Tình hình đầu tư Xây dựng cơ bản ở Công ty Điện lực 1

Mục lục Lời mở đầu Trang Phần I: Một số vấn đề lý luận chung 8 I. Đầu tư phát triển 8 Khái niệm đầu tư phát triển 8 Đặc điểm đầu tư phát triển 9 Vai trò đầu tư phát triển 10 Nguồn vốn đầu tư phát triển 14 4.1. Nguồn vốn huy động trong nước 14 4.2. Nguồn vốn huy động nước ngoài 15 4.3. Mối quan hệ vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài 16 II. Đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) 17 Khái niệm đầu tư XDCB 17 Đặc điểm đầu tư XDCB 19 Vai trò đầu tư XDCB 20 Vốn đầu tư XDCB 21 4.1.

doc103 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình đầu tư Xây dựng cơ bản ở Công ty Điện lực 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khái niệm vốn đầu tư XDCB 21 4.2. Vai trò vốn đầu tư XDCB 22 4.3. Nội dung vốn đầu tư XDCB 23 III. Đầu tư XDCB của ngành điện 24 Một số khái niệm 24 1.1. Năng lượng và hệ thống năng lượng 24 1.2. Hệ thống điện và đầu tư phát triển ngành điện 24 1.3. Đầu tư XDCB của ngành điện 27 Đặc điểm đầu tư XDCB 27 2.1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành điện 27 2.1.1. Đặc điểm sản phẩm điện năng 27 2.1.2. Đặc điểm ngành điện 29 2.2. Đặc điểm đầu tư XDCB của ngành điện 29 Vai trò, nhiệm vụ và trình tự đầu tư XDCB 31 3.1. Vai trò, nhiệm vụ đầu tư XDCB các công trình điện 31 3.2. Trình tự đầu tư XDCB các công trình điện 33 Phần II: Thực trạng tình hình đầu tư XDCB ở Công ty điện lực I 36 I. Vài nét về Công ty điện lực I 36 Quá trình hình thành và phát triển 36 Chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của Công ty 37 2.1. Chức năng, quyền hạn của Công ty 38 2.2. Nhiệm vụ của Công ty 40 2.3. Lĩnh vực hoạt động của Công ty 40 Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty điện lực I 41 4. Đặc điểm kinh doanh điện năng của Công ty 43 II. Thực trạng đầu tư XDCB của Công ty điện lực I 45 Thực trạng đầu tư XDCB 50 1.1. Về nguồn vốn đầu tư XDCB 51 1.2. Về công tác kế hoạch đầu tư XDCB 53 1.3. Công tác lập các thủ tục đầu tư 54 1.4. Công tác thẩm định 56 1.5. Công tác đấu thầu 57 1.6. Công tác quyết toán và giải ngân vốn 59 1.7. Đầu tư XDCB phát triển lưới điện nông thôn 60 1.8. Hợp tác đầu tư quốc tế 62 Kết quả, hiệu qủa đầu tư XDCB ở Công ty điện lực I 66 2.1. Các kết quả đạt được 66 2.1.1. Khối lượng vốn đầu tư thực hiện 66 2.1.2. Tài sản cố định huy động 69 2.1.3. Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm 73 2.2. Hiệu quả đầu tư XDCB ở Công ty 74 2.2.1. Điện thương phẩm và tổng số khách hàng phát triển 75 2.2.2. Doanh thu và lợi nhuận 76 2.2.3. Mức đóng góp cho Ngân sách 77 2.2.4. Số việc làm tăng thêm và thu nhập bình quân 77 2.2.5. Các hiệu quả kinh tế xã hội khác 78 III. Những khó khăn tồn tại trong công tác đầu tư XDCB 79 Phần III: Phương hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đầu tư XDCB của Công ty 86 I. Phương hướng và nhiệm vụ công tác đầu tư XDCB giai đoạn 2002- 2005 86 Những thuận lợi và khó khăn trong giai đoạn tới 86 Phương hướng, mục tiêu và kế hoạch về ĐTXD 88 2.1. Phương hướng chung 88 2.2. Mục tiêu và kế hoạch cụ thể về ĐTXD 91 II. Một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đầu tư XDCB ở Công ty điện lực I 95 1. Về phía Công ty điện lực I 95 1.1. Giải pháp thứ nhất: huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả 95 1.2. Giải pháp thứ hai: xây dựng các chủ trương kế hoạch đầu tư hợp lý để hoạt động đầu tư đi đúng hướng và hiệu quả hơn 96 1.3. Giải pháp thứ ba: tăng cường chất lượng lập các thủ tục đầu tư xây dựng 98 1.4. Giải pháp thứ tư: chấn chỉnh hoàn thiện các khâu để thực hiện tốt công tác đấu thầu 99 1.5. Giải pháp thứ năm: cải tiến thủ tục, qui định rõ trách nhiệm từng khâu của các cơ quan có liên quan trong quá trình cấp phát vốn thanh toán 100 1.6. Giải pháp thứ sáu: chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật quyết toán công trình, dự án hoàn thành 100 1.7. Các giải pháp cơ bản khác 102 2. Về phía Tổng công ty và Nhà nước 102 2.1. Giải pháp thứ nhất: cải thiện môi trường pháp lý và tăng cường thể chế 102 2.2. Giải pháp thứ hai: xây dựng một chiến lược về nguồn tài chính phục vụ cho nhu cầu phát triển ngành Điện 104 2.3. Giải pháp thứ ba: nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh 105 2.4. Giải pháp thứ tư: về quản lý kinh tế và quản lý vốn 106 2.5. Giải pháp thứ năm: tăng cường cơ chế quản lý lao động và tiền lương 107 2.6. Giải pháp thứ sáu: mở rộng thị trường điện lực 107 Kết luận 109 Tài liệu tham khảo 111 Lời mở đầu Xã hội loài người đã hình thành trải qua nhiều thời đại với những hình thái kinh tế xã hội khác nhau theo chiều hướng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Kể từ khi chế độ Chủ nghĩa tư bản ra đời, Công nghiệp trở thành ngành sản xuất quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp có ảnh hưởng quyết định đến toàn bộ phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội: Tỷ lệ sản phẩm Công nghiệp được xem như chỉ tiêu sản phẩm phản ánh trình độ phát triển kinh tế của một nước. Ngành điện là một ngành công nghiệp quan trọng nếu không nói là bậc nhất trong các ngành kinh tế Quốc dân, vừa sản xuất ra tư liệu sản xuất vừa sản xuất ra tư liệu tiêu dùng. Ngành Điện hoạt động và ảnh hưởng đến toàn bộ các ngành, hợp thành cơ cấu ngành trong nền kinh tế Quốc dân. Từ những năm 1990 trở lại đây, nhu cầu điện trên thế giới tăng trưởng nhanh. Để đáp ứng nhu cầu trên, hàng tỷ đô la đã được các nước đầu tư vào các khâu sản xuất, truyền tải và phân phối điện.Việc thiết lập cơ sở hạ tầng tương xứng của ngành năng lựợng đã trở nên một điều kiện quan trọng cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Điện lực Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng sẽ không có sự tăng trưởng kinh tế nếu không đầu tư vào các cơ sở hạ tầng đặc biệt là ngành điện, nhất là đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Đất nước ta đang đứng trước những vận hội và thách thức mới, để hoàn thành chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu năm 2020 đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp thì ngành Điện Việt Nam không thể để các nhà máy công nghiệp chúng ta chờ điện mà điện phải đi trước, tạo cơ sở hạ tầng cho các ngành nghề, các doanh nghiệp và các cơ sở phát triển. Công ty điện lực I cũng nằm trong xu hướng phát triển chung này. Là một đơn vị hoạt động dưới sự chỉ đạo của Tổng công ty điện lực Việt Nam, Công ty cũng đã và đang góp một phần quan trọng vào cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra hiện nay. Cùng với qúa trình xây dựng và trưởng thành, Công ty đã luôn phát triển và không ngừng lớn mạnh đi lên theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhu cầu điện ngày càng cao của các ngành kinh tế và xã hội trên phạm vi miền Bắc nước ta. Riêng đối với lĩnh vực đầu tư XDCB của Công ty sau hơn 15 năm đổi mới tuy đã có bước phát triển nhưng máy móc thiết bị hầu như đã khai thác hết năng lực sản xuất, hệ thống đường dây truyền tải và phân phối đang đòi hỏi được nâng cấp và cải tạo để đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu điện tăng cao của khách hàng trên toàn miền. Vì vậy công tác XDCB các công trình điện luôn là nhiệm vụ trọng tâm của Công ty nhằm tăng cường công suất bổ sung, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Hoạt động đầu tư XDCB của Công ty đã đạt được những thành tựu đáng tự hào, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn và thách thức. Xem xét những kết quả, hiệu quả đã thực hiện được, những điều còn vướng mắc, tồn tại và hạn chế, tìm ra nguyên nhân, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp điều chỉnh là nội dung cơ bản của chuyên đề thực tập "Tình hình đầu tư XDCB ở Công ty điện lực I" mà em muốn trình bày. Chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận còn bao gồm: Phần I: Một số vấn đề lý luận chung Phần II: Tình hình đầu tư XDCB ở Công ty điện lực I Phần III: Phương hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đầu tư XDCB ở Công ty điện lực I Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Nguyễn Thị ái Liên, cán bộ hướng dẫn chú Phạm Bình Minh cùng các thầy cô, các cán bộ công nhân viên Công ty điện lực I và các bạn đã giúp em hoàn thành chuyên đề. Do điều kiện thời gian và trình độ có hạn, đề tài không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Em kính mong thầy cô, các cô chú anh chị phụ trách, các bạn đọc quan tâm đến vấn đề này xem xét và đóng góp ý kiến. Phần i Một số vấn đề lý luận chung I. Đầu tư phát triển Khái niệm đầu tư phát triển Đầu tư là một hoạt động kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến gia tăng tiềm lực của nền kinh tế nói chung, tiềm lực sản xuất của từng đơn vị kinh tế nói riêng, đồng thời tạo ra việc làm cho các thành viên trong xã hội. Đứng trên mỗi góc độ khác nhau sẽ có một khái niệm về đầu tư khác nhau. Dưới góc độ tài chính: Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời. Dưới góc độ tiêu dùng: Đầu tư là một hình thức hạn chế tiêu dùng hoặc hy sinh tiêu dùng ở hiện tại để thu về một mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Dưới góc độ một nhà đầu tư: Đầu tư là việc bỏ vốn hay chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó (tạo ra hoặc khai thác sử dụng một tài sản) nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai. Từ các khái niệm trên về đầu tư ta có thể rút ra khái niệm chung về đầu tư như sau, đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả của đầu tư có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Đầu tư phát triển là một bộ phận cơ bản của đầu tư, là quá trình chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn hiện vật, là quá trình chi dùng vốn để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, và bồi dưỡng nhằm tạo ra những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh; dịch vụ; tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới và duy trì tiềm lực sẵn có của nền kinh tế. 2. Đặc điểm đầu tư phát triển Đầu tư có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, do đó cần đẩy mạnh hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm cơ bản khác biệt với các loại hình đầu tư khác đó là Thứ nhất, đầu tư phát triển đòi hỏi lượng vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển. Do đó cần phải tính toán chính xác khả năng có thể đầu tư và để không bị thiếu vốn thì chủ đầu tư nên đầu tư theo giai đoạn, hạng mục công trình nào cần làm trước, hạng mục công trình nào cần làm sau có thể làm sau. Đồng thời cần làm tốt các bước của quá trình lập dự án và phải biết huy động vốn từ nhiều nguồn. Thứ hai, hoạt động đầu tư mang tính chất lâu dài. Thời gian tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả phát huy tác dụng đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra và thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ số vốn đã bỏ ra cũng đòi hỏi nhiều năm. Đời của dự án gắn với sự tồn tại của sản phẩm dự án trên thị trường và từ khi vận hành đến khi kết thúc đời dự án cũng đòi hỏi thời gian dài. Thứ ba, đa số các công trình thuộc đầu tư phát triển được tạo ra ở một vị trí cố định. Nên nó chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của vùng. Để hoạt động đầu tư có hiệu quả nhà đầu tư cần tìm hiểu rõ điều kiện khí hậu, tôn giáo, thói quen của người dân nơi công trình được đầu tư. Thứ tư, vì thời gian đầu tư và vận hành kết quả kéo dài, vốn đầu tư lớn nên hoạt động đầu tư phát triển có mức độ rủi ro cao. Do đó khi tiến hành phải nghiên cứu mọi yếu tố tác động đến hoạt động đầu tư của dự án, xem xét các nguyên nhân rủi ro và biện pháp loại bỏ, hạn chế rủi ro. Ngoài ra hoạt động đầu tư phát còn có một số đặc điểm như: Thành quả có giá trị lớn, chịu tác động lớn từ điều kiện ngoại cảnh: khí hậu, thời tiết, luật pháp, chính sách … Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị, đó là việc lập dự án đầu tư. 3. Vai trò đầu tư phát triển Từ việc xem xét khái niệm của đầu tư phát triển, chúng ta có thể khẳng định đầu tư phát triển là một nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò của đầu tư được thể hiện ở các mặt sau đây: 3.1. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung và tổng cầu. Cung, cầu là hai nhân tố cơ bản trong nền kinh tế thị trường, là động lực của tăng trưởng kinh tế. Tổng cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các tác nhân trong nền kinh tế (Doanh nghiệp, các nhà sản xuất) sẽ sử dụng tương ứng với giá, thu nhập và một số biến khác đã biết. Còn tổng cung là một bộ phận khối lượng sản phẩm quốc dân mà các hãng sẽ sản xuất và sẵn sàng bán ra trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất đã cho. Có hai phương thức tác động của đầu tư đến tổng cung và tổng cầu đó là: tác động trực tiếp và tác động gián tiếp. Nếu sử dụng vốn đầu tư là một yếu tố đầu vào của quá trình trực tiếp tạo ra sản phẩm, tác động đó là trực tiếp. Còn nếu đem vốn đầu tư vào các yếu tố đầu vào khác như: khoa học công nghệ, lao động...từ đó tác động đến tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế, tác động đó là gián tiếp. Cơ chế tác động của đầu tư đến tổng cung và tổng cầu ra sao? Về mặt tổng cầu: Đầu tư là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đầu tư tác động đến đường tổng cầu làm đường tổng cầu dịch chuyển và sự tác động của đầu tư tới tổng cầu là sự tác động ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi đổi, sự tăng lên về nhu cầu các yếu tố sản xuất tức tổng cầu tăng, dẫn tới sản lượng cân bằng và giá cả các yếu tố đầu vào tăng lên. Về mặt tổng cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng lên trong khi giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội. Tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Đây là tác động có tính chất dài hạn của đầu tư. Vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đầu tư chính ở điểm này. 3.2. Đầu tư là một nhân tố tác động đến sự ổn định và phát triển kinh tế Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế, làm cho mỗi sự thay đổi trong đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định. Bên cạnh những tác động tích cực do hoạt động đầu tư mang lại như: Tăng sản lượng sản phẩm, tăng trưởng kinh tế, tạo ra công ăn việc làm cho xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, cải thiện đời sống, tăng thu nhập…thì hoạt động đầu tư cũng có nhiều tác động tiêu cực đó là tác động đến môi trường (nếu đầu tư không hợp lý); làm giá cả tăng lên trong một chừng mực nhất định dẫn đến lạm phát; đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn, thâm hụt ngân sách, phát triển kinh tế chậm lại. 3.3. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Một số cơ cấu kinh tế quan trọng: - Cơ cấu kinh tế ngành (Công ngiệp, nông nghiệp, dịch vụ) Trong những năm gần đây cơ cấu ngành của Việt Nam: Công nghiệp: 33%, nông nghiệp: 27%, dịch vụ: 40%. - Cơ cấu kinh tế theo vùng Việt Nam chia làm 7 vùng cơ bản (vùng núi phía Bắc; Vùng đồng bằng Bắc Bộ; vùng Bắc Trung Bộ; vùng Nam Trung Bộ; vùng Đông Nam Bộ; vùng Tây Nguyên; vùng Tây Nam Bộ) Cơ cấu thành phần kinh tế Cơ cấu đầu tư sản xuất - phi sản xuất - Cơ cấu đầu tư theo cơ cấu công nghệ của vốn Kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu để có tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9 đến 10%/năm) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành lâm ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 đến 6%/năm là rất khó khăn. Như vậy chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia, nhằm đạt tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn nền kinh tế. Một cơ cấu đầu tư đúng sẽ có tác dụng: Thứ nhất, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với qui hoạch phát triển, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng. Thứ hai, tạo ra một cân đối trên phạm vi nền kinh tế giữa các ngành, các vùng và lãnh thổ. Thứ ba, phát huy được nội lực của vùng, của nền kinh tế trong khi vẫn xem trọng yếu tố ngoại lực. 3.4. Đầu tư ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế Để đánh giá mức gia tăng trong tổng sản lượng quốc gia, các nhà kinh tế thường bắt đầu với việc ước tính tỷ lệ tích luỹ và khối lượng sản phẩm đầu ra thuần tuý được tạo ra từ đầu tư thuần. Nhiều nghiên cứu đã cố gắng lượng hoá lượng vốn cần thiết để tăng sản lượng đầu ra thêm một đơn vị mỗi năm trong một khu vực hay của cả nền kinh tế. Giá trị tính được này gọi là tỷ số vốn - sản lượng hay hệ số vốn. Tỷ lệ gia tăng giữa vốn so với sản lượng viết tắt là ICOR được xác định bằng tỷ số giữa khối lượng vốn tăng thêm với phần gia tăng của GDP hay suất đầu tư cần thiết để tăng sản lượng đầu ra thêm một đơn vị. Mô hình Harrod- Domar đã làm rõ ý nghĩa này. Theo tác giả, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào tỷ số vốn đầu tư - sản lượng và năng suất của vốn đầu tư Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP Tốc độ tăng GDP = --------------------------- ICOR Nếu ICOR không đổi, tốc độ tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Hệ số ICOR của một nước, một vùng phụ thuộc vào trình độ phát triển và cơ chế chính sách trong từng thời kỳ. Khi hai yếu tố thay đổi thì ICOR cũng thay đổi. Hệ số ICOR ở các nước phát triển cao hơn các nước đang phát triển bởi vì ở các nước kinh tế phát triển thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, sử dụng nhiều công nghệ có giá trị cao. Còn ở các nước chậm phát triển thường thiếu vốn, thừa lao động, sử dụng lao động để thay thế cho vốn, sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Thực vậy, ở nhiều nước đầu tư đóng vai trò như một “cái hích ban đầu”, tạo đà cho sự cất cánh nền kinh tế. 3.5. Đầu tư ảnh hưởng đến sự phát triển của khoa học và công nghệ. Công nghệ theo nghĩa chung nhất là một công cụ nhằm biến đổi nguồn lực tự nhiên thành sản phẩm hàng hoá. Công nghệ làm tăng khả năng cơ bắp và trí tuệ của con người nhằm mục tiêu vì lợi ích cộng đồng. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của mỗi nước bởi vì để có công nghệ cần phải có một nguồn vốn đầu tư lớn. Do vậy đầu tư có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng đến tạo ra công nghệ cả nội sinh lẫn ngoại sinh. Một vài điều cần lưu ý, đối với các nước đang phát triển do lợi thế về qui mô lao động nên có thể xem xét đầu tư vào những kỷ thuật mà dùng nhiều lao động thay thế cho vốn, tuy nhiên không thể lấy tiêu chuẩn cực đại hoá việc thu hút lao động làm thu hút đầu tư. Cần phải có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp; trên cơ sở đó để phát huy lợi thế so sánh của đơn vị và toàn nền kinh tế quốc dân. 3.6. Đầu tư ảnh hưởng đến việc năng cao chất lượng đội ngũ lao động. Một đội ngũ lao động có chất lượng tốt là đội ngũ lao động có trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn, thể lực tốt, có kỷ luật lao động. Các tiêu chí để đo lường chất lượng lao động đó là năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động khồng thể không tiến hành các hoạt động đầu tư cho giáo dục và đào tạo, y tế, trả lương và thu nhập cho người lao động, đầu tư vào điều kiện làm việc. Qua đó ta có thể nói rằng đầu tư là yếu tố cơ bản, quan trọng ảnh hưởng tới việc năng cao chất lượng đội ngũ lao động. 4. Nguồn vốn đầu tư phát triển Nguồn vốn đầu của một đất nước được hình thành từ hai nguồn cơ bản đó là nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. - Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn sau đây: + Vốn tích luỹ từ ngân sách + Vốn tích luỹ của các doanh nghiệp + Vốn tiết kiệm của dân cư - Vốn đầu tư nước ngoài bao gồm + Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) + Vốn đầu tư gián tiếp (chủ yếu ODA) 4.1. Nguồn vốn huy động trong nước Nguồn vốn trong nước được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các nguồn lực đưa vào vòng chu chuyển của nền kinh tế. Nó không chỉ bao gồm tiền vốn biểu hiện bằng tài sản hiện vật như máy móc, vật tư, lao động, đất đai, tài nguyên… mà nó còn bao gồm cả những giá trị tài sản vô hình như vị trí địa lý, thành tựu khoa học công nghệ, bản quyền phát minh sáng chế. Các bộ phận cấu thành nguồn vốn trong nước đó là vốn tích luỹ từ ngân sách; Vốn tích luỹ các doanh nghiệp; vốn tiết kiệm dân cư. Vốn tích luỹ từ ngân sách (Tiết kiệm của chính phủ) là nguồn vốn được hình thành từ thu thuế, phí và lệ phí, các khoản viện trợ hoặc các khoản thu khác. Về nguyên tắc vốn tích luỹ từ ngân sách được xác định bằng cách lấy tổng thu nhập trừ đi các khoản chi tiêu. Đối với Chính phủ đặc biệt là Chính phủ các nước đang phát triển chi cho đầu tư phát triển là một nhiệm vụ chi quan trọng. Do vậy tình trạng phổ biến là bội chi ngân sách, nhưng đầu tư vẫn được coi là một nội dung chi tiêu quan trọng. Các khoản chi của Chính phủ qua ngân sách Nhà nước bao gồm: chi mua hàng hóa và dịch vụ (gồm chi hoạt động thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển); các khoản trợ cấp và chi trả lãi suất các khoản tiền vay. Các khoản thu của Chính phủ chủ yếu thu từ thuế, một phần là các khoản phí, lệ phí và các khoản thu khác. Vốn tích luỹ các doanh nghiệp (Tiết kiệm doanh nghiệp) là nguồn vốn tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đối với Doanh nghiệp quốc doanh, vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn bao gồm: Vốn ngân sách, vồn khấu hao cơ bản, vốn viện trợ qua ngân sách, vốn tự có, vốn vay, phát hành trái phiếu, vốn góp liên doanh liên kết với các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nguồn vốn đầu tư bao gồm: vốn tự có, vốn vay, vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết với các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Đối với các công ty cổ phần, vốn đầu tư ngoài các nguồn trên còn bao gồm tiền thu được do phát hành trái phiếu (nếu có đủ điều kiện theo qui định của Luật Doanh nghiệp). Về nguyên tắc tiết kiệm của các doanh nghiệp được xác định trên cơ sở doanh thu của doanh nghiệp và các khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiết kiệm của dân cư là nguồn nhỏ lẻ nằm phân tán trong dân chúng nhưng cũng chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Mức tiết kiệm của dân cư một mặt phụ thuộc vào mức thu nhập của họ, mặt khác tuỳ thuộc vào mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm và chính sách ổn định tiền tệ của Nhà nước. 4.2. Nguồn vốn huy động nước ngoài Bao gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, kể cả vay theo hình thức thông thường. Một hình thức đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA - viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn cho nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư. Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài đầu tư sang nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi số vốn bỏ ra. Vốn này thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, với số vốn đầu tư trực tiếp nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có được công nghệ, kể cả công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương; học tập được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối công nghiệp của nước ngoài, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, một vấn đề nan giải là thiếu vốn và từ đó dẫn tới thiếu nhiều thứ khác. Để thu hút nhanh nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đòi hỏi các nước cần phải tạo lập môi trường thuận lợi, thông thoáng, hấp dẫn cho nhà đầu tư như cung cấp cơ sở hạ tầng (Giao thông liên lạc, điện, nước…), tạo lập đồng bộ cơ chế chính sách, luật pháp đặc biệt là luật đầu tư nước ngoài cần phải thực sự “trên thoáng, dưới thông”, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào. 4.3. Mối quan hệ vốn đầu tư trong nước và vốn nước ngoài Trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, nguồn vốn trong nước có vai trò rất quan trọng, nó quyết định trực tiếp tới sự phát triển kinh tế xã hội của từng nước, là nguồn vốn bảo đảm tăng trưởng một cách bền vững, ổn định, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn mà không phụ thuộc vào nước ngoài. Điều đó được thể hiện ở việc chúng ta có thể nắm giữ, tập trung được nguồn vốn này, chủ động bố trí được cơ cấu đầu tư theo mục tiêu phát triển của từng thời kỳ phù hợp với trình độ phát triển của đất nước. Nguồn vốn đầu tư trong nước có vai trò quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia bởi vì : Thứ nhất, nó có vai trò quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội bởi lẽ đây là lĩnh vực đầu tư đem lại tỷ suất lợi nhuận thấp, thậm chí nhiều trường hợp không thể thu hồi vốn, chịu nhiều yếu tố bất định của tự nhiên, kinh tế xã hội và thời gian thu hồi vốn đầu tư kéo dài - đó là lý do các nhà đầu tư nước ngoài không muốn hoặc không giám đầu tư vào. Song cơ sở hạ tầng lại có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia. Thứ hai, vốn trong nước có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, từ đó nâng cao đời sống dân cư ở các khu vực này, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo giữa các khu vực thành thị và nông thôn. Đồng thời còn tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo ra sự phát triển cân đối. Mặt khác, vốn trong nước quyết định thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế xã hội, những mục tiêu liên quan đến giáo dục, y tế, quốc phòng - an ninh. Thứ ba, vốn trong nước lại có vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, vì cơ sở vật chất kỹ thuật để có thể tiếp thu và phát huy tác dụng của vồn đầu tư nước ngoài đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế lại là khối lượng vốn đầu tư trong nước. Đồng thời vốn đầu tư trong nước là bộ phận vốn đối ứng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh vốn đầu tư trong nước có vai trò quyết định đến phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Điều đó được thể hiện ở chỗ. Nó tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng cho nền kinh tế, do nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp nên vốn đầu tư nước ngoài là sự bù đắp rất lớn sự thiếu hụt về vốn. Mặt khác nguồn vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là vốn FDI đóng góp một phần quan trọng vào việc tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường, góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Đồng thời nó là nguồn vốn hỗ trợ hoàn thiện cơ cấu kinh tế. Từ vai trò và mối quan hệ giữa các nguồn vốn một lần nữa cho phép chúng ta khẳng định để phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia nguồn vốn đầu tư trong nước quyết định và vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng. II. Đầu tư xây dựng cơ bản 1. Khái niệm đầu tư xây dựng cơ bản Xây dựng cơ bản (XDCB) là một hoạt động có chức năng tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định có tính chất sản xuất và không có tính chất sản xuất cho các ngành kinh tế thông qua các hoạt động xây dựng mới, xây dựng mở rộng, xây dựng lại, hiện đại hoá hay khôi phục các tài sản cố định. Xây dựng mới là tạo ra những tài sản cố định chưa có trong bảng cân đối tài sản cố định của nền kinh tế, thông qua quá trình này nền kinh tế có thêm tài sản cố định hay trong danh mục tài sản cố định của nền kinh tế có thêm một tài sản mới. Xây dựng mở rộng là hoạt động đối với những cơ sở đã tồn tại người ta mua thêm máy móc, xây dựng thêm các nhà xưởng, làm tăng giá trị TSCĐ đã có. Hiện đại hóa không phải là xây dựng mới, cũng không phải là mở rộng nhưng có tính chất của mở rộng. Hiện đại hoá thực hiện trong trường hợp do sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ sở vật chất kỹ thuật, TSCĐ đã có trong nền kinh tế được mua sắm hàng loạt những yếu tố kỹ thuật để bù lại hao mòn vô hình. Khôi phục là hoạt động được thực hiện đối với những TSCĐ đã tồn tại nhưng do thiên tai, do chiến tranh...bị tàn phá, nay phải khôi phục. Đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung. Đó là việc bỏ vốn để tiến hành các hoạt động XDCB (từ việc khảo sát qui hoạch đầu tư, thiết kế và xây dựng cho đến khi lắp đặt máy móc thiết bị để hoàn thiện cơ sở vật chất) nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho nền kinh tế. Bản thân XDXB là một ngành sản xuất vật chất nằm trong giai đoạn thực hiện đầu tư. Tham gia vào quá trình tái sản xuất ra các TSCĐ có rất nhiều ngành như ngành công nghiệp sản xuất ra các máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, gạch, ngói...; ngành giao thông vận tải có nhiệm vụ vận chuyển các máy móc thiết bị, nguyên vật liệu...do ngành công nghiệp tạo ra; ngành thương mại phụ trách quá trình lưu thông, phân phối; ngành nông nghiệp cung cấp lương thực nuôi sống những người lao động tạo ra các hoạt động trên. Nhưng ngành XDCB trực tiếp kết thúc quá trình tái sản xuất TSCĐ (những ngành kia tham gia nhưng ở những công đoạn khác nhau), trực tiếp chuyển sản phẩm của những ngành sản xuất khác thành TSCĐ cho nền kinh tế và TSCĐ đó là nhà cửa, cấu trúc hạ tầng, cùng các thiết bị lắp đặt bên trong, các bộ phận vật chất và các thiết bị không cần lắp khác để trang bị cho các ngành sản xuất dịch vụ phục vụ cho nền kinh tế. 2. Đặc điểm đầu tư XDCB Xây dựng cơ bản là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung nên đầu tư XDCB có đầy đủ các đặc điểm và các tính chất của hoạt động đầu tư. Trong đó nổi lên các đặc điểm cơ bản là đặc thù của hoạt động đầu tư XDCB đó là: Thứ nhất, sản phẩm của đầu tư XDCB có tính cố định, nơi sản xuất cũng là nơi tiêu thụ sản phẩm. Từ đặc điểm đó chúng ta thấy sự phát huy tác dụng sau này của tài sản cố định sẽ chịu tác động rất lớn môi trường kinh tế xã hội nơi tạo ra nó. Như vậy sản x._.uất di động, tư liệu sản xuất di động, sức lao động di động...(vì sản phẩm cố định tại chỗ nên các yếu tố khác đều phải di động). Từ đó đặt ra đối với hoạt động XDCB phương pháp quản lý phức tạp hơn. Và cũng do tính chất này nên trong hoạt động tìm địa điểm xây dựng công trình chuẩn bị đầu tư là một khâu rất quan trọng, có những công trình xây dựng tại địa điểm không hợp lý, toàn bộ chi phí do chuyển địa điểm rất lớn. Tìm địa điểm cho sản phẩm có tính cố định là điều kiện tiên quyết trước khi tiến hành khởi công xây dựng công trình. Thứ hai, sản phẩm XDCB có khối lượng lớn nên phải thi công ngoài trời, hoạt động XDCB chịu ảnh hưởng lớn của thời tiết. Sản phẩm có khối lượng lớn nên nguyên vật liệu cũng để ngoài trời, nếu điều kiện khí hậu không tốt gây ra hư hỏng, tổn thất lớn. Từ đó liên quan đến vấn đề giá thành công trình và thực hiện quản lý ra sao để chất lượng XDCB được tốt nhất, giảm hư hỏng, mất mát. Thứ ba, thời gian XDCB và thời gian tồn tại của sản phẩm XDCB lâu. Từ đặc điểm thời gian xây dựng dài nên ứ đọng vốn đối với hoạt động đầu tư XDCB lớn, càng ứ đọng vốn càng thiệt hại lớn vì khối lượng vốn lớn, khối lượng sản phẩm lớn. Hơn nữa do thời gian xây dựng lâu nên chịu ảnh hưởng của các yếu tố như giá trị đồng tiền, điều kiện thời tiết, tình hình chính trị... Thời gian càng dài các yếu tố khác đó càng thay đổi. Nếu tác động từ các yếu tố đó theo chiều hướng xấu sẽ dẫn đến tổn thất lớn. Và sản phẩm XDCB tồn tại lâu, nếu tác động từ các yếu tố trên tốt, chất lượng công trình tốt thì thành quả hoạt động đầu tư XDCB càng phát huy tác dụng tốt trong thời gian dài, đóng góp lớn cho nền kinh tế, văn hoá xã hội, có những công trình tồn tại vĩnh viễn và ngược lại. Thứ tư, vốn cho hoạt động đầu tư XDCB lớn. Do sản phẩm có khối lượng lớn, thời gian xây dựng và tồn tại của sản phẩm XDCB dài...nên chi phí cho đầu tư XDCB chiếm từ 20 - 25% GDP (chi cho TSCĐ), một phần nếu sử dụng không hợp lý gây ra thiệt hại lớn Thứ năm, tính đơn chiếc và chu kỳ sản xuất không lặp lại là đặc điểm rất rõ của đầu tư XDCB. Tính đơn chiếc có nghĩa không có sản phẩm XDCB nào giống sản phẩm nào. Dù thiết kế giống nhau, sản phẩm cố định nhưng địa điểm khác nhau, thời tiết khí hậu các vùng khác nhau... sản phẩm không giống nhau hoàn toàn, chi phí sản xuất cũng không giống nhau. Từ tính đơn chiếc ta thấy mỗi một công cuộc đầu tư tính chất quản lý khác nhau, giữa các công trình, dự án khác nhau đòi hỏi phương pháp và trình độ quản lý thay đổi linh hoạt cho phù hợp với điều kiện cụ thể và cũng vì tính đơn chiếc gây ra tính không ổn định cho quá trình thi công xây lắp. Tính cố định của sản phẩm XDCB cũng ảnh hưởng lớn đến tính đơn chiếc. Tính đơn chiếc nó không chỉ chịu ảnh hưởng của yếu tố kinh tế mà còn chịu ảnh hưởng của yếu tố kỹ thuật. 3. Vai trò đầu tư XDCB Để đảm bảo cho nền kinh tế và xã hội không ngừng phát triển, sản xuất kinh doanh được mở rộng, điều trước hết và căn bản là phải đầu tư tiến hành hoạt động đầu tư XDCB. Trong một nền kinh tế xã hội, đối với bất kỳ một phương thức sản xuất nào cũng đều phải có cơ sở vật chất, kỹ thuật tương ứng. Việc đảm bảo tính tương ứng đó là nhiệm vụ của hoạt động đầu tư XDCB. Đầu tư XDCB là điều kiện cần thiết để phát triển tất cả các ngành kinh tế quốc dân và thay đổi tỷ lệ cân đối giữa chúng. Những năm qua nước ta do tăng cường đầu tư XDCB, cơ cấu kinh tế đã có những biến đổi quan trọng. Cùng với việc phát triển các ngành kinh tế vốn có như cơ khí chế tạo, luyện kim, hoá chất, vận tải, nhiều ngành kinh tế mới đã bắt đầu xuất hiện như: Bưu điện, hàng không…nhiều khu công nghiệp, nhiều vùng kinh tế mới đã và đang được hình thành. Đầu tư XDCB là tiền đề cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ, từ đó nâng cao năng lực sản xuất cho từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tạo điều kiện phát triển và nâng cao sức sản xuất xã hội, tăng nhanh giá trị sản xuất và giá trị tổng sản phẩm trong nước, đồng thời nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người nhân dân lao động, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cơ bản về chính trị, xã hội… Đầu tư XDCB tạo nên một nền tảng cho việc ứng dụng những công nghệ mới, góp phần thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, chính sách kinh tế Nhà nước phù hợp với tình hình hiện nay. 4. Vốn đầu tư XDCB 4.1. Khái niệm vốn đầu tư XDCB Nguồn vốn đầu tư nếu phân chia theo theo bản chất bao gồm hai bộ phận chính đó là vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư vận hành. Vốn đầu tư XDCB là nguồn vốn đầu tư dùng để tạo mới hoặc thay thế, đổi mới tài sản cố định của các lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực phi sản