Phần i
Một số vấn đề cơ bản về tiêu thụ sản phẩm trong doanh nghiệp
I. Khái niệm tiêu thụ sản phẩm:
1. Khái niệm tiêu thụ sản phẩm:
Đặc trưng lớn nhất của sản xuất hàng hoá là sản phẩm được sản xuất ra nhằm để bán, do vậy tiêu thụ sản phẩm là một khâu quan trọng của tái sản xuất xã hội. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh. Thông qua tiêu thụ giá trị sử dụng của sản phẩm được thực hiện, doanh nghiệp thu hồi được vốn bỏ ra. Chính trong giai đoạn
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tình hình hoạt động tiêu thụ sản phấm của Nhà máy Vật liệu chịu lửa - Công ty Gang Thép Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này, bộ phận giá trị mới được xác lập ra trong khâu sản xuất được thực hiện và biểu hiện dưới hình thức lợi nhuận. Đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sẽ góp phần tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn nói riêng và hiệu quả sử dụng vốn nói chung, đồng thời thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Có nhiều cách tiếp cận khái niệm “Tiêu thụ sản phẩm“. Dưới đây là hai cách tiếp cận thường được sử dụng:
- Theo nghĩa rộng, tiêu thụ sản phẩm là một khâu mang tính quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh, một bộ phận cấu thành của hệ thống tổ chức quản lý tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp chuyên thực hiện các hoạt động nghiệp vụ liên quan đến việc thực hiện chức năng chuyển hoá hình thái giá trị của sản phẩm hàng hoá từ hàng sang tiền của tổ chức đó. Tiêu thụ sản phẩm theo góc độ này lại bao gồm nhiều khâu có mối liên hệ chặt chẽ với nhau để hoàn thành chức năng nhiệm vụ của hệ thống thống như nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, thực hiện đơn hàng và nhu cầu sản xuất, thực hiện các nhiệm vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng... Theo cách hiểu này, quản trị tiêu thụ sản phẩm được hiểu là quản trị các hoạt động nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất...
- Theo nghĩa hẹp: tiêu thụ hàng hoá, lao vụ, dịch vụ là việc chuyển dịch quyền sở hữu sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng đồng thời thu được tiền hàng hoá hoặc được quyền thu tiền bán hàng.
- Dù hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, sử dụng trong lĩnh vực sản xuất thương mại với phạm vi khác nhau về thực chất tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là việc làm cho sản phẩm hàng hoá trên thị trường, qua đó để tối đa hoá lợi nhuận.
2. Đặc điểm của tiêu thụ:
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ, mỗi cơ chế kinh tế khác nhau, hoạt động tiêu thụ sản phẩm cũng được nhìn nhận dưới góc độ khác nhau.
Trong cơ chế bao cấp toàn bộ nền kinh tế quốc dân được điều hành bằng các mệnh lệnh hành chính của Nhà nước chứ không tuân theo quy luật cung cầu. Nhà nước đứng trên góc độ toàn xã hội, lập kế hoạch cung ứng vật tư cho các đơn vị sản xuất kinh doanh và giao chỉ tiêu nộp sản phẩm cho Nhà nước. Từ đó, Nhà nước lại phân phối sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng. Chính bởi quan hệ kinh tế như vậy nên hoạt động tiêu thụ sản phẩm không được các Doanh nghiệp quan tâm tiêu thụ vì đã có Nhà nước bao tiêu. Có thể hiểu, trong thời kỳ này, tiêu thụ sản phẩm là sự vận chuyển hàng hoá theo số lượng, giá cả đến những đơn vị tiêu dùng, đến người tiêu dùng mà Nhà nước quy định sẵn.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, tiêu thụ sản phẩm trở thành một hoạt động quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải thực hiện một loạt những công việc phục vụ cho khâu tiêu thụ sản phẩm như: nghiên cứu nắm bắt nhu cầu thị trường, thay đổi mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến bộ máy quản lý, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm…
II. Vai trò và ý nghĩa của tiêu thụ sản phẩm với các Doanh nghiệp:
1. Vai trò của tiêu thụ:
Đối với mọi Doanh nghiệp (trừ các Doanh nghiệp công ích) lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu. Mà lợi nhuận chỉ có được sau khi đã tiêu thụ được sản phẩm. Vì vậy, tiêu thụ sản phẩm chính là mục đích trước mắt của Doanh nghiệp.
Cụ thể hơn, người ta nói sức tiêu thụ sản phẩm phản ánh đầy đủ những điểm mạnh và điểm yếu của Doanh nghiệp. Sản phẩm của Doanh nghiệp chỉ được chấp nhận khi nó thoả mãn nhu cầu nào đó của khách hàng. Sức tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, uy tín của Doanh nghiệp, chất lượng của sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu của người tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Nhờ đó Doanh nghiệp chiến thắng được các đối thủ cạnh tranh và kết qủa là không những thu được lợi nhuận cao mà còn tăng được thị phần của mình. Vì vậy tiêu thụ sản phẩm cũng là công cụ để "giành giật thị trường" của các doanh nghiệp.
Thông qua tiêu thụ, giá trị sử dụng của sản phẩm mới được xác nhận hoàn toàn và có tiêu thụ được hàng hoá thì Doanh nghiệp mới thu hồi được vốn về. Điều này có nghĩa nếu tăng nhanh quá trình tiêu thụ thì sẽ tăng nhanh vòng quay của vốn. Sau quá trình tiêu thụ, Doanh nghiệp không những thu hồi được tổng số tiền liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn thu được lợi nhuận, đây là nguồn cơ bản để bổ sung vào nguồn hình thành nên các quỹ xí nghiệp.
Tổ chức hoạt động tốt tiêu thụ sản phẩm tức là chủ động tạo ra cầu và kích thích tiêu dùng, từ đó nó lại tác động trở lại quá trình tái sản xuất, cứ như thế nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Hiệu quả kinh doanh của Xí nghiệp được đánh giá qua khối lượng hàng hoá bán trên thị trường và lợi nhuận thu được. Qua tiêu thụ hàng hoá, giá trị của hàng hoá được chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và vòng chu chuyển vốn của Doanh nghiệp được hình thành.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm cũng thể hiện mục tiêu của Doanh nghiệp là hướng tới khách hàng. Hoạt động này tạo ra nhu cầu, mà thực chất là nhu cầu sản phẩm về hàng hoá một cách có hệ thống.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm là một quá trình từ tìm hiểu nhu cầu của khách hàng trên thị trường, tổ chức mạng lưới bán hàng… tới việc thực hiện những dịch vụ sau bán hàng. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm nhằm:
- Tăng thị phần của Doanh nghiệp, tạo cho phạm vi và quy mô thị trường của Doanh nghiệp không ngừng được mở rộng.
- Tăng doanh thu và lợi nhuận của Doanh nghiệp. Có thể coi đây là yêu cầu về mặt kinh tế và biểu hiện về mặt lượng kết quả hoạt động bán hàng của Doanh nghiệp.
- Tăng tài sản vô hình của Doanh nghiệp. Đó chính là tăng uy tín của Doanh nghiệp nhờ tăng niềm tin đích thực của người tiêu dùng sản phẩm của Doanh nghiệp sản xuất. Tài sản vô hình của Doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó biểu hiện trực tiếp ở hoạt động bán hàng của Doanh nghiệp là sự phù hợp của sản phẩm mà nó bán ra với sự yêu cầu của khách hàng. Chẳng hạn như phương thức bán hàng, mạng lưới bán hàng, thái độ bán hàng, trách nhiệm đến cùng với sản phẩm sản xuất ra và bán trên thị trường. Người mua hàng sẽ có thiện cảm hoặc ác cảm với Doanh nghiệp qua mua sản phẩm của Doanh nghiệp.
Xét về lâu dài chính tài sản vô hình sẽ tạo ra nền tảng vững chắc cho sự phát triển của Doanh nghiệp.
- Tăng vị thế của Doanh nghiệp: Vị thế của Doanh nghiệp trên thị trường biểu hiện bằng % doanh số hay số lượng hàng hoá bán được so với toàn bộ thị trường. Con số này càng lớn, vị thế của Doanh nghiệp càng lớn. Do vậy, tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quyết định vị thế của Doanh nghiệp trên thị trường.
- Mục tiêu an toàn: Hàng hoá là những vật phẩm sản xuất ra để bán chứ không phải để người sản xuất ra nó tiêu dùng. Vì vậy sản phẩm sản xuất ra cần được bán trên thị trường và Doanh nghiệp thu tiền về để có thể tái sản xuất.
- Mục tiêu phục vụ khách hàng, góp phần vào việc thỏa mãn nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mục tiêu này thể hiện một chức năng xã hội của Doanh nghiệp và khẳng định vị trí của Doanh nghiệp như một tế bào của nền kinh tế quốc dân.
2. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong cơ chế thị trường:
- Trong nền sản xuất kinh doanh, mọi hoạt động của Doanh nghiệp được tiến hành qua nhiều khâu, mỗi khâu có quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau ở đơn vị sản xuất. Doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất phải có nguyên vật liệu sản xuất ra sản phẩm và sau đó phải thực hiện việc bán hàng. Hoạt động kinh doanh bao bồm mua vào vật tư hàng hoá, dự trữ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Việc bán ra ở các Doanh nghiệp đặc biệt quan trọng vì tất cả các công việc khác như mua vào hay dự trữ đều nhằm mục đích bán ra bởi vì nó quyết định nhiều nhất đến lợi nhuận của Doanh nghiệp.
- Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất nhưng nó lại vô cùng quan trọng, nhiều lúc nó là yếu tố quyết định các vấn đề khác. Doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh chỉ sau khi sản phẩm được tiêu thụ mới có thể thu hồi vốn để tiếp tục sản xuất kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục là điều kiện tồn tại và phát triển của xã hội. Sản phẩm được tiêu thụ tức là nó được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp thể hiện bằng chất lượng sản phẩm của Doanh nghiệp, uy tín của đơn vị, sự phù hợp của dây truyền công nghệ, sự thích ứng yêu cầu của người tiêu dùng, sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ, hay nói cách khác sức tiêu thụ của sản phẩm phản ánh đầy đủ những điểm mạnh, điểm yếu của Doanh nghiệp. Hơn thế nữa, công tác tiêu thụ giúp Doanh nghiệp hiểu biết hơn sản phẩm của mình toàn diện. Để từ đó có biện pháp cải tiến làm cho sản phẩm thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng.
Việc tiêu thụ sản phẩm trở thành căn cứ quan trọng để lập kế hoạch sản xuất kinh doanh. Tìm được biện pháp phát huy thế mạnh và hạn chế những điểm yếu của mình. Hơn thế nữa nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất với những cân bằng, những quan hệ tỷ lệ cần thiết. Sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ tức là các hoạt động được diễn ra một cách bình thường trôi chảy tránh được những mất cân đối, đảm bảo được sự ổn định trong xã hội.
Với người tiêu dùng, tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp giúp họ thoả mãn nhu cầu. Việc thoả mãn ngày một tốt hơn nhu cầu của con người không chỉ là mục tiêu của nền sản xuất XHCN mà cả của nhân loài trong đó công tác tiêu thụ đóng một phần quan trọng.
Tiêu thụ sản phẩm là một mắt xích liên kết giữa người sản xuất và người tiêu dùng và nó cần thiết với cả hai phía. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, việc tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quyết định sự sống còn của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm đó là sự cần thiết hết sức khách quan.
3. ý nghĩa của hoạt động tiêu thụ:
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với bất kỳ Doanh nghiệp nào, mỗi Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường muốn tồn tại và phát triển thì phải xác định được vị trí của hoạt động tiêu thụ trong toàn bộ các hoạt động của mình để trên cơ sở đó vạch ra hướng đi đúng đắn, có cơ sở khoa học để đảm bảo cho sự thành công của Doanh nghiệp mình. Trên góc độ người bán, hoạt động tiêu thụ có ý nghĩa quan trọng như sau:
- Tiêu thụ sản phẩm giúp cho Doanh nghiệp thực hiện được mục đích chính là lợi nhuận, lợi nhuận là mục tiêu cơ bản, trước mắt và lâu dài chi phối mọi hoạt động của Doanh nghiệp. Lợi nhuận càng cao thì Doanh nghiệp càng có điều kiện thực hiện nhiều mục tiêu khác. Lợi nhuận chỉ có thể thực hiện khi hàng hoá được bán ra, lợi nhuận dùng để kích thích lợi ích vật chất cho cán bộ, công nhân viên trong Doanh nghiệp, nhằm động viên họ gắn bó, quan tâm đến Doanh nghiệp. Có thể nói rằng tiêu thụ sản phẩm là khâu trực tiếp mang lại lợi nhuận cho Doanh nghiệp.
- Tiêu thụ sản phẩm tạo điều kiện nâng cao vị thế cho Doanh nghiệp trên thương trường. Thông qua hoạt động tiêu thụ sản phẩm, Doanh nghiệp có điều kiện giới thiệu hàng hoá với khách hàng, có cơ hội để phục vụ khách hàng, tạo uy tín cho Doanh nghiệp và niềm tin của khách hàng vào sản phẩm. Mặt khác hàng bán được nhiều sẽ giúp vho Doanh nghiệp thu hút, lôi kéo được nhiều khách hàng quan tâm đến, làm tăng uy tín, đảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài của Doanh nghiệp trên thị trường.
- Hoạt động tiêu thụ sản phẩm thành công giúp cho Doanh nghiệp đứng vững trong sự cạnh tranh. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường là tất yếu khách quan và cần thiết, cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội cạnh tranh càng văn minh, tinh hoa và khốc liệt hơn. Doanh nghiệp nào không đáp ứng được yêu cầu của cạnh tranh thì sẽ bị đào thải rút lui khỏi thị trường. Do đó phần lớn các biện pháp để thích ứng với cạnh tranh trong các Doanh nghiệp được tập trung ở khâu tiêu thụ sản phẩm.
- Hoạt động tiêu thụ sản phẩm đảm bảo tính an toàn trong kinh doanh cho Doanh nghiệp. Kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các Doanh nghiệp không ngừng đổi mới và phát triển các thông tin. Thông qua việc bán hàng thì người bán nắm bắt được nhu cầu của thị trường. Do vậy, quá trình tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có khả năng thu thập được nhiều thông tin nhất. Trong cơ chế thị trường hoạt động tiêu thụ sản phẩm là tấm gương phản chiếu tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh như thế nào ? Mức thu được lợi nhuận cao hay thấp? đồng thời hoạt động tiêu thụ sản phẩm sẽ góp phần vào cân đối cung cầu trên thị trường, góp phần mở rộng sản xuất lưu thông, ổn định đời sống, cũng cố vị trí, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
III. Nội dung của hoạt động tiêu thụ:
1.Điều tra nghiên cứu, đánh giá nhu cầu thị trường:
Có thể hiểu một cách đơn giản thị trường là nơi diễn ra các loại hoạt động (trực tiếp và gián tiếp) mua bán hàng hoá. Nghiên cứu thị trường nhằm trả lời câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Nghĩa là sản phẩm mà thị trường đang cần là sản phẩm gì, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của nó ra sao, người tiêu thụ sản phẩm đó là ai. Đây là cơ sở để doanh nghiệp huy động và tổ chức khai thác các nguồn lực của mình và là cơ sở để ra quyết định trong việc triển khai các hoạt động quản trị tiêu thụ khác.
Nghiên cứu thị trường là sự nhận thức một cách khoa học, có hệ thống. Nghiên cứu thị trường tạo ra các thông tin cần thiết về ảnh hưởng của thị trường tới việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, làm cơ sở cho việc ra quyết định về chính sách tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Với mục đích như thế nghiên cứu thị trường không chỉ nghiên cứu thị trường ở hiện tại mà luôn phải chú ý tới thị trường ở tương lai của doanh nghiệp mà trước hết là thị trường muốn chinh phục.
Vì doanh nghiệp liên hệ với các đơn vị kinh doanh khác ở cả thị trường mua sắm các yếu tố đầu vào và thị trường các sản phẩm hàng hoá tạo ra.
Một mặt, mục tiêu của việc nghiên cứu thị trường là việc xác định thực trạng của thị trường theo các tiêu thức có thể lượng hoá được và về nguyên tắc có thể đạt được bằng khoa học thống kê. Mặt khác, nghiên cứu thị trường cũng tìm cách giải thích các ý kiến có thể về cầu và các hàng hoá do doanh nghiệp cung cấp hay những lý do mua hoặc không mua sản phẩm của doanh nghiệp... Để tạo ra và xử lý những thông tin cần thiết phải đặc biệt chú ý sử dụng các phương pháp nghiên cứu xã hội, kinh nghiệm tâm lý, thống kê.
Quy trình nghiên cứu thị trường được tiến hành qua 3 bước:
- Thu thập thông tin.
- Xử lý thông tin.
- Ra quyết định.
a. Thu thập thông tin:
Các thông tin về thị trường luôn biến đổi không ngừng, vì vậy doanh nghiệp cần phải nhanh nhạy nắm bắt những biến đổi đó điều chỉnh kế hoạch kinh doanh của mình. Thông thường, trong quá trình thu thập thông tin, doanh nghiệp cần thu thập thông tin về:
- Quy mô thị trường.
- Khách hàng (Hiện tại và tiềm năng).
- Các sản phẩm cùng loại trên thị trường.
- Các đối thủ cạnh tranh.
- Các đòi hỏi của khách hàng...
Doanh nghiệp có thể thu thập thông tin về thị trường bằng các phương pháp: nghiên cứu trực tiếp hoặc bằng cách thông tin qua số liệu có sẵn (phương pháp bàn giấy).
*Phương pháp điều tra trực tiếp:
Là phương pháp sử dụng lực lượng trực tiếp, tiếp cận với thị trường để nghiên cứu thông qua các hình thức điều tra tại chỗ, phỏng vấn, quan sát...
Điều tra trực tiếp đòi hỏi nhiều lao động, phương tiện do đó chi phí lớn. Thị trường ngày càng phát triển, việc nghiên cứu trực tiếp không thể bao quát hết toàn bộ thị trường và thường ở dạng điều tra chọn mẫu.
Độ chính xác của các kết luận điều tra nghiên cứu theo phương pháp này tuỳ thuộc vào rất nhiều việc phân mẫu và sử dụng các lý thuyết xác suất thống kê. Để tăng tính hấp dẫn, thu hút sự chú ý của những người được điều tra, bộ phận điều tra không thể dựa trên các kiến thức tâm lý, xã hội... mà sử dụng nhiều hình thức khác nhau phỏng phấn (trực tiếp qua điện thoại) phiếu thăm dò (tại chỗ, gửi đến người được thăm dò) đến các hình thức thu hút các đối tượng điều tra vào cuộc vui chơi có thưởng.
