Tài liệu Tình hình khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện giai đoạn 2002 - 2006: ... Ebook Tình hình khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện giai đoạn 2002 - 2006
65 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2355 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tình hình khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện giai đoạn 2002 - 2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, bảo hiểm là một trong những ngành dịch vụ quan trọng, không thể thiếu. Hiện nay, ngành bảo hiểm phát triển khá toàn diện và có những bước tiến đáng kể cả về quy mô, tốc độ và phạm vi hoạt động. Khi đời sống và nhu cầu của mỗi người một cao hơn, hoàn thiện hơn thì đòi hỏi các ngành trong đó có ngành bảo hiểm cũng phải đáp ứng được những nhu cầu mới ấy.
Người ta nói giao thông là huyết mạnh của một quốc gia, là cầu nối giữa các vùng miền, giữa các khu vực diễn ra thuận lợi. Một quốc gia muốn phát triển toàn diện mọi mặt thì không thể không phát triển giao thông, đặc biệt giao thông đường bộ có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên giao thông đường bộ lại diễn ra nhiều và có xu hướng gia tăng. Điều này thực sự là không tốt, bởi nó không chỉ gây ra sự ngừng trệ, cản trở giao thông mà còn gây thiệt hại lớn về người và của. Bảo hiểm xe cơ giới nói chung và bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng góp phần lớn trong việc giúp người gặp tổn thất do tai nạn giao thông có thể nhanh chóng ổn định cuộc sống.
Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI) là một Công ty bảo hiểm phi nhân thọ, với tuổi đời 9 năm vẫn còn khá trẻ nhưng đã có được kết quả kinh doanh khá tốt. Với định hướng hoạt động kinh doanh đúng đắn, Công ty lấy phương châm phục vụ khách hàng tham gia bảo hiểm một cách tốt nhất trên cơ sở hợp tác để giải quyết các hậu quả tổn thất giúp khách hàng ổn định đời sống, hoạt động sản xuất kinh doanh. Nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới mới được Công ty triển khai trong 5 năm gần đây, còn gặp nhiều khó khăn tuy nhiên nghiệp vụ này ngày càng cho thấy hiệu quả kinh doanh cao. Vì vậy sau thời gian thực tập Công ty, em chọn đề tài cho chuyên đề thực tập là: “Tình hình khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện giai đoạn 2002 – 2006”.
Ngoài phần mở bài và kết luận chuyên đề có ba phần chính:
Chương 1: Tổng quan về bảo hiểm xe cơ giới
Chương 2: Tình hình khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI) giai đoạn 2002 – 2006
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện trong thời gian tới.
Do thời gian và kiến thức có hạn nên bài viết khó tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định, kính mong thầy cô giáo giúp đỡ để bản chuyên đề hoàn thiện hơn.
Trong thời gian thực tập và viết chuyên đề em đã được sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của cô giáo Th.s Nguyễn Thị Chính và các anh chị Phòng bảo hiểm xe cơ giới của Công ty.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI
1. Khái quát chung về Bảo hiểm xe cơ giới
1.1. Sự cần thiết và tác dụng của Bảo hiểm xe cơ giới
1.1.1. Tai nạn giao thông đường bộ và sự cần thiết của Bảo hiểm xe cơ giới
Giao thông đường bộ là hình thức phổ biến, tiện lợi. Việt Nam với 3/4 diện tích là đất liền nên việc đi lại giữa các vùng miền chủ yếu là bằng đường bộ và đường sắt, trong đó đường bộ chiếm đa số. Đất nước ta còn nghèo nên việc đi lại bằng đường không chưa được phổ biến. Do đó, việc phát triển giao thông luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm. Hàng loạt tuyến đường được xây dựng, hàng loạt cây cầu được khai thông. Điều này giúp cho kinh tế giữa các vùng được giao hoà, có nhiều cơ hội phát triển. Từ đó, đời sống của mọi người cũng được nâng cao.Một nền kinh tế muốn phát triển không thể không phát triển giao thông, đường xá.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: tai nạn giao thông. Tình hình tai nạn giao thông diễn ra phức tạp và có xu hướng ngày càng gia tăng. Xác suất tai nạn xảy ra đối với các phương tiện xe cơ giới cao hơn nhiều so với các phương tiện khác. Theo thống kê của Bộ Giao thông vận tải năm 2006, cả nước xảy ra 14,7 nghìn vụ tai nạn làm chết 12,8 nghìn người, bị thương 113 nghìn người, tăng 0,2% số vụ tai nạn, số người chết tăng 10,7% , số người bị thương giảm6,1%. Bình quân một ngày trong năm 2006 xảy ra 40 vụ tai nạn, làm chết 25 người và bị thương 31 người, trong đó tai nạn giao thông đường bộchiếm 96,2% số vụ, 97% số người chết, 98,3% số gnười bị thương. Tai nạn giao thông đã gây thiệt hại lớn về người và của, hàng năm bình quân thiệt hại về tài sản lên đến hàng trăm triệu đồng. Đối với các chủ phương tiện họ không chỉ bị tổn thất về tài sản mà có khi chính mình còn bị thương. Do đó, số tiền mà họ phải gánh chịu do tổn thất xảy ra là rất lớn, có thể vượt quá khả năng của họ. Điều này sẽ ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống hàng ngày và việc kinh doanh của họ.
