Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của các doanh nghiệp

Lời mở đầu Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là xu hướng tất yếu của các nước trên thế giới. Đó không chỉ là đặc quyền của các nước có nền kinh tế phát triển, có tiềm lực tài chính mạnh, có khoa học công nghệ hiện đại, có trình độ quản lý tiên tiến mà ngay cả đối với các nước có nền kinh tế đang và kém phát triển thì dòng đầu tư ra cũng đã phát triển một cách mạnh mẽ. Sự tham gia của các nước đang phát triển làm phong phú, đa dang thêm môi trường hoạt động đ

doc40 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của các doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu tư quốc tế. Vịêt Nam không nằm ngoài xu thế chung đó, trong những năm gần đây, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Vịêt Nam ngày càng phát triển, không chỉ đầu tư sang các nước đang và kém phát triển mà còn đầu tư sang các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Anh, Pháp… Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp doanh nghiệp khai thác được những lợi thế cạnh tranh cũng như có thể vượt qua các rào cản thương mại của nước nhận đầu tư để có thể mở rộng thị trường sản xuất, tạo điều kiện thu được nhiều hiệu quả hơn từ hoạt động sản xuất kinh doạnh.. Vì đây là một lĩnh vực rất mới đối với Vịêt Nam nên trong phạm vi đề án môn học này em xin được tìm hiểu một cách có hệ thống hơn khái quát tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Vịêt Nam trong thời gian qua và những đánh giá một cách có khoa học những báo cáo nghiên cứu mới nhất về tình hình đầu tư ra nước ngoài cuả Vịêt Nam. Chương I: Cơ sở lý luận về Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ĐTTTRNN) 1 Khái niệm ĐT nước ngoài, ĐTTTRNN Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động quốc tế. Ngoài ra còn có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo hiệp hội luật quốc tế (1966) : “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của chủ đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh hoặc dịch vụ”. Cũng có quan điểm cho rằng “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhưng không phải để mua hàng hoá tiêu dùng của nước này mà dùng để chi phí cho các hoạt động có tính chất kinh tế xã hội”. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam là việc các doanh nghiệp Việt Nam đưa vốn ra nước ngoài để trực tiếp đầu tư quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh với mong muốn mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, hoặc dịch vụ và thu được lợi nhuận cao hơn so với trong nước. 2 Sự cần thiết của hoạt động ĐTTTRNN A Tính tất yếu của ĐTTTRNN của các nước đang phát trển -Các quốc gia đang phát triển xuất phát điểm thấp, tuy nhiên trong những năm gần đây tình hình KT-XH đã được cải thiện rõ rệt do đó xu hướng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là tất yếu. Như chúng ta đã biết đầu tư ra nước ngoài cần có rất nhiều điều kiện, từ phía bản thân doanh nghiệp như vấn đề tài chính có đủ mạnh để đầu tư ra không, công nghệ , thiết bị , trình độ chuyên môn, quản lý, taynghề của người lao đôngh có đủ đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh tại một thị trường mới không, cũng như giá thành, chất lượng sản phẩm có đáp ứng được thị hiếu của khách hàng hay không, có đủ sức cạnh tranh với những sản phẩm tuơng tự và những sản hẩm có tính chất thay thế hay không… Rồi cơ chế chính sách của Nhà nước có khuyến khích, hỗ trợ hoạt động đầu tư ra nước ngoài hay không nước nhận đầu tư có tạo điều kiện cho hoật động đầu tư của doanh nghiệp hay không? Như vậy với điều kiện như trước đât, các nước đang phát riển không thể đảm bảo được những điều kiện cần thiết đó vì Như chúng ta đã biết, các nước này có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, tích luỹ nội bộ thấp, vốn đầu tư cho hoạt động đầu tư phát triển không có, nên không thể tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các nước đang phát riển đã có nhiều sự chuyển biến đáng kể, kinh tế đã có những bước phát triển vượt bậc, do đó những điều kiện cho việc triển khai hoạt động đầu tư trực tiếp tại nước ngoài đã có, và do đó đầu tư ra nước ngoài là xu hướng tất yếu mà các nước đang phát triển đang hướng tới. - Sự phát triển của các quốc gia không đồng đều. Mỗi quốc gia có lợi thế riêng, điểm mạnh riêng mang tính đặc trưng kể cả các quốc gia phát triển hay các quốc gia đang phát