Muốn đạt được hiệu quả điều tra cao, công tác chuẩn bị điều tra phải được quan tâm đúng mức. Tuỳ theo hình thức điều tra mà tiến hành các nội dung cần thiết chuẩn bị thích hợp.
Nhìn chung, phương pháp trực tiếp nghiên cứu thị trường là phương pháp tốn kém mà không đưa ra được kết luận có tính chất đại diện cho thị trường. Chỉ nên sử dụng phương pháp này cho phương pháp bàn giấy, làm sáng tỏ những kết luận nhất định mà bộ phận nghiên cứu thị trường thấy rằng cần kiểm tra thêm các kết luận đã đưa ra.
*Phương pháp điều tra gián tiếp (phương pháp bàn giấy):
Doanh nghiệp cũng có thể nghiên cứu thị trường bằng phương pháp gián tiếp. Theo phương pháp này, việc nghiên cứu thị trường có thể đưa các dữ liệu do chính doanh nghiệp tạo ra như các số liệu của kế toán tài chính, tính chi phí kinh doanh, thống kê tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, thống kê kết quả quảng cáo, các báo cáo của bộ phận bán hàng... hoặc các dữ liệu có ở bên ngoài doanh nghiệp như các số liệu ở các cơ quan thống kê (các số liệu thống kê trên báo chí, số liệu công bố của các tổ chức kinh tế, các cơ quan phát triển, phương pháp bàn giấy càng đóng vai trò quan trọng đối với công tác nghiên cứu thị trường.
b.Xử lý thông tin:
Để có được những kết luận chính xác về thị trường thì thu thập thông tin phải được xử lý bằng các phương pháp khoa học (thống kê, kinh tế lượng...) cùng với sự giúp đỡ của chuyên gia. Việc xử lý thông tin đòi hỏi phải trả lời các câu hỏi sau:
- Quy mô của thị trường.
- Những khu vực thị trường có nhiều cơ hội hấp dẫn.
- Khách hàng tiềm năng.
Cần nắm bắt được các thông tin về thị trường để từ đó có thể sản xuất các mặt hàng phù hợp với yêu cầu của thị trường.
- Các thành phần phụ trợ: hệ thống kho tàng bến bãi, các phương tiện vận chuyển, bốc xếp hàng hoá là khâu không thể thiếu được của quá trình phân phối sản phẩm vào các kênh tiêu thụ. Tuỳ thuộc vào mỗi loại hàng hoá khác nhau mà quy mô cấu trúc kho tàng bến bãi, cũng khác nhau…
c. Ra quyết định:
Trên cơ sở việc xử lý các thông tin đẫ thu thập được, doanh nghiệp đưa ra các quyết định về sản xuất kinh doanh như:
- Quyết định về giá bán tại các thị trường khác nhau cho phù hợp.
- Quyết định và đưa ra một mặt hàng mới thâm nhập thị trường hoặc cắt giảm một mặt hàng nào đó khi không có khả năng tiêu thụ.
- Quyết định về việc mở rộng hay thu hẹp mạng lưới kênh phân phối sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường.
- Quyết định về mức hàng hoá dự trữ cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
2. Xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm:
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hàng hoá bao gồm 2 nội dung chính, đó là chính sách sản phẩm và chính sách về giá cả.
a.Chính sách sản phẩm của doanh nghiệp:
Là cơ sở xác định phương hướng đầu tư phát triển, là cơ sở để thực hiện giá bán, chính sách phân phối, chính sách khuyếch trương và là cơ sở để thực hiện các mục tiêu phát triển doanh nghiệp .
* Sự khác biệt về sản phẩm:
Khác biệt hoá là một chính sách của doanh nghiệp dựa vào việc làm các sản phẩm của mình khác với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh nhằm phân biệt chúng với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
Chính sách này cho phép:
- Hướng việc mua của người tiêu dùng đến các sản phẩm của doanh nghiệp nhờ vào hình ảnh nhãn mác, các đặc tính riêng biệt của sản phẩm.
- Khuyến khích người tiêu dùng mua các sản phẩm của doanh nghiệp.
- Có thể giúp doanh nghiệp từ hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo sang thị trường độc quyền. Do vậy doanh nghiệp có thể bán được giá cao và đảm bảo khả năng sinh lời.
Khác biệt hoá sản phẩm có thể được thực hiện theo những phương pháp thay đổi.
- Những đặc trưng cơ bản của kỹ thuật: sự vận hành tốt, chắc chắn thời gian sống, độ an toàn, kích cỡ trọng lượng.
- Kiểu bao gói, vận chuyển, phân phối.
- Tổng thể các dịch vụ đưa ra kho bán, hoặc sau khi bán: bảo hành, lắp đặt, trợ giúp kỹ thuật…
- Quảng cáo kèm theo: tạo ra sự tương phản về hình ảnh của sản phẩm hay mác của sản phẩm.
* Gam sản phẩm:
Doanh nghiệp có thể khác biệt hoá sản phẩm của mình không những so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh mà còn khác biệt ngay chính các sản phẩm của mình nhờ vào việc tạo ra những gam sản phẩm của đối thủ cạnh tranh mà còn khác biệt ngay chính các sản phẩm của mình nhờ vào việc tạo ra những gam sản phẩm bổ sung đáp ứng các nhu cầu của các phân đoạn thị trường.
Việc định ra một gam sản phẩm đối với doanh nghiệp là khó khăn. Sự biến đổi gam sản phẩm của doanh nghiệp có thể được thực hiện theo nhiều hướng.
- Mở rộng gam sản phẩm bao gồm việc tiếp tục bổ sung thêm về phía trên hay phía dưới của gam sản phẩm.
- Thu hẹp gam sản phẩm bao gồm giảm tính đa dạng của các sản phẩm cung cấp và điều đó cho phép giảm nhẹ dự trữ, hạ thấp chi phí và đơn giản hoá các chương trình sản xuất và bán hàng.
- Đa dạng hoá gam sản phẩm là việc thêm vào các sản phẩm có bản chất khác với gam hiện tại, nhưng đáp ứng cùng một mục tiêu sử dụng.
* Các cá thể hoá sản phẩm:
Không thay đổi gam sản phẩm của mình, nhà sản xuất có thể tính đến những nhu cầu khác của người tiêu dùng bằng cách cá thể hoá sản phẩm của mình.
b. Chính sách giá bán:
Việc định ra chính sách giá bán phù hợp , linh hoạt với cung cầu trên thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được các mục tiêu kinh doanh của mình như: tối đa hoá lợi nhuận, thâm nhập hoặc mở rộng thị trường... tuy nhiên bản thân công cụ giá trong kinh doanh chứa đựng một nội dung phức tạp hay biến động do phụ thuộc nhiều nhân tố, nên trong thực tế khó có thể lường hết được các tình huống xảy ra.
Chính sách giá trong kinh doanh của doanh nghiệp là giá cả của các sản phẩm có thể bù đắp được chi phí sản xuất kinh và có lãi. Do thị trường, các khách hàng thường mua sản phẩm với số lượng khác nhau vào những thời điểm khác nhau... Nên khó có thể áp dụng được một mức giá thống nhất. Trên thực tế người bán hàng có thể tăng giá khi cầu tăng, hoặc thực hiện chiết khấu giá khi khách hàng mua với số lượng lớn. Để có cơ sở cho việc tăng, giảm giá trong tình huống cụ thể, chính sách giá bán của doanh nghiệp cần xác định độ linh hoạt của giá, nó có thể được quy định bằng mức tăng giảm tuyệt đối của giá đơn vị sản phẩm của giá đơn vị sản phẩm hoặc tỉ lệ tăng giảm giá đơn vị sản phẩm. Với chính sách này người bán có thể chủ động quyết định giá bán trong phạm vi chế độ linh hoạt cho phép, trong trường hợp doanh nghiệp lựa chọn chính sách một giá ổn định thì người bán không thể thay đổi giá bán.
3. Định giá tiêu thụ sản phẩm:
Giá cả là số tiền mà người bán thu được khi bán một đơn vị sản phẩm hay hàng hoá và là số tiền mà người mua phải bỏ ra để mua một sản phẩm hay hàng hoá. Giá cả là quan hệ lợi ích về kinh tế. Vì vậy, xác định đúng mức giá có vai trò sống còn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào.
Mục đích của việc định giá tiêu thụ sản phẩm là xác định mức giá công bố cho từng quy cách chủng loại, các trường hợp áp dụng là mức hạ giá chiếu cố giá. Mức giá là sự cân bằng giữa lượng tiền phải trả và cái mà người mua nhận được tương ứng.
Quy trình định giá tiêu thụ: được đặt ra khi doanh nghiệp phải định giá lần đầu, thường là khi doanh nghiệp triển khai một mặt hàng mới.
Chọn mục tiêu định giá
Phân định nhu cầu thị trường
Lượng giá chi phí
Phân tích giá đối thủ cạnh tranh
Chọn kỹ thuật định giá thích hợp
Chọn giá cuối cùng của mặt hàng
Mục tiêu định giá:
- Định giá nhằm đảm bảo mức thu nhập được xác định trước.
- Định giá nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
- Định giá nhằm mục tiêu doanh số bán hàng.
- Định giá nhằm phát triển các phân đoạn thị trường.
- Định giá nhằm mục tiêu cạnh tranh đối đầu.
- Định giá nhằm mục tiêu cạnh tranh không mang tính giá cả.
* Chính sách giá theo thị trường:
Chính sách giá lựa chọn đúng quan điểm đặt giá cho các tình huống cần giải quyết giúp cho công việc chấp nhận giá và ra quyết định mua sắm của khách hàng được dễ dàng hơn.