Cùng với các biện pháp ngăn chặn tình hình trên như: kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc tham gia giao thông của các chủ xe, xử phạt nghiêm minh đối với những trường hợp vi phạm…thì việc tham gia bảo hiểm xe cơ giới cũng là một biện pháp hữu hiệu. Các chủ phương tiện tham gia bảo hiểm xe cơ giới sẽ được bù đắp về tài chính khi có rủi ro xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Sự bù đắp sẽ giúp họ nhanh chóng ổn định lại cuộc sống. Có thể thấy bảo hiểm xe cơ giới là thật sự cần thiết trong cuộc sống.
1.1.2. Tác dụng của Bảo hiểm xe cơ giới
Qua việc nghiên cứu trên cho thấy Bảo hiểm xe cơ giới có nhiều tác dụng to lớn và thiết thực đối với mỗi cá nhân cũng như xã hội. Sau đây là những tác dụng cụ thể của bảo hiểm xe cơ giới:
Thứ nhất, góp phần ổn định tài chính cho người tham gia bảo hiểm trước tổn thất do các rủi ro được bảo hiểm gây ra.
Khi gặp tai nạn giao thông, người tham gia giao thông gặp tổn thất về tài chính do xe bị hư hỏng hay phải đền bù cho khách hàng (trong trường hợp trở khách), cho người thứ ba…Bên cạnh đó, chính họ có thể bị thương do tai nạn. Khi họ tham gia bảo hiểm xe cơ giới thì những tổn thất đó sẽ dược bảo hiểm trợ cấp hoặc bồi thường về tài chính để họ khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất cũng như tai nạn giao thông, giúp cho cuộc sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp.
Không chỉ đối với Bảo hiểm xe cơ giới mà khi đã tham gia bất cứ loại hình bảo hiểm nào, công ty bảo hiểm sẽ cùng với người tham gia thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Công ty bảo hiểm sẽ thành lập một quỹ để đề phòng hạn chế tổn thất, quỹ này có tác dụng giúp người tham gia có thể tránh được những rủi ro, bất chắc từ đó công ty bảo hiểm sẽ không phải chi trả bồi thường, làm tăng lợi nhuận cho công ty.
Thứ ba, góp phần xoa dịu bớt sự căng thẳng giữa chủ xe với nạn nhân của các vụ tai nạn.
Khi có tai nạn xảy ra, hầu hết trong các trường hợp đều có xảy ra xích mích, căng thẳng giữa chủ xe với nạn nhân của các vụ tai nạn. Công ty bảo hiểm căn cứ vào biên bản giám định để xác định mức độ lỗi và tổn thất của hai bên từ đó đưa ra mức bồi thường thoả đáng, hợp lý.
