Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam

Lời cảm ơn Em xin chân thành cảm ơn gia đình, nhà trường, các thầy cô giáo và bạn bè-những người đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập dưới mái trường Đại học Ngoại Thương. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô giáo Thạc sỹ Nguyễn Thị Việt Hoa, người đã chỉ bảo giúp đỡ tận tình để em hoàn thành bài khoá luận này. Hà Nội 12/2002 Sinh viên Nguyễn Thị Thanh Hà Mục lục Lời mở đầu ......................................................................................

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.............1 Chương 1: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)...............3 1. Khái niệm và đặc điểm của FDI..................................................................3 1.1 Khái niệm FDI.............................................................................................3 1.2 Đặc điểm của FDI......................................................................................4 2. Vai trò của FDI............................................................................................5 2.1 Đối với nước chủ đầu tư.............................................................................5 2.2 Đối với nước tiếp nhận đầu tư ...................................................................6 3. Xu hướng vận động của dòng FDI trên thế giới hiện nay............................7 3.1 Dòng FDI ngày càng tăng và tập trung vào các nước phát triển................8 3.2 Các công ty xuyên quốc gia (TNCs) ngày càng đóng vai trò quan trọng trong dòng lưu chuyển FDI..................................................................11 3.3 Sáp nhập và mua lại trở thành hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế .13. 3.4. Lĩnh vực đầu tư có sự thay đổi sâu sắc...................................................16 Chương II: Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 đến nay..................................................................................18 1 Đánh giá về lợi thế và bất lợi thế của Nhật Bản khi tham gia vào hoạt động đầu tư quốc tế.......................................................................................18 1.1 Lợi thế......................................................................................................18 1.1.1 Tiềm lực tài chính hùng mạnh...................................................18 1.1.2 Khoa học công nghệ hiện đại.....................................................19 1.1.3 Kinh nghiệm quản lý tiên tiến và độc đáo..................................20 1.2. Bất lợi thế................................................................................................20 1.2.1 Một đất nước nghèo tài nguyên thiên nhiên...............................20 1.2.2 Vai trò của Nhật Bản trên trường quốc tế còn hạn chế...............21 2. Chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 đến nay.........................................................................................................22 3. Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của nhật Bản từ năm 1990 đến nay.................................................................................................................24 3.1 Quy mô và tốc độ tăng vốn đầu tư...........................................................24 3.2 Địa bàn đầu tư.........................................................................................26 3.2.1 Bắc Mỹ và EU- Địa bàn đầu tư chủ yếu.....................................26 3.2.2 Châu á- Địa bàn đầu tư ngày càng quan trọng..........................30 3.3 Lĩnh vực đầu tư........................................................................................32 3.3.1 Đầu tư vào lĩnh vực chế tạo có xu hướng giảm so với đầu tư vào . lĩnh vực phi chế tạo..............................................................................32 3.3.2 Tập trung vào đầu tư vào ngành phi chế tạo ở Bắc Mỹ và EU...35 3.3.3 Ưu tiên vào ngành chế tạo ở Châu á ........................................36 3.4 Hình thức đầu tư......................................................................................38 3.4.1 Mua lại và sáp nhập....................................................................39 3.4.2 Cho vay dài hạn..........................................................................41 3.4.3 Thành lập các nhà máy mới.......................................................42 4. Đánh giá về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 đến nay.........................................................................................44 4.1. Những thành tựu đạt được......................................................................44 4.1.1 Hoạt động JDI đã góp phần thực hiện thành công chính sách đối ngoại của Nhật Bản.......................................................................44 4.1.2 Cơ hội kinh doanh của các công ty Nhật Bản ngày càng được mở rộng...............................................................................................46 4.1.3 Thế cân bằng trong quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản với Mỹ và EU được tạo lập...................................................................................................49 4.2. Một số hạn chế tồn tại và nguyên nhân..................................................52 4.2.1. Một số hạn chế tồn tại...............................................................52 4.1.2 Nguyên nhân..............................................................................57 Chương III: JDI ở Việt Nam và một số giải pháp để Việt Nam tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản...........................................................62 1. Sơ lược về tình hình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam từ 1988 đến nay................................................................................................62 1.1 Khái quát về tiến trình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam từ năm 1988 đến nay....................................................................................63 1.2 Quy mô dự án đầu tư...............................................................................64 1.3 Cơ cấu lĩnh vực đầu tư.............................................................................65 1.4 Hiệu quả của những dự án JDI ở Việt Nam.............................................66 1.5 Một số hạn chế tồn tại.............................................................................68 2. Xu hướng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản trong những năm đầu thế kỷ 21.................................................................................................69 2.1. Duy trì thị trường đầu tư truyền thống, tăng cường khai thác mở rộng thị trường mới........................................................................................69 2.2. Tiếp tục khai thác lĩnh vực đầu tư thế mạnh đồng thời khai thác đầu tư các ngành mới.....................................................................................74 3. Chiến lược thu hút FDI của Việt Nam ......................................................75 4. Một số giải pháp để Việt Nam tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản .......................................................................................................76 4.1. Xóa đi tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư Nhật Bản về môi trường đầu tư Việt Nam ...........................................................................................77 4.2. Phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam so với các nước trong khu vực..80 4.3. Tăng cường hợp tác với Nhật Bản trong lĩnh vực đầu tư........................82 Kết luận........................................................................................................85 Danh mục tài liệu tham khảo.........................................................................87 Phụ lục Lời mở đầu Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong những năm qua đã có những bước tiến đáng kể do sự lạc quan của các nhà đầu tư nước ngoài về những thành công của Việt Nam trong tiến trình đổi mới và những nỗ lực của Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư trở nên thuận lợi và hấp dẫn hơn. Nhiều đối tác đầu tư đã đến với Việt Nam và một trong những đối tác đầu tư quan trọng nhất là Nhật Bản. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản (JDI) có tầm quan trọng đối với Việt Nam bởi nhiều lẽ. Thứ nhất, Nhật Bản là quốc gia phát triển nhất nhì thế giới với tiềm lực tài chính hùng hậu, công nghệ hiện đại, những thứ mà Việt Nam còn yếu, còn thiếu và cần phải tranh thủ. Thứ hai, Nhật Bản đang hướng mạnh chính sách đối ngoại của mình trở về Châu á, đặc biệt là đông á, Đông Nam á (ASEAn) trong đó có Việt Nam. Thứ ba, các dự án đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam trong thời gian qua được đánh giá là thành công, nếu xét về phương diện vốn đầu tư thực hiện và tính hiệu quả thì cho tới nay tại Việt Nam chưa có nhà đầu tư nào vượt qua được Nhật Bản. Cuối cùng, mối quan hệ hợp tác hữu nghị trong gần 30 năm qua là cơ sở vững chắc để phát triển mối quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ đầu tư Việt Nam-Nhật Bản nói riêng trong tương lai. Do tầm quan trọng của nguồn vốn JDI, Việt Nam cần có các giải pháp hợp lý để tăng cường thu hút nguồn vốn này. Để đưa ra được các giải pháp hữu hiệu thì trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu xem mục đích của Nhật Bản khi tham gia vào đầu tư quốc tế là gì? Xu hướng vận động của dòng JDI trong thời gian qua ra sao? Các ngành nào Nhật Bản có thế mạnh và đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài? Chiến lược của các nhà đầu tư Nhật Bản trong thời gian tới như thế nào? Trên cơ sở trả lời các câu hỏi này thì chúng ta sẽ định hướng quy hoạch chiến lược thu hút đầu tư để kêu gọi đầu tư của Nhật Bản ra sao? Những giải pháp nào nhằm củng cố niềm tin của các nhà đầu tư Nhật Bản vào môi trường đầu tư của Việt Nam? Đây cũng là lý do mà tôi lựa chọn đề tài “Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam “. Khi lựa chọn đề tài này tôi nghĩ rằng mình đă thực hiện được cả hai mục đích, vừa hiểu được tính hình JDI vừa tìm hiểu được tình hình tiếp nhận đầu tư những lợi thế cũng như những khiếm khuyết của môi trường đầu tư ở Việt Nam. Tất nhiên có nhiều lĩnh vực khác có thể hay hơn đề tài mà tôi đã lựa chọn nhưng đối với tôi, đây có lẽ là một công việc tâm đắc nhất mà tôi đã làm trong thời sinh viên của mình, bởi nó không chỉ chứa đựng những trí thức mà tôi đã dày công tìm kiếm và học hỏi mà nó còn là bản khoá luận tốt nghiệp đánh giá kết quả của tôi trong suốt quá trình học tập. Khi lựa chọn đề tài này tôi đã gặp được một số thuận lợi bởi tôi đã có một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu và sưu tầm tài liệu. Bên cạnh đó tôi cũng nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn bè trong việc thu thập tài liệu. Đặc biệt, tôi đã nhận được sự quan tâm chỉ bảo của cô giáo, Thạc sỹ Nguyễn Thị Việt Hoa cũng như các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Ngoại thương. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất đối với tôi là những tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về JDI trong những năm gần đây còn hạn chế. Hơn nữa, trong việc thu thập số liệu mới, cập nhật tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn. Bởi vậy, với khả năng còn hạn hẹp tôi không giám khẳng định mình sẽ đưa ra được một chuyên luận hoàn chỉnh về tình hình JDI và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Trong quá trình hoàn thành bài khóa luận này, chắc chắn tôi không tránh khỏi sai sót. Tuy nhiên, với khả năng có thể tôi đă cố gắng để hoàn thành tốt bài khoá luận. Ngoài lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bài khoá luận gồm ba chương chính: Chương 1: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chương 2: Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 Chương 3: JDI vào Việt Nam và một số giải pháp để Việt Nam tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 1. Khái niệm và đặc điểm của FDI 1.1 Khái niệm Đầu tư nói chung là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh nhằm sản xuất sản phẩm hay cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, hiện tượng "tư bản thừa" đã làm cho đầu tư vượt ra khỏi biên giới quốc gia và mang tính chất quốc tế. Hoạt động đầu tư quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, hợp thành những dòng chính trong trào lưu có tính quy luật trong liên kết kinh tế toàn cầu hiện nay. Một trong các hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu nhất hiện nay là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Theo Tổ chức thuơng mại và phát triển của Liên hợp Quốc (UNCTAD), FDI được định nghĩa là một hoạt động đầu tư liên quan đến một mối quan hệ dài hạn và phản ánh lợi ích lâu dài và quyền kiểm soát đối với tài sản ở nước sở tại của doanh nghiệp mà chủ đầu tư nước ngoài đã bỏ vốn đầu tư. Định nghĩa này khẳng định FDI là hoạt động có tính chất dài hạn, diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định, nó khác với hoạt động xuất khẩu hàng hoá hay mua bán cổ phiếu quốc tế. Theo cách hiểu thông thường của người Nhật Bản thì FDI là đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài nhằm thu lợi nhuận. Trong bộ luật kiểm soát ngoại hối và ngoại thương Nhật Bản 10/1980, FDI được định nghĩa "Là việc nắm lấy bất kỳ cổ phiếu do tổ chức pháp nhân theo luật pháp nước ngoài phát hành hoặc bất kỳ một khoản tiền cho vay tới một tổ chức pháp nhân như vậy nhằm thiết lập mối quan hệ kinh tế lâu dài hoặc bất kỳ khoản trả vốn nào để thành lập, mở rộng một chi nhánh, nhà máy hay một doanh nghiệp khác ở nước ngoài bởi một người bản xứ". Như vậy chủ đầu tư có thể là cổ đông của doanh nghiệp được thành lập hoặc cũng có thể là trái chủ của doanh nghiệp đó nhưng với điều kiện là cho vay dài hạn. FDI có nghĩa là đầu tư nhằm có được quyền lợi thực sự và lợi ích lâu dài trong việc quản lý doanh nghiệp ở nước chủ nhà. Điều 2, khoản 1 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 quy định "Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành đầu tư theo quy định của Luật này". Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân, pháp nhân nước ngoài. Vốn trong hoạt động FDI không chỉ là tiền mà còn là các tài sản khác như máy móc nguyên vật liệu, công nghệ, bí quyết, ... Mặc dù hoạt động FDI có yếu tố nước ngoài nhưng vẫn phải tuân thủ theo các quy định của Luật Đầu tư nước ngoài Việt Nam nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung, FDI là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Như vậy, FDI là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm dành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ thương mại. 1.2 Đặc điểm của FDI FDI có những đặc điểm khác biệt để phân biệt với các hình thức đầu tư khác. Các đặc điểm đó là: Thứ nhất, FDI là vốn đầu tư do chủ đầu tư tự quyết định đầu tư và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Do đó, hình thức đầu tư này mang lại hiệu quả kinh tế cao, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế, ít bị lệ thuộc vào điều kiện chính trị. Lợi nhuận mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của đối tượng mà họ bỏ vốn ra đầu tư, do đó, FDI có tính khả thi cao vì các chủ đầu tư theo đuổi mục tiêu lợi nhuận và hoàn vốn. Thứ hai, chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn pháp định hoặc điều lệ tối thiểu tuỳ theo quy định của luật pháp mỗi nước để tham gia kiểm soát doanh nghiệp. Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam 1996 quy định bên nước ngoài phải góp tối thiểu là 30% vốn pháp định của dự án. Tỷ lệ đóng góp của mỗi bên trong vốn pháp định sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đồng thời cùng là cơ sở để phân chia lợi nhuận và rủi ro. Thứ ba, thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý, ... là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. Do đó, thông qua hình thức này nước tiếp nhận đầu tư có thể kết hợp tối ưu các nguồn lực trong và ngoài nước cũng như các nguồn lực tiên tiến từ bên ngoài. 2. Vai trò của FDI Dòng lưu chuyển FDI của thế giới không ngừng gia tăng và trở thành một hình thức đầu tư quốc tế chiếm ưu thế nhất. Một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của FDI chính là vai trò to lớn của FDI đối với nền kinh tế thế giới nói chung cũng như các nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. 2.1 Đối với nước chủ đầu tư FDI giúp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới. Hiện nay cùng với xu thế toàn cầu hoá thì chủ nghĩa bảo hộ cũng tiếp tục trỗi dậy. Việc xây dựng các nhà máy sản xuất chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm phụ tùng của công ty mẹ ở nước ngoài đồng thời còn là biện pháp thâm nhập thị trường hữu hiệu tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. Một trong những lý do mà Trung Quốc thường thu hút đến 50% FDI đổ vào các nước đang phát triển trong những năm gần đây chính là thị trường 1,2 tỷ dân của họ. FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao. Sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển sản xuất tạo ra chênh lệch về điều kiện và giá cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Do đó FDI cho phép lợi dụng chênh lệch này để giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận ... FDI giúp các chủ đầu tư tìm kiếm các nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định. Một trong các động cơ đầu tư ra nước ngoài là định hướng nguồn nguyên liệu phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của mình. Nguồn tài nguyên của các nước đang phát triển dồi dào nhưng do thiếu vốn và công nghệ nên không thể khai thác được. Do đó, đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và lợi nhuận cao. FDI giúp các chủ đầu tư nước ngoài đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh: các nhà đầu tư thường chuyển những máy móc công nghệ đã lạc hậu so với trình độ chung của thế giới để đầu tư sang nước khác. Điều này giúp các chủ đầu tư bán được máy móc cũ nhằm đổi mới thiết bị công nghệ, kéo dài chu kỳ sống sản phẩm ở thị trường mới và di chuyển máy móc gây ô nhiễm ra nước ngoài. 2.2 Đối với nước tiếp nhận vốn đầu tư Các nước công nghiệp phát triển là những nước xuất khẩu FDI lớn nhất đồng thời là nước tiếp nhận FDI lớn nhất tạo nên luồng đầu tư hai chiều giữa các quốc gia trong đó các công ty xuyên quốc gia đóng vai trò chủ chốt. Nguồn vốn FDI có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của các nước này và chiến lược phát triển của TNCs như tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, tăng nguồn thu cho chính phủ, giải quyết thất nghiệp, kiềm chế lạm phát. Bảng1: Đóng góp của FDI vào nền kinh tế Việt Nam: Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Doanh thu (Triệu USD) 2063 2743 3815 3910 4600 6167 7400 Xuất khẩu (Triệu USD) 336 788 1790 1982 2547 3300 3560 Tỷ trọng GDP (%) 6,30 7,39 9,07 10,03 12,24 13,25 13,5 Tốc độ tăng công nghiệp (%) 8,8 21,7 23,2 24,4 20,0 23,1 12,1 Tỷ trọng trong công nghiệp (%) 25,1 26,7 28,9 32,0 34,7 36,0 35,4 Nộp ngân sách (Triệu USD) 195 263 315 317 271 260 - Lao động trực tiếp (ngìn người) - 220 250 270 296 327 380 Nguồn: Thống kê của Bộ Kế hoạch và đầu tư 3/2002 Mặc dù các nước đang phát triển chỉ có thể tiếp nhận được khoảng 20% tổng lượng FDI của thế giới nhưng FDI đang có vai trò hết sức to lớn đối với các nước này trong việc cung cấp nguồn bổ sung vốn cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm việc làm mới; FDI tác động quan trọng tới xuất khẩu, nhập khẩu cũng như góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý; Cuối cùng FDI góp phần bổ sung quan trọng cho ngân sách quốc gia. Bảng 1 cho thấy những đóng góp đáng kể của hoạt động FDI tại Việt Nam vào nền kinh tế quốc dân. Tính đến năm 2001, Việt Nam đã thu hút được 41.002 triệu USD, trong đó vốn thực hiện đạt 21.482 triệu USD. Riêng năm 2001, doanh thu của khu vực này đạt 7.400 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu đạt 3.573 triệu USD, nếu tính cả dầu thô thì con số này lên tới 6.748 triệu USD. Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã đóng góp khoảng 13,5% GDP và chiếm 35,4% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Tổng số lao động trực tiếp làm trong khu vực này khoảng 380 nghìn người, góp phần giải quyết bớt căng thẳng giữa nhu cầu việc làm và nhu cầu tuyển dụng lao động ở trong nước. Như vậy, FDI có tác động rất to lớn đến nước chủ đầu tư cũng như nước tiếp nhận vốn. Tuy nhiên, cũng có khi lợi ích của bên này lại là thiệt hại đối với bên kia, chẳng hạn như trường hợp chuyển giao công nghệ cũ, chủ đầu tư càng thu được nhiều lợi nhuận thì nước nhận đầu tư càng phải gánh chịu nhiều thiệt hại như ô nhiễm môi trường, công nghệ lạc hậu và chi phí công nghệ cao ... Do đó, chủ đầu tư cũng như bên tiếp nhận phải có các chính sách hợp lý nhằm tối đa hoá lợi ích do FDI mang lại đồng thời phải đánh giá đúng những cái "được" và "mất", để quyết định đầu tư hay tiếp nhận đầu tư. 3. Xu hướng vận động của dòng FDI trên thế giới hiện nay Cùng với thương mại, tài chính-tiền tệ, FDI là một trong các động lực chính thúc đẩy quá trình xâm nhập vào nhau, nương tựa lẫn nhau và mâu thuẫn với nhau giữa các trung tâm kinh tế của thế giới. Dòng FDI chủ yếu vẫn đổ vào các nước công nghiệp phát triển và xuất phát chủ yếu từ các nước này lan toả khắp thế giới. Trong những năm qua, FDI tăng vượt tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới và tốc độ tăng trưởng của thương mại quốc tế. Xu hướng vận động chính của dòng FDI trên thế giới tập trung vào các đặc điểm sau: 3.1 Dòng FDI ngày càng tăng và tập trung vào các nước phát triển Bảng 2: Tình hình tiếp nhận và xuất khẩu FDI trên thế giới. Đơn vị: Triệu USD Năm Cả thế giới Nước phát triển Nước đang phát triển Tiếp nhận Xuất khẩu Tiếp nhận Xuất khẩu Tiếp nhận Xuất khẩu 1983-1987 77,1 76,8 58,7 72,6 18,3 4,2 1988-1992 177,3 208,5 139,1 193,3 36,8 15,2 1990 203,8 204,3 169,8 222,5 33,7 17,8 1991 157,8 210,8 114,0 201,9 41,3 8,9 1992 168,1 203,1 114,0 181,4 50,4 21,0 1993 207,9 225,5 129,3 192,4 73,1 33,0 1994 225,7 230,0 132,8 190,9 87,0 38,6 1995 331,844 357,537 205,693 306,822 111,884 50,259 1996 377,516 390,776 219,789 331,963 145,030 57,763 1997 473,052 471,906 275,229 404,153 187,789 64,335 1998 680,082 687,111 480,638 651,873 179,481 33,045 1999 865,487 799,928 636,449 731,765 207,619 65,638 2000 1,270,764 1,149,903 1,005,178 1,046,903 265,586 103,568 2001 694,753 680,629 502,202 510,356 192,549 170,323 Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế của IFM (12/2001) Năm 2000 được đánh dấu là năm kỷ lục của tổng FDI trên thế giới với con số trên một ngàn tỷ USD. Dòng lưu chuyển FDI không ngừng tăng lên. Trong những năm 70, FDI bình quân hàng năm chỉ khoảng 28,2 triệu USD/năm nhưng trong thập kỷ 80, con số này đã tăng lên