- Chính sách định giá thấp: đây là cách định giá thấp hơn so với giá thị trường, có thể chia định giá thấp như sau:
+ Định giá thấp hơn so với giá thị trường: thường được áp dụng với những sản phẩm mới thâm nhập thị trường.
+ Định giá thấp hơn giá thị trường và cũng thấp hơn giá trị sản phẩm (chấp nhận lỗ) thường được áp dụng trong dịp khai trương cửa hàng hoặc muốn bán nhanh để thu hồi vốn.
- Chính sách định giá cao: từ là định giá cao hơn mức giá thị trường. Cách này có thể áp dụng:
+ Với các sản phẩm mới tung ra thị trường, người tiêu dùng chưa biết rõ về chất lượng của nó, chưa có cơ hội để so sánh về giá.
+ Với những doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc quyền.
+Với những mặt hàng cao cấp.
- Chính sách ổn định giá bán: tức là không thay đổi giá bán theo nhu cầu của từng thời kỳ. Cách này giúp doanh nghiệp thâm nhập, giữ vững và mở rộng thị trường.
- Chính sách bán phá giá: đây là chính sách định giá được dùng bởi vì nó rất nguy hiểm đối các doanh nghiệp, mục tiêu của bán phá giá là tối thiểu hoá rủi ro hay thua lổ. Bán phá giá chỉ nên áp dụng khi sản phẩm bị tồn động quá nhiều, bị cạnh tranh gay gắt, sản phẩm lạc hậu không phù hợp với người tiêu dùng dễ hư hỏng càng để lâu càng lỗ lớn.
4. Phân phối hàng hoá vào các kênh tiêu thụ:
Khái niệm phân phối: Một kênh phân phối có thể được hiểu là một tập hợp có hệ thống các phần tử tham gia vào quá trình chuyển đưa hàng hoá từ nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng.
Doanh nghiệp có thể phân phối sản phẩm của mình qua các kênh tiêu thụ trực tiếp hay gián tiếp.
Hình 1: Sơ đồ hệ thống kênh phân phối.
Người
sản
xuất
Người
sử
dụng
Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp
Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp
Người
bán lẻ
Người
bán lẻ
Người
bán buôn
Lực lượng bán hàng của
DN
Người
bán lẻ
Người bán buôn (C2)
Người bán buôn (C1)
LLBH
DN
(4)
(3)
(2)
(1)
a. Kênh phân phối trực tiếp:
Theo phương thức này, các doanh nghiệp trực tiếp bán sản phẩm của mình cho người tiêu dùng không qua trung gian. Nếu doanh nghiệp lựa chọn hình thức tiêu thụ trực tiếp thì sẽ phải thực hiện mọi chức năng liên quan không chỉ đến việc sản xuất mà còn liên quan đến tiêu thụ sản phẩm.
Việc xoá bỏ chia cắt giữa sản xuất và tiêu dùng sẽ được thực hiện nếu sự chia cắt đó không lớn cả về không gian và thời gian.
Hình 2: Sơ đồ hệ thống kênh phân phối trực tiếp:
Doanh nghiệp
Đại lý
Lực lượng bán hàng của DN
Các trung gian
Khách hàng (người tiêu dùng)
b. Kênh tiêu thụ gián tiếp:
Kênh tiêu thụ gián tiếp là kênh phân phối mà giữa người tiêu dùng và người sản xuất không có mối quan hệ trực tiếp mà thực hiện quan hệ gián tiếp thông qua trung gian thương mại (đại lý, người buôn bán, người bán lẻ...).
Hình 3: sơ đồ kênh phân phối gián tiếp:
Doanh nghiệp
Đại lý có hợp đồng môi giới
Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp
Khách hàng (người sử dụng)
5. Các biện pháp hỗ trợ và xúc tiến bán hàng:
Thông qua hoạt động bán hàng, hình thái vật chất của hàng hoá được chuyển sang hình thái tiền tệ và giá trị sử dụng của nó thoả mãn một nhu cầu nhất định của khách hàng. Việc phát triển sản xuất kinh doanh phụ thuộc rất nhiều và tốc độ bán hàng. Bán hàng tự bản thân nó không phải là chức năng sản xuất nhưng lại là một yếu tố cần thiết của tái sản xuất kinh doanh, nó góp phần nâng cao chất lượng chung của doanh nghiệp.
Nội dung của hoạt động bán hàng bao gồm:
- Đáp ứng đầy đủ số lượng, chất lượng mặt hàng theo yêu cầu của khách hàng. Đây là một điều kiện không dễ đối với nhiều doanh nghiệp. Tuy vậy doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình những sản phẩm đặc trưng nhất thể hiện thế mạnh của mình.
- Tổ chức tốt hoạt động dịch vụ trong suốt quá trình bán hàng cũng như trước và sau khi bán.
- Tạo những địa điểm thuận lợi phục vụ công tác bán hàng như đặt cửa hàng gần đường giao thông hoặc nơi có thể dễ dàng vận chuyển hàng hoá.
- Phục vụ tốt khách hàng bằng phương pháp thuận tiện nhất có thể không ngừng thiết kế cửa hàng, quầy hàng...
- Kết hợp quảng cáo với bán hàng, coi quảng cáo là phương thức thúc đẩy quy trình bán hàng một cách hữu hiệu nhất.
Việc thực hiện công tác hỗ trợ và xúc tiến bán hàng có vai trò quan trọng đối với công tác tiêu thụ sản phẩm. Hoạt động này làm tăng hiểu biết của khách hàng về hàng hoá và dịch vụ từ đố tăng uy tín của doanh nghiệp, trên cơ sở đó kích thích và thuyết phục người mua hình thành và mở rộng nhu cầu tiêu dùng hàng hoá của doanh nghiệp. Trong công tác xúc tiến bán hàng bao gồm các hoạt động:
* Quảng cáo:
Có thể hiểu quảng là hoạt động nhằm giới thiệu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp cho khách hàng, gây sự chú ý của khách hàng đối với sản phẩm hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp làm cho khách hàng quen biết, có thiện cảm với sản phẩm của doanh nghiệp. Như thế mục đích của quảng cáo là thu hút, lôi cuốn khách hàng bằng các biện pháp giới thiệu và truyền tin thích hợp.
Phương tiện quảng cáo đa dạng và phong phú như báo, đài, tivi, phim ảnh, hội chợ triển lãm...
* Chào hàng:
Là một phương pháp xúc tiến với khách hàng qua cá nhân và nhân viên bán hàng của doanh nghiệp để bán buôn bán lẻ hàng hoá và cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Qua công tác chào hàng, Công ty sẽ thu nhập được các thông tin cần thiết về nhu cầu của khách hàng đối với sản phẩm của mình, từ đó có được đơn đặt hàng từ phía khách hàng.
* Các biện pháp xúc tiến bán hàng thường được sử dụng:
- Hội nghị khách hàng: là sự họp mặt giữa doanh nghiệp với khách hàng nhằm có sự tác động qua lại lẫn nhau về thông tin giữa người sản xuất và người tiêu dùng.Tại đây các vấn đề cần quan tâm giữa các bên sẽ được giải quyết. Hội nghị khách hàng thường được tổ chức một năm một lần nhằm vào khách hàng chủ yếu của doanh nghiệp.
- Tham gia hội chợ triển lãm: đây là một hình thức hỗ trợ cho công tác tiêu thụ, được tổ chức bởi các cơ quan Nhà nước, có thẩm quyền như Bộ Thương mại, Bộ công nghiệp, Công ty quảng cáo... Nơi đây ngoài việc doanh nghiệp trưng bầy hàng hoá của mình còn có thể diễn ra việc ký kết các hợp đồng mua bán với khách hàng. Tham gia hội chợ triển lãm là việc làm cần thiết đối với các doanh nghiệp. Khi tham gia hội chợ doanh nghiệp cần chọn những sản phẩm là thế mạnh của mình (về kỹ thuật, công nghệ, giá cả, chất lượng...) chuẩn bị chu đáo các ấn phẩm về mình như tài liệu, tờ rơi, catalogue...
- Mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm: đây là một việc lựa chọn những địa điểm ._.tốt, nơi có đông đảo dân cư hoặc nơi có tiện đường giao thông... để mở các cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm của doanh nghiệp. Đây cũng là nơi để tiến hành các hoạt động giao dịch giữa các doanh nghiệp với khách hàng.
6. Tổ chức thanh toán và đánh giá hoạt động:
a. Tổ chức thanh toán:
Hiện nay, có nhiều phương thức thanh toán được các doanh nghiệp sử dụng trong mua bán như tiền mặt, séc, chuyển khoản, trả chậm... Việc lựa chọn phương thức thanh toán sao cho cả hai bên đều có lợi là một việc tương đối khó khăn. Để tạo ra điều kiện thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm của mình thì doanh nghiệp cần đề ra phương thức thanh toán đơn giản, thuận tiện nhất có thể được.
Một trong những chính sách thanh toán doanh nghiệp hay sử dụng là chính sách trả dần. Với chính sách trả dần tiền, người mua chỉ cần trả một lượng tiền rất nhỏ so với tổng giá thành lô hàng số còn lại sẽ được trả dần. Lợi ích của chính sách này ở chỗ, thu hút được nhiều chưa có đủ tiền ngay mua sản phẩm, song đã có dự tính tiết kiệm trong tương lai từ số thu nhập của họ để mua sản phẩm.
b. Đánh giá hiệu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm:
Sau khi thanh toán và xác định được kết quả tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cần đánh giá phân tích kết quả công tác tiêu thụ để từ đó đưa ra các ưu nhược điểm và tìm ra các nguyên nhân của thành công cũng như thất bại trong hoạt động tiêu thụ.