Thứ tư, góp phần tăng thu ngân sách, góp phần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Các công ty bảo hiểm thông qua việc nộp thuế làm tăng thu cho ngân sách nhà nước. Chính phủ sử dụng ngân sách phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông để thoả mãn tốt hơn nhu cầu đi lại của người dân. Ngoài ra, với phạm vi hoạt động rộng rãi của các Công ty bảo hiểm hiện nay ở tất cả các tỉnh thành còn giải quyết được một phần không nhỏ công ăn việcc làm cho người lao động, đó là những nhân viên, cộng tác viên bảo hiểm, đại lý bảo hiểm…
1. 2. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.2.1. Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm
1.2.1.1. Đối tượng bảo hiểm
Trước hết, phải hiểu xe cơ giới ở đây là gì? Xe cơ giới có thể hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm ô tô, mô tô và xe máy. Để đối phó với những rủi ro tai nạn bất ngờ có thể xảy ra gây tổn thất cho mình, các chủ xe cơ giới thường tham gia một số loai hình bảo hiểm sau:
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với hàng hoá trở trên xe
- Bảo hiểm tai nạn hành khách trên xe
- Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe
- Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe
- Bảo hiểm vật chất xe
Trong phạm vi của chuyên đề này, chỉ tập chung nghiên cứu nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe. Khác với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên xe và đối với người thứ ba khác được áp dụng bắt buộc bằng pháp luật đối với các chủ xe. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản và nó được thực hiện dưới hình thức bảo hiểm tự nguyện.
Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Vì vậy, đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia.
Đối với xe môtô, xe máy: do giá trị xe thấp nên các chủ xe thường tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất thân xe.
Đối với xe ô tô: đây là loại xe có giá trị lớn, vận tốc cao, khu vực lưu chuyển rộng nên khi có rủi ro xảy ra thiệt hại thường lớn hơn nhiều so với xe môtô, xe máy.Vì vậy, chủ phương tiện có thể lựa chọn tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất xe hoặc bảo hiểm từng bộ phận của chiếc xe. Đứng trên góc độ kỹ thuật, thông thường xe ô tô được chia thành các tổng thành sau:
- Tổng thành động cơ: Bao gồm phần máy, chế hoà khí hoặc bơm cao áp, bơm xăng, bầu lọc khí, lọc dầu, máy phát điện, máy nến khí, đề ma rơ, két nước và các dụng cụ làm mát, các thiết bị làm cho máy nổ…
- Tổng thành hộp số: Bao gồm hộp số chính, hộp số phụ (nếu có), các đăng.
- Tổng thành trục trước (hoặc cầu trước): Bao gồm dầm cầu, trục láp, hệ thống treo nhíp, may ơ trước, cơ cấu phanh, xi lanh, nếu là cầu chủ động thì có thêmmột cầu vi sai và vở cầu.
- Tổng thành thân vỏ: Bao gồm vỏ cầu toàn bộ, ruột cầu, vi sai, cụm may ơ sau, cơ cấu phanh, xi lanh phanh, trục láp ngang, hệ thống treo cầu sau, nhíp…
- Tổng thành hệ thống lái: Bao gồm vô lăng, trục tay lái, các đăng dẫn động lái, hộp tay lái, bổ trợ tay lái (nếu có), thanh kéo ngang, thanh kéo dọc, phi dê…
- Tổng thành thân vỏ: Có ba nhóm (A, B, C)
+ Nhóm A: Thân vỏ gồm cabin toàn bộ, ca lăng, cabô, chắn bùn, toàn bộ cửa và kính, toàn bộ đèn và gương và gạt nước mưa, rửa kính, toàn bộ phần vỏ kim loại, nhựa hoặc gỗ, các cần gạt và bàn đạp ga, côn, số, phanh chân, phanh tay.
+ Nhóm B: Ghế đệm và nội thất: gồm toàn bộ ghế ngồi hoặc nằm, ngang hoặc dọc của xe. Các trang bị: điều hoà nhiệt độ (nóng, lạnh), quạt, đài, radiocaset, video, kính mầu…
+ Nhóm C: Sát si bao gồm: khung xe, ba đờ sốc, các cơ bắt chặt vào khung xe, tổng bơm phanh, dẫn động phanh chínhvà phanh tay, dẫn động côn, các bình chứa hơi phanh, bình chứa nhiên liệu, các đường ống và tuy ô dẫn dầu, dẫn hơi, dây dẫn điện, càng kéo…
- Tổng thành lốp: Các bộ phận xăm lốp hoàn chỉnh của xe (kể cả xăm lốp dự phòng).
