Lời nói đầu
Chúng ta đang sống ở năm dầu tiên của thế kỷ thứ 21, thế kỷ mà tất cả mọi người trên thế giới hi vọng rằng đây là thế kỷ của nền văn minh, thế kỷ của khoa hoc kỹ thuật, mà ở đó mọi người đựoc sống ấm no, hạnh phúc không còn phải chịu cảnh chiến tranh và sự nghèo khổ. Trên hành tinh của chúng ta hiện đang có khoảng 1,5 tỷ người đang sống trong cảnh nghèo đói. Vấn đề này không chỉ đơn thuần còn là vấn đề của mỗi quốc gia nào đó mà nó mang tính toàn cầu. Nhưng các nước phát triển bền
46 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tình hình đói nghèo & vận dụng các phương pháp phân tích thống kê vào việc Phân tích tình hình đói nghèo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vững và một xã hội công bằng văn minh không thể không quan tâm đến vấn đề nghèo đói của quốc gia mình cũng như của thế giới. Vì các nước đều có những mối quan hệ nhất định và ảnh hưởng đến nhau.
Nhận thức được điều này, đã có các tổ chức phi chính phủ trên toàn thế giới, hay của một quốc gia nào đó hoạt động vì nhân đạo hay vì một mục đích chính trị nào đó để cùng nhau khắc phục giải quyết vấn đề nghèo đói trên toàn thế giới. Dù các tổ chức hoạt động vì mục đích nào đi chăng nữa thì đều nhằm đẩy lùi nghèo đói trên thế giới và tiến tới một thế giới hiện đại văn minh mà ở đó con người được hưởng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và bình lặng.
Để góp phần tìm hiểu xoá đói, giảm nghèo ở nước ta, trong đề án môn học này em xin chọn đề tài “Tình hình đói nghèo ở Việt Nam và vận dụng các phương pháp phân tích thống kê vào việc phân tích tình hình đói ngèo ở Việt Nam”
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Ngọc Phác đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề án khoa học này. Do chưa có sự tiếp xúc trực tiếp với các hộ dân nghèo ở các vùng cũng như chưa có điều kiện tham gia điều tra mà chỉ tìm hiểu tình hình nghèo đói ở Việt Nam thông qua các tài liệu và sự hướng dẫn của thầy cô giáo, hơn nữa nội dung của đề tài rất rộng, vì vậy bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự giúp đỡ và những góp ý của thầy hướng dẫn cùng các thầy cô trong khoa để em tiếp tục nâng cao thêm tầm hiểu biết của mình về đề tài đã chọn và những kiến thức khác có liên quan.
Phần mở đầu
ở Việt nam đói nghèo đang là vấn đề bức xúc và gay gắt cần được giải quyết. Với nỗ lực của Chính phủ Việt nam sau một thời gian chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm tăng nhanh, đời sống của nhân dân từng bước đựơc cải thiện. Tuy nhiên nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường và mở rộng đã tạo ra sự phân cực mạnh về đời sống của dân cư. Một bộ phận nhờ có vốn, kiến thức, kinh nghiệm, có đầu óc năng động sáng tạo đã tiếp thu được những tiến bộ mới của khoa học và công nghệ, tiếp cận được với thị trường nên đã trở thành những người làm ăn khá giả, giàu có. Trong đó, có một số người đã trở thành tỷ phú, triệu phú.
Nhưng bên cạnh đó một bộ phận khác của dân cư, do nhiều nguyên nhân như neo đơn, thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm và kiến thức sản xuất, ốm đau, tai nạn, địa hình cách trở xa xôi hẻo lánh. Chính vì vậy, họ đã gặp không ít khó khăn trong việc làm giầu và tạo thu nhập cho cuộc sống và họ đã trở thành người nghèo. Theo thống kê tỷ lệ người dân có mức chi tiêu bình quân đầu người dưới ngưỡng nghèo chung là 37%, trong đó số người dân thuộc diện rất nghèo, nghèo dưới cả ngưỡng nghèo về lưng thực thực phẩm là 15%, thường những người này là ở một số vùng xâu, vùng xa. Xét về trình độ phát triển kinh tế , nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, gần 80% dân số sống ở nông thôn chủ yếu vẫn là nông dân và canh tác nông nghiệp với đặc trưng phổ biến của nền kinh tế nhà nông. Do đó, số hộ nghèo và tình trạng ngheo đói ở nước ta chủ yếu ở nông thôn.
Chính hai sự khác biệt ở trên dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo ngày càng mạnh mẽ, khoảng cách giữa những người giàu nghèo về thu nhập, về mức sống và tiện nghị sinh hoạt hàng ngày càng lớn. Để thực hiện mục tiêu phương hướng nhiệm vụ và những chương trình phát triển kinh tế - xã hội mà Đại Hội VIII Đảng đã đề ra đến năm 2000 và năm 2020, một trong những vấn đề hết sức quan trọng và bức bách của toàn Đảng, toàn dân ta là thực hiện trương trình xoá đói, giảm nghèo, bảo vệ lợi ích của người lao động. Từng bước tiến tới một xã hội công bằng, văn minh. Mọi người sống bình đẳng, ấm no, tự do hạnh phúc. Theo đúng bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã chọn.