Có nhiều chỉ tiêu doanh nghiệp có thể sử dụng để đánh giá kết quả của công tác tiêu thụ sản phẩm. Sau đây là một số chỉ tiêu doanh nghiệp thường dùng.
- Doanh thu bán hàng:
DTBH = ồPi x Qi
Pi: Giá bán hàng của mặt hàng thứ i.
Qi: Khối lượng tiêu thụ mặt hàng thứ i.
- Lợi nhuận thu được từ hoạt động tiêu thụ sản phẩm:
LN = ồQi(Pi = Zi - CPi - Ti)
Qi : Khối lượng tiêu thụ mặt hàng thứ i.
Pi: Giá bán của mặt hàng thứ i.
Zi : Giá thành của mặt hàng i.
CPi: Chi phí quản lý và bán hàng của mặt hàng thứ i.
Ti : Thuế doanh thu (hoặc thuế VAT) của mặt hàng i.
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
Qtt : Số lượng sản phẩm tiêu thụ thực tế.
Qkh: Số lượng sản phẩm tiêu thụ kế hoạch.
Chỉ tiêu này phản ánh tình hinh thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm về mặt hiện vật:
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch tiêu thụ chung
Hệ số doanh thu
=
Doanh thu tiêu thụ
Giá trị tổng sản lượng
Hệ số doanh thu càng lớn chứng tỏ công tác tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp được thực tốt, doanh nghiệp cần đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm để đưa vào hệ số này càng cao.
7. Tổ chức quản lý hoạt động tiêu thụ sản phẩm:
Quản lý tiêu thụ là để nghiên cứu nhu cầu khách hàng về số lượng, chất lượng. Xác lập các phương án giao hàng tối ưu cho khách hàng, đảm bảo các chi phí vận chuyển và các chi phí có liên quan đến quá trình bán hàng. Đảm bảo một cách đẩy đủ kịp thời các nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp cho khách hàng. Thực hiện vai trò tham mưu cho các bộ phận sản xuất của doanh nghiệp nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt giá thành hạ, chủng loại phù hợp với nhu cầu của thị trường. Thực hiện việc thông báo những thông tin cần thiết về doanh nghiệp cho khách hàng.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp:
1. ảnh hưởng của môi trường vĩ mô:
Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động tiêu thụ sản phẩm nói riêng. Nó luôn tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cũng như các nguy cơ đối với doanh nghiệp. Vậy môi trường vĩ mô là gì?
“Môi trường vĩ mô bao gồm các yếu tố, lực lượng mang tính chất xã hội rộng lớn có tác động ảnh hưởng đến các yếu tố sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”.
Môi trường vĩ mô bao gồm các yếu tố mà doanh nghiệp không thể thay đổi, kiểm soát được đó là các yếu tố thuộc về kinh tế pháp luật, kỹ thuật - công nghệ, văn hoá- xã hội...
a. Môi trường kinh tế:
Trong bất kỳ trường hợp nào, các yếu tố thuộc môi trường kinh tế cũng có vai trò quan trọng và quyết định hàng đầu. Bởi lẽ sự hình thành hệ thống tổ chức quản lý và các thiết chế của hệ thống đó có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến chiều hướng cường độ hoạt động của các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế nói chung cũng như trong từng ngành, từng vùng, từng doanh nghiệp nói riêng.
Các nhân tố kinh tế cần phải được nghiên cứu, phân tích và dự báo bao gồm: tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất ngân hàng, các chính sách kinh tế của Nhà nước.
b. Môi trường pháp luật, chính trị:
Các nhân tố pháp luật, chính trị tác động đến doanh nghiệp theo những chiều hướng khác nhau. Chúng có thể tạo ra những cơ hội, trở ngại, thậm chí là rủi ro thật sự cho doanh nghiệp.
Tính ổn định và hoàn thiện của hệ thống pháp luật cũng như hiệu lực thi hành là điều kiện đầu tiên và quan trọng cho các doanh nghiệp hoạt động.
c. Môi trường công nghệ - kỹ thuật:
Đây là loại nhân tố có ảnh hưởng lớn trực tiếp cho chiến lược kinh doanh của các lĩnh vực, ngành cũng như nhiều doanh nghiệp. Bởi vì tiến độ khoa học kỹ thuật công nghệ ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến hai yếu tố tạo khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Đó là chất lượng và giá cả của sản phẩm.
d. Môi trường văn hoá - xã hội:
Các yếu tố thuộc môi trường văn hoá-xã hội có ảnh hưởng chậm song cũng rất sâu sắc đến môi trường kinh doanh. Trên thực tế các vấn đề thuộc phong tục tập quán, lối sống, trình độ dân trí, tôn giáo tín ngưỡng... có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động của doanh nghiệp hay nền kinh tế.
2. ảnh hưởng của môi trường vi mô:
a. Bộ máy quản lý:
Tổ chức bộ máy quản lý ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động tiêu thụ sản phẩm nói riêng bởi tổ chức bộ máy quản lý địn hướng cho toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
b.Vấn đề tài chính:
Yếu tố này gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó bao gồm khả năng huy động vốn ngắn hạn, các quyết định về tài chính của doanh nghiệp. Chức năng bộ phận này bao gồm việc phân tích tổng hợp, lập kế hoạch kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện kế hoạch tài chính và tình hình tài chính của doanh nghiệp, cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy đề giữ vững được uy tín và vị trí của mình trên thị trường, doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.
c.Yếu tố giá cả hàng hoá:
Đây là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp. Việc xác định giá của sản phẩm phải đảm bảo cho doanh nghiệp thu được lợi nhuận tối đo ít nhất bù đắp được chị phí bỏ ra. Chính sách giá cả đúng đắn, hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và loại bớt các đối thủ cạnh tranh.
3. ảnh hưởng của yếu tố khác:
Ngoài ảnh hưởng của nhân tố thuộc môi trường vĩ mô, vi mô nêu trên, hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau:
- Kênh phân phối sản phẩm hàng hoá.
- Danh tiếng của doanh nghiệp.
- Cơ cấu mặt hàng của doanh nghiệp.
- Dịch vụ bán hàng, hoạt động hậu mãi...
Phần II
Tình hình hoạt động tiêu thụ sản phấm của Nhà máy Vật liệu chịu lửa - Công ty Gang Thép Thái Nguyên
I. quá trình hình thành và phát triển của Nhà Máy Vật Liệu Chịu Lửa - Công Ty Gang Thép Thái Nguyên :
Nhà Máy Vật Liệu Chịu Lửa - Công Ty Gang Thép Thái Nguyên là một đơn vị sản xuất phụ trợ trực thuộc Công ty gang thép Thái Nguyên. Được khởi công và xây dựng từ năm 1959. Tiền thân là xưởng vật liệu chịu lửu thuộc xí nghiệp liên hợp gang thép Thái Nguyên. Nhà máy được khánh thành và bắt đầu đi vào hoạt động ngày 20/7/1965 với tên gọi là xưởng vật liệu chịu lửa, máy móc thiết bị và mô hình sản xuất do nước bạn Trung Quốc thiết kế và giúp ta xây dựng. Sản phẩm chủ yếu của nhà máy là các loại chịu lửa với nhiều chủng loại khác nhau như: gạch xây lò, gạch đúc rót, bột chịu lửa... mỗi chủng loại tuỳ theo yêu cầu của thiết bị, công nghệ trong dây truyền sản xuất luyện kim mà có hình dạng kích thước và đặc thù riêng.Trước sự thay đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Để phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay xí nghiệp liên hợp gang thép Thái Nguyên quyết định đổi tên thành công ty gang thép Thái Nguyên và ngày 28/2/1986 tổng giám đốc công ty gang thép Thái Nguyên ký quyết giao quyền chủ sản xuất cho nhà máy với số vốn hoạt động ban đầu là: 2.538.925.750đ.
Trong đó :Vốn cố định :1.457.886.500 Đ Vốn lưu động :1.081.039.250 ĐTrong 37 năm qua nhà máy luôn trưởng thành và phát triển về mọi mặt như đổi mới về công nghệ sản xuất, cũng như bao doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. Nhà máy phải cạnh tranh không chỉ có về chất lượng sản phẩm, chủng loại hàng hoá mà nhà máy còn phải cạnh tranh với các loại gạch chịu lửa nhập ngoại. Nay sản phẩm của nhà máy sản xuất đã thay thế được các loại gạch nhập ngoại. Là một nhà máy chuyên sản xuất các loại gạch chịu lửa phục vụ cho sản xuất thép, ngành luyện kim, nên tính chất công việc và môi trường làm việc nặng nhọc, độc hại, ngoài ra vẫn còn máy móc thiết bị đã cũ kỹ, lạc hậu mà nhà máy vẫn chưa khôi phục triệt để. Để có thể tồn tại, đứng vững và phát triển nhà máy phải đương đầu với một số khó khăn như: khó khăn trong việc huy động vốn, trong việc tìm kiếm thị trường đầu ra cho sản phẩm, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đảm bảo đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Để đạt được các mục tiêu trên nhà máy phải luôn có chủ trương và định hướng đảm bảo sản xuất trên cơ sở tận dụng hết khả năng máy móc thiết bị hiện có, và năng lực con người lãnh đạo nhà máy chú trọng quan tâm lấy khoa học kỹ thuật làm then chốt để đảm bảo về mặt chất lượng và số lượng, thu hút vốn đầu tư, cải tạo nâng cấp, tái tạo dây truyền sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân làm cho năng suất lao động tăng và đạt hiệu quả cao, hoàn thành kế hoạch công ty giao, đảm bảo đời sống và thu nhập cho công viên chức ngày càng được nâng cao. Sản phẩm của nhà máy cho đến nay không chỉ phục vụ cho dây truyền sản xuất của công ty mà còn phục vụ cho ngành luyện kim và đáp ứng phần nào nhu cầu về sản phẩm vật liệu chịu lửa của nền kinh tế quốc dân.