tới 93,8 triệu/năm, gấp ba lần con số thập niên 70 và từ năm 1990 đến nay, mức trung bình hàng năm là 383,3 triệu USD, gấp 14 lần mức những năm 70. Nếu chỉ tính riêng nửa sau thập kỷ 90 thì con số bình quân lên tới 541,5 triệu USD, gấp khoảng 19 lần so với con số 28,2 triệu USD những năm 70. Sự tăng lên nhanh chóng của dòng luân chuyển FDI trong những năm qua chủ yếu tập trung vào các nước phát triển. Các nước phát triển vừa là nguồn đầu tư chủ yếu ra nước ngoài vừa là địa chỉ thu hút đại bộ phận đầu tư quốc tế. Từ năm 1996-1999, FDI vào các nước phát triển chiếm 60%, 59%, 71% và 76,5% tỷ trọng vốn đầu tư quốc tế. Năm 1999, các nước phát triển chiếm 76,5% trong tổng số 865 tỷ USD vốn FDI, trong khi 3/4 dân số sống tại các nước đang phát triển chia nhau 23,5% còn lại, khoảng 192 tỷ USD. Năm 2000, khả năng thu hút vốn FDI của các nước đang phát triển đã được cải thiện đôi chút, đạt trên 200 tỷ USD, chiếm 2,8% trong tổng sản phẩm quốc nội của các nước này, tăng tương ứng với tốc độ tăng trưởng GDP. Biểu đồ 1: So sánh FDI của các nước phát triển và đang phát triển Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế của IMF (12/2001) Năm 2000, Mỹ tiếp tục là địa chỉ thu hút FDI nhiều nhất thế giới, chiếm khoảng hơn 200 tỷ USD, phần lớn trong số này là do các vụ mua bán và sáp nhập công ty mang lại. Tuy nhiên, năm 2001, Mỹ đã bị Anh thay thế trong tư cách là chủ đầu tư nước ngoài lớn nhất. Theo đánh giá của UNCTAD, Nhật Bản đã trở thành địa chỉ mới hấp dẫn FDI của thế giới. Lượng FDI vào Nhật Bản năm 2000 tăng 105% so với năm 1999, đạt 21,51 tỷ USD so với 10,47 tỷ USD của năm trước cao hơn nhiều so với mức 5,53 tỷ USD năm 1998. Trong khi đó, Nhật Bản vẫn duy trì được vị thế của một nước cung cấp FDI hàng đầu thế giới : 66,69 tỷ USD, tăng so với 63,7 tỷ USD của năm 1999. Tại Châu á, FDI đổ vào các nước đang phát triển của khu vực này đã tăng từ mức 97 tỷ USD năm 1998, lên 106 tỷ USD năm 1999. Năm 2000, do được khích lệ bởi sự phục hồi kinh tế trong khu vực, cùng những cải cách theo hướng khuyến khích đầu tư nước ngoài, nên chỉ tính riêng lượng FDI mà các công ty xuyên quốc gia đổ vào các nước này đã tăng từ mức 80,5 tỷ USD năm 1999 lên hơn 100 tỷ USD năm 2000. Còn ở châu Âu, trong khi tổng đầu tư vào EU bao gồm cả vốn kinh doanh và xây dựng dân dụng hầu như rơi xuống tận đáy vào quý II năm 2000 và ngay cả công ty có trụ sở EU cũng đang chuyển vốn đầu tư của mình vào Mỹ thay vì vào Liên minh tiền tệ này, thì xu hướng gia nhập EU của các nước Đông Âu lại là tác nhân kích thích luồng FDI vào khu vực này gia tăng. Tại khối thị trường chung Nam Mỹ (NAFTA), tổng FDI vào các nước này đạt xấp xỉ 110 tỷ USD trong thời gian 1995-1999. Với tình hình chính trị tiếp tục ổn định, kinh tế phục hồi vững chắc, triển vọng FDI đổ vào khu vực trong thời gian tới sẽ còn nhiều hơn nữa. Nói chung, tuy có một vài năm chững lại hoặc giảm tốc độ nhưng luồng FDI trên thế giới trong các năm qua đã có sự gia tăng đáng kinh ngạc. Điều này có thể lý giải bởi các nguyên nhân sau: Thứ nhất, thông qua các vụ mua bán và sáp nhập, FDI được rót trực tiếp vào thị trường địa phương và khu vực, để tận dụng ưu thế về chi phí vận chuyển và chi phí sản xuất thấp của thị trường nội địa, đây cũng là cách để xuyên thủng hàng rào thuế quan. Chính vì vậy, triển vọng tăng trưởng kinh tế của nước tiếp nhận vốn là yếu tố quyết định làm tăng lượng vốn FDI. Việc GDP toàn cầu trong năm 2000 theo đánh giá của IMF tăng 4,7% có thể được xem là nhân tố chính góp phần thúc đẩy luồng vốn FDI gia tăng. Thứ hai, do chi phí vận tải và truyền thông giảm trong những năm gần đây, cùng với việc nới lỏng các hàng rào buôn bán và đầu tư giữa các nước trên thế giới đã làm tăng dòng FDI. Vả lại, hoạt động thương mại thế giới gia tăng mạnh với tốc độ tăng trưởng hơn 10% đã tạo động lực thúc đẩy dòng FDI . Thứ ba, làn sóng hợp nhất và mua lại các công ty đã đẩy mô hình những tập đoàn đồ sộ do gia đình chi phối kiểu cũ sụp đổ. Thay vào đó, nó tạo ra bức tranh bao gồm các công ty hiện đại, sử dụng công nghệ cao, được điều hành một cách chuyên nghiệp và tập trung, có thể cạnh tranh với những công ty khổng lồ trên toàn cầu. Chính nhu cầu hợp nhất để tồn tại đang diễn ra ở mọi nơi trên thế giới này đã trở thành nhân tố chính và quan trọng nhất thúc đẩy luồng vốn FDI gia tăng mạnh trong một thập kỷ qua. Năm 1990, trong 209 tỷ USD vốn FDI của thế giới, vốn chuyển thông qua các vụ sáp nhập chiếm 72,3% đạt 151 tỷ USD. Đến năm 1999, 83% trong tổng số 865 tỷ USD vốn FDI là do sáp nhập mang lại, tương đương khoảng 720 tỷ USD. Ngay tại Châu á, mảnh đất của những Chaebol và Keiretsu, người ta đang dần dần đánh giá cao và hiểu biết việc mua lại và sáp nhập như một công cụ kinh doanh. Tại Nhật Bản và Hàn Quốc, nếu như trước đây người ta phải bán một thứ gì đó, thì đó được xem như là thất bại. Nhưng dần dần các doanh gia đã từ bỏ quan điểm này, họ nhận thấy nhu cầu hợp lý hoá hình mẫu cũ không còn hoạt động tốt nữa. Bảng 3 : Năm nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất thế giới Đơn vị: Triệu USD tt 1996 1997 1998 2000 1 Mỹ 91,883 Mỹ 105,017 Mỹ 146,053 Anh 259,427 2 Đức 50,752 Anh 63,499 Anh 119,747 Pháp 169,481 3 Anh 35,157 Đức 41,675 Đức 92,398 Mỹ 152,440 4 Hà Lan 31,905 Pháp 35,488 Pháp 45,701 Bỉ 823,342 5 Pháp 30,362 Nhật Bản 26,059 Hà lan 39,227 Hà lan 74,809 Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế của IMF (12/2001) Các nước đang phát triển vẫn là lực lượng thứ yếu đối với việc thúc đẩy và thu hút luồng vốn FDI. Tuy nhiên xu hướng đầu tư song phương sẽ trở nên phổ biến thay cho khuynh hướng một chiều trước đây. 3.2 Các công ty xuyên quốc gia (TNCs) ngày càng đóng vai trò quan trọng trong dòng lưu chuyển FDI Trong đầu tư quốc tế, TNCs có vai trò chủ đạo trong phân phối nguồn vốn của thế giới vào các khu vực, đặc biệt có vai trò quyết định trong hoạt động FDI, chiếm lĩnh thị trường, hình thành các trung tâm đầu tư mạnh của thế giới. Trong 100 tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới hiện nay thì hơn một nửa là công ty (59 TNCs) chứ không phải là quốc gia (41 quốc gia). Theo số liệu thống kê của UNCTAD thì trong năm 1998 đã có tới 53.000 TNCs với 450.000 xí nghiệp chi nhánh và chiếm 2/3 tổng khối lượng buôn bán của thế giới, trong đó một nửa buôn bán nội bộ giữa các chi nhánh của TNCs. Hiện nay, TNCs đầu tư ra nước ngoài khoảng 3.000 tỷ USD, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ khoảng trên 5.000 tỷ USD vào năm 1996, 15 nước phát triển có khoảng 30.500 TNCs trong số 38.700 TNCs của thế giới (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 3/1998). Đến đầu năm 2001, số lượng TNCs đã tăng nhanh chóng và đạt con số 57.000 TNCs với hơn 500.000 chi nhánh. Chúng kiểm soát 40% GDP, 60% ngoại thương, 50% kỹ thuật công nghệ mới, 90% FDI thế giới (IMF: World Economic Outlook, May, 2001). Có thể nói, hoạt động của TNCs có vai trò to lớn trong phát triển kinh tế, trong chuyển giao công nghệ, nắm vững công nghệ cao, bảo đảm khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. Sự phát triển của TNCs không chỉ ở mặt mở rộng quy mô, mà điều chủ yếu là ở sự điều chỉnh chiến lược kinh doanh của chúng. Việc điều chỉnh chiến lược kinh doanh đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp đối với quốc tế hoá và nhất thể hoá sản xuất của thế giới. Diễn biến chiến lược của TNCs chủ yếu đã trải qua ba giai đoạn: Một là, chiến lược công ty con độc lập. Đây là hình thức chiến lược phổ biến của TNCs, với việc các công ty con vận hành tương đối độc lập. Liên hệ giữa công ty mẹ với các công ty con ở nước ngoài được khống chế thông qua quyền sở hữu. Những liên hệ khác chỉ gồm: chuyển giao kỹ thuật và cung cấp tư bản dài hạn. Loại công ty con độc lập này rất giống h._.ình ảnh thu gọn của công ty mẹ. Đặc biệt nó tồn tại nhiều ở các ngành chế tạo và dịch vụ. Hai là, chiến lược tìm kiếm vốn nước ngoài. Đây là chiến lược của TNCs chủ yếu thông qua tìm kiếm nguồn vốn bên ngoài để tham gia vào sản xuất quốc tế. Động cơ của việc tìm nguồn vốn bên ngoài là nhằm lợi dụng ưu thế về vị trí khu vực mà nước chủ nhà đã có được. Ba là, nhất thể hoá phức hợp. Tiền đề của chiến lược này là TNCs có được năng lực chuyển dời sản xuất và cung ứng hàng hoá đến bất kỳ địa điểm nào để thu lợi nhuận cao nhất. Nhất thể hoá phức hợp cho phép bất kỳ một công ty nào đang kinh doanh ở một địa phương nào đó đều có thể cùng các công ty con khác hoặc công ty mẹ sử dụng năng lực của toàn bộ công ty một cách chủ động để phát huy hiệu quả thu lợi nhuận. Trong chiến lược này, các công ty con ở những khu vực khác nhau có thể nhất thể hoá về chức năng ở mức độ tương đối nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của công ty. Chính nhờ chiến lược này mà các TNCs đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đầu tư ra nước ngoài nhằm thích ứng linh hoạt với sự thay đổi của môi trường kinh doanh với mục tiêu thu được lợi nhuận cao nhất. Đầu tư ra nước ngoài của TNCs năm nước Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức chiếm tới trên 60% giá trị của FDI của thế giới. Với việc đầu tư ra nước ngoài, TNCs đã góp phần làm tăng nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới cả trong lĩnh vực sản xuất lẫn trong thương mại quốc tế. 3.3 Sáp nhập và mua lại trở thành hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế. Xét về mặt lịch sử, làn sóng sáp nhập công ty đã xuất hiện ba lần: Lần thứ nhất vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi quá trình tích tụ tập trung tư bản mở rộng, chủ yếu là hình thức sáp nhập thẳng đứng giữa các công ty cùng ngành. Lần thứ hai là vào những năm 20 của thế kỷ 20, chủ yếu là sáp nhập nằm ngang giữa các công ty theo nhóm ngành. Và lần thứ ba là giữa thập kỷ 80 trở lại nay. Trước sức ép mạnh mẽ của cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, các xí nghiệp quốc tế lấy sáp nhập ở nước ngoài làm chiến lược sống còn để thích ứng. Xét về số vụ sáp nhập hay quy mô mua vào thì làn sóng sáp nhập của các công ty lần thứ ba đã đạt đến mức cao nhất trong lịch sử. Theo UNCTAD, trong hai mươi năm gần đây, giá trị các vụ mua lại công ty tăng 42%, năm 2001 tổng giá trị các vụ mua lại lên tới 1.424 tỷ USD cao hơn nhiều so với tổng đầu tư quốc tế. Chỉ một nhóm các nước công nghiệp phát triển nhưng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong khối lượng FDI toàn cầu là do các vụ sáp nhập và mua lại xuyên quốc gia. Các công ty lớn của Anh và Mỹ đóng vai trò chủ chốt trong lĩnh vực mua lại và sáp nhập, do đó hai nước này thường xuyên dẫn đầu thế giới về việc tăng quy mô đầu tư ra nước ngoài. Lấy ví dụ như vụ mua lại và sáp nhập lớn nhất năm 1999 là vụ Tập đoàn Vodafone PLC (Anh) mua lại Công ty viễn thông Air Touch (Mỹ) trị giá 60,3 triệu USD, tiếp theo là Tập đoàn Zeneca (Anh) mua Công ty Astra (Thụy Điển) với giá 34,6 triệu USD và vụ mua lại 32,6 triệu USD giữa Công ty Orange (Anh) và Tập đoàn Mannesmann (Đức). Nước Anh đứng vị trí số 1 trong số các nước đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất phản ánh sự thật rằng hai trong số ba vụ sáp nhập lớn nhất bắt nguồn từ các công ty Anh. Thụy Điển nhảy lên vị trí thứ ba trong số các nước tiếp nhận FDI nhiều nhất năm 1999 cũng một phần nhờ vào vụ mua lại Astra (Sách trắng về đầu tư của Jetro 2001, trang 4). Làn sóng sáp nhập xuyên quốc gia giữa các công ty diễn ra từ thập kỷ 80 đến nay là kết quả của chiến lược kinh doanh mới mà TNCs đã chọn để thích ứng với môi trường kinh doanh quốc tế đang thay đổi. Nguyên nhân thúc đẩy việc hình thành