Giai đoạn từ năm nay đến nay 2010 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy thực hiện tốt trương trình xoá đói, giảm nghèo cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng đề ra .
Nội dung
I. Đối tượng nghiên cứu và các chỉ tiêu xác định chuẩn nghèo đói
1. Đối tượng nghiên cứu và và quan niệm nghèo đói của dân cư.
a./ Đối tượng nghiên cứu.
Khi nghiên cứu sự nghèo đói của dân cư, người ta thường chọn gia đình làm đối tượng nghiên cứu. Hộ gia đình có những điểm giống nhau và khác nhau được thể hiện qua hai khái niệm sau:
- Gia đình là một tập hợp cùng chung sống với nhau thành một đơn vị nhỏ nhất của xã hội - tế bào của xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết thống và hôn nhân.
- Hộ gia đình được thiết lập lên để quản lý dân số bao gồm những người ăn chung ở chung với nhau những quan hệ xã hội nhất định- kể cả gia đình và không phải gia đình.
Khái niệm hộ gia đình rộng hơn, bao quát hơn khái niệm gia đình nhưng lại bị giới hạn đặc trưng pháp lý tức là những người trong hộ chỉ trở thành thành viên của hộ khi được nghành công an đăng ký hộ khẩu .
Qua phân tích trên đây, theo em hộ gia đình cần được chọn làm đối tượng nghiên cứu để đánh giá tình trạng nghèo đói của dân cư.
Hộ gia đình là tập hợp những người cùng chung sống với nhau thành một đơn vị xã hộ nhỏ nhất gắn bó với nhau bằng các quan hệ kinh tế, hôn nhân huyết thốngvà các quan hệ khác.
Như vậy lấy hộ gia đình làm đối lượng nghiên cứu nghèo đói sẽ khắc phục được những hạn chế của đặc trưng pháp lý của hộ và cá quan hệ hôn nhân, huyết thống của gia đình mà trong thực tế luôn luôn xảy ra sự không thống nhất trong những quan hệ kinh tế của hộ gia đình.
ở các nước đang phát triển hộ gia đình là một đơn vị chung nhất trong lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng và chính là điều quyết định vai trò của hộ gia đình trong các cuộc điều tra thống kê nói chung cũng như chọn làm đối tượng để đánh giá nghèo đói của dân cư. Đối với nước ta, từ khi có sự chuyển đổi cơ chế quản lý hộ gia đình trở thành một đơn vị tiện lợi nhất và đánh tin cậy nhất trong cuộc điều tra thống kê nói chung cũng như lấy hộ gia đình làm đối tượng nghiên cứu đánh giá tình trạng nghèo đói của dân cư.
b./ Quan niệm về nghèo đói.
Khái niệm về nghèo đói của ngân hàng phát triển Châu á (ADB) cho rằng: ở khu vực thành thị, nếu bạn chỉ có duy nhất một tài sản, đó là sức lao động,khi bạn thất nghiệp bạn sẽ nghèo đói. Còn ở khu vực nông thôn, người nghèo là người không có ruộng đất.
Theo khái niệm của Liên Hợp Quốc thì nghèo đói như sau: Thiếu sự tham gia vào cuộc sống của quốc gia, đặc biệt là về mặt kinh tế.
Những khái niệm về nghèo đói nêu trên đã giúp các nước trong những điều kiện cụ thể đã đánh giá được tinhf trạng nghèo đói của dân cư trong xã hội. Song đó không thể là tiêu chuẩn thực tế cho mọi thời kì. Liên hợp Quốc đã đưa ra hai khái niệm nghèo khổ tương đối và nghèo khổ tuyệt đối:
“Nghèo khổ tuyệt đối, đó là tình trạng một bộ phận dân cư có mức không được thoả mãn một số nhu cầu cần thiết (cơ bản) tối thiểu của một cuộc sống như ăn mặc, ở , vệ sinh, y tế, giáo dục .. . ”.
“Nghèo khổ tương đối, đó là tình trạng một bộ phận dân cư có mức thu nhập thấp hơn mức thu nhập bình quân của một công dân hay toàn xã hội ”.
ở nước ta trước đây quan niệm về nghèo đói khá đơn giản, chẳng hạn ở nông thôn những hộ nghèo là hộ không có rộng đất, một thước đất cắm dùi cũng không có hoặc có ít nhưng xấu, nhà cửa của họ là những túp lều xiêu vẹo, tài sản thì không có gì đáng giá.
Khái niệm mang tính đầy đủ nhất là đề cập điến một mức phúc lợi của một cá nhân mà phúc lợi này được xác định bao gồm rất nhiều khía cạnh như là:
- Sự thoả mãn về nhu cầu về vật chất, sự an toàn về mặt cá nhân, sự ổn định của các nguồn kiếm sống, sức khoẻ, nhân phẩm và giác quan về các quan hệ xã hội.