- Tổng thành khác: Là các tổng thành cơ cấu chuyên dùng lắp lên xe dể sử dụng theo chuyên ngành như cần cẩu, xe bảo ôn. bồn, téc, y tế, cứu hoả, chở và hút phân rác, ben tự đổ, nâng hạ hang, công trình…
1.2.1.2. Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm xe cơ giới là các giới hạn, trong đó người bảo hiểm có thể nhận bảo hiểm và chịu trách nhiệm bồi thường khi có tổn thất xảy ra.
a). Rủi ro được bảo hiểm
Trong trường hợp bảo hiểm vật chất xe, các rủi ro được bảo hiểm thông thường bao gồm:
Tai nạn do đâm va, lật đổ
Cháy, nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá
Mất cắp toàn bộ xe
Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên
Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo hiểm trong những trường hợp trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết hợp lý nhằm:
- Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm
- Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất
- Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm
Tuy nhiên trong mọi trường hợp tổng STBH của công ty bảo hiểm là không vượt quá STBH đã ghi trên đơn hay trên giấy chứng nhân bảo hiểm.
b). Phạm vi về thời gian: Bảo hiểm vật chất xe cơ giới luôn có giới hạn phạm vi bảo hiểm về mặt thời gian mà thông thường là một năm tính từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Nếu hết thời hạn bảo hiểm, chủ xe muốn tiếp tục được bảo hiểm phải gia hạn hợp đồng hoặc phải tái tục hợp đồng mới.
c). Phạm vi về không gian: Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm chỉ áp dụng trong phạm vi địa bàn hoạt động nhất định của xe mua bảo hiểm. Nếu tai nạn xảy ra với xe không nằm trong phạm vi địa lý đã được thoả thuận trước đó thì thiệt hại sẽ không được bồi thường.
d). Rủi ro loại trừ
Công ty bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất của xe gây ra bởi:
Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng do sửa chữa. Hao mòn tự nhiên được tính dưới hình thức khấu hao và thường được tính theo tháng:
Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, xăm lốp bị hư hỏng mà không do tai nạn gây ra
Mất cắp bộ phận xe
Để tránh những “nguy cơ đạo đức” lợi dụng bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật, hay một số rủi ro đặc biệt khác, những thiệt hại, tổn thất xảy ra trong những trường hợp sau cũng sẽ không được bồi thường:
Hành vi cố ý của chủ xe, lái xe
Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy định của luật an toàn giao thông đường bộ
Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng luật giao thông đường bộ như:
+ Xe không có giấy phép lưu hành
+ Lái xe không có bằng lái hoặc có bằng nhưng không hợp lê
+ Lái xe bị ảnh hưởng của rượu bia ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác trong khi điều khiển xe
+ Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép
+ Xe trở quá trọng tải hoặc một số hành khách theo quy định
+ Xe đi vào đường cấm
+ Xe đi đêm không đèn
+ Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa
Những thiệt hại gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh
Thiệt hại do chiến tranh
Lưu ý rằng trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực với chủ xe mới. Tuy nhiên, nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ có yêu cầu.
1.2.2. Giá trị bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm
1.2.2.1. Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm. Việc xác định đúng giá trị của xe tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường. Tuy nhiên, giá trị trên thị trường luôn có những biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới tham gia giao thông nên đã gây khó khăn cho việc xác định giá trị xe một cách tuyệt đối. Để xác định một cách tương đối giá trị thực tế của xe, Công ty bảo hiểm có thể căn cứ vào các yếu tố sau:
Loại xe
Năm sản xuất
Mức độ mới, cũ của xe, thời gian sử dụng của xe
Thể tích làm việc của xi lanh…
Tỷ lệ % khấu hao của xe…
Một phương pháp xác định giá trị bảo hiểm mà các công ty bảo hiểm thường áp dụng đó là căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao. Cụ thể:
Giá trị bảo hiểm = Giá trị ban đầu (nguyên giá) - Khấu hao (nếu có)
Đối với xe sử dụng dưới một năm giá trị khấu hao bằng 0 nên giá trị bảo hiểm bằng giá trị ban đầu của xe.
