bên liên quan tới công việc xây dựng và có quyền lợi trong công trình xây dựng và được nên tên hay chỉ định trong bản phụ lục bảo hiểm đều có thể là người được bảo hiểm:
Chủ đầu tư hoặc chủ công trình (bên A trong hợp đồng xây dựng)
Nhà thầu chính (bên B trong hợp đồng xây dựng)
Các nhà thầu phụ.
Các kiến trúc sư, kỹ sư tư vấn, cố vấn chuyên môn. Tuy nhiên, các hợp đồng bảo hiểm xây dựng không bảo hiểm cho trách nhiệm nghề nghiệp của các kiến trúc sư, cố vấn chuyên môn, các kỹ sư tư vấn mặc dù họ có liên quan đến công trình xây dựng.
Do đó có rất nhiều bên được bảo hiểm nên sẽ nảy sinh vấn đề đơn bảo hiểm sẽ ghi tên ai hay ai sẽ là người được ghi tên đầu tiên. Thông thường người đứng ra kí kết hợp đồng bảo hiểm và đóng phí sẽ là người đại diện cho các bên trong hợp đồng bảo hiểm. Vì vậy trên hợp đồng sẽ ghi tên người đứng ra đại diện kèm theo danh sách những người có quyền lợi liên quan đến công trình.
Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng của bảo hiểm xây dựng bao gồm tất cả các công trình xây dựng dân dụng, công trình công nghiệp… hay nói cách khác là các công trình có sử dụng xi măng và bê tông cốt thép. Cụ thể là các nhóm công trình sau:
Nhà ở, trường học, bệnh viện, trụ sở làm việc, rạp hát, rạp chiếu phim, các công trình văn hóa khác…
Nhà máy, xí nghiệp, các công trình phục vụ sản xuất.
Đường sá ( bao gồm cả đường bộ và đường sắt ), đường băng sân bay.
Cầu cống, đê đập, công trình thoát nước, kênh đào, cảng…
Mỗi công trình bao gồm nhiều hạng mục riêng biệt được xác định và dự
tính thông qua sơ đồ tổng thể, bản vẽ thiết kế cùng các máy móc trang thiết bị cần thiết phục vụ cho công tác xây dựng cũng như các công việc có liên quan trong quá trình xây dựng. Để thuận tiện cho việc tính phí bảo hiểm cũng như giải quyết khiếu nại trong trường hợp tổn thất xảy ra, một công trình xây dựng được chia làm nhiều hạng mục khác nhau, bao gồm:
Cấu trúc chủ yếu của công trình xây dựng: Hạng mục này chiếm phần lớp giá trị công trình. Nó bao gồm tất cả các công việc thực hiện bởi chủ thầu chính (bên B) và tất cả các nhà thầu phụ của chủ thầu chính theo qui định của hợp đồng xây dựng ký kết giữa bên A và bên B: từ công tác chuẩn bị, dọn dẹp mặt bằng, xây dựng các công trình tạm thời phục vụ cho công tác thi công cho đến việc đóng cọc, làm móng, và xây dựng cấu trúc chính của công trình.
Trang thiết bị xây dựng: Gồm các thiết bị cố định phục vụ thi công như các công trình phụ trợ (lán trại, trụ sở tạm thời, kho bãi, nhà xưởng), giàn giáo, hệ thống băng tải, thiết bị cung cấp điện, nước, rào chắn, v.v… Khi yêu cầu bảo hiểm cho các trang thiết bị này, cần phải có danh sách kèm theo đơn bảo hiểm.
Máy móc xây dựng: Bao gồm các máy móc có động cơ tự hành hoặc không tự hành phục vụ công tác thi công (ví dụ như máy xúc, máy ủi, cần cẩu, xe chuyên dùng…) thuộc quyền sở hữu của người được bảo hiểm hoặc do họ đi thuê. Các loại máy móc này chỉ được bảo hiểm trong thời gian sử dụng trên khu vực công trường. Khi yêu cầu bảo hiểm cho các máy móc này cần có danh sách kèm theo đơn bảo hiểm
Các tài sản có sẵn trên và xung quanh khu vực công trường thuộc quyền sở hữu, quản lý, trông nom hay coi sóc của người được bảo hiểm. Trường hợp này thường có ở các công trình mở rộng hoặc cải tạo lại, các tài sản trên có thể bị thiệt hại trong quá trình xây dựng mới. Giá trị của các tài sản này không nằm trong giá trị của công trình mới nên chúng thường không thuộc phạm vi bảo hiểm của đơn bảo hiểm xây dựng. Nhưng nếu người được bảo hiểm có nhu cầu thì người bảo hiểm có thể xem xét và mở rộng phạm vi bảo hiểm theo điều khoản bổ sung.