làn sóng sáp nhập lần thứ ba là do tác dụng của các nhân tố ngắn hạn và dài hạn. Nhân tố ngắn hạn nẩy sinh vào giữa thập kỷ 80. Đó là thời kỳ kinh tế các nước phát triển tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, ở thời kỳ này các công ty không chỉ có được nhiều cơ hội đầu tư mà còn có thể sử dụng được số lượng lớn lợi nhuận và tiền vay với lãi suất thấp để thực hiện các vụ đầu tư mới. Thứ hai là, các nước phát triển đã dấy lên làn sóng tự do hoá tài chính tiền tệ, Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản đã liên tục nới lỏng việc quản lý khống chế đối với tài chính tiền tệ, thúc đẩy và nâng cao được hiệu quả và lợi ích kinh tế của các ngân hàng và các tổ chức tài chính, vì vậy mà các công ty đã có thể tranh thủ được nhiều lợi nhuận về tài chính để đầu tư. Thứ ba là, sự hình thành thị trường châu Âu thống nhất vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các công ty nước ngoài. Các công ty của Mỹ và Nhật Bản đã thông qua các hoạt động sáp nhập và mua lại với số lượng lớn để thúc đẩy sản xuất kinh doanh và hưởng những điều kiện tiện lợi do tự do lưu thông mang lại. Nhân tố dài hạn trước tiên là, xu thế toàn cầu hoá với cạnh tranh ngày càng gay gắt, TNCs của các nước phải áp dụng phương thức sáp nhập hoặc mua lại để tiếp nhận các kỹ thuật mũi nhọn, rút ngắn thời gian phát minh kỹ thuật, giảm bớt được rủi ro nguy hiểm, sử dụng ưu thế của kinh tế quy mô và mạng lưới hoá sản xuất quốc tế để tăng cường sản xuất thu lợi nhuận. Thứ hai là, từ giữa thập kỷ 80 các nước trên thế giới đã thi hành phổ biến chính sách tự do hoá đầu tư, về khách quan mà xét nó đã kích thích mạnh sự lưu thông tiền vốn của TNCs Như vậy, làn sóng sáp nhập công ty làm nảy sinh những ảnh hưởng to lớn đối với quốc tế hoá sản xuất và toàn cầu hoá kinh tế. Việc sáp nhập xuyên quốc gia các xí nghiệp đã làm cho năng lực kinh doanh của các TNCs mở rộng nhanh chóng trong một thời gian ngắn, đồng thời thực hiện việc sản xuất theo mạng lưới một cách có hiệu quả, từ đó nâng cao rất nhiều năng lực và hiệu quả lợi ích kinh tế của các xí nghiệp. Vào nửa sau của thập kỷ 90, làn sóng sáp nhập công ty lại nổi lên mạnh mẽ hơn, đặc biệt là TNCs tăng cường thôn tính lẫn nhau và thôn tính các công ty nước ngoài để trở thành các tập đoàn khổng lồ kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thế giới. Làn sóng sáp nhập công ty vào cuối thế kỷ 20 xuất phát từ những tất yếu kinh tế sau: Thứ nhất, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới tăng lên, cạnh tranh ngày càng quyết liệt, nên một công ty lớn ngoài sức mạnh về tiềm lực còn cần cả uy tín với khách hàng. Ví dụ: với việc hợp nhất hãng hàng không Travelers và công ty tài chính Citi Corp, 40 triệu khách hàng hiện tại của hãng hàng không sẽ rất tiện lợi khi tiếp cận với các dịch vụ tài chính của Citi Corp, cùng lúc đó 60 triệu khách hàng hiện tại của công ty tài chính sẽ rất tiện lợi khi sử dụng các sản phẩm bảo hiểm của Travelers. Do sự tiện lợi như vậy nên tập đoàn mới ra đời này rất có tiềm năng thu hút khách hàng và có khả năng cạnh tranh vô cùng mạnh mẽ. Thứ hai, các công ty hợp nhất vốn không có mạng lưới rộng rãi để bán lẻ các sản phẩm, do đó sự sáp nhập giúp họ có thể dễ dàng thực hiện tiếp thị sản phẩm của mình ở mọi nơi trên thế giới. Thứ ba, sáp nhập công ty sẽ nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh doanh, đó là mục tiêu và là lý do duy nhất cho sự tồn tại và phát triển của quá trình sáp nhập. Thứ tư, việc sáp nhập các công ty làm cho các công ty cùng được lợi khi giá cổ phiếu của họ tăng mạnh, thể hiện tâm lý chung của người đầu tư là thích đánh cược vào các công ty khổng lồ, có tiềm lực mạnh đủ để vượt qua mọi cuộc cạnh tranh. Trong thực tế, ngay sau khi quyết định hợp nhất được công bố, ngay lập tức giá cổ phiếu của Travelers tăng lên 18% và của Citi Corp đã tăng lên 26% Tuy nhiên cũng có những nguy cơ bất ổn, tiềm tàng và hiện thực do sáp nhập đưa lại như các vụ sa thải nhân công hàng loạt, bộ máy quản lý không đủ khả năng điều hành, nguy cơ độc quyền biến người tiêu dùng thành nạn nhân. Trong những năm tới, việc mua lại các công ty của các nước còn diễn ra sâu sắc hơn. Các ngành tài chính, viễn thông, dược phẩm, ô tô sẽ được sắp xếp lại trên phạm vi toàn cầu thông qua việc mua lại và sáp nhập. Trong một số lĩnh vực dịch vụ, thương mại khoa học kỹ thuật cao và một số ngành có nhu cầu lớn về tài chính cũng diễn ra hiện tượng mua lại với quy mô lớn. Đầu tư trực tiếp xuyên quốc gia thông qua sáp nhập vẫn là hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế mặc dù còn có những bất ổn do nó mang lại. 3.4 Lĩnh vực đầu tư có sự thay đổi sâu sắc Trong thập kỷ 80, tỷ trọng FDI của các nước phát triển chủ yếu trong ngành công nghiệp nặng từ 18% (năm 1980) đã hạ xuống còn 11% (năm 1990), còn tốc độ tăng về thu hút FDI vào ngành sản xuất khai khoáng tăng nhanh hơn ngành chế tạo và dịch vụ. Vì vậy, tỷ trọng của FDI vào ngành sản xuất sản phẩm sơ cấp từ 52% (năm 1980) tăng đến 67% (năm 1990). ở nửa đầu thập kỷ 80, hy vọng về giá dầu mỏ tăng cao, FDI vào ngành công nghiệp dầu mỏ tăng lên nhanh chóng. Để ứng phó với vấn đề giá thành sản xuất đầu mỏ tăng, thực hiện việc đa dạng hoá sản xuất, TNCs của Mỹ và Tây Âu đã làm gấp rút hoạt động mua lại và sáp nhập với nhau. Từ năm 1985 trở về trước, ngành chế tạo là ngành chủ yếu thu hút FDI. Tuy nhiên, đầu tư vào ngành chế tạo của các nước phát triển đã chuyển từ các ngành sản xuất kiểu tập trung cao nguồn vốn lao động sang ngành sản xuất tập trung tư bản và kỹ thuật. Lấy Mỹ làm ví dụ: Những năm 1982-1991, những ngành có tỷ lệ thu hút FDI nhanh của Mỹ theo thứ tự là: Thuốc chữa bệnh (24,7%), thiết bị máy tính và thiết bị văn phòng (17,4%), các máy móc công nghiệp (15,8%), máy điện và thiết bị điện trở (14,5%), công nghiệp hoá chất (14,6%). Từ năm 1985 lại đây, ngành dịch vụ đã trở thành ngành có tốc độ thu hút FDI nhanh nhất ở các nước phát triển. Năm 1993, JDI vào ngành dịch vụ là 66%, của Mỹ là 51%, Đức 59% và của Anh là 48%. Xét trong cơ cấu ngành sản xuất thì số công ty con của TNCs hoạt động trong ngành dịch vụ là nhiều nhất, còn trong 500 TNCs lớn nhất thế giới thì tỷ lệ công ty hoạt động trong nghành dịch vụ là 60% Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển thì FDI vào các ngành sản xuất vật chất vẫn chiếm tỷ trọng lớn do cơ cấu kinh tế của các nước này đang trong quá trình chuyển đổi theo hướng công nghiệp hoá. Trong thời gian tới thì tỷ trọng của FDI vào ngành dịch vụ sẽ tăng lên do đầu tư vào các ngành này thường mang lại lợi nhuận lớn trong khi chính phủ của các nước đang phát triển lại có nhiều ưu đãi khuyến khích phát triển ngành dịch vụ nhằm đưa đất nước phát triển theo hướng hiện đại hoá. Những đặc điểm của luồng vốn đầu tư quốc tế trong thời gian qua cho thấy đầu tư thế giới vẫn quy tụ được những lực đẩy cần thiết để tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, có những nhân tố làm hạn chế sự gia tăng luồng vốn FDI như sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu, những bất ổn về mặt chính trị xã hội ở châu Mỹ La-tinh, giá bất động sản và tỷ giá đang tăng cao ở Đông á ảnh hưởng đến hoạt động sáp nhập và mua lại ... Điều cuối cùng muốn nói đến ở đây là đầu tư quốc tế, đặc biệt là vốn FDI trước đây, được trông đợi như là một biện pháp để thúc đẩy khả năng tạo việc làm, giảm thất nghiệp, nhưng những mặt trái của làn sóng sáp nhập không cho thấy mối quan tâm chung này của thế giới sẽ được giải quyết dù cho lượng vốn đầu tư quốc tế vẫn sẽ tiếp tục tăng cao. chương II: tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 đến nay Nhật Bản đã có những hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài từ đầu những năm 50, sau đó được thúc đẩy mạnh mẽ vào thập kỷ 70 và từ nửa sau những năm 1980 thì hoạt động JDI được gia tăng một cách nhanh chóng. Nguyên nhân chủ yếu của việc JDI tăng đột biến trong giai đoạn này là do tác động của đồng Yên lên giá từ 240 Yên/1USD năm 1985 lên tới mức 120 Yên/1USD năm 1988 làm cho giá thành đầu tư nước ngoài của các xí nghiệp Nhật Bản trở nên rẻ hơn. Đến năm 1989, làn sóng sáp nhập và mua lại của các công ty Nhật Bản ở nước ngoài đặc biệt là ở Mỹ và Tây Âu diễn ra như vũ bão khiến người ta phải thốt lên rằng "Nước Nhật rồi sẽ mua cả thế giới". Nhưng đầu năm 1990, khi nền kinh tế bong bóng sụp đổ kéo theo một bước suy giảm chưa từng có trong lịch sử kinh tế Nhật Bản hiện đại, JDI trong từ năm 1990 đến nay cũng có những đặc điểm khác biệt. Dòng FDI có xu hướng giảm sút, cơ cấu ngành, lãnh thổ đầu tư cũng như hình thức cũng được điều chỉnh để phù hợp với tình hình mới. Bức tranh chung về tình hình đầu của Nhật Bản ra nước ngoài trong từ năm 1990 đến nay cũng có những mảng sáng tối khác nhau. 1. Đánh giá về lợi thế và bất lợi thế của Nhật Bản khi tham gia vào hoạt động đầu tư quốc tế 1.1 Lợi thế 1.1.1 Tiềm lực tài chính hùng mạnh Từ một nước bại trận sau chiến thanh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã khiến thế giới phải nể trọng vì sự tăng trưởng kinh tế vượt bậc của mình chỉ trong vài ba thập kỷ, nhanh chóng vươn lên thành một siêu cường kinh tế và trở thành câu chuyện thần kỳ về tăng trưởng kinh tế thế kỷ 20. Thời kỳ tăng trưởng cao liên tục từ những năm 60 đến giữa những năm 70, Nhật Bản cơ bản, đã tiến hành hiện đại hoá. Nếu như ở những năm 60, kinh tế Nhật Bản chỉ bằng 10% tổng sản phẩm quốc dân Mỹ thì hiện nay đã bằng khoảng 60%. Nếu xét về thu nhập trên đầu người thì con số 40.830 USD của Nhật Bản vượt xa Đức với 29.504 USD và Mỹ với 27.532 USD. Trong khi Mỹ ngày càng trở thành con nợ, thậm chí lớn nhất thế giới, thì Nhật Bản lại là nước xuất khẩu tư bản và là nước chủ nợ lớn nhất thế giới với tổng tài sản của Nhật Bản ở nước ngoài lên tới 600 tỷ USD ( Tạp chí Nhật Bản ngày nay 7/2002). Đồng Yên lên giá một cách nhanh chóng ở nửa sau thập kỷ 80 cũng là một nhân tố khiến cho Nhật Bản và các công ty Nhật Bản giàu có lên rất nhiều nếu tính bằng đồng USD. Chẳng hạn nếu như trước đây một công ty Nhật Bản muốn xây dựng một nhà máy 2 triệu USD ở nước ngoài thì phải bỏ ra 480 triệu Yên thì nay với 480 triệu Yên này, công ty có thể xây được hai nhà máy như thế. Trên thực tế Nhật Bản giàu có đến mức có đủ khả năng đầu tư ở khắp nơi. Không chỉ thế, hầu hết các nước trên thế giới, không chỉ các nước đang phát triển nghèo khó mà cả những nước chủ nghĩa tư bản lớn ở Tây Âu và Bắc Mỹ đều tìm cách thu hút được thật nhiều vốn của các nhà đầu tư Nhật Bản. 1.1.2 Khoa học công nghệ hiện đại Đi cùng chiều đối với sự tăng trưởng kinh tế là sự phát triển theo chiều sâu của nền kinh tế Nhật Bản. Tiềm lực khoa học kỹ thuật ngày càng gia tăng, dần dần cạnh tranh với Tây Âu và Mỹ trong nhiều lĩnh vực quan trọng. Về mặt biến các kỹ thuật cao thành các sản phẩm thương mại thì Nhật Bản chiếm ưu thế rõ rệt. Nhật Bản đã vượt Mỹ trong các lĩnh vực như kỹ thuật vi điện tử, đồ điện gia dụng, thông tin bằng sợi quang, thiết bị tự động hoá văn phòng, ... Nhật Bản cũng đã giành được một phần đáng kể trên thị trường chất bán dẫn của thế giới để chiếm dần những chỗ đã mất của Mỹ. Sở dĩ có được những thành công như vậy là do Nhật Bản đã đầu tư mạnh vào phát triển khoa học kỹ thuật. Năm tài khoá 1986/1987, Nhật Bản đã nâng chi phí nghiên cứu và phát triển lên tới 9,2 ngàn tỷ Yên gần bằng một nửa của Mỹ so với khoảng cách 1/8 năm 1970. Ngân sách tài khoá năm 1996 của Nhật Bản đã tăng đầu tư cho khoa học công nghệ lên thêm 6,9% tương đương với 26,7 tỷ USD. Mặc dù ngân sách chung của Nhật Bản năm tài khoá 2001 giảm so với năm trước nhưng ngân sách đầu tư cho khoa học công nghệ vẫn tăng5% (Báo cáo về ngân sách cho khoa học công nghệ năm 2001-Bộ tài chính Nhật Bản ). Điều đó cho thấy quan điểm rõ ràng của Nhật Bản coi khoa học và công nghệ như là một động lực cho tăng trưởng kinh tế. Do đó Nhật Bản đã thành công trong việc nắm độc quyền về công nghệ trong một số lĩnh vực đặc biệt là ở các ngành công nghiệp cao cấp, qua đó khống chế được các ngành công nghiệp cấp thấp. Cho dù Mỹ và Tây Âu có rất nhiều ngành công nghiệp với quy mô lớn mạnh nhưng nhờ vào ưu thế độc quyền ở những công nghệ cao, Nhật Bản vẫn chiếm được thế nổi trội trong rất nhiều ngành công nghiệp. Hiện nay, Nhật Bản đang chiếm 1/3 lượng hàng xuất khẩu hàng năm đối với các mặt hàng có tính độc quyền. Sự độc quyền về kỹ thuật đã làm cho Nhật Bản có ưu thế khá mạnh về giá cả. Đây là nguyên nhân mà trong những năm qua ngay cả khi đồng Yên tăng giá gấp hai lần so với đồng USD mà xuất khẩu của Nhật Bản vẫn giữ được mức tăng nhanh. 