Đối với xe sử dụng trên một năm thì khấu hao được xác định như sau:
Giá trị khấu hao = Giá trị ban đầu x Tỷ lệ khấu hao x Số năm sử dụng
Ví dụ: Chủ chiếc xe ô tô mua ngày 01 tháng 01 năm 2004 với giá 500 triệu đồng, mua bảo hiểm vật chất xe vào ngày 28 tháng 04 năm 2006. Công ty bảo hiểm đánh giá tỷ lệ khấu hao là 9%/năm, mức khấu hao được tính cho hàng tháng, nếu mua bảo hiểm trước ngày 16 thì tháng đó không phải tính khấu hao, còn từ ngày 16 trở đi thì tháng đó phải tính khấu hao. Trong trường hợp này, giá trị bảo hiểm sẽ được tính như sau:
Giá trị ban đầu: 500.000.000 VNĐ
Khấu hao 2004: 0.09 x 500.000.000 = 45.000.000 VNĐ
Khấu hao 2005: 0.09 x 500.000.000 = 45.000.000 VNĐ
Khấu hao 2006: (x 4) x 500.000.000 =15.000.000 VNĐ
Tổng: 105.000.000 VNĐ
Như vậy giá trị bảo hiểm sẽ là:
500.000.000 – 105.000.000 = 395.000.000 VNĐ
1.2.2.2. Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm (STBH) là khoản tiền cao nhất mà doanh nghiệp bảo hiểm có thể phải trả khi giải quyết bồi thường được thoả thuận trong Hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm.
Trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm thiệt hại vật chất toàn bộ xe, STBH được xác định dựa trên giá trị thực tế xe vào thời điểm kí kết hợp đồng. Yêu cầu khai thác viên phải nắm vững các thông tin từ đơn yêu cầu bảo hiểm của các chủ xe.
Trường hợp bảo hiểm tổng thành thân vỏ xe, STBH được tính trên cơ sở giá trị toàn bộ xe và tỷ lệ % của tổng thành thân vỏ xe trên giá trị toàn bộ xe. (Tỷ lệ này được các Công ty bảo hiểm quy định cụ thể cho từng loại xe)
Trên cơ sở giá trị bảo hiểm, chủ xe có thể tham gia bảo hiểm với các trường hợp:
+ Bảo hiểm đúng giá trị: Số tiền bảo hiểm = Giá trị bảo hiểm
+ Bảo hiểm dưới giá trị: Số tiền bảo hiểm < Giá trị bảo hiểm
+ Bảo hiểm trên giá trị: Số tiền bảo hiểm > Giá trị bảo hiểm
Việc quyết định tham gia bảo hiểm với số tiền là bao nhiêu sẽ là cơ sở để xác định STBT khi có tổn thất xảy ra. Trên thực tế, nhằm trục lợi khi tham gia bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới, chủ xe thường tìm cách để bảo hiểm trên giá trị. Chính vì vậy, khai thác viên phải xác định đúng giá trị của chiếc xe đó và giải thích với chủ xe về việc giải quyết bồi thường của Công ty bảo hiểm là: Trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường không được vượt quá GTBH.
1.2.2.3. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền nhất định mà người tham gia bảo hiểm (chủ xe hay lái xe) phải nộp cho Công ty bảo hiểm sau khi ký hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực khi người tham gia nộp phí theo đúng quy định. Ở Việt Nam, các Công ty bảo hiểm sẽ tiến hành thu phí bảo hiểm theo biểu phí quy định của Bộ Tài chính.
Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm cụ thể, các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào những nhân tố sau:
- Loại xe: Do mỗi loại xe có những đặc tính kỹ thuật khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau nên phí bảo hiểm vật chất xe được tính riêng cho từng loại xe. Thông thường, các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các loại xe thông dụng thông qua việc phân loại xe thành các nhóm. Việc phân loại xe này dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và mức độ khó khăn khi sửa chữa và sự khan hiếm của phụ tùng. Đối với các loại xe hoạt động không thông dụng như xe kéo rơ moóc, xe chở hàng nặng… do có mức độ rủi ro cao nên phí bảo hiểm thường được cộng them một tỷ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản.