xuất vật chất cho nền kinh tế quốc dân. Do đó vốn đầu tư XDCB là thành phần tích cực trong vốn đầu tư toàn xã hội. Hay nói cách khác vốn đầu tư XDCB là tổng chi phí nhằm đạt được mục đích đầu tư bao gồm: chi phí cho công tác thăm dò khảo sát và thiết kế; chi phí cho công tác xây dựng; chi phí mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị và các chi phí khác được ghi trong tổng dự toán. Vốn đầu tư XDCB đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, nó là một trong những yếu tố cần thiết để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Vốn đầu tư XDCB góp phần đưa các thành tựu khoa học kỹ thuật vào xây dựng và cải tiến qui trình công nghệ, từ đó nâng cao được năng lực sản xuất và phục vụ. Vốn đầu tư XDCB nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho nền kinh tế. Cần lưu ý có một số khoản mục xét về mặt tính chất lẫn nội dung là hoạt động đầu tư XDCB nhưng chúng lại không được tính vào vốn đầu tư XDCB bao gồm các hoạt động sau: Hoạt động sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc (vốn cho hoạt độngg này lấy từ trích khấu hao hàng năm) Chi phí khảo sát thăm dò tài nguyên, địa chất nói chung trong nền kinh tế mà không liên quan trực tiếp đến công trình nào cả. 4.2. Nguồn hình thành vốn đầu tư XDCB Vốn đầu tư XDCB được hình thành từ các nguồn sau đây: Vốn ngân sách Nhà nước: Bao gồm vốn ngân sách Nhà nước và ngân sách địa phương. Vốn ngân sách Nhà nước hình thành từ tích luỹ của nền kinh tế và được Nhà nước bố trí trong kế hoạch ngân sách để cung cấp cho các đơn vị thực hiện các công trình thuộc kế hoạch Nhà nước. Vốn tín dụng đầu tư: Bao gồm vốn ngân sách Nhà nước dùng để cho vay, vốn huy động của các đơn vị kinh tế trong nước và các tầng lớp dân cư. Vốn vay dài hạn của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế và kiều bào ở nước ngoài. Vốn đầu tư XDCB tự có của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế. Đối với các xí nghiệp quốc doanh, vốn này được hình thành từ lợi nhuận (sau khi đã nộp thuế cho Nhà nước), vốn khấu hao cơ bản để lại, tiền thanh lý tài sản và các nguồn thu khác theo qui định của Nhà nước Vốn hợp tác, liên doanh với nước ngoài: Vốn này của các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đầu tư vào Việt Nam bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Nhà nước Việt Nam chấp thuận trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo qui định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Vốn vay nước ngoài: Bao gồm vốn do Chính phủ vay theo hiệp định ký kết với nước ngoài, vốn do các đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ trực tiếp vay của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài và vốn do ngân hàng đầu tư phát triển đi vay. Vốn viện trợ của các tổ chức nước ngoài (chủ yếu từ quỹ hỗ trợ phát triển chính thức - ODA) Vốn huy động nhân dân bằng tiền, nguyên liệu, công cụ lao động. 4.3. Nội dung của vốn đầu tư XDCB Nội dung của vốn đầu tư XDCB liên quan trực tiếp đến quá trình thực hiện quản lý hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản và là cơ sở để thanh toán khối lượng thực hiện công tác đầu tư xây dựng cơ bản. Nội dung của vốn đầu tư XDCB bao gồm: 4.3.1. Vốn đầu tư cho xây dựng và lắp đặt (Vốn cho xây lắp) Vốn đầu tư xây dựng là các chi phí để xây dựng mới, mở rộng và khôi phục các loại nhà cửa, vật kiến trúc (sử dụng lâu dài hoặc sử dụng tạm thời) có ghi trong dự toán xây dựng. Vốn lắp đặt là các chi phí cho việc lắp đặt thiết bị máy móc vào nền bệ cố định (gắn liền với công dụng của tài sản cố định mới tạo, kế cả chi phí chạy thử để kiểm tra chất lượng máy. Trong phần vốn này không bao gồm giá trị thiết bị và chi phí chạy thử để kiểm tra thiết bị trước khi lắp đặt). Phần vốn xây dựng và lắp đặt chỉ có tác dụng tạo nên phần vỏ bao che cho công trình, nó không trực tiếp tạo ra sản phẩm cho xã hội. Vì vậy ta có thể tìm mọi biện pháp hợp lý trong thiết kế qui hoạch mặt bằng, hình khối kiến trúc, giải pháp kết cấu và sử dụng các loại vật liệu xây dựng có hiệu quả để giảm bớt phần vốn này đến mức tối đa. 4.3.2. Vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị cho đối tượng xây dựng Đó là toàn bộ để mua sắm, vận chuyển và bốc dở các máy móc thiết bị, các công cụ sản xuất của công trình từ nơi mua đến tận chân công trình. Phần vốn này là tích cực vì nó trực tiếp tạo ra sản phẩm cho xã hội sau khi xây dựng xong. Cho nên, việc tăng tỷ trọng của phần vốn thiết bị trong vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một phương hướng tích cực nhất trong việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. 4.3.3. Những chi phí XDCB khác (làm tăng và không làm tăng giá trị tài sản cố định) Là những phần vốn chi cho các công việc có liên quan đến xây dựng công trình như: Chi phí thăm dò khảo sát, thiết kế công trình, chi phí thuê hoặc mua thiết kế, mua đất, đền bù hoa màu, di chuyển vật kiến trúc, chi phí chuẩn bị khu đất để xây dựng, chi phí cho việc xây dựng các công trình tạm loại lớn phục vụ cho thi công (lán trại, kho tàng, đường, điện, nước...), chi phí đào tạo cán bộ, công nhân vận hành sản xuất sau này, chi phí lương chuyên gia (nếu có), chi phí chạy thử máy có tải, thử nghiệm và khánh thành công trình.... Trong những khoản chi phí của vốn kiến thiết cơ bản khác, có một số khoản chi phí khi quyết toán công trình được tính vào giá trị tài sản cố định của công trình (làm tăng giá trị tài sản cố định) như chi phí phục vụ cho thiết kế, mua đất xây dựng; còn lại các chi phí khác là những chi phí không làm tăng giá trị TSCĐ như chi phí đào tạo, chi phí khánh thành công trình, chi phí cho công tác xây lắp đã tiến hành nhưng bị đình chỉ hoàn toàn... Một điều cần chú ý không được tính vào vốn đầu tư xây dựng cơ bản các số khoản chi phí sau: - Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định có tính chất sản xuất do vốn khấu hao sữa chữa lớn đài thọ. - Các chi phí khảo sát thăm dò chung không liên quan trực tiếp đến việc xây dựng một công trình cụ thể. Vốn đầu tư XDCB là căn cứ để xác định giá trị tài sản cố định. Qui mô và tốc độ của nó quyết định đến qui mô của TSCĐ trong nền kinh tế quốc dân. Thực hiện vốn đầu tư XDCB sẽ làm tăng qui mô tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân, là yếu tố quyết định cho việc tăng năng lực sản xuất và tăng năng suất lao động xã hội. III. Đầu tư XDCB của ngành Điện 1. Một số khái niệm 1.1. Năng lượng và hệ thống năng lượng Năng lượng theo cách nhìn tổng quát là rất rộng lớn trong vũ trụ, cả thế giới là năng lượng, chỉ riêng năng lượng mặt trời đã có trữ lượng gấp hàng chục tỷ lần năng lượng tiêu thụ trên thế giới hàng năm. Nhưng năng lượng ngày càng gay cấn và là vấn đề rất lớn của thế giới. Điều đó thật là dễ hiểu, để có năng lượng dùng được ở những những hộ tiêu thụ, năng lượng sơ cấp phải trải qua nhiều công đoạn như khai thác, chế biến, vận chuyển và phân phối. Các công đoạn này đòi hỏi nhiều chi phí về vốn, kỹ thuật và các ràng buộc xã hội. Năng lượng sơ cấp tồn tại dưới các dạng như: Hoá năng, thế năng, động năng, nhiệt năng, cơ năng, năng lượng hạt nhân. Sau khi khai thác qua các công đoạn biến đổi (nhà máy điện, nhà máy lọc dầu..) năng lượng sơ cấp chuyển thành năng lượng thứ cấp như: Điện năng, nhiệt năng, khí đốt…Năng lượng thứ cấp được phân phối tới các hộ tiêu thụ. Các thiết bị tiêu thụ năng lượng (động cơ điện, lò nhiệt..) biến đổi năng lượng cuối thành năng lượng hữu ích. Năng lượng hữu ích được biễu diễn dưới dạng KWh, Kcal.. Năng lượng được sử dụng trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, sinh hoạt. Nhu cầu tiêu thụ năng lượng phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế xã hội của mỗi nước, mỗi khu vực. Hệ thống năng lượng bao gồm các nguồn năng lượng, các khâu chế biến, truyền tải, phân phối và tiêu thụ năng lượng. Hệ thống năng lượng thường được xây dựng theo địa dư, vùng, một quốc gia hay một khu vực các quốc gia. 1.2. Hệ thống điện và đầu tư phát triển ngành Điện Hệ thống điện là một phần của hệ thống năng lượng, bao gồm các nhà máy điện, mạng điện và các hộ tiêu thụ (các doanh nghiệp, các xí nghiệp, các cơ sở sản xuất, các hộ gia đình). Nhà máy điện có nhiệm vụ biến đổi năng lượng sơ cấp như: than, khí đốt, thuỷ năng.. thành điện năng và nhiệt năng. Các nhà máy điện nối với nhau thành hệ thống nhờ các trạm biến áp và đường dây điện (gọi chung là mạng điện). Nhà máy điện bao gồm: + Nhà máy nhiệt điện + Nhà máy thuỷ điện + Nhà máy điện dùng sức gió + Nhà máy điện nguyên tử + Nhà máy điện dùng năng lượng mặt trời Mạng lưới điện bao gồm các trạm biến áp và các đường dây truyền tải điện. Tuỳ theo phạm vi mà người ta phân thành mạng điện khu vực và mạng điện địa phương hoặc mạng chuyên tải, mạng phân phối và mạng cung cấp. Các trạm biến áp có nhiệm vụ nối các đường dây với cấp điện áp khác nhau trong hệ thống chung và trực tiếp cung cấp điện năng cho các hộ tiêu thụ. Lưới truyền tải là các đường dây có điện áp từ 110 KV trở lên (200, 500 KV..). Còn lưới phân phối các đường dây và các trạm biến áp phân phối có điện áp từ 35 KV trở xuống. Trạm biến áp là các trạm biến đổi điện áp gồm các máy biến áp, các thiết bị bảo vệ và chuyên dùng khác kèm theo. Máy biến áp là máy biến đổi điện áp trong đó có các loại máy tăng áp và hạ áp. Công suất máy biến áp là năng lực biến đổi điện áp, có thể nâng lên hoặc hạ xuống tuỳ theo điện áp cụ thể. Dung lượng trạm biến áp là năng lực biến đổi điện áp của trạm.Trong một trạm có thể có một hay nhiều máy biến áp tuỳ thuộc yêu cầu sử dụng. Năng lượng được các nhà máy điện phát ra thông thường ở điện áp 6 hay 10,5 KV sẽ đưa đến thanh cái chính của nhà máy. Sau đó điện áp được nâng cao nhờ các trạm tăng áp. Trạm tăng áp gồm có các máy biến áp để nâng điện áp đến 35, 66, 110 và 220 KV hoặc hơn nữa. Đường dây cao áp truyền tải điện năng đi xa và sẽ đưa đến các trạm hạ áp. Các trạm hạ áp sẽ hạ điện áp truyền tải xuống đến 10, 15, hay 6 KV; Công suất điện này sẽ cung cấp cho các trạm phân phối trung tâm và cho các trạm hạ áp nơi tiêu thụ thông thường là 0,4/0,23KV. Phụ tải là nơi tiêu thụ cuối cùng trong lưới điện, bao gồm các nhà máy, công sở, các hộ tiêu dùng điện, ánh sáng sinh hoạt công cộng. Điện thương phẩm là điện bán cho các hộ tiêu dùng điện. Từ việc tìm hiểu các khái niệm trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm đầu tư phát triển ngành Điện như sau: Đầu tư phát triển ngành Điện là một bộ phận cơ bản của đầu tư phát triển năng lượng, là việc chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác để xây dựng các nhà máy điện nhằm biến đổi các dạng năng lượng sơ cấp thành điện năng, xây dựng mạng lưới truyền tải và phân phối điện tới các hộ tiêu thụ; bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các nhà máy, hệ thống đường dây nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của chúng và tạo ra tiềm lực mới cho nền kinh tế. 1.3. Đầu tư XDCB của ngành Điện Đầu tư XDCB của ngành điện là một bộ phận của hoạt động đầu tư phát triển ngành điện nói chung. Đó là việc bỏ vốn để tiến hành các hoạt động xây dựng cơ bản của ngành như xây dựng mới, xây dựng lại, hiện đại hoá hay khôi phục các tài sản cố định (từ việc khảo sát qui hoạch đầu tư, thiết kế và sử dụng cho đến khi lắp đặt thiết bị hoàn thiện việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật ) nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho ngành và cho nền kinh tế quốc dân. 2. Đặc điểm đầu tư XDCB các công trình điện 2.1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành Điện Công nghiệp điện là một ngành công nghiệp, nó tiến hành khai thác, biến đổi các dạng năng lượng sơ cấp (hoá năng: than đá, dầu, khí đốt..; động năng: năng lượng gió, sóng biển..; nhiệt năng; năng lượng mặt trời...thành năng lượng điện sử dụng cho sản xuất và cho tiêu dùng sinh hoạt hàng ngày. 2.1.1.