Rất nhiều khái niệm về nghèo khổ đề cập đến một điều kiện mà trong đó phúc lợi của hộ gia đình rơi xuống thấp hơn một mức tối thiểu có thể chấp nhận. Chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo xác định hai loại nghèo khổ:
- Nghèo khổ là một tình trạng khi mà một phần dân số không thể thoả mãn các nhu cầu thiết yếu và đầy đủ của cuộc sống (nghèo khổ tuyệt đối) và có một mức cống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng về tất cả các khía cạnh (nghèo khổ tương đối)( Bộ kế hoạch và đầu tư)
c./ Quan niệm nghèo đói của luận văn.
Thực chất của vấn đề là đánh giá tình trang nghèo khổ của dân cư là vấn đề cụ thể hoá việc tính toán, phân loại để đánh giá mức sống của họ. Mà mức sống lại được biểu hiện qua một số loại các yếu tố có liên quan như thu nhập, giá trị tài sản. Vốn và mức độ thoả mãn tiêu dùng về ăn mặc , ở, y tế, giáo dục..
Ta thấy mức sống của những cán bộ hộ gia đình nói chung được tạo nên bởi hai mức sống thành phần - mức sống vật chất mức sống tinh thần. Mà sống vật chất tinh thần đạt được hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ đạt được tiêu dùng. Đến lượt nó lại, mức tiêu dùng lại hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ thu nhập và tích luỹ (kể cả tài sản vốn ) Người ta không thể tiêu dùng ngoài cái mà người ta có, đó là chính là thu nhập và tích luỹ.
Qua phân tích trên cho em thấy rằng: Nghèo đói là một phạm trù kinh tế xã hội phản ánh mức sống vật chất và tinh thần đạt được của hộ gia đình do kết quả của quá trình thu nhập và tích luỹ tiêu dùng đem lại trong một thời gian cụ thể.
Điều đáng chú ý ở khái niệm trên là mức sống được xét trên cả hai phương diện là mức sống vật chất và mức sống tinh thần. Trong đó mức sống vật chất được quy định bởi quá trình thu nhập, tích luỹ và tiêu dùng. Mặt khác khái niệm còn chỉ ra nghèo đói luôn luôn phải được xem xét trong không gian và thời gian cụ thể và với những hộ gia đình cụ thể. Theo không gian có thể phân biệt mức chuẩn nghèo đói giữa các vùng nông thôn và thành thị, giữa đồng bằng và miền núi giữa cả nước và các vùng địa phương, giữa nước ta và các nước khác, theo thời gian có thể nghiên cứu các mức chuẩn nghèo giữa các thời kỳ. Kết hợp giữa không gian và thời gian với các hộ gia đình cụ thể có thể tiến hành nghiên cứu các mức chuẩn nghèo của các tầng lớp dan cư trong xã hội khác nhau như nông dân công dân sản xuất, kinh doanh lao động chân tay và lao động trí óc.
Để có một nhân thức đầy đủ về thực trạng nghèo đói ở nước ta theo em cần phải phân biệt khái niệm nghèo chung thành các cặp khái niệm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối .
- Nghèo khổ tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được thoả
mãn những nhu cầu tối thiểu, cơ bản của cuộc sống như ăn mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục ...
- Nghèo khổ tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức thu nhập và tài sản đảm bảo cho cuộc sống thấp hơn mức trung bình của cộng đồng hay toàn xã hội.
Qua những trình bầy trên, chúng ta có thể biết được khả năng xác định sự nghèo đói về mặt định tính. Song đó có thể đánh giá được tình trạng nghèo đói của dân cư, chúng ta cần phải nhận biết vấn đề cả về mặt định tính lẫn định lượng. Đó chính là yêu cầu đặt ra cho việc nghiên cứu lựa chọn các chỉ tiêu và phương pháp xác định chuẩn đói nghèo dân cư.
2./ Các chỉ tiêu và phương pháp đo lường, xác định chuẩn nghèo đói của dân cư.
a./ Các chỉ tiêu xác định đói nghèo.
Việc xác định nghèo đói đang gây ra những mâu thuẫn, tỷ lệ nghèo đói tuyệt đối được tính là tỷ lệ đân số có thu nhập (hoặc chỉ tiêu) dưới một mức nhất định nào đó. Điều khó xác định là một ngưỡng nghèo phù hợp, dù phần lớn đồng ý rằng ngưỡng nghèo này nên tính đến chi phí mua đủ lương thực. Dưới đây là một số chỉ tiêu được đưa ra:
* Chỉ tiêu World Bank.
World Bank (1995) đưa ra ngưỡng nghèo cho Việt Nam là mức chi tiêu cần thiết cho hộ gia đình mua đủ lương thực, thực phẩm để cung cấp 2100 ca lo bình quân một người trên một ngày, với giả định là hộ dành 70% tổng chi tiêu để mua lương thực, thực phẩm, 30% còn lại của chi tiêu được giả định cho các khoản như : ăn mặc, sức khoẻ, giáo dục và đi lại. Ngưỡng nghèo cho thành thị là 1.342.000 đồng ( vì các chi phí cao hơn ) và cho rằng nông thôn là 1.054.000 đồng. Theo tiêu chuẩn này, năm 1992 đến 1993 xấp xỉ 51% các hộ gia đình được đánh giá là nghèo. Họ cho rằng nếu tiếp tục tăng trưởng kinh tế nhanh, có khả năng tỉ lệ nghèo đói giảm xuống dưới 40% vào cuối thế kỉ, dù tình trạng phân hoá giàu nghèo vẫn cứ tăng lên.