Giống như cách tính phí bảo hiểm nói chung, phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe được tính theo công thức sau:
P = f + d
Trong đó: P - Phí thu mỗi đầu xe
d - Phụ phí
f - Phí thuần
Theo công thức trên, việc xác định phí bảo hiểm phụ thuộc vào các nhân tố sau:
+ Tình hình bồi thường tổn thất những năm trước đó. Căn cứ vào số liệu thống kê, công ty bảo hiểm sẽ tính toán được phần phí thuần “f” cho mỗi đầu xe như sau:
f = (i = 1,n)
Trong đó: Si - Số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i
Ti - Thiệt hại bình quân một vụ trong năm thứ i
Ci - Số xe hoạt động thực tế trong năm thứ i
n - Số năm lấy số liệu để tính toán
+ Các chi phí khác, hay còn gọi là phần phụ phí (d), bao gồm các chi phí như chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý… Phần phụ phí này thường được tính bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với phí bồi thường
- Khu vực giữ xe và để xe: Trong thực tế, không phải công ty bảo hiểm cũng quan tâm đến nhân tố này. Tuy nhiên cũng có một số công ty bảo hiểm tính phí bảo hiểm dựa vào khu vực giữ xe và để xe chặt chẽ
- Mục đích sử dụng xe: Đây là những nhân tố quan trọng trong khi xác định phí bảo hiểm. Nó giúp công ty biết được mức độ rủi ro có thể xảy ra. Ví dụ, xe do một người về hưu sử dụng cho mục đích đi lại đơn thuần chắc chắn sẽ đóng phí bảo hiểm thấp hơn so với xe do một thương gia sử dụng để đi lại trong khu vực rộng lớn. Rõ rang xe lăn bánh trên đường càng nhiều thì rủi ro xảy ra tai nạn càng lớn
- Tuổi tác kinh nghiệm lái xe của người yêu cầu bảo hiểm và những người thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm: Số liệu thống kê cho thấy rằng các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn các lái xe lớn tuổi. Trong thực tế các công ty bảo hiểm thường áp dụng giảm phí bảo hiểm cho các lái xe trên 50 hoặc 55 tuổi do kinh nghiệm cho thấy số người này gặp ít tai nạn hơn so với các lái xe trẻ tuổi. Tuy nhiên, những lái xe quá lớn tuổi (thường từ 65 trở lên) thường phải xuất trình giấy chứng nhân sức khoẻ phù hợp để có thể lái xe thì công ty bảo hiểm mới nhân bảo hiểm. Ngoài ra để khuyến khích hạn chế tai nan, các công ty thường yêu cầu người được bảo hiểm tự chịu một phần tổn thất xảy ra với xe (hay còn gọi là mức miễn thường). Đối với những lái xe trẻ tuổi, mức miễn thường này thường cao hơn so với những lái xe có tuổi lớn hơn.
Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn tham gia bảo hiểm tại công ty mình, các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung theo số lượng xe tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hầu hết các công ty bảo hiểm áp dụng cơ chế giảm giá cho những người tham gia bảo hiểm không có khiếu nại và gia tăng tỷ lệ giảm giá này cho một số năm không có khiếu nại gia tăng. Có thể đây là biện pháp phổ biến trong bảo hiểm xe cơ giới.
Đối với những xe hoạt động mang tính mùa vụ, tức là chỉ hoạt động một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức sau:
Phí bảo hiểm =Mức phí cả năm x
Trong những trường hợp đặc biệt khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm nhiều, để tranh thủ sự ủng hộ, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó. Việc tính toán biểu phí riêng này cũng tương tự như cách tính được đề cập ở trên, chỉ khác là chỉ dựa trên các số liệu về bản thân khách hàng này, cụ thể:
- Số lượng xe của công ty tham gia bảo hiểm
- Tình hình bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm cho khách hàng trong những năm trước đó
- Tỷ lệ phụ phí theo quy định của công ty
Trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung, công ty bảo hiểm sẽ áp dụng theo mức phí đặc biệt. Còn nếu mức phí đặc biệt tính được là cao hơn (hoặc bằng) mức phí chung, tức là tình hình tổn thất của khách hàng cao hơn (hoặc bằng) mức tổn thất bình quân chung thì công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí chung.
Đối với những trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì lý do nào đó ví dụ ngừng hoạt động để tu sửa xe. Trong trường hợp này, thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm của những tháng ngừng hoạt động đó của chủ xe. Số phí hoàn lại được tính theo công thức sau:
Phí hoàn lại = Phí cả năm x x Tỷ lệ hoàn lại phí
Tuỳ theo từng công ty bảo hiểm khác nhau mà quy định tỷ lệ hoàn phí là khác nhau. Nhưng thông thường tỷ lệ này là 80%
Trong trường hợp chủ xe muốn huỷ hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết hợp đồng thì thông thường công ty bảo hiểm cũng hoàn lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại đó theo công thức trên, nhưng với điều kiện là chủ xe chưa có lần nào được công ty bảo hiểm trả tiền bảo
1.2.3. Đề phòng và hạn chế tổn thất
Các tổn thất xảy ra thường do những rủi ro bất ngờ, không lường trước được. Vì vây, đề phòng hạn chế tổn thất là công tác quan trọng giúp người tham gia bảo hiểm tránh được những tổn thất lớn, đồng thời góp phần nâng cao doanh thu cho công ty bảo hiểm bởi không phải chi bồi thường quá cao. Hàng năm các công ty bảo hiểm thường trích một phần doanh thu từ nghiệp vụ để phục vụ cho công tác này. Một số hoạt động đề phòng hạn chế tổn thất như:
- Phối hợp với Bộ Giao thông vận tải xây dựng các biển báo trên đường, làm đường lánh nạn, thiết kế hệ thống chiếu sáng trên đường, bố trí gương cầu tại những nơi cua gấp.
- Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an kiểm tra độ an toàn của xe ô tô khi đèo hoặc xuống đèo, chốt chặt tại các điểm giao thông lớn chống lạng lách, phóng nhanh vượt ẩu, đua xe…
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và đào tạo tổ chức tập huấn cho thanh niên tình nguyện tham gia vào công tác an toàn giao thông, mở các cuộc thi tìm hiểu luật lệ an toàn giao thông.
- Đầu tư theo danh mục của Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng đường xá, cầu cống làm giảm tai nạn giao thông.
Tuy nhiên, để thực hiện được tốt công tác này thì trách nhiệm chính thuộc về ý thức của các chủ phương tiện. Nếu họ thực hiện tốt các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất như khi lái xe ô tô cần thắt dây an toàn, đi xe máy có đội mũ bảo hiểm, chạy đúng đường, đúng tốc độ…sẽ làm giảm vụ tai nạn xảy ra, từ đó giảm phí bảo hiểm cho người tham gia và giảm chi bồi thường cho nhà bảo hiểm.
1.2.4. Giám định và bồi thường tổn thất
1.2.4.1. Giám định tổn thất
Cũng như các loại đơn bảo hiểm khác, người bảo hiểm yêu cầu chủ xe (hoặc lái xe) khi xe bị tai nạn một mặt phải tìm mọi cách cứu chữa, hạn chế tổn thất, mặt khác nhanh chóng báo cho công ty bảo hiểm biết ngày giờ và nơi xảy ra tai nạn. Chủ xe không được di chuyển tháo dỡ hoặc sửa chữa xe khi chưa có ý kiến của công ty bảo hiểm trừ trường hợp phải thi hành chỉ thị của cơ quan có thẩm quyền
Sau khi nhận được thông báo về tai nạn, Công ty bảo hiểm sẽ cử một hoặc nhiều đại diện của mình đi giám định. Thông thường đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới, việc giám định tổn thất được công ty bảo hiểm tiến hành với sự có mặt của chủ xe, lái xe hay người đại diện hợp pháp nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Chỉ trong trường hợp 2 bên không đạt được sự thống nhất thì lúc này mới chỉ định giám định viên chuyên môn làm trung gian.
Giám định viên bảo hiểm phải công minh, cẩn thận và hiểu biết một cách thấu đáo về nghiệp vụ bảo hiểm mình phụ trách. Phải thi hành công vụ một cách mẫn cán, chấp hành nghiêm chỉnh những chỉ thị, ý kiến của doanh nghiệp bảo hiểm.
Quá trình giám định đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu như: nhanh chóng, kịp thời, chính xác, tỉ mỉ, khách quan, trung thực.
Quá trình giám định được tiến hành qua các bước:
+ Tiếp nhận thông tin từ phía khách hàng: Khi nhận được thông báo tai nạn, giám định viên cần nắm bát những thông tin sau:
- Tên chủ xe
- Biển kiểm soát
- Số giấy chứng nhận bảo hiểm, hiệu lực , loại hình tham gia
- Thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn
- Thông tin tổn thất ban đầu, thông tin thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm
- Số điện thoại hoặc địa chỉ để công ty liên lạc khi cần thiết
+ Giám định viên tiến hành kiểm tra tính hợp lệ của giấy tờ xe: Giấy chứng nhận bảo hiểm, bằng lái xe, đăng ký xe, giấy phép lưu hành
+ Chụp ảnh thiệt hại: Chụp vị trí xe bị tai nạn, biển số xe, nhãn hiệu xe, các vết hư hỏng… nếu không dùng được máy ảnh thì phải vẽ lại vị trí hư hỏng, ghi kích thước và có ký tên như biên bản tai nạn.