Đặc điểm sản phẩm điện năng Mỗi một loại hàng hoá đều có đặc điểm riêng. Các loại hàng hóa khác nhau về tính chất lý hoá, giá tri, giá trị sử dụng…Điện năng cũng vậy, nó là một loại hàng hoá đặc biệt hơn các hàng hoá khác. Có nhiều đặc điểm khi nói về sản phẩm của ngành điện, nhưng dưới góc độ kinh tế- kỹ thuật sản phẩm ngành có một số đặc điểm cơ bản như sau: Thứ nhất, sản phẩm của ngành điện vừa là tư liệu sản xuất, vừa là tư liệu tiêu dùng Điện năng được sử dụng vào tất cả các ngành, các lĩnh vực (công nghiệp, nông nghiệp, GTVT, bưu điện ) và sử dụng cho ánh sáng sinh hoạt và dân dụng. Điện năng là năng lượng chủ yếu của các xí nghiệp công nghiệp, các xí nghiệp này tiêu thụ khoảng 70% tổng số điện năng được sản xuất ra. Nó được sử dụng như một yếu tố đầu vào phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó điện năng là tư liệu dùng cho sản xuất. Mặt khác, điện năng sử dụng để thắp sáng hàng ngày, phục vụ đời sống dân sinh nên điện năng đồng thời là tư liệu tiêu dùng. Thứ hai, sản phẩm của ngành điện không thể tồn kho Đặc điểm sản phẩm của tất cả các ngành sản xuất vật chất khác là có thể dự trữ, tồn kho, riêng ngành điện sản phẩm của nó không thể tồn trữ được. Đây là nét khác biệt cơ bản nhất trong tính chất sản phẩm của ngành điện so với các ngành sản xuất vật chất khác. Do đó, đi đôi với việc đầu tư sản xuất ra điện năng là phải xây dựng hệ thống truyền tải và phân phối điện. Thứ ba, điện năng được phân phối từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng thông qua hệ thống dây tải điện, hệ thống trạm biến áp cao thế, trung thế và hạ thế. Thứ tư, trong quá trình sản xuất như tiêu dùng sản phẩm này luôn luôn có một lượng điện năng mất đi một cách vô ích. Phần điện năng tổn thất cũng tương tự như tổn hao tự nhiên của một số hàng hoá, hiện nay tổn thất điện năng Việt Nam là khoảng 15%. Tổn thất điện năng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, tựu chung lại có thể qui về hai yếu tố cơ bản sau: Tổn thất điện năng do các yếu tố kỹ thuật gây ra như chất lượng dây dẫn, chất lượng máy biến áp, cường độ dòng điện, cấp điện áp… Tổn thất do các nguyên nhân quản lý gây ra: quản lý không chặt chẽ dẫn đến tình trạng ăn cắp điện, dùng điện thẳng không qua đồng hồ. Từ những đặc điểm trên đây, đòi hỏi ngành điện phải có biện pháp kỹ thuật, quản lý phù hợp, tăng cường biện pháp tiết kiệm điện trong mọi lúc mọi nơi. 2.1.2. Đặc điểm ngành Điện Là một bộ phận hợp thành cơ cấu ngành công nghiệp, nên ngành điện có đầy đủ đặc điểm của ngành công nghiệp. Ngoài ra do tính chất đặc trưng về sản phẩm, cũng như qui trình từ sản xuất, cung ứng và tiêu thụ điện mà ngành điện còn có những đặc điểm sau: Ngành điện là một ngành công nghiệp nặng tính chất kỹ thuật và qui trình công nghệ phức tạp nên đòi hỏi tính chuyên môn, kỹ thuật cao, khối lượng vốn cho đầu tư phát triển lớn. Đồng thời từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng phải trải qua một hệ thống đường truyền dẫn trung gian được xây dựng ngoài trời do đó chịu ảnh hưởng rất lớn các tác động của điều kiện tự nhiên, môi trường, thời tiết, khí hậu. Mặt khác, độ nguy hiểm về sản phẩm của ngành là rất lớn nếu như không có sự hiểu biết khoa học, không nắm rõ nguyên lý kỹ thuật thì tác hại và tổn thất do điện năng mang đến cực kỳ lớn, cùng với những đặc điểm trên nên ngành điện đòi hỏi độ an toàn rất cao. 2.2. Đặc điểm đầu tư XDCB của ngành Điện Đầu tư XDCB các công trình điện nằm trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản nói chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nên hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản các công trình điện có đầy đủ các đặc điểm của hoạt động đầu tư XDCB. Ngoài ra do tính chất đặc thù về sản phẩm điện năng cũng như tính chất, đặc điểm của ngành Điện nên hoạt động đầu tư XDCB của ngành Điện có những đặc điểm riêng: Với vai trò là ngành cung cấp tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng cho xã hội. Do đó ngành điện có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của các ngành khác và đối với toàn xã hội. Trong quá trình phát triển đất nước theo hướng CNH - HĐH, tất cả các ngành, lĩnh vực đều cùng phát triển với nhiều nhà máy, trường học, bệnh viện…cùng mọc lên nên nhu cầu tiêu dùng điện ngày càng tăng lên. Nhưng với đặc điểm của điện - là một sản phẩm không thể tích luỹ trước, mà quá trình sản xuất và tiêu thụ diễn ra đồng thời, do vậy đặc điểm của đầu tư cũng như đầu tư XDCB trong ngành điện là phải: Đầu tư đi trước một bước so với các ngành khác, đầu tư trước về máy móc, thiết bị, nguồn, trạm và đường dây để khi có phát sinh nhu cầu của ngành khác thì sẽ có điện để cung cấp kịp thời và không làm trễ thời gian của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đầu tư XDCB vào ngành điện đòi hỏi một khối lượng vốn rất lớn, vốn để xây dựng các nhà máy điện, trạm điện, đường dây theo một hệ thống đồng bộ mới có thể truyền tải và phân phối điện tới nơi tiêu thụ. Để sản xuất ra điện năng có thể từ nhiều nguồn khác nhau: Thuỷ điện, nhiệt điện, năng lượng hạt nhân…với mỗi phương thức khác nhau đòi hỏi khối lượng vốn sử dụng khác nhau. Do đó mỗi đất nước, mỗi khu vực, mỗi vùng có thể lựa chọn phương thức nào phù hợp nhất với điều kiện hiện có để sản xuất ra điện hợp lý, an toàn và hiệu qủa nhất. Để có được sản phẩm cuối cùng là điện năng đòi hỏi ngành điện phải đầu tư vào nguồn, trạm và đường dây. Đầu tư trong ngành điện chủ yếu là đầu tư về về kỹ thuật, máy móc chứ không đòi hỏi đầu tư vào mua nguyên nhiên vật liệu như các ngành khác. Đầu tư XDXB nguồn điện là đầu tư vào các nhà máy điện, đầu tư vào trạm, đường dây là đầu tư để mua những thiết bị máy móc mới, hiện đại. Nói tóm lại những lĩnh vực cụ thể cần đầu tư trong ngành điện là Thứ nhất, đầu tư vào con người: Ngành điện là một ngành đặc thù về kỹ thuật, nguy hiểm, yêu cầu độ an toàn cao, không giống như những ngành sản xuất khác, trong lĩnh vực sản xuất và phân phối điện không phải bất kỳ người nào cũng có thể làm được mà đòi hỏi người công nhân phải có trình độ chuyên môn cao, không được có bất kỳ một sai sót nào, nếu không dễ nguy hiểm đến tính mạng của nhiều người dân. Chính vì vậy con người là một lĩnh vực, một yếu tố qua trọng để duy trì và phát triển ngành điện, nên đầu tư đào tạo con người là một trong những yếu tố hàng đầu. Thứ hai, đầu tư vào thiết bị: Để có nguồn sáng cung cấp cho nhu cầu của xã hộilà cả một quá trình sản xuất diễn ra liên tục và phức tạp với nhiều máy móc thiết bị để tạo nên một hệ thống điện (Gồm: Nguồn phát điện, lưới truyền tải và hệ thống phân phối). Như vậy đầu tư vào con người và đầu tư vào thiết bị là yếu tố cơ bản để tạo nên sự phát triển bền vững của ngành điện. 3. Vai trò, nhiệm vụ và trình tự đầu tư XDCB các công trình điện Chúng ta có thể khẳng định rằng, không một quốc gia nào trên thế muốn xây dựng nước mình trở thành một nước công nghiệp mà không đầu tư phát triển ngành điện. Do đó ngành điện là một ngành công nghiệp hàng đầu, quan trọng để thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là thước đo trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi nước. Ngành điện là ngành công nghiệp sản xuất ra tư liệu sản xuất, là yếu tố đầu vào không thể thiếu của mọi ngành trong một nền kinh tế hiện đại. Do đó nó quyết định đến trình độ sản xuất và năng suất lao động của các ngành khác cũng như của toàn xã hội, tạo điều kiện phát triển các ngành có liên quan, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hơn nữa, là ngành sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, phục vụ đời sống, sinh hoạt cho các tầng lớp dân cư trong xã hội. Bởi vậy, ngành điện có ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng, trình độ và mức sống cho người dân trong xã hội. Hội nhập nền kinh tế đất nước với nền kinh tế khu vực và thế giới. Đầu tư XDCB các công trình điện là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong hoạt động đầu tư phát triển của ngành điện nói chung cũng như xây dựng phát triển hệ thống lưới điện nói riêng. 3.1. Vai trò, nhiệm vụ đầu tư XDCB các công trình điện 3.1.1. Vai trò đầu tư XDCB các công trình điện Hoạt động đầu tư XDCB các công trình điện là công cụ để thực hiện các nhiệm vụ về sản xuất, kinh doanh, truyền tải điện tới khách hàng. Một doanh nghiệp hay một xí nghiệp trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh điện năng muốn tồn tại và phát triển lớn mạnh phải thực hiện đầu tư XDCB các công trình cung cấp điện tới khách hàng. Đầu tư xây dựng cơ bản các công trình điện giải quyết mối quan hệ cung cầu về điện trên thị trường. Nền kinh tế ngày càng phát triển đi lên thì nhu cầu tiêu thụ điện cho sản xuất kinh doanh, cho sinh hoạt ngày càng lớn, do đó việc tiếp tục đầu tư xây dựng các công trình điện là điều kiện để đảm bảo nhu cầu điện thương phẩm không ngừng gia tăng. Điều đó có nghĩa khi đầu tư XDXB cần phải nghiên cứu nhu cầu, khả năng thanh toán của khách hàng để đáp ứng nhu cầu đó một cách tốt nhất, có hiệu quả nhất trong khả năng của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điện năng nói riêng, của toàn ngành điện nói chung. Một vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động đầu tư XDCB các công trình điện là việc góp phần cải thiện đời sống dân cư, nâng cao trình độ dân trí của các tầng lớp nhân dân, cải tiến bộ mặt kinh tế - xã hội của từng vùng và từng địa phương. Điện sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân dễ dàng tiếp xúc với các công nghệ hiện đại trong nước và trên thế giới, từ đó lựa chọn phương pháp sản xuất kinh doanh tốt. 3.1.2. Nhiệm vụ đầu tư xây dựng cơ bản các công trình điện Những nhiệm vụ cơ bản của hoạt động đầu tư xây dựng các công trình điện: Thứ nhất, xây dựng các công trình đưa điện về các huyện, xã, nhất là các xã vùng sâu vùng xa với chi phí hợp lý, đảm bảo có lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điện năng và cho người dân. Thứ hai, xây dựng các công trình phù hợp với nhu cầu của người dân, phù hợp với chiến lược, qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân. Thứ ba, thực hiện xây dựng, cải tạo các trạm chống quá tải lưới điện (Đối với các công ty điện lực chống quá tải lưới điện các đường dây 35 kV, 110 kV). Cải tạo thay thế các công trình đã cũ nát, đảm bảo truyền tải điện một cách tốt nhất đến người tiêu dùng. Thứ tư, sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, của các tổ chức nước ngoài, của các địa phương thực hiện đầu tư xây dựng các công trình điện đạt hiệu quả cao nhất, chống tham ô, lãng phí. Đảm bảo xây dựng theo qui hoạch xây dựng, kiến trúc, đáp ứng yêu cầu bền vững, mỹ quan, bảo vệ môi trường sinh thái; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong xây dựng, áp dụng công nghệ tiên tiến, đảm bảo chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp lý, thực hiện bảo hành công trình. Thứ năm, đưa ra các kế hoạch và các giải pháp đầu tư xây dựng mang tính thuyết phục nhằm khuyến khích sự bỏ vốn của các