* Chỉ tiêu của tổng cục thống kê.
Theo tổng cục thống kê, một hộ gia đình nghèo nếu thu nhập không đủ mua gạo cung cấp 2100 ca lo bình quân một người/ một ngày.
Tổng cục thống kê phân biệt giữa:
+ Các hộ gia đình nghèo ở nông thôn có thu nhập bình quân đầu người dưới 50.0000đồng/ tháng và các hộ gia đình cực nghèo với thu nhập bình quân đầu người thấp hơn 25.210 đồng/ tháng...
+ Các hộ gia đình nghèo ở thành thị là những hộ có thu nhập bình quân dưới 70.000 đồng / tháng và các hộ cực nghèo có thu nhập bình quân một người dưới 42.140 đồng / tháng
* Các chỉ tiêu về nghèo đói .
Khái niệm các chỉ tiêu nghèo đói trước đây liên quan đến ngưỡng lúa gạo, các hộ gia đình được coi là nghèo nếu không thể mua đủ một lượng gạo nhất định bình quân một người / 1 tháng. Ví dụ Nguyễn thị Hoài và Nguyễn văn Thiệu đặt ngưỡng nghèo là 16.2 kg gạo bình quân một người /1 tháng, trong đó 13 kg dành cho tiêu dùng lương thực, thực phẩm ( tính ra là 1500 calo). Thực tế chỉ tiêu này cho thấy ngưỡng nghèo chỉ bằng 1/3 ngưỡng nghèo được World Bank sử dụng, mức này hơi thấp. Bộ Lao Động và Thương binh Xã hội đưa ra khái niệm hộ gia đình đói là: Những hộ chỉ mua được 8 kg gạo trở xuống bình quân người / tháng và các hộ thành thị là 13 kg gạo, các hộ gia đình nghèo có thu nhập bình quan mỗi người tương với 15 kg gạo một tháng. Đối với hộ thành thị nghèo là 20 kg gạo với tiêu chuẩn như vậy ước tính 20- 22 % các hộ nông dân là hộ nghèo thập kỷ 90, và 5% hộ nông dân đói.
Chương trình xoá đói giảm nghèo ước tính rằng tại 44 tỉnh và thành phố đã thực hiện chương trình này, có 20 đến 25% các hộ nôngdân nghèo và 5 đến 6% là đói thường xuyên (ít nhất thiếu lương thực 2 tháng trở lên trong năm )
b./ Đo lường nghèo khổ.
Đo lường bằng định lượng phúc lợi :
Mức chuẩn và dưới chuẩn này thì hộ gia đình được gọi là nghèo. Nghèo khổ có thể được sử dụng bằng việc sử dụng các chỉ số mà nó phản ánh các khía cạnh của phúc lợi như là tiêu dùng lương thực thực phẩm dinh dưỡng và sức khoẻ. Các chỉ tiêu tiêu dùng lương thực thực phẩm thường được sử dụng nhất là lượng calo bình quân đầu người và chi tiêu hàng ngày cho lương thực thực phẩm trong tổng số chi tiêu của họ. VD: Những hộ gia đình có thể được xác định là những hộ có tiêu dùng lương thực thực phẩm bình quân đầu người dưới 2100 Calo hoặc là những hộ gia đình tiêu dùng dưới 60% tổng chi tiêu vào lương thực thực phẩm.
Một số chỉ tiêu kết hợp các chi tiêu phi tiền tệ khác nhau trong một đo lường. Chỉ số phát triển con người, đượcphát triển bởi Liên Hợp Quốc 1990 và chỉ số chất lượng cuộc sống về mặt hình thể (PQLI) là hai trong nhiều ví dụ điển hình. Các chỉ số này dựa vào quyền số trung bình của các đo lường về tuổi thọ, tỉ lệ chết trẻ sơ sinh và giáo dục. Chúng rất hữu dụng trong sự so sánh quốc tế nhưng lại không hữu dụng trong việc vẽ bản đồ nghèo khổ trong một quốc gia vì nó rất khó đo lường tỉ lệ chết và tuổi thọ trong những nhóm nhỏ dân số.
Một cách khác để tổng hợp tất cả các khía cạnh khác nhau của nghèo đói và sử dụng qui mô chi tiêu của hộ mà nó đo lường bằng rất nhiều yếu tố về mặt phúc lợi như là tiêu dùng lương thực thực phẩm, nhà ở, chăm sóc ý tế, và vui chơi giả trí. ở các nước công nghiệp, nghèo khổ thường được xác định bằng thu nhập. Phản ánh một thực tế là thu nhập là tương đối dễ ràng trong việc đo lường khi mà lượng tiền công chiếm một phần rất lớn trong thu nhập. ở các nước đang phát triển nghèo khổ thường được đo bằng chỉ tiêu của hộ gia đình hơn. Có ba lý do cho việc sử dụng chi tiêu thay cho thu nhập để đo lường phúc lợi ở các nước đang phát triển .