Nhà máy vật liệu chịu lưả - Công Ty Gang Thép Thái Nguyên nằm ở vị trí có nhiều thuận lợi:
- Về giao thông:
+ Giao thông đường bộ: có đường quốc lộ 3 đi liên tỉnh.
+ Giao thông đường sắt: có tuyến Hà Nội – Thái Nguyên.
- Về vị trí địa lý:
Nằm ở phía Nam thành phố Thái Nguyên trong vùng dân cư đông đúc, có các điều kiện văn hoá - chính trị - kinh tế ổn định và phát triển với tốc độ tăng trưởng khá cao.
II. Quy Trình Công Nghệ Sản Xuất:
2.1 Điều kiện tự nhiên:
Sản phẩm vật liệu chịu lửa được hh thành bởi nguyên liệu chính đó là đất sét chịu lửa. Nguồn nguyên liệu để phục vụ cho quá trình hoạt động sản xuất của nhà máy vật liệu chịu lửa hiện nay là:
- Mỏ đất sét chịu lửa Trúc Thôn nằm tại Chí Linh tỉnh Hải Dương. Đây là mỏ đất sét chịu lửa có trữ lượng lớn nhất và chất lượng cao nhất ở nước ta hiện nay. Song mỏ này lại nằm xa với nhà máy. Do vậy trong quá trình vận chuyển nguyên vật liệu về nhà máy cũng gặp phải nhiều khó khăn...
- Hiện nay nhà máy còn đang sử dụng một loại đất sét mới được lấy tại Huyện Đại Từ - Tỉnh Thái Nguyên. Song loại đất sét này chất lượng không cao.Do vậy nhà máy chỉ sử dụng loại đất sét này vào sản xuất những sản phẩm mà vị trí sử dụng nó đòi hỏi chịu nhiệt độ bình thường.
2.2 Công Nghệ Sản Xuất:
Nhà Máy Vật Liệu Chịu Lửa - Công Ty Gang Thép Thái Nguyên được xây dựng theo thiết kế tổng thể một dây truyền khép kín, các bước công nghệ hợp lý và có sự hợp khối. Qua hai giai đoạn khôi phục và nâng cấp dây truyền công nghệ.
+ Giai đoạn 1: Từ năm (1965-1975) với công suất thiết kế là 6500 T/năm
+ Giai đoạn 2: Từ năm 1976 đến nay nhà máy đã được mở rộng quy mô, công suất tăng lên trên 20.000 T/năm.
Trong cơ chế thị trường để cạnh tranh mở rộng thị trường tiêu thụ nhà máy đang có dự án đầu tư và nâng cấp chất lượng thiết bị công nghệ, nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới chất lượng cao để thay thế hàng nhập ngoại. nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà máy và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của nhà máy đối với nhà nước.
2.2.1. Dây Chuyền Công Nghệ Sản Xuất Gạch Chịu Lửa:
- Đặc điểm chính của dây chuyền công nghệ của nhà máy:
sau một thời gian khôi phục và mở rộng sản xuất từ năm 1971 đến nay, nhà máy có hệ thống dây chuyền công nghệ tương đối hoàn chỉnh so với các nhà máy trong nước. Hệ thống gia công nguyên liệu bao gồm kho chứa. phễu chứa, thiết bị nghiền thô, nghiền trung bình, nghiền mịn, sàng phân li cỡ hạt, cân trộn liệu có thể sản xuất đồng thời gạch samốt gạch cao nhôm.
- Khâu chuẩn bị nguyên liệu:
là khâu đầu tiên giải quyết nhiệm vụ cơ bản là chuẩn bị mọi điều cần thiết đảm chất lượng nguyên liệu và thành phần hoá học, yêu cầu về cỡ hạt, tinh chất lý học như : độ ẩm, mật độ, chất kết dính...
- Khâu tạo hình bán thành phẩm (sản phẩm mộc):
+ Khâu này có nhiệm vụ hỗn hợp các loại cỡ hạt khác nhau của nguyên liệu và ép thành các hình dạng xác định có cường độ cần thiết (không lớn lắm) đảm bảo khi vận chuyển bốc xếp nội bộ vẫn giữ được hình dạng mà không sứt mẻ.
+ Khâu tạo hình bán thành phẩm gồm: 2 máy ép 70 tấn, 4 máy ép 160 tấn, 5 máy ép 200 tấn và một máy ép 630 tấn có hệ thống tạo hình thủ công để sản xuất các loại sản phẩm có hình dạng phức tạp.
- Khâu nung: là khâu cuối cùng quan trọng nhất, truớc khi nung phải sấy cho vật liệu mộc khô kiệt, để đảm bảo khi nung song thành phẩm không bị biến dạng.
- Công đoạn sấy nung sản phẩm bao gồm: 5 lò lửa đảo dung tích mỗi lò 97 m3 dùng nhiên liệu rắn than mỡ, có ngọn lửa dài công suất 9000 tấn gạch samốt và đinat/năm. Với nhiệt độ nung từ 1250 á 14500C và một lò tunel dài bằng 102,0 m rộng bằng 2,2m với công suất 20000 á 25000 tấn/năm. Đối với lò này nhiên liệu lỏng để nung là dầu FO. lò này thiết kế dùng để nung gạch samốt A và gạch samốt B. Do thị trường loại sản phẩm thu hẹp lại trong lúc đó công suất lại quá lớn, nên từ lâu đã ngừng sản xuất ở lò này. Để phù hợp nhà máy đã tự thiết kế, xây lắp một lò tunel có công suất từ 2000á3000 tấn / năm. Nhiên liệu dùng để nung là dầu FO nhiệt độ nung là 14500C dùng để nung gạch samốt A và gạch cao nhôm <= 52% AL203.
Hiện tại hệ thống kho chứa nguyên vật liệu và kho thành phẩm của nhà máy đã được xây dựng hoàn chỉnh,nối liền với hệ thống đường sắt của công ty và quốc gia, đường bộ nối liền với quốc lộ 3 rất thuận tiện cho cung ứng vật tư, nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
Sơ đồ công nghệ sản suất gạch chịu lửa
Kho đất sét
Cầu trục
Máy thái
Băng tải
Gầu xích
Nghiền
Sàng
Boong ke
Kho samốt
Cầu trục
Băng tải
Nghiền hàm
Gầu lật
Nghiền lăn
Gầu lật
Sàng
Boong ke
Sấy
Cân
Trộn ẩm
Cầu trục
Boong ke
ép tạo hình
Sấy
Nước
Boong ke
Boong ke
Nghiền bi
Gầu lật
Nung
Ra lò
Kho thành phẩm
( Tại nhà máy vật liệu chịu lửa )
2.2.2.Quá trình sản xuất chính:
Do đặc thù riêng của công nghệ sản xuất vật liệu chịu lửa quá trình sản xuất phải đi qua các bước sau:
Đất sét chịu lửa qua máy thái xuống băng tải qua lò sấy quay để đạt được độ ẩm 5% á 7% Sau đó qua máy nghiền lồng, qua sàng rung 1 mm thì được quay lại nghiền tiếp cho vào bunker chứa riêng.
Sét chịu lửa qua máy ép viên được đưa vào lò nung, nung đến kết khối để tạo ra samốt qua máy nghiền hàm đến gầu nâng,nghiền lăn qua sàng để lây cỡ hạt từ 1 á 4 mm. Nếu cỡ hạt > 4 mm thì được quay lại nghiền tiếp và cho vào bunker chứa riêng. Tiếp tục đến định lượng và đồng nhất phối liệu với tỷ lệ 70% samốt + 30% Sét kết dính, qua máy trộn ẩm khống chế độ ẩm giao động trong khoảng 6% á 7% tiếp tục cho vào bunker.
Máy ép (tạo hình): có các máy từ 60 tấn đến 630 tấn, sản phẩm ép xong được đưa lên xe sấy, có thể sấy tự nhiên hoặc sấy cưỡng bức.
Xếp lò nung và phân loại thành phẩm khi ra lò. Ngoài ra còn có các công tác phụ trợ phục vụ cho quá trình sản xuất chính như: công việc sửa chữa khuôn mẫu, mài khuôn, phục vụ khí nén và sửa chữa khác.
Trang bị kỹ thuật:
Số máy móc thiết bị dùng trong quá trình sản xuất được thống kê ở bảng sau:
Nhìn vào bảng cho thấy nhà máy đã trang bị đầy đủ máy móc thiết bị cho dây chuyền sản xuất. Nhưng do điều kiện sản xuất thực tế bị thu hẹp nên năng lực thiết bị không được phát huy hết công xuất. Hầu hết các thiết bị đã sử dụng quá lâu chưa được đầu tư mới, thiếu phụ tùng thay thế. Do các thiết bị hầu hết là của Trung Quốc nên có những phụ tùng thay thế không được đồng nhất.