1.1.3 Kinh nghiệm quản lý tiên tiến và độc đáo Một lợi thế nữa của Nhật Bản đó là những kinh nghiệm quản lý độc đáo và tiên tiến. Các ông chủ Nhật Bản thường khuyến khích các công nhân tham gia vào việc quản lý công ty bằng các hình thức khác nhau, điều này đã phát huy tối đa tính sáng tạo và tính tập thể của người lao động. Quản lý chất lượng cũng là một đặc trưng quan trọng trong quá trình quản lý doanh nghiệp. Với phương châm "chất lượng là trên hết", phong trào kiểm tra chất lượng để sản phẩm không có khuyết tật diễn ra rất mạnh mẽ trong các công ty Nhật Bản. Do đó, hàng hoá của Nhật Bản có chất lượng cao, có được vị trí vững chắc trong lựa chọn của người tiêu dùng. Các lợi thế của Nhật Bản được phát huy rất rõ trong quá trình đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 đến nay, thể hiện vai trò to lớn của Nhật Bản trong hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. 1.2 Bất lợi thế 1.2.1 Một đất nước nghèo tài nguyên thiên nhiên Nhật Bản là một đất nước phụ thuộc rất lớn vào nguồn tài nguyên thiên nhiên nhập khẩu. Môi trường thiên nhiên Nhật Bản khó khăn: núi non bao phủ 72% quần đảo, đồng bằng chỉ chiếm 15% diện tích nước Nhật, đất trồng chiếm 14% diện tích lãnh thổ. Lòng đất chỉ có một ít than đá, đồng, chì, kẽm và lưu huỳnh, hầu như không có dầu mỏ và khí thiên nhiên. Do đó, Nhật Bản phải thường xuyên nhập khẩu từ 98% -100% nguồn nguyên liệu ở mọi ngành sản xuất công nghiệp. Do đó bất kỳ một cuộc khủng hoảng nguyên liệu thế giới nào đều tác động sâu sắc đến nền kinh tế Nhật Bản hơn bất kỳ một nền kinh tế phương Tây nào khác và chính tính không ổn định trong cung cấp nguyên liệu đã gây nên sự không ổn định kéo dài về tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản. Trong suốt từ năm 1990 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản đang lâm vào cuộc suy thoái trầm trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai và nền kinh tế đang trong bước chuyển đã bộc lộ rõ nhiều điểm bất cập, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động JDI trong những năm qua. 1.2.2 Vai trò của Nhật Bản trên trường quốc tế còn hạn chế Nhật Bản được mệnh danh là "người khổng lồ" về kinh tế nhưng lại là "một anh lùn" về chính trị, hay "một người không lồ không có bom". Việc phòng vệ của Nhật Bản được bảo đảm bởi Hoa Kỳ do Hiệp ước San Francisco 1951. JDI được xếp vào hạng cao của thế giới, Nhật Bản là nước chủ nợ hàng đầu thế giới, thị trường chứng khoán Tokyo chiếm 25% nguồn vốn toàn cầu, trong khi đồng Yên không phải là đồng tiền quốc tế. Trong các mối quan hệ giữa Nhật Bản và phương Tây còn có sự ngờ vực. Nhật Bản đang mong muốn mở rộng quan hệ với các nước Châu á nhưng ảnh hưởng chính trị của Nhật Bản ở Đông Nam á bị hạn chế bởi những kỷ niệm trong thời kỳ Thế chiến thứ hai. ảnh hưởng văn hoá của Nhật Bản trên thế giới còn yếu. Nhật Bản không sẵn có những nguồn tài nguyên thiên nhiên như Hoa Kỳ cũng như không có một thị trường trong nước có thể so sánh với thị trường nội địa Hoa Kỳ hay EU. Hơn nữa, hiện nay Nhật Bản lại đang phải chịu sự cạnh tranh dữ dội của Mỹ, EU và các nước công nghiệp mới NIEs. Những mặt mạnh của nền kinh tế Nhật Bản đã được khẳng định nhưng những mặt bất lợi của nền kinh tế cũng được bộc lộ rõ nét, chính những hạn chế này làm cản trở hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 đến nay. 2. Chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 Từ cuối những năm 80 trở lại đây, trước những tác động của đồng Yên tăng giá, nhu cầu đòi hỏi bức thiết về nguyên nhiên liệu, nhu cầu tìm kiếm thị trường mới và mức lương đang tăng lên ở Nhật Bản, thêm vào đó là xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, các nhà đầu tư Nhật Bản đã phải hoạch định các chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mới nhằm tối đa hoá lợi nhuận thu được. Mức lương tăng cùng với tác động của đồng Yên tăng giá làm cho giá thành sản xuất ở Nhật Bản đắt lên tương đối so với các nước khác, do đó, hàng xuất khẩu từ Nhật Bản không thể cạnh tranh được ở thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, hàng rào bảo hộ mậu dịch ngày càng trở nên tinh vi nên hàng hoá của Nhật Bản lại càng khó thâm nhập vào thị trường các nước khác hơn. Mô hình kinh tế lấy xuất khẩu làm trọng tâm trong thời kỳ tăng trưởng cao không còn phù hợp nữa, các nhà đầu tư Nhật Bản đã tiến hành "dời nhà máy ra nước ngoài", thực hiện chiến lược đầu tư ra nước ngoài để thay thế xuất khẩu. Nguyên nhân chủ yếu mà Nhật Bản đã chuyển mạnh từ chính sách lấy xuất khẩu làm lợi ích sống còn sang chiến lược lấy đầu tư nước ngoài làm nội dung chủ yếu là: Thứ nhất, bảo hộ mậu dịch không còn là xu hướng chính trong nền kinh tế thế giới nhưng sự xuất hiện của các liên minh mậu dịch tự do, trên thực tế đang tạo ra các rào cản tập thể đối với quan hệ kinh tế thương mại cho những nước bên ngoài; Thứ hai, việc tái triển khai và thay đổi cơ cấu công nghiệp trong nước không thể thực hiện có kết quả nếu chỉ dựa vào thương mại trong khi bản thân quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế về thực chất là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang một nước khác thông qua đầu tư trực tiếp và chuyển giao công nghệ. Thứ ba, các tập đoàn công nghiệp của Nhật Bản đã lớn mạnh đến mức, phạm vi hoạt động của nó là địa bàn ngoài nước và liên kết mạng kinh doanh có tính toàn cầu. Trong điều kiện thị trường thế giới và tăng trưởng thương mại đang có xu hướng giảm dần so với nhịp độ tăng đầu tư, các công ty Nhật Bản không thể đi ngược lại với xu thế đồng Yên tăng giá mạnh để gây ra những trở ngại cho hoạt động xuất khẩu. Tổng thể những lý do đó đã thúc đẩy Nhật Bản tích cực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, coi đó là những giải pháp căn bản để giải quyết những bức xúc trong nền kinh tế, giải quyết mâu thuẫn với bạn hàng, nhanh chóng thích nghi với bối cảnh quốc tế. Quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ, Tây Âu diễn ra theo hướng vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau, vừa nương tựa lẫn nhau vừa đấu tranh xung đột. Để thể hiện vai trò là một siêu cường kinh tế, Nhật Bản đã tấn công sâu vào tận thị trường nội địa của các nước công nghiệp phát triển này để nhằm dành giật các cơ hội kinh doanh cũng như bành trướng sức mạnh kinh tế của mình. JDI vào nhóm này thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn trong tổng JDI nói chung, TNCs của Nhật Bản đã xác lập được chỗ đứng vững chắc tại các nước này trong tất cả các lĩnh vực từ ngành điện tử đến ngành kỹ thuật cao, từ giao thông vận tải tài chính, bảo hiểm, ngân hàng. Đối với các nước phát triển, đặc biệt là ở Châu á, Nhật Bản mong muốn thông qua hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế để thành lập một vành đai an ninh kinh tế với Nhật Bản là trung tâm. Các công ty Nhật Bản đầu tư vào các nước đang phát triển nhằm mục tiêu như: xuất khẩu trở lại Nhật Bản hoặc xuất khẩu sang một nước thứ ba khác; khai thác thị trường lao động rẻ; tạo nguồn cung cấp nguyên vật liệu; sản xuất các hàng hoá thích ứng với thị trường địa phương nhằm khai thác tối đa lợi ích kinh tế dựa vào lợi thế công nghệ kỹ thuật của mình so với các công ty bản địa. Tuy nhiên, mục đích có tính chất bao trùm mà các công ty Nhật Bản đầu tư vào nhóm nước này là tăng sự phụ thuộc của các nước nhận đầu tư. Các chi nhánh của các công ty Nhật Bản hình thành nên mạng lưới phân công lao động trong khu vực và ngày càng giữ vai trò chi phối các công ty địa phương. Với các chiến lược này, các công ty Nhật Bản đã đẩy mạnh hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong từ năm 1990 đến nay. TNCs của Nhật Bản đã thiết lập được mạng lưới kinh doanh toàn cầu, uy tín của Nhật Bản trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định. 3. Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 3.1 Quy mô và tốc độ tăng vốn đầu tư Bảng 4 : Đầu tư nước ngoài của Nhật Bản (từ 1970 đến 2001) Đơn vị: Triệu USD Năm tài chính Số vốn FDI Năm tài chính Số vốn FDI Năm tài chính Số vốn FDI 1970 904 1980 4.693 1990 56.911 1971 858 1981 8.932 1991 41.584 1972 2.338 1982 7.703 1992 34.138 1973 3.494 1983 8.145 1993 36.025 1974 2.395 1984 10.155 1994 41.051 1975 3.280 1985 12.217 1995 50.694 1976 3.462 1986 22.320 1996 48.020 1977 2.806 1987 33.364 1997 53.972 1978 4.598 1988 47.022 1998 40.747 1979 4.995 1989 67.540 1999 66.694 70-79 22.848 80-89 215.161 90-99 389.898 2000 4.858 2001 3.616 2002 1.958 Nguồn: Thống kê về FDI của Bộ Tài chính Nhật Bản 17/9/2002. Ghi chú: Năm tài chính bắt đầu từ 01/4 năm nay đến 31/3 năm tiếp theo. Số liệu năm 2000 chỉ tính ở nửa đầu của năm JDI trong thập kỷ 90 gấp 17 lần tổng số JDI của thập kỷ 70 và tăng 180% so với thập kỷ 80. Nếu so với năm 1970 thì JDI năm 1999 gấp 73 lần. Theo thống kê của Bộ Công nghiệp & Ngoại thương Nhật Bản (MITI), tổng JDI giai đoạn 1946-1990 là 15.966 triệu USD, con số này chỉ bằng 40% tổng số JDI giai đoạn 1990-1999. Các con số trên chứng tỏ rằng Nhật Bản đã đẩy mạnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài từ năm 1990 đến nay Biểu đồ 2: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 Nguồn :Thống kê về FDI củaBộ Tài chính Nhật Bản 17/9/2002. Tuy nhiên, nếu chỉ xét riêng thập kỷ 90 thì tình hình JDI có những bước thăng trầm. Tốc độ tăng bình quân hàng năm chỉ đạt 1,64%. Nền kinh tế bong bóng sụp đổ làm cho JDI liên tục giảm với tốc độ cao trong ba năm 1990, 1991, 1992 với mức tương ứng là -15,7%, -26,9% và -17,9%. JDI có dấu hiệu phục hồi trong ba năm tiếp theo, và mức độ phục hồi cũng tương đối cao đặc biệt là năm 1995. Nhưng một năm sau đó thì khối lượng JDI lại giảm 5,3%. Năm 1997, JDI tăng lên mức cao nhất kể từ năm 1991 với mức tăng 12,4%. ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á bắt đầu vào tháng 7/1997 đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Nhật Bản nói chung và hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nói riêng, JDI năm 1998 đã giảm đi 13 triệu USD (24,5%). Nhưng JDI năm 1999 lại tăng đột biến lên tới 66,694 tỷ USD gần đạt tới mức cao nhất của năm 1989. Nguyên nhân là do sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản cũng như nền kinh tế khu vực đẩy nhanh tốc độ của quá trình mua lại và sáp nhập giữa các công ty nước ngoài. Trong năm 1999, có 238 vụ sáp nhập và mua lại do các công ty Nhật Bản tiến hành ở nước ngoài, tăng so với con số kỷ lục 175 vụ năm 1998. Tuy nhiên, JDI lại tiếp tục tụt dốc trong các năm 2000 và 2001. Năm 2001, JDI chỉ còn 3.616 tỷ USD, mức thấp nhất kể từ năm 1993. Dù tốc độ đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản có giảm sút so với những thập kỷ trước, nhưng nhìn chung, những năm 90 Nhật Bản vẫn giữ được mức đầu tư khá cao, thậm chí tăng đáng kể. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về thu hút vốn đầu tư, cũng như sự di chuyển phức tạp về dòng lưu chuyển vốn trên thế giới thì việc Nhật Bản giữ được mức đầu tư trên chứng tỏ Nhật Bản không chỉ có kinh nghiệm mà còn có sức mạnh đáng kể trong lĩnh vực này. Câu hỏi đặt ra là: Tại sao nền kinh tế Nhật Bản những năm 90 rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng, nhưng JDI không giảm, mà ngược lại khối lượng đầu tư ra nước ngoài lại tăng lên dù rằng mức tăng không nổi trội, và hiện tại Nhật Bản vẫn là nước cung cấp tài chính quan trọng cho Châu á và thế giới. ở đây có thể được giải thích bởi nhiều ký do khác nhau. Trước hết Nhật Bản là nước thực hiện tương đối nhất quán chính sách xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu tư bản. Điều này một mặt giúp Nhật Bản mở rộng thị trường, có vị trí vững chắc trong thương mại và đầu tư. Mặt khác đây là lĩnh vực mà Nhật Bản có thể nhanh chóng thu lợi nhuận từ bên ngoài. Thứ hai là việc tăng cường khuyến khích xuất khẩu và đầu tư (đặc biệt là vào nước công nghiệp phát triển) nhằm làm giảm áp lực tăng nhập khẩu từ chính các nước này. Hơn nữa, chủ trương này không chỉ tạo công ăn việc làm cho các doanh nghiệp Nhật Bản mà còn là một giải pháp để làm giảm mâu thuẫn trong quan hệ mậu dịch với các nước. Thứ ba, điều có thể dễ nhận thấy là những năm gần đây kinh tế Nhật Bản rơi vào trì trệ, giá đồng Yên không ổn định, chi phí cao, lợi nhuận thấp, ... là những nguyên nhân trực tiếp khiến các nhà đầu tư Nhật Bản tích cực tìm kiếm và mở rộng đầu tư ra bên ngoài. 3.2 Địa bàn đầu tư 3.2.1 Bắc Mỹ và EU- Địa bàn đầu tư chủ yếu Có thể thấy nguồn vốn JDI chủ yếu tập trung ở Bắc Mỹ, châu Âu và Châu á. Bắc Mỹ (đặc biệt là Mỹ) là thị trường thu hút FDI lớn nhất của Nhật Bản. Theo số liệu thống kê, tỷ trọng JDI vào khu vực này chiếm trung bình khoảng 35% cho đến giữa thập kỷ 80. Sau năm 1985, JDI vào khu vực này có sự gia tăng mạnh và đạt mức đỉnh điểm vào năm 1989 với tỷ lệ 50% tổng JDI. Thời kỳ nửa đầu những năm 1990, JDI vào Bắc Mỹ chiếm trung bình 40-45%, sau đó có giảm sút mạnh trong năm tài khoá 1997-1998, riêng năm 1998 giảm 46,6% so với năm trước. Bảng 5: Đầu tư của Nhật Bản phân theo lãnh thổ Đơn vị: Triệu USD Năm Bắc Mỹ Châu á EU Mỹ Latinh Châu úc Châu Phi 1990 27192 7054 14294 3628 4166 578 1991 18823 5936 9371 3337 3278 837 1992 14572 6425 7061 2726 2406 947 1993 15287 6637 7940 3370 2035 756 1994 18273 9699 6230 5231 1423 636 1995 22761 12264 8470 3877 2795 527 1996 23021 11614 7372 4446 897 669 1997 21389 12181 11024 6336 2058 803 1998 109430 6528 14010 6463 2213 590 1999 24770 7162 25804 7437 894 628 2000 11803 5704 23476 5033 641 696 Nguồn: Japan Almanac 2002, trang 93 Trong khu vực Bắc Mỹ, JDI phần lớn chảy vào Mỹ. Vào những năm đầu thập kỷ 90, Mỹ thu hút từ 40-45% tổng mức JDI. Vào cuối thập niên 70, JDI vào Mỹ vẫn còn thấp, lượng đầu tư chỉ khoảng 3,5 tỷ USD và duy trì đến cuối năm 1979. Trong suốt thập kỷ 80 là thời kỳ JDI vào Mỹ với tốc độ cao. Tuy nhiên, bước sang những năm 90, đặc biệt là nửa sau thập niên này, tỷ trọng của JDI có xu hướng giảm sút: Năm 1997, JDI vào Mỹ chỉ còn chiếm 38,5% tổng JDI trên toàn thế giới, sang năm 1998, con số này lại giảm đột biến xuống chỉ còn 25,3%, năm 1999 tuy có phục hồi nhưng cũng chỉ đạt mức 34,2%. Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á 1997 cũng như sự bất ổn của nền kinh tế toàn cầu làm giảm nhu cầu đầu tư của các công ty Nhật Bản. Từ năm 1980 đến nay, dòng JDI vào Mỹ đã thể hiện chiến lược "chiếm lĩnh thị trường nhằm bành trướng sức mạnh kinh tế" của các công ty Nhật Bản. Bởi lẽ trong suốt 10 năm của thập kỷ 80, thâm hụt buôn bán của Mỹ đối với Nhật Bản lên đến 353,7 tỷ USD bằng 1/3 chên._. đầu tư của Nhật Bản là tập trung vào vấn đề năng lượng mới và môi trường ở Châu á Việc lựa chọn chiến lược đầu tư cũng như các quyết định cụ thể về vấn đề này của Nhật Bản trong đầu thập kỷ 21 phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố bên trong và bên ngoài. Ngoài những nhân tố thuận lợi thì hoạt động JDI cũng gặp không ít khó khăn và thách thức thậm chí không lường trước được. Vì vậy đối với các nhà đầu tư Nhật Bản thì hoạt động dầu tư ra nước ngoài của họ là cuộc đấu khá hấp dẫn và không kém phần quyết liệt trong tương lai 3. Chiến lược thu hút FDI của Việt Nam Việt Nam khẳng định hoạt động FDI tại Việt Nam là bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, do đó, chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nằm trong chiến lược chung của chính sách đối ngoại của Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ chín 2001 đã nêu định hướng thu hút đầu tư nước ngoài như sau:" Đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các nghành công nghệ cao,vật liệu mới, điện tử, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và các nghành Việt Nam có lợi thế, gắn với công nghiệp hiện đại và tạo việc làm. Tập trung thu hút vốn FDI vào các khu công nghiệp khu chế xuất, khu công nghệ cao; tiếp tục nghiên cứu đề án xây dựng khu kinh tế mở để đưa vào kế hoạch năm năm. Dự kiến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện trong giai đoạn 2001-2005 khoảng 9-10 tỷ USD bao gồm các dự án đã được cấp phép mới và vốn bổ sung các dự án đã thực hiện." Các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trong những lĩnh vực và địa bàn sau: 1. Lĩnh vực: a. Sản xuất hàng xuất khẩu; b. Nuôi, trồng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản; c. Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển; d. Sử dụng nhiều lao động, chế biến nguyên liệu và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam; đ. Xây dựnh kết cấu hạ tầng và cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng; 2. Địa bàn: a. Địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn; b. Địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn; Như vậy, thông qua tìm hiểu xu hướng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản và chiến lược thu hút FDI của Việt Nam chúng ta nhận thấy rằng Việt Nam và Nhật Bản đã gặp gỡ nhau về mặt lợi ích. Trong khi các nhà đầu tư Nhật Bản đang chú trọng đến tiềm năng phát triển của thị trường đầu tư Việt Nam thì Việt Nam lại rất hoan nghênh và khuyến khích các nhà đầu tư như Nhật Bản. Những thế mạnh của Nhật Bản là những thứ mà chúng ta rất cần cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đây là nền tảng cho mối quan hệ hợp tác lâu dài và bền chặt giữa Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực đầu tư trong thời gian tới. 4. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút JDI vào Việt Nam. Hoạt động FDI tại Việt Nam đã phát huy vai trò tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua. Mục tiêu của kế hoạch năm năm đề cho khu vực FDI là vốn đăng ký mới đạt khoảng12 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 11 tỷ USD. Đây là mục tiêu không dễ đạt được nếu không khắc phục những hạn chế, bất cập về sự đồng bộ của phấp luật, hiệu lực hiệu quả của công tác điều hành, nhất là một số chế định chính sách cần theo kịp những đòi hỏi của thực tiễn,việc công bố quy hoạch chi tiết từng ngành, từng địa phương... Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Giảm mạnh, tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật giữu đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Cải tiến nhanh các thủ tục hành chính để đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, thực hiện từng bước cơ chế đăng ký đầu tư. Chú trọng thu hút đầu tư của các công ty năm công nghệ nguồn và có thị phần lớn trên thị trường thế giới. Tăng cường hỗ trợ và quản lý sau cấp giấy phép, tạo điều kiện cho các dự án đã được cấp phép hoạt động có hiệu quả. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài các giải pháp chung như trên thì chúng ta cần phải thực hiện một số giải pháp sau nhằm tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam: 4.1 Xóa đi tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư Nhật Bản về môi trường đầu tư Việt Nam Việc đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam lâu nay còn thấp và có xu hướng suy thoái là do rất nhiều nguyên nhân nhưng một nguyên nhân quan trọng mà phía Việt Nam phải thừa nhận là môi trường đầu tư của chúng ta còn yếu kém. Trong quá trình thực hiện đầu tư, các nhà kinh doanh Nhật Bản đã vấp phải không ít những khó khăn cho hoạt động của họ tại Việt Nam. Do đó, điều trước hết mà Việt Nam phải làm để tăng cường thu hút JDI là tập trung xử lý kịp thời những vướng mắc của các dự án đang triển khai nhằm củng cố lòng tin của các nhà đầu tư Nhật Bản đã vào Việt Nam. Vì nếu không làm được điều này thì những nỗ lực trong việc vận động đầu tư sẽ không có kết quả như mong muốn vì không có gì có sức thuyết phục hơn là sự thành công của các dự án cụ thể. Giám đốc một công ty tư vấn đầu tư đã nói rằng "để cuốn hút được các con chim đang bay trên trời thì trước hết phải giữ được chân các con chim đã đậu". Theo ông, điều quan trọng trước mắt là phải chứng minh được rằng địa bàn đầu tư nước ta là "miền đất lành cho các nhà đầu tư đáp xuống" Theo điều tra của JETRO ngày 30/4/2002 thì khó khăn chủ yếu mà các doanh nghiệp Nhật Bản gặp phải trong khi triển khai hoạt động đầu tư tại Việt Nam là: - Chế độ pháp luật kinh tế chưa hoàn thiện, cơ sở hạ tầng kém phát triển, nạn hàng nhái, hàng giả, hàng nhập lậu hoành hành. Chúng ta cũng phải thừa nhận rằng ngành lập pháp của chúng ta còn non trẻ, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện là điều tất yếu. Trong thời gian tới Việt Nam cần phải tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ lập pháp và học hỏi những kinh nghiệm của các nước bạn, đặc biệt là các nước trong khu vực về lĩnh vực này. Bên cạnh đó, việc tăng tiến độ giải ngân các dự án ODA phát triển cơ sở hạ tầng cũng là giải pháp tích cực đễ xoá đi tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư Nhật Bản về cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta. Ngoài ra, tích cực thúc đẩy sản xuất trong nước là biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn nạn nhập lậu. Chính phủ Việt Nam đang triển khai những biện pháp cứng rắn để đối phó với nạn hàng giả và hàng nhái, hy vọng trong thời gian tới môi trường cạnh tranh tại Việt Nam sẽ lành mạnh hơn. - Khả năng cung cấp phụ tùng tại chỗ của Việt Nam còn thấp trong khi đó một số ngành thuộc lĩnh vực lắp ráp như ô tô, điện tử, xe máy yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa cao. Các công ty này phải nhập khẩu phụ tùng từ Nhật Bản làm đẩy giá thành sản xuất lên cao. Một vấn đề đặt ra cho chúng ta hiện nay là phải có những biện pháp tích cực để nuôi dưỡng các ngành công nghiệp hỗ trợ như ngành chế tạo máy, công cụ sản xuất linh kiện, phụ tùng. Kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản và các nước Châu á khác cho thấy phải có chính sách rõ ràng về từng ngành công nghiệp và có biện pháp khuyến khích đầu tư vào những ngành công nghiệp hỗ trợ. Biện pháp này bao gồm chính sách bảo hộ và ưu đãi cho những doanh nghiệp đi tiên phong. Lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng là thế mạnh của Nhật Bản, do vậy nếu chúng ta có chính sách ưu đãi hợp lý thì chắc chắn các nhà đầu tư Nhật Bản sẽ tăng cường đầu tư vào đây. Mục đích trước mắt của họ là nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất của chính mình