Thứ nhất: Chi tiêu có khuynh hướng ổn định theo thời gian so với thu nhập với thu nhập do đó dễ dàng đo lường chính xác hơn.
Thứ hai Chi tiêu thì ít khi hộ tiêu dung khai báo dưới mức thực tế hơn là thu nhập.
Thứ ba: Tỷ lệ lao động tự làm ở các nước đang phát triển tạo cho sự tính toán thu nhập rất phức tạp và có nhiều yếu tố sẽ có sai số rất lớn vì vậy các chi tiêu cho công việc kinh doanh phải được loại bỏ khỏi lợi nhuận gộp.
Chi tiêu hộ gia đình có thể được điều chỉnh bởi quy mô hộ và các thành viên của hộ, cũng có thể điều chỉnh theo giá sinh hoạt của vùng, có thể được điều chỉnh bởi chỉ số giá của vùng.
Đường nghèo khổ là một mức mà những hộ gia đình nào sống dưới mức được coi là hộ nghèo.
3.Phương pháp xác định chuẩn nghèo của địa phuơng
3.1 Xác định chuẩn nghèo về lương thực thực phẩm( mức Calo)
a /Khái niệm
Nếu chuẩn nghèo được xác định bằng mức thu nhập bình quân đầu người trên tháng tính theo nthời gia đủ để mua được một lượng lương thực , thực phẩm thiết yếu bảo đảm khẩn phần ăn duy trì với nhiết lượng tiêu dùng 1người /ngày là 2100 Calo. Những hộ gia đình có mức thu nhập thấp hơn tiêu chuẩn nói trên đều thuộc những hộ nghèo.
Chuẩn nghèo đựoc xác định riêng cho thành thị, nông thôn và chung cho tỉnh thành phố hàng năm và giá cả thực tế cảu năm báo cáo.
b/ Quá trình xác định mức chuẩn nghèo:
Xác định cơ cấu mặt hàng (rổ hàng hóa) và định lượng mặt hàng lương thực phẩm chính .
Xác định đơn giá bình quan mặt hàng từ số liệu thống kê giá tiêu dùng.
Sử dụng các mặt hàng lương thực, thực phẩm theo đơn giá từng mặt hàng đã được xác để làm căn cứ tính mức chi lương thực, thực phẩm bảo đảm khẩu phần ăn duy trì với nhiệt lượng 2100Calo/người/ngày.
Cách xác định mức nghèo như sau:
Bước 1 Lập bảng lượng tiêu dùng, tính múc chi và tổng nhiệt lượng 12 mặt hàng lương thực, thực phẩm chính.
Lương thực phẩm
T.thị1
N.thôn 2
Đơn vị tính lượng
Lượng tiêu dùng 12 tháng
Giá B năm ....(1000đ)
Thành tiền (100 đ)
Nhiệt lượng (Calo kg)
Tổng nhiệt lượng (Calo kg)
A
B
C
1
2
3
4
5=1*4
1.Gạo các loại
1
2
kg
3530
3530
2.Củ, quả tươi
1
2
Kg
1560
1560
3. Đỗ các loại
1
2
Kg
5445
5445
4. .Lạc, vừng
1
2
Kg
5790
5790
5. Rau các loại
1
2
Kg
370
370
6. Quả chín
1
2
Kg
430
430
7. Mỡ, dầu ăn
1
2
Kg
9270
9270
8. Thịt các loại
1
2
Kg
3596
3596
9. Tôm, cá thuỷ sản
1
2
Kg
2409
2409
10. Trứng (10quả=0,6kg)
1
2
Kg
1800
1800
11.Đuờng
1
2
Kg
3767
3767
12.Mắm,nước chấm
1
2
lít
332
332
Tổng cộng
Nguồn số liệu:
Cột 1: Lượng tiêu dùng mặt hàng bình quân đầu người một năm, lấy số liệu khối lượng tiêu dùng một số sản phẩm chủ yếu của các hộ điều tra năm 1999 thuộc nhóm III (20% số hộ có thu nhập trung bình )
Cột 2: Lờy số liệu đơn giá bình quân từng mặt hàng tiêu biểu “ Giá bán lẻ hàng hoá dịch vụ tiêu dùng “ của thống kê giá năm 1999.
Cột 3: Số tiền chi tiêu cho từng mặt hàng ( nâưm báo cáo ) bằng lượng tiêu dùng cá nhân (x) với đơn giá từng mặt hàng (cột 3 = cột 1* cột 2).
Cột 4 : Nhiệt lượng tính cho 1 kg của mặt hàng chính(số liệu chẵn). Vi dụ đỗ các loại tính theo nhiệt lượng của đỗ xanh; lạc, vừng tính theo nhiệt lượng của lạc nhân; thịtk các loại tính theo thịt lơn..