Bảng thống kê máy móc thiết bị
STT
Tên máy móc thiết bị
Đơn vị tính
Số lượng
1
Máy trộn ẩm
Cái
3
2
Máy thái
Cái
1
3
Băng tải
Cái
2
4
Máy nghiền lồng
Cái
1
5
Gầu xích
Cái
8
6
Máy đập hàm
Cái
1
7
Máy nghiền lăn
Cái
1
8
Máy ép viên (máy dập)
Cái
8
9
Lò nung 97 M3
Cái
5
10
Máy sấy quay
Cái
1
11
Cấp liệu dung điện từ
Cái
1
12
Máy đánh tơi
Cái
1
13
Máy ép thuỷ lực
Cái
1
14
Máy đo độ cứng
Cái
1
15
Máy phân tích quang phổ
Cái
1
16
Lò thiêu kết
Cái
1
17
Lò các Bitbo
Cái
1
18
Tủ sấy chân không
Cái
1
19
Hệ thống hút bụi vôi
Cái
1
20
Cầu trục ngoặm
Cái
4
21
Cầu trục xà
Cái
2
22
Ô tô Ifa
Cái
1
23
Ô tô Zin
Cái
2
24
Ô tô Uát
Cái
1
25
Ô tô Nisan
Cái
1
26
Trạm điện từ
Cái
7
27
Máy Fotô Copi
Cái
1
28
Máy vi tính
Cái
6
29
Máy công cụ
Cái
27
2.3.Các bước công nghệ:
Mỗi bước công nghệ đảm bảo một nhiệm vụ nhất định và gồm một hay một nhóm thiết bị đảm nhiệm. Mỗi giai đoạn công nghệ gồm nhiều bước công nghệ khác nhau, căn cứ vào tính chất công nghệ và đặc điểm của phương pháp sản xuất, các thiết bị dùng cho mỗi bước công nghệ khác nhau. Số bước công nghệ trong cả dây truyền có thể nhiều hay ít khác nhau.
2.3.1 Các bước công nghệ trong khâu chuẩn bị nguyên liệu:
Khai thác nguyên liệu: có nhiệm vụ tạo được nguyên liệu cần thiết từ khoáng sản thiên nhiên hoặc từ một quá trình sản xuất khác nhau tạo ra sản phẩm phụ.
Làm giàu nguyên liệu: có nhiệm vụ tinh chế lại để nguyên liệu đảm bảo được yêu cầu sản xuất và thành phần hoá học.
Sấy: Nhằm đảm bảo mất nước liên kết lý học phục vụ cho các yêu cầu sản xuất kỹ thuật của các thiết bị.
Nung sơ bộ: nhằm thay đổi một số tính chất ban đầu của nguyên liệu, hạn chế đến mức tối đa các khuyết tật của sản phẩm có thể dẫn đến từ nguyên liệu.
Nghiền và phân chia cỡ hạt: tiến hành sau khi sấy hoặc nung nguyên liệu, có loại không cần sấy hoặc nung vì bản thân nó đã đáp ứng được yêu cầu cần thiết. Sau khi nghiền nhỏ nguyên liệu được phân chia thành các nhóm cỡ hạt khác nhau.
Chuẩn bị chất phụ gia theo mục đích công nghệ để nâng cao hoặc cải thiện tinh chất của vật liệu mộc hay sản phẩm cuối kỳ.
2.3.2 Các bước công nghệ trong khâu tạo hình:
- Trộn liệu:
Từ các cỡ hạt rời rạc, theo tỷ lệ nhất định đảm bảo cho vật liệu mộc có mật độ cao nhất, cường độ tốt nhất, tiến hành trộn phối liệu thành một hỗn hợp đồng nhất. Bản thân hỗn hợp đó có đầy đủ điều kiện cần thiết về thành phần hạt, độ ẩm, tỷ lệ keo dính và phụ gia.
- Dập hình:
Từ hỗn hợp phối liệu trên được tạo hình thành các viên gạch có kích thước, hình dạng xác định ở trong các khuôn kim loại hoặc gỗ bằng cách ép trên máy dập thủ công. Các máy ép có thể dùng máy ép ma sát, máy ép trục khuỷu, máy ép thuỷ lực, máy dung... Dập thủ công có thể dập bằng vồ tay hoặc búa rơi.
2.3.3 Các bước công nghệ trong khâu nung:
- Sấy: Sấy nhằm mục đích loại trừ nước lý học trong sản phẩm mộc.
- Nung: nung là bước gia công nhiệt quan trọng, làm thay đổi tính chất lý học và cấu trúc của vật liệu. Lò nung có thể là: lò phòng, lò vòng, lò hầm.
III. cơ cấu sản xuất của nhà máy:
3.1. Tình hình tập trung hoá, chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản suất trong ngành và nội bộ doanh nghệp:
- Nhà Máy Vật Liệu Chịu Lửa - Công Ty Gang Thép Thái Nguyên là đơn vị sản suất, với sản phẩm chính của nhà máy là các loại gạch chịu lửa. Nhà máy có tính tập trung hoá cao, nên đã đòi hỏi phải có sự chuyên môn hoá cao trong sản xuất, nhà máy có 3 phân xưởng sản xuất chính sau: bán thành phẩm - ra lò và nhập kho thành phẩm.
- Tình hình chuyên môn hoá: nhà máy có các ngành nghề chủ yếu có trình độ chuyên môn hoá cao. Mỗi khâu trong dây truyền công nghệ đều được bố chí thiết bị và lao động riêng có chức năng riêng.
- Hợp tác hoá sản xuất: các công đọan sản xuất trong dây chuyền, công nghệ có liên hệ mật thiết với nhau như: Thái, sấy, nghiền, trộn, dập hình, nung phụ thuộc vào nhau, kết quả của công đoạn này tốt hay sấu ảnh hưởng trực tiếp đến công đoạn sau. Nếu một trong các công đoạn này không đáp ứng được thì toàn bộ dây chuyền bị phá vỡ.
- Tình hình nội bộ của doanh nghiệp: Với hơn 30 năm hoạt động Nhà Máy Vật Liệu Chịu Lửa - Công Ty Gang Thép Thái Nguyên luôn có mối quan hệ mật thiết với các đơn vị thành viên trong toàn công ty. Ngoài ra nhà máy còn hợp tác với các trường,trung tâm nghiên cứu chế thử, tạo ra những sản phẩm mới cho nhà máy, nhằm đáp ứng với nhu cầu của thị trường sử dụng sản phẩm vật liệu chịu lửa.
3.2. Về tổ chức sản xuất:
Nhà máy thực hiện việc tinh giảm biên chế trong lao đông gián tiếp, sắp xếp bố trí lao động hợp lý. Trong lao động trực tiếp nhằm thuận tiện cho công tác quản lý và điều hành trong quá trình sản xuất, khuyến khích và tạo điều kiện để công nhân có môi trường làm việc tốt hơn, nghiên cứu để tìm ra những phương pháp trong việc sử dụng thời gian lao động hợp lý, nhằm nâng cao năng xuất lao động.
- Chế độ làm việc của nhà máy:
Nhà Máy Vật Liệu Chịu Lửa - Công Ty Gang Thép Thái Nguyên làm việc theo hai chế độ :
+ Khối phòng ban làm việc theo giờ hành chính, chế độ làm việc trong ngày là 8 giờ, 40 giờ trong một tuần.
+ Khối trực tiếp sản xuất thực hiện chế độ làm 3 ca với lịch đảo ca ngược với chế độ (264 x 3 x8), tuy nhiên thị trường và tình hình tiêu thụ có lúc ảnh hưởng tới chế độ công tác của nhà máy đã đòi hỏi phải có sự bố trí linh hoạt để không bị ngừng trệ sản xuất vừa không bị lãng phí thiết bị và lao động.
sơ đồ tổ chức các bộ phận trong nhà máy
Quản đốc
Phó quản đốc
Nhân viên thống kê
Tổ sản xuất
CA I
Tổ sản xuất
CA II
Tổ sản xuất
CA III
- Tình hình xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch:
Nhà Máy Vật Liệu Chịu Lửa - Công Ty Gang Thép Thái Nguyên là một thành viên của Công Ty Gang Thép Thái Nguyên căn cứ để nhà máy lập được kế hoạch hàng năm là :
+ Căn cứ vào sản lượng thép sản xuất của công ty hàng năm, sau đó phòng kế hoạch công ty tính toán và giao chỉ tiêu xuống cho nhà máy.
+ Căn cứ vào nhu cầu thị trường thông qua các hợp đồng kinh tế. Sau khi nhận được các chỉ tiêu hướng dẫn của công ty giao xuống, đồng thời kết hợp với các hợp đồng kinh tế nhà máy, nhà máy tiến hành xây dựng kế hoạch dài hạn truớc sau đó mới tiến hành lập kế hoạch ngắn hạn. Từ kế hoạch tổng thể này nhà máy tiến hành lập kế hoạch sản xuất năm kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch sửa chữa kế hoạch tài chính... Từ kế hoạch năm, lập kế hoạch quý tháng. Ngoài ra nhà máy còn xây dựng kế hoạch bổ sung khi có các hợp đồng kinh đồng kinh tế đột xuất.
* Tình hình sử dụng lao động :
Nhà Máy Vật Liệu Chịu Lửa - Công Ty Gang Thép Thái Nguyên là một doanh ngiệp kinh doanh hạch toán độc lập trong cơ chế thị trường, giây chuyền sản xuất chính cũng như trong các khâu quản lý của nhà máy đang rất được quan tâm. Chính vì thế hàng năm nhà máy đã tính ra một phần kinh phí cho việc đào tạo cán bộ, khuyến khích công nhân học tập để nâng cao trình độ nghiệp vụ tay nghề. Đội ngũ lao động của nhà máy có tuổi đời rất trẻ có trình độ chuyên môn cao được bố trí công việc khá phù hợp. Nhưng bên cạnh vẫn còn một tỉ lệ công nhân nữ chiếm 12%. Trong tổng số công nhân kỹ thuật phải làm việc trong môi trường đặc biệt độc hại.