tổ chức trong và ngoài nước, đảm bảo phụ thuộc ít nhất vào nguồn vốn của Nhà nước. 3.1.3. Phạm vi điều chỉnh theo nguồn vốn đối với việc đầu tư XDCB các công trình điện Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điện năng, Nhà nước quản lý hoạt động đầu tư XDCB thông qua việc quyết định đầu tư sau khi dự án đã được thẩm định về qui hoạch phát triển của doanh nghiệp kinh doanh điện năng, qui hoạch phát triển ngành, qui hoạch xây dựng đô thị, nông thôn, qui chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn xây dựng, sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái (tuỳ theo yêu cầu đối với từng loại dự án), về phương án tài chính, giá cả và hiệu quả đầu tư của dự án. Các dự án sử dụng vốn tín dụng đầu tư không do Nhà nước bảo lãnh, chủ đầu tư tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư. Các tổ chức cho vay vốn có trách nhiệm xem xét dự án và quyết định cho vay vốn để thực hiện đầu tư hay không. Đối với các dự án sử dụng các nguồn vốn khác, Nhà nước thông qua việc đăng kí kinh doanh, cấp giấy phép xây dựng. 3.2. Trình tự đầu tư XDCB các công trình điện. 3.2.1. Chuẩn bị đầu tư (CBĐT) Nội dung của kế hoạch này là lập báo cáo nghiên tiền cứu khả (BCNCTKT); báo cáo nghiên cứu khả thi (BCNCKT). Kế hoạch chuẩn bị đầu tư phải căn cứ Tổng sơ đồ và qui hoạch được duyệt, kế hoạch dài hạn của Tổng công ty. Trong kế hoạch CBĐT còn bao gồm cả phần kế hoạch về lập qui hoạch và về lập Tổng sơ đồ do nhà nước giao. 3.2.2. Thực hiện đầu tư Kế hoạch này chỉ được ghi vào Kế hoạch đầu tư xây dựng khi đã có BCNCKT được duyệt. Kế hoạch thực hiện đầu tư có nhiệm vụ thực hiện phần thiết kế kỹ thuật (TKKT) và lập tổng dự toán (TDT), ngoài ra còn phải thực hiện lập hồ sơ mời thầu (HSMT), thiết kế kỹ thuật thi công (TKKTTC) và dự toán (DT) của công trình, nhằm chuẩn bị điều kiện để đưa được các công trình vào Kế hoạch đầu tư xây dựng hàng năm, làm cơ sở cho việc lập Kế hoạch đấu thầu hàng năm. Kế hoạch này được thể hiện những công trình đủ điều kiện đưa vào cân đối và bố trí vốn đầu tư theo yêu cầu mục tiêu, tiến độ đã được Tổng công ty duyệt sau khi đã đủ hồ sơ BCNCKT, TKKT, TDT, DT được duyệt. Trong kế hoạch thực hiện đầu tư xây dựng gồm hai loại công trình: * Loại công trình chuyển tiếp từ năm trước sang: Những công trình đã hoàn thành xây lắp nhưng bố trí đủ vốn so với DT và TDT được duyệt hoặc giá trúng thầu đã được duyệt cho công trình. Những công trình chưa thi công xong phải chuyển tiếp (Công trình có tiến độ thi công nhiều năm). Những công trình thực hiện phần quyết toán: sau khi duyệt quyết toán còn thiếu vốn phải được ghi Kế hoạch để hoàn trả. * Các công trình khởi công mới trong năm Kế hoạch: Các công trình khi đưa vào Kế hoạch đầu tư khởi công mới phải có đủ BCNCKT, TKKT, TKKTTC, TDT, DT được duyệt và đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất của Tổng công ty. Đối với các công trình nhóm A, B nếu chưa có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán được duyệt nhưng trong quyết định đầu tư đã qui định mức vốn của từng hạng mục và có thiết kế, dự toán hạng mục thi công trong năm thì được ghi Kế hoạch đầu tư. Các công trình nhóm C phải có đủ thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán được du._.ọng hơn trong điều kiện đang thiếu vốn hiện nay của Công ty để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển khối lượng điện thương phẩm. Huy động được nguồn vốn này bên cạnh việc bổ sung vào phần vốn thiếu hụt để thực hiện hoạt động đầu tư XDCB, Công ty còn tận dụng được lực lượng cán bộ, công nhân của địa phương và nâng cao trách nhiệm của địa phương với các công trình xây dựng điện. Song song với những biện pháp trên, việc sử dụng có hiệu quả đồng vốn cũng như việc không để vốn nhàn rỗi cần phải được quan tâm thường xuyên nhằm thực hiện tốt phương châm chỉ vay khi thực sự cần thiết. 1.2. Giải pháp thứ hai: xây dựng các chủ trương kế hoạch đầu tư hợp lý để hoạt động đầu tư đi đúng hướng và hiệu quả hơn Khâu kế hoạch nếu thực hiện tốt, sâu sát sẽ đóng góp một phần quan trọng để các công trình, các dự án đầu tư xây dựng hoàn thành đảm bảo tiến độ thời gian, chi phí, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư đã bỏ ra, tiết kiệm được nguồn lực hạn chế, bên cạnh đó làm giảm đáng kể việc thất thoát, lãng phí vốn đầu tư. Nhìn chung việc bố trí kế hoạch hàng năm của Công ty còn bộc lộ một số nhược điểm như: Thiếu kế hoạch đầu tư XDCB tổng quát; hàng năm việc phân phối vốn thường mang tính "chia phần" dẫn đến bố trí kế hoạch phân tán, không theo tiến độ thực hiện dự án được phê duyệt… và những tồn tại như đã nêu trên. Công ty cần làm gì trước những tồn tại trên, phải chăng câu trả lời đó là cần phải đưa ra các chủ trương, kế hoạch đầu tư đúng đắn kịp thời. Muốn xây dựng được các chủ trương kế hoạch đầu tư hợp lý để hoạt động đầu tư đi đúng hướng và hiêụ quả, một số điểm Công ty phải chú ý trong công tác lập kế hoạch đó là: a. Xây dựng kế hoạch đầu tư dài hạn (kế hoạch 5 năm). Trên cơ sở đó bố trí thích đáng vốn đầu tư cho công tác chuẩn bị đầu tư, đảm bảo công tác này đi trước một bước để làm cơ sở cho kế hoạch đầu tư hàng năm. b. Đối với kế hoạch đầu tư hàng năm: Thứ nhất, đề ra và sắp xếp các công trình trọng điểm ưu tiên đầu tư, đưa vào danh mục kế hoạch và cung cấp đủ nguồn vốn cho đầu tư toàn bộ, toàn diện và dứt điểm. Thứ hai, kiên quyết loại bỏ khỏi danh mục kế hoạch vốn hàng năm đối với các dự án chưa đủ thủ tục xây dựng cơ bản, hiệu quả kinh tế chưa rõ ràng cho dù đã thi công hoặc đang thi công dở dang. Thứ ba, ưu tiên bố trí vốn cho các dự án hoàn thành trong năm kế hoạch hoặc thi công đúng kế hoạch theo quyết định đầu tư, có chất lượng xây dựng cao, giá thành hạ, sử dụng vật liệu địa phương và áp dụng công nghệ mới. Thứ tư, qui định mức khống chế về vốn cho các loại dự án không được phép bố trí thời gian xây dựng trên một năm. Theo năng lực thực tế của các đơn vị thi công ở nước ta, những dự án có tổng dự toán, dự toán từ 3 tỷ đồng trở xuống đều có khả năng thực hiện trong vòng một năm. Vì vậy những dự án có mức vốn từ 3 tỷ đồng trở xuống chỉ nên bố trí trong một năm kế hoạch phải xong. Thứ sáu, qui định số lượng dự án tối đa được bố trí vào kế hoạch đầu tư hàng năm tương ứng với số vốn hạn mức được bố trí. Thứ bảy, bố trí kế hoạch theo tiến độ thực hiện dự án sao cho sâu sát, nhằm đáp ứng kịp thời những thay đổi của điều kiện bên ngoài tới dự án Thứ tám, các nguyên vật liệu phục vụ vào hoạt động đầu tư chỉ nên nhập khi cần dùng đến. Điều đó sẽ tránh được các chi phí tăng thêm trong quá trình đầu tư như chí phí lưa kho, chi phí bảo quản… 1.3. Giải pháp thứ ba: tăng cường chất lượng lập các thủ tục đầu tư xây dựng Chất lượng của các thủ tục đầu tư xây dựng nó ý nghĩa đến việc thực hiện thành công hay thất bại trong việc tiến hành các giai đoạn tiếp theo của các công trình, các dự án đầu tư. Với những vướng mắc và tồn tại trong khâu lập các thủ tục đầu tư xây dựng như đã nêu ở trên, các biện pháp cụ thể Công ty cần thực hiện trong giai đoạn tới: Thứ nhất, trong nội dung BCNCKT lập đề nghị các Điện lực phải đề cập đến Qui hoạch phát triển lưới điện của địa phương, nội dung xây dựng dự án phải phù hợp với qui hoạch của địa phương. Thứ hai, đối với những dự án cải tạo và phát triển lưới điện có liên quan đến việc qui hoạch phát triển lưới điện các Tỉnh, trong quá trình thẩm tra, phòng Quản lý xây dựng sẽ tổ chức hội nghị mời các đơn vị có liên quan thẩm tra, cơ quan tư vấn thiết kế phải có trách nhiệm bảo vệ nội dung BCNCKT lập. Trên cơ sở những ý kiến tham gia của Hội nghị Điện lực cho hoàn chỉnh đề án báo cáo để Công ty phê duyệt. Thứ ba, khâu triển khai giai đoạn chuẩn bị đầu tư nên thực hiện sớm hơn một bước để các thủ tục thẩm tra, phê duyệt đáp ứng yêu cầu, đủ điều kiện để ghi vào kế hoạch vốn trong năm kế hoạch trình Tổng công ty phê duyệt. Thứ tư, giai đoạn rà soát các danh mục công trình do các điện lực trình duyệt kế hoạch hàng năm phải thực hiện kỹ lưỡng hơn, phối hợp giữa các phòng ban chức năng của Công ty để xác định đúng đắn mục tiêu đầu tư, sự cần thiết khi bảo vệ việc xây dựng kế hoạch danh mục các công trình đầu tư xây dựng, các Điện lực phải bảo vệ được việc đầu tư là phù hợp với qui hoạch chung. Thứ năm, cần giải quyết thật tốt, đầy đủ và chất lượng công tác khảo sát, lập BCNCKT, TKKT, TDT, DT các dự án trước khi khởi công. Chủ nhiệm Ban quản lý dự án là người được giám đốc Công ty giao nhiệm vụ điều hành dự án phải thay mặt Công ty kiểm tra kỹ các tài liệu BCNCKT, TKKT, TDT do tư vấn lập trước khi trình Công ty phê duyệt. Công tác phê duyệt phải tổ chức tốt. Các dự án lớn phải có đơn vị tham mưu trong Công ty tham gia. Việc phê duyệt phải kỹ lưỡng nhằm giảm bớt các phát sinh trong quá trình thi công. Thứ sáu, công ty cần có biện pháp cụ thể cho công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, nhất là các dự án cải tạo lưới điện các thành phố, thị xã. Các ban QLDA cần phối hợp với chính quyền địa phương, các ngành để giải quyết tốt công tác đền bù. Thường xuyên báo cáo Công ty, Tổng công ty và các cấp có thẩm quyền hỗ trợ giải quyết các vướng mắc. Nhất là khi lập BCNCKT cần đề cập đủ kinh phí giải phóng mặt bằng, cần tính toán chi tiết, cụ thể hơn vốn cho công tác này để khi thực hiện đáp ứng đủ vốn, đảm bảo tiến độ, giảm thiểu tình hình ách tắc dự án. 1.4. Giải pháp thứ tư: chấn chỉnh hoàn thiện các khâu để thực hiện tốt công tác đấu thầu Đấu thầu là hình thức lựa chọn nhà thầu tiên tiến đang được áp dụng rộng rãi, có nhiều ưu điểm. Hiệu quả thể hiện không chỉ về mặt kinh tế mà cả tiến độ thi công, thanh quyết toán công trình, giảm tiêu cực và lãng phí. Trong quá trình thực hiện các công trình đầu tư xây dựng cơ bản, Công ty cần đến sự giúp đỡ, hợp tác của các đơn vị chuyên môn khác nhằm xây dựng nên các công trình có chất lượng cao và sử dụng hợp lý nguồn vốn bỏ ra. Để thực hiện được điều đó Công ty phải tiến hành mời thầu. Các nhà thầu phổ biến được gọi tham gia dự thầu là: nhà thầu xây lắp (chiếm trên 90%), nhà thầu thiết kế, nhà thầu cung cấp vật tư thiết bị (chủ yếu các dự án hợp tác nước ngoài). Nhận thức rõ tầm quan trọng và hiệu quả của công tác đấu thầu, các khâu cần thực hiện tốt trong thời gian tới như sau: Trước hết cần chấn chỉnh và hoàn thiện công tác lập kế hoạch đầu tư xây dựng theo hướng đã nêu ở trên. Thứ hai, thực hiện tốt công việc lập hồ sơ mời thầu: việc soạn thảo các yêu cầu ban đầu trong hồ sơ mời thầu cần được quan tâm thích đáng vì nó liên quan đến toàn bộ qúa trình sau này của dự án. Mỗi sai sót, nhầm lẫn hoặc không rõ ràng trong hồ sơ mời thầu đầu dẫn đến tranh cãi hoặc gây thiệt hại cho dự án mà Công ty phải gánh chịu. Quá trình thương thảo hợp đồng là bước quyết định đưa công trình vào xây lắp. Vì vậy ở giai đoạn này Ban quản lý dự án, Công ty điện lực I cần tập trung chỉ đạo để hợp đồng được kí kết đảm bảo đầy đủ, rõ ràng, có tính pháp lý và tính khả thi cao. Thứ ba, chấn chỉnh lại các tổ chức tư nhân, nhận thầu xây lắp, cung ứng vật tư thiết bị, các tổ chức tư vấn nhằm đảm bảo khả năng tham gia đấu thầu của các nhà thầu phù hợp với năng lực về kỹ thuật và tài chính của mình. Riêng đối với nhà thầu xây lắp, nếu thi công không đảm bảo tiến độ, chất lượng … đề nghị cho chấm dứt hợp đồng và giao nhà thầu khác tiếp tục thực hiện trên cơ sở giữ nguyên giá thầu, thời gian thi công của hợp đồng đã ký trước. Để làm tốt công tác đấu