Cột 5 : Tổng lượng nhiệt ; lấy lượng tiêu dùng (số liệu cột 1) nhân với lượng tính cho 1kg thức ăn (số liệu cột 4).
Bước 2 : Lập bẳng tính mức chi lương thực, thực phẩm thiết yếu và nhiệt lượng tiêu dùng bình quân đầu ngươì (dựa vào bước 1)
1. Tính mức chi lương thực, thực phẩm chính và nhiệt lượng tiêu dùng bình quân.
Khu vực
Mức tính bình quân một người một tháng(1000đ)
Nhiết lượng tiêu dùng B.Q 1người / 1 ngày(Calo)
A
B
1
2
Các mặt hàng lương thực phẩm
-Thành thị
- Nông thôn
Cách tính:
- Cột 1: Mức chi bình quân 1người/ 1thángvề các mặt hàng lương thực thực phẩm (tính cho từng khu vực thành thị , nông thôn )lấy số liệu tổng cột 3, bảng 1 chia cho 12 tháng.
- Cột 2: Nhiệt lượng tiêu dùng bình quân 1 người/1ngày (tính cho từng khu vực thành thị nông thôn) lấy số liệu dòng tổng cột 5 bảng 1 chia cho 365 ngày.
2. Tính mức chi lương thực thực phẩm thiết yếu bình quân 1người/ tháng :
Dựa vào tỷ trọng mức chi về lương thực thực phẩm chính so với mức chi lương thực thực phẩm thiết yếu phổ biến trong chi tiêu đối với thành phố là 84,4%, nông thôn là 89,4% tính ra mức chi lương thực, thực phẩm thiết yếu (số liệu Đa mục tiêu năm1996).
Mức chi lương thực, thực phẩm thiết yếu bằng mức chi lương thực thực phẩm chính cộng thêm 15,6% cho khu vực nông thôn, các loại lương thực thực phẩm không thiết yếu, công thức tính sau :
Mức chi LTTP chính B.Q 1
1người 1 tháng từng khu vực
Mức chi LTTP = ------------------------------------
thiết yếu Tỷ trọng chi LTTP chính trong chi LTTP thiết yếucủa từng khu vực tỉnh thành phố
Trường hợp nhiệt lượng tiêu dùng bình quân đầu người tính được từ 12 mặt hàng cao cấp hơn 2100 Calo thì phải điều chỉnh lượng tiêu dùng 12 mặt hàng theo tỷ lệ 2100 Calo chuẩn chia cho lượng Calo thực tế được tính cho 12 mặt hàng để đạt xấp xỉ hoặc bằng 2100 Calo cho một người/ một ngày, tương ứng với 2100 Calo là mức chi lương thực phẩm chính bình quân đầu người một tháng.
3.2 Xác định mức nghèo lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm.
Dựa vào tỷ trọng mức chi lương thực, thực phẩm thiết yếu phổ biến trong chi tiêu đối với thành phố là 65%, nông thôn là 70% để tính ra mức chi tối thiểu về lưong thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm theo công thức.
Mức chi lương thực , Mức chi LTPP thiết yếu
Tức phẩm và phi b/q 1 người 1tháng khu vực
LTTP B.Q = ---------------------------------------
1người 1tháng Tỷ trọng chi LTTP thiết yếu
từng khu vưc thuộc trong chi tiêu của từng khu vực
tỉnh hành phố(1000đ) thuộc tỉnh thành phố
3.3 Xác định sự thay đổi về mức nghèo trong các năm.
a/ Mức nghèo lương thực, thực phẩm:
Tính được bằng cách lấy mức nghèo lương thực, thực phẩm của năm trước nhân với chỉ số giá lương thực, phẩm phẩm của năm báo cáo.
b/ Mức nghèo LTTP và phi LTTP
Tính được bằng cách lấy mức nghèo LTTP và phi LTTP của năm trước nhân với chỉ số giá LTTP và phi LTTP của năm báo cáo.
3.4 Công thức tính tỷ lệ nghèo.
a./ Nghèo lương thực, thực phẩm
Tổng số hộ nghèo ở nông thôn
( Hộ có thu nhập dưới ngưỡng nghèo)
Tỷ lệ nghèo khu vực = -------------------------------------------- *100
Nông thôn(%) Tổng số điều tra ở khu vực nông thôn
Tổng số hộ nghèo ở thành thị
( Hộ có thu nhập dưới ngưỡng nghèo)
Tỷ lệ nghèo khu vực = -------------------------------------------- *100
Thành thị(%) Tổng số điều tra ở khu vực thành thị
Tổng số hộ nghèo ở hai khu vực
( Hộ có thu nhập dưới ngưỡng nghèo)
Tỷ lệ nghèo chung = -------------------------------------------- *100
(%) Tổng số điều tra ở hai khu vực
b / Nghèo lương thực, thực phẩm và phi lương thực thực phẩm.
Dưới đây là cách tính cụ thể.
Bảng tính mức chi tiêu lương thực , thực phẩm chính năm 1996
Vùng Đồng bằng Sông Hồng
( Tổng số liệu điềi tra : 8699 trong đó : thành thị 1605, nông thôn 7094 hộ)??