+ Lập biên bản giám định nhằm ghi lại những gì mà giám định viên đã tiến hành, nhận định của giám định viên về nguyên nhân của vụ tai nạn, mức độ lỗi của các chủ xe, mức độ thiệt hại. Nếu các bên đồng ý với biên bản giám định thì đó sẽ là cơ sở để tiến hành bồi thường còn nếu không phải tiến hành giám định lại.
+ Thu lệ phí giám định
+ Phối hợp công an điều tra kết luận về diễn biến và nguyên nhân tai nạn
+ Tuỳ từng trường hợp cụ thể, cán bộ giám định trình lãnh đạo duyệt tạm ứng chi phí tai nạn ban đầu (mức tạm ứng không quá 30%).
+ Tiến hành thu thập hồ sơ để giải quyết bồi thường.
1.2.4.2. Bồi thường tổn thất
Khi mua bảo hiểm tức là khách hàng đã trả tiền cho sản phẩm bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm đã cam kết bồi thường nhanh chóng, đầy đủ nếu không may họ bị tổn thất. Vì vậy, việc bồi thường được giải quyết tốt đã chứng minh chất lượng của sản phẩm đồng thời khẳng định uy tín của doanh nghiệp.
a) Hồ sơ bồi thường
Khi yêu cầu công ty bảo hiểm bồi thường thiệt hại vật chất xe, chủ xe phải cung cấp những tài liệu chứng từ sau:
- Tờ khai tai nạn của chủ xe
- Bản sao của Giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhân đăng ký xe, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện xe cơ giới đường bộ, Giấy phép lái xe
- Kết luận điều tra của Công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn: Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn, Biên bản giải quyết tai nạn
- Bản án hoặc quyết định của toà án trong trường hợp có tranh chấp
- Các biên bản tài liệu xác định trách nhiệm của người thứ 3
- Các chứng từ xác định thiệt hại do tai nạn, ví dụ như chứng từ xác định chi phí sửa chữa xe, thuê cẩu kéo…
b) Nguyên tắc bồi thường tổn thất
- Trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế
Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại thực tế x
- Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế
Theo nguyên tắc để tránh việc trục lợi bảo hiểm, công ty bảo hiểm chỉ chấp nhận số tiền bảo hiểm nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm. Nếu người tham gia bảo hiểm cố tình tham gia với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm nhằm trục lợi thì hợp đồng bảo hiểm sẽ không có hiệu lực. Tuy nhiên nếu là vô tình tham gia bảo hiểm trên giá trị công ty bảo hiểm vẫn bồi thường nhưng số tiền bồi thường chỉ bằng thiệt hại thực tế và luôn luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe. Trường hợp bảo hiểm theo “giá trị thay thế mới” thì chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao và các điều kiện bảo hiểm là rất nghiêm ngặt.
- Trường hợp tổn thất bộ phận
Chủ xe sẽ được giải quyết bồi thường trên cơ sở giới hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng tỉ lệ giá trị tổng thành xe.
- Trường hợp tổn thất toàn bộ
Xe được coi là tổn thất bộ phận khi bị mất cắp, mất tích hoặc xe bị thiệt hại nặng đến mức không thể sữa chữa phục hồi để đảm bảo lưu hành an toàn, hoặc chi phí phục hồi bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Thực tế, các công ty bảo hiểm thường quy định khi giá trị thiệt hại so với giá trị thực tế của xe bằng hoặc lớn hơn một tỷ lệ nhất định nào đó (thường trên 80%) thì được xem là tổn thất toàn bộ ước tính. Tuy nhiên lại giới hạn bởi bảng tỷ lệ cấu thành xe.
Khi tính số tiền bồi thường phải tuân thủ theo những nguyên tắc sau:
+ Những bộ phận thây thế mới khi bồi thường phải trừ khấu hao đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị của bộ phận được thay thế ngay trước lúc xảy ra tai nạn.
+Trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm một số bộ phận hoặc tổng thành xe, số tiền bồi thường được xác định dựa trên thiệt hại của bộ phận hay tổng thành đó. Và số tiền bồi thường cũng được giới hạn bởi bảng tỷ lệ giá trị tổng thành xe của bộ phận hay tổng thành tham gia bảo hiểm.
2. Công._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31953.doc