Chi phí dọn dẹp hiện trường: Bao gồm các chi phí phát sinh do việc thu dọn và di chuyển mảnh vụn, đất đá do các rủi ro được bảo hiểm xảy ra trên phạm vi công trường.
Trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với bên thứ ba: Bao gồm các trách nhiệm pháp lý do thiệt hại về tài sản, thương tật thân thể của bên thứ ba phát sinh trong quá trình thi công công trình trong hoặc xung quanh khu vực công trường. Tuy nhiên cần lưu ý rằng thiệt hại của người làm công, người thân hoặc đại diện không thuộc phạm vi của phần này (không phải người thứ ba).
Phạm vi bảo hiểm
Trong bảo hiểm xây dựng người ta qui định cụ thể các rủi ro bảo hiểm và các rủi ro loại trừ
Các rủi ro bảo hiểm
Các đơn bảo hiểm xây dựng do người bảo hiểm cung cấp thường nhà đơn bảo hiểm mọi rủi ro nên phạm vi bảo hiểm thường rất rộng, chỉ trừ các rủi ro loại trừ được nêu rõ trong đơn (theo thông lệ quốc tế) còn hầu hết các rủi ro bất ngờ và không lường trước được đều được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm xây dựng.
Cụ thể, trách nhiệm của công ty bảo hiểm đối với người được bảo hiểm phát sinh khi tổn thất xảy ra cho các đối tượng được bảo hiểm phát sinh khi tổn thất xảy ra do các rủi ro chính sau:
+ Cháy, sét đánh, nước chữa cháy hay phương tiện chữa cháy;
+ Lũ lụt, mưa, tuyết rơi, tuyết lở, sóng thần;
+ Các loại bão;
+ Động đất, sụt lở đất đá;
+ Trộm cắp;
+ Thiếu kinh nghiệm, bất cẩn, hành động ác ý hay lỗi của con người;
Ngoài ra, còn tuỳ vào từng công trình, mỗi đơn cấp còn có các điều khoản bổ sung thêm đối với các rủi ro phụ để phù hợp với nội dung công việc.
Các rủi ro loại trừ
Những rủi ro loại trừ chung cho cả phần bảo hiểm vật chất và trách nhiệm:
Chiến tranh hay những hoạt động tương tự, đình công, nổi loạn, ngừng trên công việc, yêu cầu của bất cứ cơ quan có thẩm quyển nào.
Hành động cố ý hay sự cẩu thả cố ý của người được bảo hiểm hoặc đại diện của họ
Phản ứng hạt nhân, phóng xa hay ô nhiễm phóng xạ
Các rủi ro loại trừ áp dụng đối với phần bảo hiểm thiệt hại vật chất bao gồm:
Bất kỳ loại tổn thất nào có tính chất hậu quả
Hỏng hóc cơ khí/điện hay sự trục trặc của máy móc, trang thiết bị xây dựng
Lỗi thiết kế
Chi phí thay thế, sữa chữa hay khắc phục các khuyết tật của nguyên vật liệu và/hoặc do tay nghề (các tổn thất hư hại do hậu quả thì được bảo hiểm)
Các loại trừ đối với phần bảo hiểm trách nhiệm:
Khiếu nại tổn thất liên quan đến tai nạn được bảo hiểm hay có thể được bảo hiểm trong phạm vi của phần bảo hiểm vật chất của đơn bảo hiểm xây dựng
Khiếu nại phát sinh do dịch chuyển, rung động hay suy yếu của cột chống.