Bước 1: Mức chi đúng các mặt hàng lương thực, thực phẩm chính bình quân đầu người 1 tháng:
Thành thị : 114,14 nghìn đồng, nông thôn : 97,3 nghìn đồng
Bước 2 : Nhiệt lượng tiêu dùng bình quân đầu người / ngày : thành thị 2183 Calo ; nông thôn : 2271Calo
Bước 3 : Tính tỷ lệ giữa 2100 Calo tiêu chuẩn với mức tiêu dùng thực tế
Thành thị : 2100 Calo / 2183 Calo = 96,1%
Nông thôn : 2210calo/ 2271 Calo = 92,48%
Bước 4 : Tính mức tính tiêu dùng 12 mặt hàng chính sau khi đã điều chỉnh theo tỷ lệ để bảo đảm đúng nhiệt lưọng tiêu dùng 2100Calo :
Thành thị 109,79 = (114,14*0,9619)
Nông thôn 89,99 = (97,3*0,9248)
Bước 5 : Tính mức chi lương thực thực phẩm thiết yếu bình quân 1 người/tháng
Thành thị : 109,79/ 0,844 = 130,08 Nghìn đồng
Nông thôn : 89,99/ 0,894 = 100,65 Nghìn đồng
Như vậy chuẩn mức nghèo ở thành thị là 130 nghìn đồng và ở nông thôn là 100 nghìn đồng , những hộ có mức thu nhập dưới chuẩn nói trên tương đương với mỗi khu vực nghèo và tỷ lệ hộ nghèo được tính như sau :
Thành thị : 5,11% = (83 hộ/1605 hộ)
Nông thôn : 11.03% = ( 783 hộ /7094 hộ)
Chung cả nước : 9,96% = (866Hộ/8699Hộ )
Bước 6 : Tính mức chi lương thực, thực phẩm thiết yếu và phi lương thực,
thực phẩm bình quân 1 người/ tháng:
Thành thị : 130,08/0,65 = 200,1 nghìn đồng
Nông thôn : 100,65/0.70 = 143,8 nghìn đồng
Như vậy, chuẩn mức nghèo lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm ở thành thị là 200 nghìn đồng và nông thôn 143 nghìn đồng, những hộ có thu nhập dưới chuẩn nói trên tương ứng với mỗi khu vực là hộ nghèo và tỷ lệ hộ nghèo tính được như sau:
Thành thị : .. . % = (.. .Hộ / 1605Hộ )
Nông thôn : .. . % = (.. .Hộ / 7047Hộ )
Chung cả nước : .. . % = (.. .Hộ / 8699Hộ )
Bước 7 : Xác định sự thay đổi về mức nghèo qua các năm ( năm 1999 so viới năm 1996 theo phương pháp cố định lượng tiêu dùng năm trước nhân với chỉ số goía của năm điều tra)
VD: Chỉ số giá lương thực, thực phẩm 1999/1996 : 101,6%vá phi lương thực, thực phẩm : 104,4, chung lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm : 102,2%.
* Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm:
- Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm khuvực thành thị năm 1999 là:
130,08 * 101,6 = 132,12 nghìn đồng
- Chuẩn mức nghèo khu vực nông thôn 1999 là :
100,65* 101.6 = 102,2 Nghìn đồng
* Chuẩn mức nghèo lương thực, thực phẩm và phi v lương thực, thực phẩm
Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm khu vực thành thị năm 1999 là :
200,1*102,2 = 204,5 nghìn đồng
- Chuẩn mức nghèo lương thực, thực phẩm khu vực nông thôn năm 1999 là:
143,8*102,2 = 147 Nghìn đồng.
4.Các thước đo xác định mức nghèo đói.
4.1 Các bước đo xác định mức độ nghèo đói .
Gồm chỉ số đếm đầu người ( Xác định tỷ lệ nghèo đói ), khoảng cách nghèo đói (xác định mức độ sâu của nghèo đói ) và bình phương khoảng cách nghèo (Xác định tính nghiêm trọng của nghèo ), cả ba thước đo xác định mức độ nghèo đói có thể tính bằng công thức sau :
Trong đó Yi là đại lượng xác định phúc lợi cho người thứ i , Z là ngưỡng nghèo, N số người có trong mẫu dân cư , M là số người nghèo và có thể được diễn đạt như là đại lượng đo mức độ quan tâm đến sự bất bình đẳng giữa những người nghèo.
+ Khi = 0 đẳng thức trên tương đương với M/N gọi là tỷ số đếm đầu hay chỉ số đếm đầu.
+ Khi =1 ta có thie số khoảng cách nghèo đói, chỉ số này cho biết sự thiếu hụt trong chi tiêu của các hộ nghèo so với ngưỡng nghèo.
+ Khi =2 ta có chỉ số khoảng cách nghèo đói bình phương, chỉ số này thể hiện số nghiêm trọng.