thầu, có chủ trương đúng đắn của Giám đốc Công ty, có nhiệt tình của cán bộ chuyên môn từ cơ sở đến Công ty chưa đủ mà cần phải thực sự đi sâu nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, trau dồi trình độ nghiệp vụ tổ chức thực hiện tốt công tác đấu thầu. 1.5. Giải pháp thứ năm: cải tiến thủ tục, qui định rõ trách nhiệm từng khâu của các cơ quan có liên quan trong quá trình cấp phát vốn thanh toán Giải ngân vốn còn chậm là một trong những tồn tại của Công ty trong những năm qua. Nhiều đơn vị quản lý dự án đợi đơn vị thi công hoàn thành công trình rồi mới làm thủ tục thanh quyết toán 1 lần nên có khi vốn bị dồn lại hoặc bên B bị thiếu vốn. Một số ban quản lý dự án không tích cực làm thủ tục thanh quyết toán cho bên B với nhiều lý do khác nhau. Vì thế, để khắc phục tình trạng trên cần qui định rõ trách nhiệm từng khâu, từng cấp, từng đơn vị có liên quan một cách cụ thể, thời hạn phải thực hiện giải ngân kèm với chế độ thưởng, phạt nghiêm minh. 1.6. Giải pháp thứ 6: chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật quyết toán công trình, dự án hoàn thành Chế độ hiện hành qui định khi công trình dự án hoàn thành đưa vào sử dụng, chậm nhất là 6 tháng chủ đầu tư phải quyết toán để đánh giá và bàn giao tài sản cho đơn vị sử dụng. Trong thực tế nhiều công trình dự án của các ngành TW và địa phương chưa thực hiện tốt công tác này và đối với việc quyết toán các công trình điện ở Công ty điện lực I cũng còn không ít hạn chế tồn tại. Hiện nay nhiều công trình đã đưa vào sử dụng từ lâu nhưng chưa làm quyết toán. Để chấn chỉnh, giải quyết dứt điểm các tồn tại trong công tác quyết toán công trình, dự án hoàn thành Công ty cần thực hiện một số biện pháp: Thứ nhất, cần thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư: tăng cường chất lượng công tác khảo sát sơ bộ dự án, công tác lập BCNCKT để tạo tiền đề cho quá trình quản lý đầu tư được thuận tiện và giúp cho công tác quyết toán được nhanh chóng và đạt hiệu quả cao. Đồng thời tạo điều kiện để thực hiện tốt quá trình lập, thẩm tra và duyệt quyết toán. Thứ hai, các đơn vị căn cứ vào các biên bản nghiệm thu tại thời điểm thi công triển khai ngay công tác quyết toán A-B, khi thanh toán tại quỹ hỗ trợ phát triển địa phương phải rà soát ngay các phiếu giá, đối chứng từng khoản thanh toán theo dự án và theo khoản mục. Trách nhiệm này thuộc về các đồng chí Kế toán trưởng và kế toán thanh toán các đơn vị. Thực tế cho thấy khi quyết toán các đơn vị chỉ có số liệu cấp phát của dự án còn giá trị vốn cấp tương ứng với các khối lượng nào trong quyết toán thì nhiều đơn vị còn lúng túng. Chính đây là nguyên nhân cơ bản chiếm nhiều thời gian của các đơn vị khi về duyệt quyết toán tại Công ty. Nếu việc này được thẩm tra kỹ trước khi thanh toán và có cập nhật theo dõi sẽ rất thuận lợi khi thực hiện công tác quyết toán. Tồn tại này được khắc phục sẽ giảm đáng kể thời gian quyết toán của đơn vị tại Công ty. Thứ ba, khi dự án có các thay đổi về khối lượng thiết kế dự toán hoặc Nhà nước có thay đổi về chế độ hoặc định mức các đơn vị phải trình duyệt bổ sung dự toán hoặc điều chỉnh tổng mức đầu tư ngay không để khi kết thúc mới làm điều chỉnh. Các dự toán trình điều chỉnh phải nhất thiết phải phân định rõ thời điểm. Trên cơ sở này các bộ phận duyệt quyết toán sẽ có cơ sở sử dụng lại các kết quả và giảm được hao phí thời gian do phải làm đi làm lại. Các dự án khi duyệt dự toán cần lưu giữ dự toán chi tiết làm căn cứ cho công tác cấp phát vốn cũng như công tác quyết toán dự án khi kết thúc nhất là ở các Điện lực Cao Bằng, Ninh Bình, Lào Cai. Thứ tư, hiện nay theo qui định hiện hành được ghi trong qui chế đầu tư việc quyết toán các dự án trách nhiệm chính thuộc về chủ đầu tư. Do vậy khi quyết toán các dự án đề nghị các đơn vị rà soát kỹ lưỡng trước khi trình về Công ty không nên để tình trạng AB cứ ký còn về Công ty mới là quyết định. 1.7. Các giải pháp cơ bản khác: Thực hiện nghiêm ngặt công tác quản lý tiến độ và chất lượng xây dựng công trình. Đối với việc quản lý công trình trong quá trình xây lắp, tư vấn giám sát xây dựng giúp Ban quản lý dự án làm nhiệm vụ giám sát là chủ yếu. Những công trình không có tư vấn giám sát thì phải bố trí lực lượng đủ trình độ, kinh nghiệm, trách nhiệm giám sát để đảm bảo chất lượng, tiến độ thi công các dự án. Công ty phải theo dõi chặt chẽ tiến độ, khối lượng, chất lượng của dự án. Củng cố và tăng cường vai trò của Ban quản lý dự án là người đại diện chủ đầu tư tại công trường, được phân cấp giải quyết nhanh chóng những vấn đề phát sinh cấp bách để đảm bảo tiến độ và chất lượng. Đồng thời cần có chế độ lương thưởng hợp lý để thu hút được cán bộ cho Ban QLDA vì thời gian qua Ban QLDA gặp nhiều khó khăn về chế độ, về công ăn việc làm lâu dài nên không những không khuyến khích thu hút được cán bộ mà trái lại làm nhiều cán bộ không yên tâm công tác đã bỏ việc hoặc xin chuyển đi nơi khác. Giải quyết sớm các thủ tục cho vay vốn trong và ngoài nước để đáp ứng đủ vốn cho các công trình đã có đủ các điều kiện thanh toán Phát động phong trào thi đua trong toàn Công ty trong thời gian tới với nội dung: Quyết tâm xây dựng các công trình trong công ty hoàn thành đúng mục tiêu, đảm bảo khối lượng và giá trị thanh toán, hạ giá thành đầu tư xây dựng, đảm bảo chất lượng, tuyệt đối an toàn trong thi công. 2. Về phía Tổng công ty và Nhà nước 2.1. Giải pháp thứ nhất: Cải thiện môi trường pháp lý và tăng cường thể chế Việc quản lý điện của nước ta hiện nay chưa có qui định chặt chẽ về vi phạm trong sử dụng điện: câu móc điện, quay công tơ… vẫn còn nhiều. Trong điều kiện hiện nay, Nhà nước chưa có khả năng đầu tư quản lý toàn bộ lưới điện nhất là lưới điện nông thôn, chủ yếu vẫn do các địa phương tự đầu tư và trực tiếp quản lý, đặc biệt là lưới điện hạ thế. Trong lĩnh vực quản lý điện cho đến nay, văn bản pháp luật quản lý chuyên ngành có hiệu lực pháp luật cao nhất chỉ có Nghị định 80 HĐBT ban hành ngày 19/07/1983 và Nghị định 54/1989 NĐCP ban hành ngày 08/07/1989 của Chính phủ về bảo vệ an toàn hành lang lưới điện. Điều cần quan tâm là cả hai văn bản này chủ yếu chỉ đặt ra yêu cầu về quản lý điện, còn việc xử lý vi phạm thì không đề cập đến. Hơn nữa, Nghị định 80/HĐBT được ban hành từ thời cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên có một số nội dung không phù hợp với cơ chế mới hiện hành. Từ thực tế trên, chúng ta thấy rằng việc quản lý bằng pháp luật các hoạt động có liên quan đến điện là một tất yếu khách quan và ngày càng đặt ra bức xúc với nhiều quan hệ pháp luật đan xen phức tạp. Yêu cầu phải có qui trình quản lý, điều hành thống nhất trong sản xuất, truyền tải, phân phối và tiêu dùng một cách đầy đủ, cụ thể và phải được mọi người - cả người sản xuất và người tiêu dùng quán triệt tuân thủ nghiêm minh. Để tạo cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động điện lực, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động quản lý Nhà nước về điện lực, cho các hoạt động kiểm soát và điều phối thị trường điện luật điện cần sớm được ban hành. Trên cơ sở luật điện những quyền lợi chính đáng của người dùng điện được bảo vệ. Luật điện sẽ qui định rõ nhiệm vụ của cơ quan hoạch định chính sách, nhiệm vụ của các cơ quan điều tiết, nghĩa vụ và quyền hạn của các doanh nghiệp điện lực đối với các cơ quan Nhà nước và đối với khách hành của mình. Về mặt thể chế, cơ quan có trách nhiệm về lập chính sách năng lượng quốc gia cũng cần sớm được hình thành để lập các chính sách dài hạn và trung hạn, mặt khác để phối hợp hoạt động giữa các tiểu ngành năng lượng. Cơ quan điều tiết điện lực cần sớm được thành lập, đây là một cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng kiểm soát việc chấp hành luật điện lực và các chính sách điện lực, kiểm soát biểu giá và chất lượng cung cấp điện năng, kiểm soát mối quan hệ và điều chỉnh mối quan hệ giữa bên cung ứng điện với khách hàng và mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp Điện lực 2.2. Giải pháp thứ hai: Xây dựng một chiến lược về nguồn tài chính phục vụ cho nhu cầu phát triển ngành Điện Phát triển ngành điện không chỉ chờ vào ngoại lực, các biện pháp nội lực về tài chính gắn chặt với chính sách giá. Giá điện trung bình hiện nay ở mức 5 cent/kWh là quá thấp so với chi phí biên dài hạn và đe doạ tới sự phát triển lâu dài của ngành điện. Với mức giá này nếu tiếp tục duy trì thì Tổng công ty điện lực Việt Nam sẽ không đủ tài chính để trang trải cho việc phát và phân phối thêm điện trước nhu cầu đang ngày càng tăng. Đồng thời khả năng trả nợ của Tổng công ty cũng như những khoản phải thanh toán theo hợp đồng sẽ phải phụ thuộc vào việc tăng giá điện của Chính phủ và kết quả của chương trình cắt giảm chi phí của EVN (cắt giảm bớt chi phí như chi phí khấu hao máy móc thiết bị, chi phí quản lý, tìm phương thức giảm bớt tỷ lệ hao hụt trên đường truyền..). Theo tính toán của ngành điện, nhu cầu điện đến năm 2010 tăng lên tới 10.000 MW và cần khoảng 9,5 tỷ USD. Mức đầu tư cao như vậy mà giá điện vẫn thấp sẽ gây nên tình trạng thua lỗ và lâu dài chắc chắn ngành Điện sẽ không thể hấp dẫn các nhà đầu tư tư nhân vào các dự án BOT. Do vậy, việc sớm xác định giá điện hợp lý, giá điện phải được xác định trên cơ sở chi phí biên dài hạn để đáp ứng nhu cầu về vốn, vừa để thoã mản điều kiện vay vốn của các tổ chức nước ngoài, đồng thời cũng để đáp ứng cho mục tiêu phát triển bền vững của ngành Điện là vấn đề cốt yếu nhất hiện nay. Tăng giá điện là cần thiết nhưng phải chọn đúng thời điểm. Việc sử dụng vốn vay nước ngoài cần được tính toán kỹ phù hợp với khả năng trả nợ, cần tập trung vốn cho các công trình có hiệu quả kinh tế cao và có tính đến thời hạn thực tế của việc đưa công trình vào khai thác sử dụng. Huy động vốn của các khu vực tư nhân để phát triển Điện lực thông qua đầu tư các nhà máy điện dưới hình thức nhà sản xuất điện độc lập (IPP), Xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT), thành lập các công ty cổ phần phát điện hoặc phân phối điện…Theo định hướng phát triển, giai đoạn 2001- 2010 EVN cần tập trung vốn cho công trình thuỷ điện Sơn La nên hình thức đầu tư BOT sẽ tiếp tục được khuyến khích. Một số dự án thuỷ điện có chỉ tiêu kinh tế hấp dẫn sẽ được EVN đưa ra đấu thầu để chọn nhà phát triển theo dạng BOT. Các công ty cổ phần phát điện hoặc phân phối điện sẽ được tổ chức. Tổng công ty Điện hoặc các doanh nghiệp khác có thể đóng vai trò thành viên sáng lập để huy động vốn từ các nguồn ngoài EVN, trong đó các cán bộ EVN sẽ được ưu tiên hàng đầu. Ngoài ra Nhà nước cần có những chương trình cấp vốn ngắn hạn, phục vụ cho kế hoạch cải tạo và hoàn thiện lưới điện hiện tại, cần có chương trình đầu tư dài hạn phục vụ kế hoạch phát triển lưới điện với qui mô rộng lớn. Như vậy việc huy động nguồn vốn trong và ngoài nước sẽ giúp Công ty điên lực I nói riêng, ngành điện Việt Nam phát triển ngày một lớn mạnh hơn trong xu hướng cạnh tranh và hội nhập. 2.3. Giải pháp thứ ba: nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua việc giao giá hạch toán nội bộ cho các nhà máy điện và thực hiện tốt cơ chế giá bán điện nội bộ cho các công ty điện lực (CTĐL). Việc giao giá hạch toán nội bộ cho các nhà máy điện sẽ tăng cường hơn nữa tính chủ động của các nhà máy điện trong vận hành và đặc biệt là trong sửa chữa, thúc đẩy việc tiết kiệm chi phí, hợp lý hoá trong sản xuất, gắn thu nhập của người lao động với kết quả hoạt động của nhà máy. Mặt