Thời hạn bảo hiểm
Thời hạn bảo hiểm được ghi rõ trong đơn bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm thường là thời gian thi công công trình được tính từ khi bắt đầu khởi công công trình đến khi hoàn thiện hay chuyển giao hoặc đưa vào hoạt động. Trên thực tế, thời gian thi công không nhất thiết phải trùng với thời hạn ghi trong hợp đồng. Nếu công trình hoàn thành trước thời hạn thì hiệu lực của hợp đồng cũng chấm dứt ngay sau khi công trình được bàn giao đưa vào sử dụng. Trong trường hợp thời gian thi công kéo dài vượt quá thời hạn qui định thì người được bảo hiểm phải có yêu cầu gia hạn thêm đối với hợp đồng bảo hiểm và phải thanh toán thêm phí bảo hiểm cho thời gian vượt quá này.
Thông thường thời hạn bảo hiểm bao gồm thời gian:
Lưu kho (vật liệu) trước khi xây dựng (tối đa là ba tháng)
Giai đoạn xây dựng
Kiểm nghiệm, chạy thử (nếu có máy móc)
Bảo hành
Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm
Việc xác định chính xác giá trị bảo hiểm rất phức tạp. Các giá trị phải xác định trong bảo hiểm xây dựng bao gồm:
Giá trị bảo hiểm của phần công tác xây dựng: thường là giá trị ước tính và có thể là một trong số các giá trị sau:
+ Tổng giá trị khôi phục lại công trình trong trường hợp có tổn thất toàn bộ và phải tiến hành xây dựng lại
+ Giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng
+ Giá trị nhỏ hơn hoặc bằng tổn thất lớn nhất có thể xảy ra
Tuy nhiên việc xác định giá trị của phần công tác xây dựng theo giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng thường là hợp lý nhất. Khi công trình hoàn thành, giá trị này được điều chỉnh lại theo giá trị thực tế và phí bảo hiểm cũng được điều chỉnh lại cho phù hợp.
Giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng thường bao gồm chi phí lập công trình, giá trị các nguyên vật liệu do nhà thầu cung cấp, chi phí nhân công của chủ thầu, những chi phí trả cho khối lượng công việc thầu phụ hay dịch vụ, chi phí liên quan đến việc sử dụng máy móc thi công xây dựng, nhà xưởng thiết bị và các công trình tạm thời, kỹ thuật và giám sát, chi phí hành chính, lợi nhuận.
Giá trị bảo hiểm của máy móc và trang thiết bị xây dựng: Được xác
định theo giá trị thay thế tương đương của các máy móc trang thiết bị đó mua tại thời điểm thi công công trình và có thể bao gồm cả các chi phí vận chuyển lắp ráp.
Giá trị bảo hiểm cho phần chi phí dọn dẹp: Thường được ước tính
theo phần trăm giá trị của hợp đồng xây dựng.
Giá trị bảo hiểm cho các công trình hoặc tài sản có sẵn trong hoặc xung quanh khu vực thi công thuộc quyển sở hữu, trông nom hoặc coi sóc của người được bảo hiểm: Được xác định theo giá trị thực tế của
các tài sản đó tại thời điểm yêu cầu bảo hiểm.
Mức trách nhiệm bảo hiểm cho trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với bên thứ ba do việc thi công công trình: Thường được
xác định trên cơ sở giá trị tổn thất tối đa có thể. Đây là giới hạn thoả thuận cho mỗi tai nạn nhưng không giới hạn trong suốt thời hạn bảo hiểm.
Thông thường, công ty bảo hiểm thường thuyết phục người được bảo hiểm tham gia bảo hiểm ngang giá trị. Trong trường hợp người được bảo hiểm tham gia bảo hiểm dưới giá trị sẽ áp dụng phương pháp bảo hiểm theo tỉ lệ với các thiệt hại xảy ra.
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm được xác định theo giá trị bảo hiểm, bao gồm:
Cấu trúc chủ yếu của công trình: là giá trị đầy đủ của công trình theo hợp đồng tại thời điểm hoàn thành việc xây dựng, bao gồm:
+ Chi phí cho công tác chuẩn bị mặt bằng như đào đắp, san nền, đường sá… (không tính chi phí giải phóng mặt bằng)
+ Chi phí các hạng mục công trình xây dựng: móng, nền, tường, trần, mái, tường ngăn…
+ Giá trị các công trình tạm phục vụ thi công như kênh dẫn nước, đê bảo vệ, hệ thống chiếu sáng…
+ Chi phí chạy thử máy móc, thiết bị mới 100% (nếu được bảo hiểm)
Trong trường hợp chi phí phát sinh làm tăng giá trị bảo hiểm, người đươợ bảo hiểm phải khai báo kịp thời và nộp thêm phí bảo hiểm, người được bảo hiểm phải khai báo kịp thời và nộp thêm phí bảo hiểm. Nếu không người bảo hiểm sẽ áp dụng quy tắc tỷ lệ như đối với trường hợp bảo hiểm dưới giá trị.