và sau đó là cung cấp cho thị trường phụ tùng linh kiện đầy tiềm năng của Việt Nam. - Các nhà quản lý Nhật Bản chưa đủ tự tin để chuyển giao công nghệ quản lý cho nhân viên Việt Nam bởi vì kỹ năng của các giám đốc, tổ đội trưởng được tuyển dụng còn chưa cao. Trong khi đó nếu thuê người quản lý từ Nhật Bản lại quá tốn kém và không nhận được sự đồng tình ủng hộ của nơi tiếp nhận vốn Trong những năm qua, những thành tựu trong công tác giáo dục đào tạo của Việt Nam đã được ghi nhận nhưng để đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới thì chúng ta cần phải nỗ lực nhiều trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng của các trường dạy nghề. Nhật Bản là quốc gia có nền văn hoá nói chung và văn hoá kinh doanh rất độc đáo. Để hợp tác thành công với người Nhật thì trước hết chúng ta cần phải hiểu biết những nét riêng của văn hoá kinh doanh Nhật Bản. Do vậy để khắc phục được khó khăn này thì chúng ta cần phải hợp tác với Nhật Bản trong việc đào tạo nguồn nhân lực, cử cán bộ sang học tập kinh nghiệm quản lý ở Nhật Bản. Trung tâm hợp tác nguồn nhân lực Việt Nam Nhật Bản được thành lập và đã phát huy vai trò của mình. Trong thời gian tới, chúng ta cần tăng cường hỗ trợ cho hoạt động của trung tâm để đào tạo cho Việt Nam nuồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu đặt ra của các nhà đầu tư nước ngoài nói riêng và cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung. Những khó khăn trên không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của Nhật Bản mà còn cả hoạt động FDI tại Việt Nam nói chung. Ngay một lúc chúng ta không thể đáp ứng được đòi hỏi của các nhà đầu tư nhưng chúng ta phải tiếp thu những ý kiến từ phía họ và tỏ ra thiện chí trong việc nỗ lực cải tạo môi trường đầu tư theo hướng tốt hơn. Phía Nhật Bản đã đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư theo hướng hoàn thiện hơn. Ông Hashimoto –chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam đã công nhận hầu hết các lĩnh vực trong môi trường đầu tư của Việt Nam đã được cải thiện nhiều so với trước đây, trong đó có những vấn đề chủ yếu như: Luật Đầu tư mới đã giảm danh mục sản phẩm bắt buộc xuất khẩu(80%) từ 24 mặt hàng xuống còn 14; mở rộng áp dụng trả lương bằng VND; bãi bỏ việc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bị cấm trực tiếp thuê lao động; xây dựng tiêu chuẩn kế toán điều chỉnh giữa Hệ thống kế toán Việt Nam và Hệ thống kế toán quốc tế; giảm tỉ lệ kết hối bắt buộc xuống còn 40%; bỏ mức lãi trần đối với lãi suất cho vay bằng USD; bỏ quy chế về tái bảo hiểm ra nước ngoài; áp dụng chế độ kiểm tra mẫu trong hải quan... Việt Nam đã, đang và sẽ nỗ lực cải tạo môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng và hấp dẫn hơn. Điều này hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói chung và hoạt động JDI nói riêng. 4.2 Phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam so với các nước trong khu vực Hiện nay vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam chỉ bằng 1/33 JDI của Nhật Bản vào Trung Quốc và 1/12 JDI vào Thái Lan và 1/5 vào Malaysia. Trong một vài năm tới, mức JDI không có dấu hiệu tăng đột biến trong khi nhu cầu vốn đầu tư của các nước ASEAN ngày càng tăng nên cạnh tranh giữa các quốc gia để thu hút FDI nói chung và đầu tư của Nhật Bản nói riêng ngày càng trở nên gay gắt. Nếu so với các nước trong khu vực thì môi trường đầu tư vào Việt Nam còn kém hấp dẫn hơn nhiều, chỉ xếp thứ 7 trong số 10 nước ASEAN. Do vậy trong cuộc cạnh tranh thu hút JDI, Việt Nam phải hướng vận động đầu tư, quy hoạch dự án theo hướng thu hút JDI vào những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế hơn so với các nước trong khu vực. Theo cuộc điều tra được tiến hành bởi JBIC về lý do tại sao các quốc gia lại hấp dẫn các nhà đầu tư Nhật Bản, Việt Nam được các nhà đầu tư Nhật Bản đánh giá cao về thế mạnh lực lượng lao động rẻ, chi phí nguyên vật liệu thấp và nguồn nhân lực tốt. So với các nước trong khu vực thì Việt Nam là địa chỉ đầu tư có chi phí nguyên liệu thấp nhất trong con mắt các chủ đầu tư Nhật Bản. Do vậy chúng ta phải tận dụng lợi thế này để hướng các nhà đầu tư Nhật Bản vào các ngành cần nguyên liệu sẵn có của Việt Nam như các ngành khai khoáng,nông lâm ngư nghiệp, chế tạo thép… Bên cạnh đó, nguồn nhân lực của Việt Nam được đánh giá là tốt hơn nhiều vì có đến 26,5% doanh nghiệp được hỏi trả lời Việt Nam có nguồn nhân lực tốt trong khi chỉ có 1,9% công ty trả lời như vậy đối với Indonesia, con số của Thái Lan là 13,6%; Malaysia 14,3% và philippin 16,7%. Lợi thế này cho phép Việt Nam tăng cường thu hút JDI trong các ngành cần lao động kỹ thuật cao như viễn thông, tin học... Bảng 10 : Lý do mà các quốc gia hấp dẫn các nhà đầu tư Nhật Bản Đơn vị: % doanh nghiệp trả lời Thái Lan Indonesia Malaysia Việt Nam Philippin Quy mô thị trường hiện tại 15,9 13,0 16,7 5,9 6,7 Tiềm năng phát triển thị trường 55,7 50,3 45,2 47,1 43,3 Lực lượng lao động rẻ 47,7 74,1 47,6 70,6 70,0 Chi phí nguyên liệu thấp 15,9 22,2 16,7 23,5 6,7 Cơ sở xuất khẩu sang Nhật Bản 17,0 18,5 21,4 17,6 20,0 Xuất khẩu sang nước thứ ba 39,8 29,6 33,3 23,5 36,7 Nguồn nhân lực tốt 13,6 1,9 14,3 26,5 16,7 Phát triển hội nhập khu vực 6,8 7,4 4,8 0,0 0,0 Nguồn: JBIC Review 6/2002 trang 54 Do nền kinh tế Việt Nam có trình độ phát triển chưa cao nên quy mô thị trường hiện tại còn nhỏ so với các nước láng giềng nhưng bù lại vì mức sống còn thấp nên tiền lương cũng không cao. Có đến 70,6% công ty được hỏi cho rằng Việt Nam có lực lượng lao động rẻ, chỉ xếp sau Indonesia với 74,1%. Đây cũng là hướng mà Việt Nam có thể kết hợp để tăng cường thu hút JDI vào những ngành cần nhiều người lao động như dệt may, giày da… với việc tạo công ăn việc làm cho người lao động. Đối với các dự án sản xuất hàng xuất khẩu sang Nhật Bản hoặc sang một nước thứ ba khác thì Việt Nam không có lợi thế bằng các nước khác trong khu vực do đó chúng ta chỉ có thể đẩy mạnh thu hút JDI vào lĩnh vực này chỉ khi kết hợp với các lợi thế khác. Xét về tiềm lực kinh tế thì Việt Nam còn kém hơn các nước khác trong khu vực nhưng các nhà đầu tư Nhật Bản vẫn đánh gía cao tiềm năng phát triển thị trường của Việt Nam, , số doanh nghiệp được hỏi trả lời về khả năng phát triển thị trường tiềm năng ở Việt Nam là 47,1% xấp xỉ bằng con số của các nước láng giềng. Điều này chứng tỏ các nhà đầu tư Nhật Bản đã ghi nhận những thành tựu phát triển kinh tế của Việt Nam trong tiến trình đổi mới và tỏ ra lạc quan về triển vọng kinh tế Việt Nam tương lai. Trên đây chỉ là những lợi thế tự nhiên mà Việt Nam có được theo sự đánh giá của các nhà đầu tư Nhật Bản. Để những lợi thế này thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư thì Việt Nam cần có các chính sách ưu đãi cụ thể để lôi kéo các nhà đầu tư Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam. Phương châm của chúng ta là phải biến tiềm năng thành hiện thực chứ không phải để tiềm năng mãi chỉ là tiềm năng. Nhiệm vụ của của Việt Nam là phải tăng cường vận động đầu tư tới các nhà đầu tư Nhật Bản để quảng bá các lợi thế sẵn có cũng như những ưu đãi của nhà nước đối với từng hạng mục dự án kêu gọi đầu tư. Dưới con mắt của người Nhật Bản, Việt Nam có khả năng hội tụ được những điều kiện cần thiết để lôi cuốn các nhà đầu tư Nhật Bản đưa vốn vào Việt Nam mà không phải lo ngại về những rủi ro thường gặp trong quá trình đầu tư. Với những tiềm năng và lợi thế như vậy, cùng với một môi trường chính trị xã hội ổn định, chính quyền vững mạnh, phù hợp với lòng dân, lại được chính phủ Việt Nam luôn tạo những điều kiện thuận lợi và cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong tương lai, Việt Nam có thể sẽ trở thành một địa bàn lý tưởng để Nhật Bản có thể thâm nhập, mở rộng thị trường buôn bán, đầu tư, tiêu thụ hàng hóa khai thác nguồn cung cấp nguyên liệu và nguồn nhân lực dồi dào. 4.3 Tăng cường hợp tác với Nhật Bản trong lĩnh vực đầu tư Bên cạnh những nỗ lực của phía Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư, phía Nhật Bản cũng đã có những sự trợ giúp tích cực để chia sẻ khó khăn với Việt Nam vì các nhà đầu tư Nhật Bản đã tỏ thiện chí muốn làm ăn lâu dài với Việt Nam. Trong thời gian tới, Việt Nam cần hợp tác với Nhật Bản để chia sẻ những thông tin về hoạt động FDI tại Việt Nam cũng như các dự án cần thu hút vốn, những quy định, chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư. Một trong những việc làm có ý nghĩa của Nhật Bản đối với việc xúc tiến đầu tư ở Việt Nam là sự góp mặt của JETRO - Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản - Một tổ chức phi lợi nhuận của chính phủ Nhật Bản trong chương trình khuyến khích các doanh nghiệp của Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam. Bắt đầu hoạt động vào tháng 10/1993, JETRO đóng vai trò trung gian giữa các công ty Nhật Bản đang tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt Nam với các đối tác của họ và ngược lại. Bên cạnh đó, JETRO còn cung cấp các thông tin cơ bản về môi trường đầu tư của Việt Nam cho các nhà kinh doanh Nhật Bản, giúp đỡ các công ty Việt Nam tiếp cận với các chủ đầu tư Nhật Bản có tiềm năng một cách dễ dàng hơn. Với vai trò như vậy, JETRO thực sự là chiếc cầu nối thuận lợi cho quan hệ hợp tác đầu tư Việt - Nhật. Vì vậy chúng ta phải tận dụng ưu thế của chiếc cầu nối này để quảng bá cho các nhà đầu tư Nhật Bản về tiềm năng của Việt Nam, danh mục dự án kêu gọi đầu tư. Với cách làm này thì cả hai bên Việt Nam và Nhật Bản dễ dàng gặp gỡ nhau về mặt lợi ích. Một hoạt động có ý nghĩa nữa trong việc thúc đẩy quan hệ đầu tư giữa hai nước là các cuộc họp nhóm đầu tư thương mại Việt Nam-Nhật Bản diễn ra hàng năm tại Việt Nam. Đến nay đã có ba cuộc họp đã được tổ chức và cuộc họp gần đây nhất là cuộc họp nhóm đầu tư Việt-Nhật lần thứ ba vào trung tuần tháng tư năm 2002 tại Hà Nội. Tham dự cuộc họp phía Nhật Bản có sự góp mặt của quan chức thuộc Bộ Ngoại giao và Bộ Công thương Nhật Bản và đại diện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam. Phía Việt Nam có mặt của các quan chức hữu quan. Theo đánh giá của ông Chihiro Atsumi- Vụ phó Vụ Châu á Thái Bình Dương của Nhật Bản, cuộc họp lần thứ ba có kết quả tốt hơn so với hai kỳ trước, những nội dung được đề cập tại cuộc họp lần này rất phong phú và rất đầy đủ. Hai bên đã trao đổi với nhau rất thẳng thắn các vấn đề nêu ra, các câu trả lời của phía Việt Nam đã ăn khớp với các câu hỏi của phía Nhật Bản đưa ra. Các cuộc họp này là dịp rất tốt để cả hai phía có thể trao đổi trực tiếp với nhau các vấn đề cùng quan tâm. Trong thời gian tới, phía Việt Nam cần hợp tác với Nhật Bản để tổ chức các cuộc họp tương tự như thế này. Ngoài ra, Việt Nam cần phải có các chương trình hợp tác cấp chính phủ với Nhật Bản trong lĩnh vực đầu tư. Các cuộc Hội nghị, các chuyến thăm chính thức của các nhà đại diện cấp cao hai nước là cơ hội tốt để cho hai bên tăng cường tiếp xúc và hiểu biết lẫn nhau. Chuyến thăm gần đây nhất của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh vào ngày 3/10/2002 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong quan hệ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản nói chung về các lĩnh vực kinh tế đối ngoại, hợp tác song phương. Bên cạnh đó, cả hai chính phủ đã bắt đầu đưa ra thảo luận để tiến hành soạn thảo và ký kết hiệp định chung về Khuyến khích đầu tư Việt Nam - Nhật Bản. Hiệp định này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai phía. Về phía Việt Nam điều đó thể hiện sự hoàn thiện và ổn định của chế độ pháp luật, khiến các doanh nghiệp Nhật Bản yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Nếu hiệp định này được ký kết sẽ hứa hẹn những triển vọng to lớn trong việc thúc đẩy JDI vào Việt Nam. Hiện nay báo chí khắp nơi nói nhiều về cuộc khủng hoảng, nói nhiều về sự trì trệ và chiếc ngai vàng kinh tế Châu á mà Nhật Bản nắm giữ đang bị lung lay, thế nhưng ý nghĩa của những giá trị thành công của họ trong thế kỷ qua thì vẫn còn mãi. Đối với Việt Nam, một đất nước còn nghèo nàn và lạc hậu thì tấm gương phát triển kinh tế của Nhật Bản là rất đáng để học tập. Trong xu thế hiện nay tiếp nhận JDI một cách có chọn lọc là phương pháp học tập được đánh giá cao nhất, có hiệu qủa nhất. Sự phát triển hay tụt hậu phụ thuộc không nhỏ vào kết quả thực hiện chính sách thu hút và sử dụng vốn FDI. Bên cạnh những nỗ lực nhằm tạo điều kiện thuận lợi như bảo đảm ổn định chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô, thiết lập môi trường pháp lý lành mạnh, xây dựng hạ tầng cơ sở...thì một điều quan trọng mà chúng ta phải rất quan tâm là dung hoà được lợi ích của phía Việt Nam với lợi ích của các đối tác Nhật Bản. Kết luận Nếu như tốc độ tăng trưởng thương mại Nhật Bản thập kỷ 90 của thế kỷ 20 vừa qua không ổn định thì tình hình đầu tư ra nước ngoài của nước này có vẻ sáng sủa hơn. Dù rằng tốc độ tăng đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản có giảm sút so với những thập kỷ trước đó nhưng nhìn chung, từ năm 1990 đến nay, Nhật Bản vẫn giữ được mức đầu tư khá cao thậm chí tăng đáng kể. Xét về địa bàn đầu tư thì Bắc Mỹ và EU là thị trường đầu tư chủ yếu, thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn trong tổng JDI. Tuy nhiên, bắt đầu từ những năm1990 các nhà đầu tư Nhật Bản đã bắt đầu chính sách hướng mạnh về Châu á và coi Châu á là địa bàn chiến lược của mình. Còn xét về cơ cấu lĩnh vực đầu tư thì JDI chủ yếu tập trung vào nghành phi chế tạo, đây cũng là xu hướng chung của dòng lưu chuyển FDI trên thế giới. Các nhà đầu tư Nhật Bản đã tập trung vào hoạt động sát nhập và mua lại trong chiến lược đầu tư ra nước ngoài của mình. Dù rằng hiện tại nền kinh tế Nhật Bản đang trong tình trạng suy thoái song người Nhật đang cố gắng thực hiện nhiều giải pháp cải cách để vượt qua những khó khăn đó và hi vọng sự hồi sinh trở lại, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến chiến lược kinh tế đối ngoại. Hiện nay nền kinh tế Nhật Bản đang có dấu hiệu phục hồi và đáng chú ý là xu thế đồng yên đang tăng giá có thể là những tác nhân góp phần cải thiện tình hình đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản. Trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21 Nhật Bản sẽ vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài và cơ cấu địa bàn đầu tư, lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu tư cũng không có nhiều thay đổi so với thập kỷ trước. Đặc biệt các nhà đầu tư Nhật Bản đánh giá cao tiềm năng của các nước ASEAN trong đó có Việt Nam như là miền đất hứa cho hoạt động kinh doanh của mình. Các nhà đầu tư Nhật Bản luôn tỏ ra thận trọng và chắc chắn khi đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên các công ty Nhật Bản đều coi Việt Nam là thị trường mới nổi đầy triển vọng đối với đầu tư của họ các lĩnh vực đầu tư của Nhật Bản bao hàm hầu hết các ngành kinh tế thiết yếu của Việt Nam, từ dầu khí đến cơ khí chế tạo, đặc biệt là sản xuất ôtô, linh kiện điện tử, chế biến nông sản, thực phẩm, du lịch, dịch vụ, xây dựng hạ tầng khu công nghiệp. Các công ty hàng đầu của Nhật Bản như Honda, Sony, Sumitomo, Marubeni, Mitsui đã có mặt và đang phát triển tích cực các dự án của mình ở Việt Nam. Điểm đáng lưu ý là các dự án triển khai nhanh, tỷ lệ đổ bể thấp hơn mức trung bình, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao. Một số lĩnh vực đầu tư của Nhật Bản đang trở thành sức sống của nền công nghiệp Việt Nam như sản xuất ôtô, công nghiệp điện tử. Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài. Nhưng chúng ta cũng còn nhiều khó khăn trở ngại đòi hỏi phải có sự nỗ lực để vượt qua. Trước hết phải khắc phục những trở ngại do chính chúng ta gây ra và phát huy tối đa các lợi thế so sánh mà chúng ta có được. Trong bối cảnh hiện nay, cùng với những lợi thế của mình, chúng ta không được phép bỏ lỡ cơ hội trở thành một điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và Nhật Bản nói riêng. Hơn mười năm thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản không phải là một thời gian dài nhưng chúng ta cũng rút ra được khá nhiều kinh nghiệm, cả kinh nghiệm của sự thành công cũng như kinh nghiệm của sự thất bại. Hợp tác kinh tế đầu tư giữa hai nước Việt Nam-Nhật Bản vẫn đang đi đúng hướng. Mặc dù hiện nay Nhật Bản chưa phải là nhà đầu tư lớn nhất ở Việt Nam nhưng hy vọng rằng điều đó sẽ trở thành hiện thực trong một tương lai gần và điều quan trọng nhất ở đây là đạt tới một nền kinh tế phát triển ổn định cho cả Việt Nam, Nhật Bản cũng như các nước trong khu vực. Tài liệu tham khảo Phạm Thị Thanh Bình- Vai trò của Nhật Bản trong phát triển kinh tế ASEAN thập niên cuối thế kỷ 21- Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á 2/ 2002. Nguyễn Duy Dũng- Xu hướng đầu tư vào ODA của Nhật Bản thập niên đầu thế kỷ 21- Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á 11/2001 3. Đỗ Đức Định- Quan hệ kinh tế Việt Nam-Nhật Bản đanh phát triển- NXB Khoa học xã hội 1996 4. Vũ Văn Hà- Điều chỉnh chính sách đầu tư trực tiếp của Nhật Bản trong thập niên 90 của thế kỷ 20- Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á 6/2002. 5. Hoàng Minh Hằng- Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào ASEAN trong thập kỷ 90 vừa qua- Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á 10/ 2001. 6. Phạm Quý Long- Tác động của đồng yên lên giá tới nền kinh tế Nhật Bản và các giải pháp vĩ mô- Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản 11/1995. 7. Phạm Quý Long- Kinh tế Nhật Bản phải chăng đang phục hồi- Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản 11/2000. 8. Vũ Chí Lộc- Giáo trình đầu tư nước ngoài- NXB Giáo dục 1997. 9. Nguyễn Thị Luyến ( Chủ biên)- Hiện tượng thần kỳ Đông á, các quan điểm khác nhau- NXB khoa học xã hội 1997. 10. Kim Ngọc ( Chủ biên)- Kinh tế thế giới 2000-2001- Đặc điểm và triển vọng- NXB Chính trị quốc gia 2001. 11. Tập thể tác giả Trung Quốc- Dự báo thế kỷ 21- NXB Thống kê 1998. 12. Makoto Sakurai thuộc Viện nghiên cứu Mitsui Marine Trường đại học Aoyama- Doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản và đầu tư ra nước ngoài của họ- Báo cáo hội thảo tại Hà Nội 30/11/1996. 13. Lê Văn Sang ( Chủ biên )- Chiến lược và quan hệ kinh tế Mỹ- EU- Nhật Bản Thế kỷ 21- NXB Khoa học xã hội 2002. 14. Lê Văn Sang, Đào Lê Minh- Kinh tế Châu á Thái Bình Dương- NXB Chính trị quốc gia 1998. 15. Lê Văn Sang, Nguyễn Xuân Thắng- Kinh tế các nước công nghiệp chủ yếu sau chiến tranh thế giới thứ hai- NXB Chính trị quốc gia 2000. 16. Lê Văn Sang, Lưu Ngọc Trịnh- Nhật Bản đường đi tới một siêu cường kinh tế- NXB Khoa học xã hội 1991. 17. Vũ Trường Sơn - Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam- NXB Thống kê 1997 18. Shojiro Tokugana ( Chủ biên) - Đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản và sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ở Châu á- NXB Khoa học xã hội 1996. 19. Lưu Ngọc Trịnh- Kinh tế Nhật Bản những bước thăng trầm trong lịch sử- NXB Thống Kê 1998. 20. Lưu Ngọc Trịnh- Giới tài chính Nhật Bản đứng trước bước ngoặt sống còn- Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản 6/1998. 21. Lưu Ngọc Trịnh- Quan hệ kinh tế Việt Nam-Nhật Bản trong những năm gần đây- Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản 9/2000. 22. Nguyễn Anh Tuấn- Quan hệ kinh tế của Mỹ và Nhật Bản với Việt Nam từ năm 1995 đến nay- NXB Khoa học xã hội 2001. 23. Thời báo Kinh tế Việt Nam – Kinh tế Việt Nam và Thế giới -các năm từ 1997 đến 2002 24. Thời báo Kinh tế Sài Gòn, các số năm 2002 25. Jbic today- 5/2001,6/20 26. Jbic Review 2000,20001 27. Jetro White Paper on International Trade and Invetsment 1997, 1998, 1999, 2000, 2001,2002 Webside: 1. 2. 3. 4. 5. 6. http:// www.imf.org.com/ Phụ lục 1: Tình hình xuất khẩu FDI của một số nước Đơn vị: Triệu USD 1997 1998 1999 2000 2001 Mỹ Canada 105,590 11,523 178,200 22,526 301,020 25,206 307,747 62,758 130,796 27,574 EU Bỉ và Luxembua Đan Mạch Pháp Đức Ailen Italia Hà Lan Tây Ban Nha Thuỵ Điển Anh 130,443 11,998 2,792 23,048 12,795 2,743 3,700 11,055 6,384 10,271 37,379 259,293 22,619 6,675 29,518 23,279 11,035 2,635 37,634 11,905 19,413 74,652 490,612 133,059 16,077 46,625 55,790 18,615 6,943 41,283 15,541 59,386 87,833 800,005 234,757 35,532 43,173 189,178 22,778 13,175 56,631 36,931 22,125 119,933 321,941 51,214 7,050 52,504 28,699 9,865 15,025 55,563 21,540 12,857 53,854 Ôxtrâylia Trung Quốc Hồng Kông ấn Độ Nhật Bản Malaysia Philipin Hàn Quốc Đài Loan Thái Lan 7,631 44,237 11,368 3,577 3,200 5,137 1,222 2,844 2,248 3,895 6,046 43,751 14,776 2.635 3,268 2,163 2,287 5,412 222 7,315 5,699 38,753 24,587 2,169 12,308 3,895 573 9,333 2,926 6,213 11,512 38,399 61,883 2,315 8,227 3,788 1,241 9,283 4,928 3,366 4,067 44,241 22,834 3,403 6,191 0,554 1,792 3,198 4,109 2,839 áchentina Braxin Mêxicô 9,161 19,650 12,831 7,292 31,913 11.312 23,984 28,576 11,915 11,665 32,779 13,286 3,181 22.636 24,730 Cộng Hoà Séc Hungary Ba Lan Nga 1,300 2,173 4,908 4,865 3,718 2,036 6,365 2,762 6,324 1,970 7,270 3,309 4,986 1,649 9,342 2,714 4,916 2,443 8,000 2,540 Israen Nam Phi 1,628 3,811 1,760 550 2,889 1,503 4,392 0,969 3,044 7,162 Thế giới Nước phát triển Nước đang phát triển 461,646 272,033 189,613 688,433 485,184 203,249 1,083,472 856,234 227,239 1,469,211 1,217,387 251,384 694,753 502,203 192,549 Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế của IMF 12/2001 Phụ lục 2: Tình hình tiếp nhận FDI của một số nước Đơn vị: Triệu USD 1996 1997 1998 1999 2000 Mỹ Canada 91,880 13,107 104,820 22,521 155,410 31,041 155,410 17,842 152,440 41,499 EU ôxtrâylia Bỉ và Luxambua Đan Mạch Phần Lan Pháp Đức Hy Lạp Ailen Italia Hà Lan Bồ Đào Nha Tây Ban Nha Thuỵ Điển Anh 185,195 1,848 8,026 2,510 3,583 30,362 50,752 18 727 8,697 31,890 972 5,577 5,112 35,157 223,215 1,984 7,252 4,355 5,260 35,488 42,726 4 1,008 10,414 24,598 2,187 12,423 12,119 63,499 410,115 2,794 28,845 4,215 18,698 45,710 89,678 262 4,955 12,407 37,226 3,851 19,065 22,671 119,747 713,832 3,306 119,800 13,607 6,739 119,494 109,797 555 6,102 6,723 58,139 2,856 41,754 19,554 206,518 805,317 3,304 82,342 27,580 22,436 169,481 52,048 2,141 3,983 12,075 74,809 7,139 52,826 39,962 259,472 Na Uy Thuỵ Sĩ 5,880 16,152 5,008 17,732 3,263 16,767 5,771 35,952 8,197 41,316 ôxtrâylia NiuZilân Nhật Bản 7,052 1,533 23,442 6,368 45 26,059 3,368 928 24,625 2,989 803 22,267 5,291 963 31,534 Đông á Trung Quốc Asian Nies Hồng Kông Hàn Quốc Xinhgapo Đài Loan asean 4 Inđonêsia Malaysia Philipin Thái Lan 49,467 2,114 41,872 26,531 4,671 6,827 3,843 5,481 600 3,768 182 931 49,542 2,563 43,459 24,407 4,449 9,360 5,243 3,520 178 2,626 136 580 29,857 2,634 26,103 16,973 4,740 555 3,836 1,119 44 785 160 130 35,752 1,775 31,978 19,349 4,198 4,011 4,420 1,999 72 1,640 -59 346 83,114 916 79,247 63,014 5,256 4,276 6,701 2,951 150 2,919 -95 -23 Mỹ Latinh achentina Braxin Mêhicô 5,549 1,600 -467 38 14,391 3,653 1,042 1,108 8,048 2,326 2,721 1,363 21,753 1,354 1,690 1,214 13,442 1,113 2,280 1,600 Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế của IMF 12/2001 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoaluantotnghiep.doc
  • xlsPhu luc.xls
  • docTªn ®Ò tµi.doc
Tài liệu liên quan