4.2 Thước đo xác định mức bình đẳng .
Hệ số GINI thước đo xác định sự bất bình đẳng nhận giá trị trong khoảng từ 0 đến 1 . Hệ số GINI càng tiến gần tới 1 thì sự bất bình đẳng trong phân phối càng lớn.
Ta có công thức :
Trong đó :
Pi - Tỷ trọng số người có mức thu nhập i
Q - Thu nhập cộng dồn đến nhóm tính toán
Q1 - Thu nhập tính cộng dồn đến nhóm trên của nhóm tính toán .
II. Phân tích sự nghèo đói của Việt Nam
1.Tổng quan và phân tích tình hình giảm tỷ lệ nghèo từ năm 1998 so với năm 1993
a.Tổng quan:
Tỷ lệ nghèo của Việt Nam đã giảm đi trong thời gian từ năm 1993 đến 1998, kết quả đó được thể hiện về mặt định lượng bằng chỉ tiêu bình quân đầu người cao hơn. Tăng trưởng kinh tế nhanh, chính là yếu tố trung tâm của thành tựu này.
* Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn với 90% người nghèo sống ở nông thôn và 45% dân nông thôn sống dưới nghèo đói, dưới ngưỡng nghèo.
- Miền núi phía Bắc : Tây Nguyên và vùng Bắc trung bộ là những vùng nghèo nhất, tình trạng nghèo đói ở miền núi là nghiêm trọng hơn cả.
- Có gần 70% dân nghèo cả nước tập trung tại ba vùng : Miền núi phía Bắc (28%); Đồng bằng sông cửu long (21%) và vùng Bắc trung bộ (18%) .
* Phân tích tình hình giảm tỷ lệ nghèo từ năm 1998 so với năm 1993.
Một số bẳng dưới đây sẽ đưa ra các con số về tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm và tỷ lệ nghèo bao gồm chi phí cho lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm, và chỉ số khoảng cách nghèo, chỉ số khoảng cách nghèo bình phương chỉ số GINI theo chỉ tiêu vùng, khu vực thành thị, nông thôn.
Một số quy ước :
Miền núi phía Bắc : Vùng 1
Đồng bằng sông hồng : Vùng 2
Bắc trung bộ : Vùng 3
Duyên hải miền trung : Vùng 4
Tây nguyên : Vùng 5
Đông nam bộ : Vùng 6
Đồng bằng Sông cửu long : Vùng 7
Bảng 1:
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm chia theo vùng
Khu vực thành thị, nông thôn.
Năm
1992
Năm
1998
Tỷ lệ
1998
Giảm
So với
Năm
1992
Chung
Thành thị
Nông thôn
Chung
Thành thị
Nông thôn
Chung
Thành thị
Nông thôn
Cả nước
24,85
7,86
29,07
14,98
2,33
18,32
9,87
9,87
10,75
1
37,58
14,16
41,65
29,15
1,01
32,83
8,43
13,15
8,82
2
25,8
1,79
30,09
7,45
0,97
8,95
18,35
0,82
21,14
3
35,51
17,8
37,19
19,02
1,11
21,3
16,49
16,69
15,89
4
21,98
11,6
26,52
17,41
6,64
21,49
4,57
4,96
5,03
5
32,02
32,02
31,48
31,48
0,54
0,54
6
10,29
4,14
15,17
1,77
0,5
3,11
8,52
3,64
3,64
7
17,66
8,17
1974
11,25
4,53
12,81
6,41
3,64
6,93
(Ghi chú: tỷ lệ nghèo tính theo đường nghèo chỉ bao gồm chi cho lươngthực, thực phẩm. Tỷ lệ nghèo của cả 6000 hộ điều tra năm 1998).
Nhìn vào bảng trên ta thấy tỷ lệ nghèo chỉ bao gồm chi cho lươngthực, thực phẩm toàn quốc năm 98 đã giảm một cách đáng kể so với năm 92, từ 24,85% xuống còn 14,98%. Còn khu vực thành thị và nông thôn cũng giảm xuống tương ứng là từ 7,86% xuống còn 2,33,% và 29,07% xuống còn 18,32% điều này cho thấy chính phủ Việt nam rất quan tâm đến vấn đề nghèo đói và đã cải thiện một cách đáng kể, đặc biệt là khu vực nông thôn do cuộc sống còn khó khăn và được Chính phủ và một số tổ chức quốc tế giúp đỡ trong công cuộc xoá đói giảm nghèo vì vậy ở nông thôn đã giảm hơn một nửa so với năm 92. Còn vùng Miền núi phía Bắc được đánh giá là nghèo nhất với 37,58%. Tuy nhiên quan tâm vì là vùng có tỷ lệ nghèo nhất nhưng đến năm 98 mới giảm xuống còn 9,87%, lý do là người dân không có khả năng được học hỏi và tiếp cận với những thông tin mới và về mặt địa lý cũng không thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, điều này đã hạn chế rất nhiều công cuộc xoá đói giảm nghèo. Những vùng như vùng Đồng bằng Sông Hồng, Đông Nam Bộ có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất thường là những vùng có thuận lợi về mặt địa lý và có khả năng tiếp cận nhanh với những thô._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0280.doc