Giá trị trang thiết bị máy móc phục vụ xây dựng
Tài sản sẵn có hoặc xung quanh công trường
Chi phí dọn dẹp tổn thất (5-10% hợp đồng xây dựng)
Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm của một công trình xây dựng bao gồm hai phần chính: phí bảo hiểm tiêu chuẩn và phụ phí mở rộng
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn: là mức phí bảo hiểm cho các rủi ro tiêu chuẩn (rủi ro tiêu chuẩnlà các rủi ro được bảo hiểm trong đơn bảo hiểm tiêu chuẩn của Munich Re đang được áp dụng ở nước ta hiện nay) bao gồm các rủi ro thiên tai, các rủi ro bất ngờ và các rủi ro khác như tay nghề kém, thiếu kinh nghiệm… Phí bảo hiểm tiêu chuẩn có ba phần chính là phí cơ bản tối thiểu, phụ phí rủi ro động đất và phụ phí rủi ro lũ lụt.
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn gồm phí cơ bản và phụ phí tiêu chuẩn
+ Phí cơ bản tối thiểu: là mức phí tối thiểu tính cho từng loại công trình xây dựng theo thời gian xây dựng tiêu chuẩn, được tính bằng tỷ lệ phần nghìn trên giá trị bảo hiểm của công trình.
+ Phụ phí cho rủi ro động đất: được tính căn cứ vào độ nhạy cảm của công trình và khu vực xây dựng công trình.
+ Phụ phí cho rủi ro bão và lũ lụt: tỷ lệ phí (% giá trị công trình theo năm) được tính căn cứ vào tính chất từng loại công trình. Trong trường hợp cụ thể mức phí còn lại được điều chỉnh theo thời gian thi công (mùa mưa hay mùa khô) và mực nước biển, sông hồ kề cận.
Phụ phí mở rộng, gồm có:
+ Phụ phí bảo hiểm cho chi phí dọn dẹp sau tổn thất
+ Phụ phí cho tài sản trên và xung quanh khu vực công trình được xác định bằng tỷ lệ phí tiêu chuẩn của công trình nhân giá trị bảo hiểm cho tài sản.
+ Phụ phí cho trang thiết bị máy móc phục vụ cho công trình được tính bằng tỷ lệ phí tiêu chuẩn nhân với giá trị bảo hiểm của máy móc.
Nội dung cơ bản của bảo hiểm lắp đặt
Đơn bảo hiểm lắp đặt cung cấp sự bảo vệ về mặt tài chính cho các chủ thầu và những người được bảo hiểm khác trong quá trình thực hiện các hợp đồng hay công trình trên công trường đối với các tổn thất hay thiệt hại của những tài sản được bảo hiểm gây ra bởi những sự cố bất ngờ và không lường trước được.
Người được bảo hiểm
Trong bảo hiểm lắp đặt, tất cả các bên liên quan và có quyền lợi trong công trình lắp đặt và được nêu tên hay chỉ định trong bản phụ phục bảo hiểm đều có thể là người được bảo hiểm:
Chủ đầu tư
Nhà thầu chính
Nhà thầu phụ
Nhà cung cấp (nếu liên quan đến lắp đặt)
Các kiến trúc sư, nhà thiết kế hoạt động liên quan đến công trường
Các kỹ sư tư vấn hoạt động liên quan đến công trường
Ngoài ra, các tổ chức cho vay (ví dụ như các ngân hàng) cũng là những người được bảo vệ một cách gián tiếp bởi hợp đồng này
Đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm lắp đặt là bảo hiểm cho những tổn thất, thiệt hại do một sự cố bất ngờ gây ra hoặc phát sinh từ trách nhiệm của người chủ công trình trong quá trình lắp đặt máy móc, thiết bị cho một công trình
Đối tượng bảo hiểm lắp đặt được hiểu là các máy móc được lắp đặt, trang thiết bị phục vụ cho công tác lắp đặt và một số công việc, hạng mục liên quan tới công việc lắp đặt. Đối tượng bảo hiểm được phân loại như sau:
Các máy móc, dây chuyền đồng bộ trong một xí nghiệp hay trong khi tiến hành lắp đặt các máy móc thiết bị đó.