khác giá hạch toán cũng là thước đo hiệu quả sản xuất của từng nhà máy điện. Theo kế hoạch, việc thực hiện giá hạch toán nội bộ được thí điểm ngay trong năm 2001và sẽ được áp dụng rông rãi từ đầu năm 2002. Đây chính là bước chuẩn bị chuyển các nhà máy điện sang hạch toán kinh doanh và tiến tới đủ khả năng tham gia cạnh trang trên thị trường điện trong tương lai. Các công ty điện lực là những đơn vị hạch toán độc lập đã thực hiện cơ chế theo giá nội bộ từ nhiều năm, trong cơ chế mới cần thực hiện tốt hơn nữa phương thức này. Thực chất của giải pháp này là giao thêm quyền hạn và trách nhiệm cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, qua đó nâng cao hiệu quả kinh tế của toàn Tổng công ty. 2.4. Giải pháp thứ tư: Về quản lý kinh tế và quản lý vốn Việc phát triển ngành Điện lực có hiệu quả và giảm chi phí đầu tư không thể tách khỏi vấn đề tiết kiệm năng lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng nói chung và đặc biệt là năng lượng điện. Tiết kiệm một đồng cho đầu tư ngành Điện lực là tiết kiệm tài nguyên quốc gia, bảo vệ môi trường, đó không chỉ là yêu cầu đối với các quốc gia nghèo mà ngày nay còn là vấn đề của mọi quốc gia trên thế giới. Vì vậy biện pháp cần thực hiện đó là thực hành tiết kiệm sâu sắc và triệt để hơn để giảm các chi phí sản xuất kinh doanh, ít nhất là 5% so với kế hoạch. Thực hiện chính sách “tiết kiệm điện là quốc sách” để giảm bớt gánh nặng quá tải đối với ngành điện hiện nay đặc biệt trong những giờ cao điểm. Phân cấp rộng hơn về quyền huy động vốn: Tổng công ty yêu cầu các CTĐL phải tự vay vốn để đầu tư phát triển, kể cả điện nông thôn và các công trình 110 KV do công ty quản lý. Điện lực tỉnh cũng được giao quyền vay vốn để thực hiện các dự án lưới điện qui mô nhỏ. Vốn do Tổng công ty vay phục vụ cho các dự án phát điện được giao cho các nhà máy điện tương ứng quản lý và đưa các chi phí vốn vào giá thành của các nhà máy điện để từng bước tính đúng, tính đủ giá thành chuẩn bị cho giai đoạn tham gia thị trường điện. Giao chỉ tiêu lợi nhuận cho từng đơn vị. Cần quan tâm nhiều hơn tới công tác quản lý vật tư, xác định khối lượng dự trữ hợp lý về nhiên liệu, vật tư và phụ tùng thay thế. Xoá bỏ hẳn cai thầu trong kinh doanh, phân phối điện hiện nay để giảm gánh nặng về giá điện cho các hộ dân tiêu thụ điện. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước, tiếp tục xây dựng và ban hành các văn bản qui phạm pháp luật về sản xuất và kinh doanh điện năng, giảm bớt các qui trình thủ tục phiền hà trong cơ chế chính sách. Rà soát và hoàn chỉnh hệ thống qui chế, qui định về về quản lý kinh tế và quản lý vốn để phù hợp với tinh thần quản lý mới trong xu thế hiện nay. EVN cần đầu tư nhiều hơn cho đổi mới công nghệ đặc biệt là các máy móc, thiết bị của những nhà máy điện tiên phong. Cần quan tâm đến việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý ngành để có thể nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác, đầy đủ. 2.5. Giải pháp thứ năm: tăng cường cơ chế quản lý lao động và tiền lương nhằm gắn chặt quyền lợi người lao động với kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Việc giao đơn giá tiền lương cho các CTĐL không chỉ dựa và sản lượng điện tiêu thụ mà còn lệ thuộc vào các chỉ tiêu năng suất lao động, lợi nhuận, tỷ lệ tổn thất điện năng, hệ số an toàn… Cần quản lý chặt chẽ hơn nữa số lượng lao động. Các đơn vị chỉ được phép tuyển dụng lao động dưới số lượng đã được Hội đồng Quản trị công ty duyệt hàng năm. Mặt khác việc tuyển dụng phải theo qui chế của Tổng công ty. 2.6. Giải pháp thứ sáu: Mở rộng thị trường điện lực Trong những năm gần đây, hầu hết các quốc gia đều cải tổ ngành điện theo xu hướng tách rời các khâu phát điện, truyền tải điện và phân phối điện. Hiện nay Điện lực là Tổng công ty khép kín từ khâu phát đến khâu phân phối, các đơn vị trong khâu phát và khâu truyền tải hạch toán phụ thuộc vào Tổng công ty, các Công ty phân phối tuy hạch toán độc lập nhưng chỉ có quyền tự chủ ở mức thấp, với hình thức tổ chức này thể hiện mức độ tập trung cao, tạo thuận lợi cho quá trình tích tụ nhưng không thúc đẩy được yếu tố cạnh tranh, hạn chế tính độc lập và tính năng động của các đơn vị sản xuất. Do vậy Nhà nước và Tổng công ty điện lực Việt Nam cần có chính sách mở rộng thị trường điện lực, nên phân định rõ hơn việc cạnh tranh trong những khâu nào, khâu phát điện, khâu phân phối điện hay khâu chuyển tải điện…Việc truyền tải điện bằng đường dây cao thế hay hạ thế có thể là khâu độc quyền, nhưng việc sản xuất điện và phát điện nên để cho các doanh nghiệp mọi thành phần tham gia và cạnh tranh. Như vậy sẽ có lợi cho cả hai chiều, Chính phủ không phải gánh chịu những rủi ro quá lớn, việc đầu tư cho sản xuất điện sẽ thu hút thêm nhiều nhà đầu tư tư nhân. Kinh nghiệm một số nước cũng đã đưa ra những mô hình như vậy và cho thấy hiệu quả rất cao. Đồng thời, tiến hành liên kết mua bán điện với các nước trong khu vực để tạo một thị trường điện liên quốc gia và đẩy mạnh sự cạnh tranh lành mạnh. Để mở rộng thị trường điện lực, lộ trình cải tổ dự kiến như sau: - Năm 2002, EVN sẽ giao giá hạch toán nội bộ cho các nhà máy trực thuộc để từng bước có cơ sở hạ giá thành sản xuất và giá bán điện. - Năm 2003, chuẩn bị chuyển một số nhà máy hiện có thành Công ty TNHH 100% vốn Nhà nước. - Năm 2004, thực hiện cơ chế chào giá cạnh tranh trên thị trường điện với mức độ hạn chế khoảng 20 % nhu cầu. Việc thực hiện các giải pháp trên sẽ từng bước thúc đẩy quá trình đầu tư phát triển ngành điện ngang tầm với nhiệm vụ chiến lược mới mà Đảng và Nhà nước giao phó, đồng thời là một bước chuẩn bị quan trọng để chuyển các doanh nghiệp Điện lực sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các nhà máy, các CTĐL ngày càng nhiều hơn, song trách nhiệm và hiệu quả kinh tế cũng đòi hỏi cao hơn. Với phương hướng trên chúng ta hy vọng Tổng công ty Điện lực Việt Nam sẽ phát triển mạnh cả về chất lượng lẫn số lượng. Kết luận Dưới ánh sáng đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế, công cuộc Công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong thời gian qua đã đạt một số thành tựu có ý nghĩa bước ngoặt. Thực hiện nghiêm túc lời chỉ dẫn của Lênin với luận điểm nổi tiếng của người “ Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hoá toàn quốc”, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến phát triển công nghiệp Điện Lực. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III năm 1960 đã khẳng định: “Điện Lực cần đi trước một bước”. Thành tựu xây dựng và phát triển điện năng trong những thập kỹ qua nhất là sau 15 năm đổi mới tự nó nói lên những cống hiến đáng tự hào của Điện Lực Việt Nam nói chung và của Công ty điện lực I nói riêng. Càng tự hào với những gì đã đạt được, Công ty cần nhận thức rõ hơn trách nhiệm nặng nề trên con đường thực hiện những mục tiêu đã đề ra. Không có điểm dừng, càng không có điểm lùi, cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty phải không ngừng phát huy truyền thống cách mạng, phát huy nội lực, tranh thủ có hiệu sự hợp tác quốc tế, vượt qua khó khăn, khắc phục những yếu kém trong hoạt động đầu tư XDCB, quản lý, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển, tăng cường hơn nữa trong công tác đầu tư xây dựng các công trình điện xứng đáng là một bộ phận hợp thành ngành cơ sở hạ tầng trọng yếu của cả nước, luôn “đi trước” hỗ trợ cho các ngành kinh tế xã hội phát triển và sánh vai được với ngành điện các nước trong khu vực. Qua đề tài này, trước hết tôi mong muốn sẽ giúp chính bản thân tổng hợp được những kiến thức đã được học trong những năm qua, tích luỹ được một số kinh nghiệm thực tế và tôi mong rằng chuyên đề của mình sẽ đóng góp một phần nào đó trong việc giải quyết những vướng mắc, tồn tại trong hoạt động đầu tư XDCB ở Công ty điện lực I để đưa Công ty trở thành một DNNN hàng đầu có một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến và một phong cách phục vụ văn minh, phù hợp lòng dân. Mặc dù đã có nhiều cố gắng tìm hiểu thực tế, nghiên cứu tài liệu và tham khảo ý kiến về tình hình đầu tư XDCB của Công ty điện lực I, song do thời gian và khả năng có hạn nên chắc chắn bài viết sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tôi mong vấn đề này sẽ được tập trung nghiên cứu ở góc độ sâu hơn trong những báo cáo chuyên đề khác, nhằm tiếp tục đưa Công ty hoạt động có hiệu quả hơn. Một lần nữa tôi xin cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo đã giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này đặc biệt là cô giáo Nguyễn Thị ái Liên, chú Phạm Bình Minh - những người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm chuyên đề. Tôi xin cảm ơn các phòng ban Công ty điện lực I đã giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ thực tập. Tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế đầu tư - Trường đại học KTQD NXB giáo dục, Hà Nội - 1998 Giáo trình lập và quản lý dự án đầu tư - Trường đại học KTQD NXB giáo dục, Hà Nội- 1998 Giáo trình kinh tế các ngành sản xuất vật chất Trường đại học KTQD NXB giáo dục - 1999 Giáo trình kinh tế phát triển - Trường đại học KTQD NXB Thống Kê, Hà Nội - 1999 Kế hoạch đầu tư xây dựng- Công ty điện lực I các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2001, 2002. Báo cáo thực hiện Kế hoạch đầu tư xây dựng- Công ty điện lực I các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2001. Báo cáo Hội nghị tổng kết công tác đầu tư xây dựng - Tổng công ty điện lực Việt Nam Báo cáo tổng kết công tác sản xuất kinh doanh - Công ty điện lực I các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2001. Báo cáo công tác đấu thầu - Công ty điện lực I các năm 1998, 1999, 2000, 2001. Báo cáo Phòng điện nông thôn - Công ty điện lực I các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Baó cáo công tác Quản lý kỹ thuật - Công ty điện lực I các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Báo cáo Phòng kinh tế đối ngoại - Công ty điện lực I các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Bộ năng lượng - viện năng lượng - Tổng sơ đồ phát triển điện lực Việt Nam giai đoạn 1992 - 1995, có xét triển vọng đến năm 2001 Bộ năng lượng - viện năng lượng - Tổng sơ đồ phát triển điện lực Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010, có xét triển vọng đến năm 2020 Bộ năng lượng - Tổng công ty Điện lực Việt Nam - Tổng sơ đồ giai đoạn IV, phụ lục I , II - Hà Nội 9/ 1995 Bộ công nghiệp - Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 2000 và định hướng kế hoạch 2001 - Hà Nội 12/2000 Bộ công nghiệp - Báo cáo tình hình hoạt động 5 năm (1996 - 2000, năm 2000 và chương trình công tác năm 2001 của Bộ công nghiệp 2001- Hà Nội 1/2001. Qui hoạch cải tạo và phát triển lưới điện miền Bắc đến năm 2005 Tài liệu của Ngân hàng thế giới - Việt nam tổng quan chính sách và đầu tư ngành năng lượng Tạp chí Điện Lực các năm 1996,1997, 1998, 1999, 2000, 2001 Tạp chí Xây dựng điện Việt Nam số 2, 3+4, 6/ 2001 Tạp chí Điện và Đời sống năm 2000, 2001 Tạp chí Thông tin quản lý ngành Điện số 4,6,7- 2000, số 1,2,5,8,10 - 2001 Tạp chí công nghiệp số 7/1998; số 3,7,8,10,12/1999; 3,4/2000; Tạp chí Kinh tế phát triển số 117/2000; số 128/ 2001 Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 11/1999; số 15/2000 Tạp chí Tài chính số 9,10/1998 Thời báo kinh tế Việt Nam các số năm 2000, 2001 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0012.doc
Tài liệu liên quan