Với việc sử dụng lao động hợp lý, trong năm qua năng suất lao động của toàn nhà máy được nâng lên thu nhập của người lao động từng bước ổn định. Cán bộ công nhân viên chức trong nhà máy có tư tưởng ổn định an tâm công tác, nhờ đó mà trong năm qua nhà máy đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đời sống xã hội mà kế hoạch đã đề ra.
IV. Bộ máy quản lý của nhà máy:
Trong công tác tổ chức do tập trung hoá, chuyên môn hoá nên năng suất lao động được nâng cao mang lại hiệu quả kinh tế. Song nếu một khâu trong giây chuyền bị sự cố thì sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ giây chuyền sản xuất. Do vậy nhà máy phải luôn quan tâm đến công tác quản lý sản xuất và lao động sao cho phù hợp.
sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của
nhà Nhà Máy Vật Liệu Chịu Lửa
Giám đốc
Phó giám đốc
Phân xưởng nguyên liệu
Phân xưởng tạo
hình
Phân xưởng cơ
khí
Phân xưởng sấy nung
Phân xưởng đô
lô
mi
Phòng
Cơ
điện
Phòng bảo
Vệ
tự
vệ
Phòng tài chính hành chính
Phòng kế toán tài chính
Phòng
Kinh
doanh
Phòng kỹ thuật chất lượng
Phòng hành chính y
Tế
4.1 Đặc điểm tổ chức và bộ máy quản lý sản xuất của nhà máy:
4.1.1 Đặc điểm tổ chức :
Nhà Máy Vật Liệu Chịu Lửa - Công Ty Gang Thép Thái Nguyên là một thành viên của công ty gang thép Thái Nguyên được tổ chức và quản lý sản xuất theo kiểu trực tuyến, chức năng cụ thể. Một giám đốc một phó giám đốc, 7 phòng chức năng và 5 phân xưởng. Đứng đầu bộ máy quản lý là giám đốc nhà máy. Người dữ vai trò chỉ đạo chung và cao nhất trong mọi hoạt động của nhà máy, chịu trách nhiệm trước nhà nước về mọi hoạt động và kết quả suất kinh doanh của doanh nghiệp.
Dưới sự chỉ đạo của giám đốc là một phó giám đốc quản lý sản xuất.
Các phòng ban chức năng được tổ chức theo quy mô, quản lý của nhà máy gồm có:
+ Phòng tổ chức hành chính.
+ Phòng kế toán tài chính.
+ Phòng kinh doanh.
+ Phòng cơ điện.
+ Phòng kỹ thuật chất lượng.
+ Phòng kế hoạch sản xuất.
+ Phòng bảo vệ tự vệ.
4.1.2 Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban trong bộ máy quản lý sản xuất:
Mỗi phòng ban đều có tính chất đặc điểm riêng và hoạt động dưới nhiều lĩnh vực khác nhau cụ thể là :
* Giám đốc: điều tra toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của nhà máy, chỉ đạo toàn bộ các chức năng từ phó giám đốc trở xuống, chịu trách nhiệm trước nhà nước và cấp trên về toàn bộ tài sản được phân cấp quản lý trong nhà máy, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách cho nhà nước.
* Phó giám đốc: hoạt động dưới sự lãnh đạo của giám đốc nhà máy, có trách nhiệm phụ trách toàn bộ khối kỹ thuật công nghệ, sáng kiến tiết kiệm, đào tạo và cgỉ đạo trực tiếp sản xuất của nhà máy, chỉ đạo cân đối vật tư mua vào cho phù hợp với kế hoạch sản xuất...
* Phòng tài chính hành chính:
- Hoạt động dưới sự lãnh đạo của nhà máy (giám đốc). Đây là cơ quan tham mưu giúp giám đốc xây dựng và tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh.
- Thực hiện chế độ chính sách của nhà nước với cán bộ công nhân viên, chế độ chính sách về tiền lương, công tác nhân sự, tuyển dụng đào tạo, công tác bảo vệ kinh tế chính trị xây dựng nhà máy an toàn...
- Có chức năng về hoạt động hành chính quản trị, đời sống, xây dựng cơ bản, y tế. Đảm bảo điều kiện kỹ thuật vật chất cho các đơn vị trực thuộc để hoàn thành nhiệm vụ mà nhà máy giao cho.
* Phòng tài chính kế toán:
- Hoạt động dưới sự chỉ đạo của nhà máy (giám đốc): phản ánh mọi hoạt động kinh tế phát sinh.
- Tổng hợp quan sát quản lý chặt chẽ, phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua giám đốc bằng tiền.
- Phụ trách kế toán đơn vị trực thuộc sẽ là người thay mặt kế toán trưởng nhà máy hạch toán tổng hợp các số liệu do các đơn vị nội bộ báo sổ từ đó cung cấp những thông tin cần thiết giúp cho giám đốc sớm có các phương hướng hoạch định sản xuất kinh doanh cho kỳ tới.
* Phòng kinh doanh:
- Hoạt động dưới sự chỉ đạo của giám đốc nhà máy.
- Điều hành các hoạt động bán hàng và kế hoạch tiêu thụ sản phẩm.
- Xác định chiến ược ngiên cứu thị trường và tiến hành các hoạt động giới thiệu sản phẩm, thường xuyên theo dõi kiểm tra chất lượng, dịch vụ, hàng hoá.
* Phòng cơ điện:
- Hoạt động dưới sự chỉ đạo của giám đốc nhà máy.
- Chức năng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo duy trì hoạt động sản xuất an toàn lao động… đảm bảo máy móc thiết bị trong sản xuất, lập kế hoạch sửa chữa lớn và bảo dưỡng máy móc thiết bị của nhà máy.
* Phòng kỹ thuật chất lượng :
Hoạt động dưới sự chỉ đạo của giám đốc chức năng giúp giám đốc quản lý mọi hoạt động sản xuất của các đơn vị trực thuộc về công nghệ, chất lượng sản phẩm, trang thiết bị, tổ chức sản xuất. Tạo điều kiện sản xuất phát triển đúng hướng tạo hiệu quả.
* Phòng hành chính y tế:
- Hoạt động dưới sự chỉ đạo của phó giám đốc. Chức năng tham mưu giúp giám đốc, phó giám đốc quản lý và chăm lo sức khoẻ đời sống của cán bộ công nhân viên. Tổ chức khám sức khoẻ định kỳ cho công nhân và có biện pháp điều trị phù hợp đối với trường hợp bị bệnh.
* Phòng bảo vệ:
- Hoạt động dưới sự chỉ đạo của phó giám đốc. Chức năng giúp phó giám đốc quản lý bảo vệ nhà máy, không để xảy ra các tệ nạn xã hội, các hoả hoạn...
- Phân xưởng nguyên liệu: gia công chuẩn bị đầy đủ nguyên liệu cho phân xưởng tạo hình dập bán thành phẩm, sản xuất thêm các loại sạn, bột vữa xây bán ngoài, nghiền xi măng, đóng bao xi măng.
- Phân xưởng tạo hình: dập tạo hình bán thành phẩm các loại gạch chịu lửa.
- Phân xưởng sấy nung: xếp nung ra thành phẩm gạch chịu lửa các loại, nhập kho thành phẩm.
- Phân xưởng đô lô mi: luyện kim, sản xuất lanh ke xi măng.
- Phân xưởng cơ khí: sửa chữa lớn thường xuyên tất cả các hệ thống thiết bị trong nhà máy gia công khuôn mẫu, phụ tùng phục vụ sửa chữa thiết bị.
- Với sơ đồ bộ máy quản lý hiện nay của nhà máy đã đảm bảo được tính gọn nhẹ, tập trung. Các phòng phân công nhiệm vụ rõ ràng không chồng chéo, đảm bảo tính chủ động và khả năng thực hiện nhiệm vụ trong sản xuất kinh doanh của nhà máy.
* Tình hình tài sản và tiền vốn của nhà máy trong 2 năm (2000-2001):
+ Tài sản cố định:
ã Năm 2001: nguyên giá : 10.973.265.163 đ
giá trị còn lại : 79.642.619 đ
ã Năm 2000 : nguyên giá :10.909.211.783 đ
giá trị còn lại : 70.523.874 đ
+ Vốn lưu động:
ã Năm 2001: 1.223.684.565 đ
ã Năm 2000: 1.223.684.565 đ
V. Các đặc điểm ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của Nhà máy vật liệu chịu lửa:
5.1. Đặc điểm về lao động:
Lĩnh vực sản xuất vật liệu chịu lửa của nhà máy ít nhiều cũng mang tính mùa vụ. Do vậy việc sử dụng hợp lý và linh hoạt lao động sao cho phù hợp với nhịp độ sản xuất luôn được nhà máy chú trọng. Tính đến năm 2001 đội ngũ cán bộ công nhân viên của nhà máy gồm 454 người.
tình hình lao động tại nhà máy vật liệu chịu lửa
S
T
T
Chức danh
Tổng
Số
Bậc thợ
Bậc
Thợ
BQ
Trình độ văn hoá
Trình độ kỹ thuật
Tuổi đời
1
2
3
4
5
6
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4578.doc