Các máy móc, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho lắp đặt
Các phần việc xây dựng phục vụ cho công tác lắp đặt
Trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba
Chi phí dọn dẹp vệ sinh
Phạm vi bảo hiểm
Rủi ro được bảo hiểm
Những rủi ro chính được bảo hiểm trong đơn bảo hiểm lắp đặt được chia làm ba loại chính:
Các rủi ro thiên tai bao gồm động đất, động biển gây ra sóng thần, gió mạnh (do bão, gió xoáy, cuồng phong), mưa lớn, lũ, lụt, ngập lụt, đóng băng, sét đánh, cháy do sét đánh hay do hoạt động của núi lửa, đất đá lúng, sụt, lở.
Các hiểm hoạ tổn thất gây ra bởi hoạt động của con người trên công trường như: thiếu kinh nghiệm hay kỹ năng lỗi của con người, bất cẩn, trộm cắp, hành động ác ý, phá hoại, vận chuyển, khuân vác nguyên vật liệu, lỗi thiết kế, tập trung cao độ hay cường độ công việc cao do thời gian xây dựng lắp đặt quá ngắn, phối hợp công việc thiếu hợp lý, trông nom, bảo vệ công trường không tốt, thiếu những biện pháp ngăn ngừa tổn thất, lỗi vận hành, lỗi người vận hành máy.
Các rủi ro kỹ thuật, vận hành bao gồm áp suất ép quá lớn (nổ vật lý), chân không (nổ bên trong), nhiệt độ quá lớn (đoản mạch), lực li tâm, lỗi nguyên, vật liệu, mất kiểm soát phản ứng hoá học (nổ hoá học), lỗi của hệ thống hay thiết bị điều hành hay điều khiển.
Các rủi ro loại trên
Trong đơn bảo hiểm lắp đặt các rủi ro loại trừ được chia làm ba loại chính:
Loại trừ chung: áp dụng cho cả phần bảo hiểm thiệt hại vật chất và phần bảo hiểm trách nhiệm. Các rủi ro bị loại trừ chính bị loại trong phần này là:
+ Chiến tranh;
+ Những rủi ro hạt nhân;
+ Các hành vi có tính vi phạm của người được bảo hiểm;
+ Gián đoạn công việc.
Các loại trừ đặt biệt áp dụng cho phần thiệt hại vật chất:
+ Các khoản miễn thường;
+ Mọi tổn thất hậu quả;
+ Lỗi thiết kế, khuyết tật nguyên vật liệu;
+ Hao mòn và xé rách,v v…
+ Các tổn thất về hồ sơ, bản vẽ, tài liệu, v.v…
+ Các tổn thất phát hiện vào thời điểm kiểm kê (mất cắp, mất tích).
Các loại trừ áp dụng đối với phần thiệt hại về trách nhiệm:
+ Các khoản miễn thường;
+ Những chi tiêu hay chi phí sửa chữa có liên quan đến sửa chữa những thiệt hại được bảo hiểm trong phần bảo hiểm vật chất;
+ Trách nhiệm đối với thương tật của con người/công nhân tham gia vào quá trình thi công công việc;
+ Tổn thất và thiệt hại đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hay chăm sóc, quản lý của bất cứ người được bảo hiểm nào;
+ Tổn thất gây ra bởi xe cơ giới, tàu (biển, sông), máy bay;
+ Bất cứ khoản bồi thường nào vượt quá phạm vi bảo vệ qui định trong hợp đồng bảo hiểm.
Thời hạn bảo hiểm
Tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên mà thời hạn bảo hiểm được ghi rõ trong đơn bảo hiểm và có thể bao gồm một phần hoặc toàn bộ các thời gian:
Lưu kho trước khi lắp đặt;
Giai đoạn lắp đặt;
Chạy thử (không tải và có tải);
Giai đoạn bảo hành.
Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm
Trong bảo hiểm lắp đặt, GTBH được tính cho từng hạng mục bảo hiểm
GTBH đối với thiết bị được lắp đặt: Được tính bằng giá trị thay thế mới của bất kỳ một máy móc hay thiết bị mới tương đương, gồm: Giá mua, chi phí kỹ thuật, cước phí vận chuyển, thuế hải quan, chi phí lắp đặt, phí kho bãi.
GTBH của các máy móc, trang thiết bị phục vụ cho công tác lắp đặt (tương tự như máy móc, trang thiết bị xây dựng).
GTBH đối với chi phí dọn dẹp vệ sinh.
GTBH của các tài sản có sẵn trên và xung quanh công trường lắp đặt thuộc quyền quản lý, sở hữu của người được bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm: được xác định dựa vào các hạng mục vừa nêu ở trên và sự thoả thuận của hai bên. Thông thường STBH trong bảo hiểm lắp đặt bằng GTBH.
Đối với phần bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba thì STBH hoàn toàn dựa vào sự thoả thuận giữa các bên.
Đối với các công trình xây dựng dân dụng và lắp đặt hỗn hợp: Nếu giá trị lắp đặt lớn hơn 50% tổng STBH thì công ty bảo hiểm cấp đơn bảo hiểm lắp đặt. Trên thực tế, tuỳ vào yêu cầu cụ thể sẽ có các sửa đổi bổ sung phù hợp cho từng đơn cấp ra.
Phí bảo hiểm
Có một số nhân tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm như:
Loại công trình xây dựng, lắp đặt
Khu vực xây dựng, lắp đặt theo điều kiện khí hậu, điều kiện sinh thái
Loại rủi ro, nhóm rủi ro (bao gồm các rủi ro cơ bản, rủi ro bất ngờ, rủi ro phụ)
Số tiền bảo hiểm
Mức độ đảm bảo của bảo hiểm (phụ thuộc vào sự thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm)
Ngoài ra còn có một số nhân tố ảnh hưởng đến tăng giảm phí như kinh nghiệm của nhà thầu, tay nghề lao động v.v…
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn bao gồm (quy định theo từng loại công trình lắp đặt theo thời gian lắp đặt tiêu chuẩn), bao gồm phí bảo hiểm cơ bản và phụ phí bảo hiểm cho rủi ro động đất, lũ lụt
Phí bảo hiểm cơ bản được tính bằng tỷ lệ phần nghìn trên số tiền bảo hiểm của công trình theo thời gian tiêu chuẩn
Phụ phí rủi ro động đất được tính bằng tỉ lệ phần nghìn
Hợp đồng bảo hiểm trong bảo hiểm XD LĐ
Hợp đồng bảo hiểm là một văn bản pháp lý qua đó bên bảo hiểm sẽ cam kết bồi thường cho bên được bảo hiểm là chủ các công trình xây dựng, lắp đặt khi có rủi xảy ra gây ra tổn thất, ngược lại bên được bảo hiểm cam kết trả khoản phí phù hợp với mức trách nhiệm và rủi ro mà bên bảo hiểm đã nhận.
Như vậy trong hợp đồng bảo hiểm xây dựng, lắp đặt sẽ có hai bên: bên bảo hiểm chính là các công ty bảo hiểm chi trả bảo hiểm; bên được bảo hiểm để thiết lập quỹ tài chính và chịu trách nhiệm chi trả bảo hiểm; bên được bảo hiểm (là chủ đầu tư,chủ thầu các công trình) có thể hiểu bao gồm người tham gia bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm kí kết và nộp phí bảo hiểm. Các hợp đồng bảo hiểm có thể được kí kết một cách trực tiếp giữa người tham gia bảo hiểm và bên bảo hiểm hoặc kí kết gián tiếp thông qua môi giới, đại lý.
Các chủ thể trong hợp đồng
+ Người được bảo hiểm: là tổ chức hoặc cá nhân có đầy đủ tư cách pháp nhân được nhà nước cho phép tiến hành hợp đồng bảo hiểm, được thu phí để lập ra quỹ bảo hiểm và chịu trách nhiệm bồi thường cho bên được bảo hiểm khi đối tượng được bảo hiểm gặp rủi ro, nó có thể là một công ty bảo hiểm ho._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5979.doc