triển khác. Mặc dầu không có được những lợi thế về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật như các nước phát triển, tuy nhiên các nước đang phát triển vẫn có những lợi thế riêng, điểm mạnh riêng, mang tính đặc trưng cần được khai thác. Bên cạnh đó, gần đây các quốc gia đang phát triển đã có những điều kiện cần thiết để học hỏi các quốc gia phát triển trong lĩnh vực đầu tư, từ đó thực hiện đầu tư sang các nước kém phát triển hơn, đồng thời cũng có đủ điều kiện để khai thác thế mạnh của mình ở các quốc gia khác, thậm chí là cả ở quốc phát triển hàng đầu thế giới. Trên nền tảng những thế mạnh sẵn có của mình, có thể nói thế mạnh cơ bản mà các quốc gia phát triển có là vốn đầu tư lớn, cũng như trình độ KHCN hiện đại, phát triển ở mức cao, còn điểm mạnh mà các quốc gia đang phát triển có thể phát huy ở các quốc gia phát triển là môi trường kinh doanh của các nước này rộng lớn, khiến cho nhiều lĩnh vực đầu tư còn bị bỏ ngỏ, hoặc chi phí để thực hiện một số lĩnh vực đầu tư đối với họ còn tương đối cao so với các quốc gia đang phát triển khi các quốc gia này trực tiếp thực hiện chúng. B Lợi ích của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước đang phát triển - Giúp các DN san sẻ rủi ro trong đầu tư và kinh doanh.Khi thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội mới để sản xuất kinh doanh, đồng thời mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, từ đó nhà đầu tư có thể san sẻ rủi ro cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. -Giúp các DN vượt qua hàng rào bảo hộ thương mại của các nước nhận đầu tư do đó tiếp cận với thị trường 1 cách ngắn nhất. và mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, hoặc dịch vụ. Như chúng ta đã biết, các chính sách xuất-nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Thông thường để bảo vệ thị trường sản xuất trong nước, nhà nước sẽ hạn chế nhập khẩu để hang trong nước giảm phải cạnh tranh với hàng nước ngoài. Tuy nhiên trong xu thế hội nhập hiện nay thì hàng rào bảo hộ thương mại sẽ dần dần được dỡ bỏ, sẽ có sự bình đẳng cạnh tranh giữa hàng ngoại nhập và hàng trong nước. Nhưng các nước ngày càng sử dụng nhiều biện pháp tinh vi hơn để đối phó với sự xâm nhập của hàng ngoại nhập bằng các biện pháp như: đặt ra tiêu chuẩn kỹ thuật cho hàng ngoại nhập như kích thước sản phẩm , khối lượng sản phẩm .. phải đạt bao nhiêu, sản phẩm có ảnh hưởng đến môi trường hay không, ngoài ra còn đặt ra các điều luật quy định có lợi cho hàng hoá trong nước như thuế chống bán phá giá…. Do đó con đường xuất khẩu hàng hoá của các nước khác sẽ ngày càng khó khăn. Trong điều kiện đó thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như là gải pháp tối ưu được các nhà đầu tư lựa chọn, không chỉ vượt qua được hàng rào bảo hộ của nước đó, tiếp cận thị trường một cách trực tiếp, mà còn được hưởng những điều kiện ưu đãi trong sản xuất kinh doanh của nước nhận đầu tư giành cho các nhà đầu tư. Nên sẽ có nhiều cơ hội phát triển sản xuất kinh doanh mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, làm tăng thị phần, và tăng doanh thu, do đó có được lợi nhuận cao hơn. 3 Các hình thức ĐTTTRNN của các DN các nước đang phát triển Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đây là hình thức mà 2 hay nhiều bên hợp tác kinh doanh với nhau trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản kí kết giữa 2 bên hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu tư tại nước sở tại, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên. Hình thức này mang những đặc điểm như: Không thành lập pháp nhân mới, hoạt động dựa trên văn bản kí kết giữa các bên, khi hết thời hạn hiệu lực thì các bên không còn ràng buộc về mặt pháp lý. Ở Vịêt Nam hình thức này chiếm khoảng 6,7% số dự án và 10,3 % số vốn nước ngoài đầu tư vào trong thời gian qua. Hình thức này thường áp dụng trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, dịch vụ bưu chính viễn thông... Doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do 1 hoặc nhiều chủ đầu tư nước ngoài góp chung vốn với doanh nghiệp nước sở tại trên cơ sở hợp đồng hợp tác liên doanh. Hình thức này mang những đặc điểm như: Thành lập doanh nghiệp có tư cách pháp nhân mới. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên. Tuỳ theo qui định của mỗi nước mà mức góp có thể là góp vốn tối đa, hoặc là vốn tối thiểu vào vốn pháp định của chủ đầu tư nước ngoài.Quy định tối đa nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc và do nước sở tại không ở trong tình trạng thiếu vốn, còn quy định tối thiểu nhằm mục đích thu hút càng nhiều vốn càng tốt. Theo quy định của Vịêt Nam, mức vốn góp tối thiểu của chủ đầu tư nước ngoài là 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh. Ở Vịêt Nam hình thức liên doanh chiếm 49,1% số dự án và 66,1% số vốn đầu tư vào trong thời gian qua. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Doanhnghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ vốn để thành lập. Hình thức này mang những đặc điểm như: Chủ đầu tư nước ngoài có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp theo quy định của pháp luật nước sở tại. Doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức cá nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một pháp nhân của nước nhận đầu tư. Ở Vịêt Nam loại hình doanh nghiệp này chiếm 45,2% số dự án và 23,65 số vốn đầu tư vào trong thời gian qua. Hình thức hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT) Là văn bản kí kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của nước sở tại với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định. Hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn hoặc bồi hoàn với một giá tượng trưng công trình đó cho nước sở tại. Chính phủ nước sở tại cùng với nhà đầu tư nước ngoài khai thác công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và đảm bảo có lãi. Ngoài ra còn có hợp đồng BT. Đây là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước sở tại và nhà đầu tư nước ngoài về việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao cho nước sở tại. Chính phủ nước sở tại tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Mỗi hình thức đều có ưu và nhược điểm riêng. Tuy nhiên để tận dụng được vốn đầu tư từ nước ngoài thì Vịêt Nam áp dụng cùng một lúc nhiều hình thức đầu tư khác nhau. Với Vịêt Nam cần khuyến khích hình thức liên doanh vì loại hình này đem lại chho Vịêt Nam kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến đồng thời cho phép chúng ta tham gia điều hành doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng vẫn khuyến khích loại hình BOT, để nhằm nâng cao cơ sở hạ tầng của Vịêt Nam. 4 Các loại hình DN thực hiện ĐTTTRNN chủ yếu - Các tập đoàn lớn, các TNCs của các nước đang phát triển. Các TNCs này tuy hầu hết mới thành lập nhưng với khả năng về vốn lớn, trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ cao, có lực lượng lao động có trình độ cao, mạng lưới sản xuất và kinh doanh trải rộng trên địa bàn nhiều quốc gia nên hoàn toàn có thể cạnh tranh bình đẳng với các TNCs của các nước phát triển trong đầu tư tại nước ngoài trên nhiều lĩnh vực. Các TNCs này có thể thực hiện đầu tư vào những dự án lớn những lĩnh vực đầu tư đòi hỏi nhiều thời gian đầu tư và thu hồi vốn lâu dài, những lĩnh vực có rủi ro cao nhưng lại mang đến lợi nhuận lớn, những lĩnh vực có sự cạnh tranh quyết liệt của các TNCs khác. Đặc biệt là trong những lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, khai thác dầu khí, điện, nước, tài chính, ngân hàng, vật liệu mới…Địa bàn đầu tư của các TNCs này rất rộng lớn, bao gồm những lĩnh vực khác nhau trong thị trường các nước đang phát triển và cả trong thị trường các nước phát triển. Hình thức đầu tư cũng rất phong phú có thể bao gồm cả hình thức đầu tư xây dựng mới, đầu tư mở rộng, nâng cấp các doanh nghiệp có sẵn ở nước ngoài. Có thể dưới hình thức mua lại các doanh nghiệp, có thể dưới hình thức sát nhập các TNCs khác hay các doanh nghiệp lớn ở nước ngoài, hoặc đầu tư dưới hình thức cho thuê tài chính các tài sản, thiết bị công nghệ, hoặc mở chi nhánh hay mở văn phòng đại diện ở nước ngoài… Do mạng lưới rất rộng lớn, mục tiêu đầu tư của các TNCs này có thể chú trọng vào khai thác thế mạnh của các quốc gia nhận đầu tư về nguồn nguyên vật liệu, về lao động rẻ, thị trường tiêu thụ rộng lớn, hay vị trí địa lý và ảnh hưởng của các quốc gia đó với nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới. -Doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước đang phát triển. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ này với đặc tính là có vốn đầu tư nhỏ, khả năng thích ứng cao với biến động của môi trường, có thể tiến hành thử nghiệm và áp dụng một cách nhanh chóng các tiến bộ của KHCN mới, và đặc biệt là có thể sản xuất những mặt hàng độc đáo, những sản phẩm truyền thống, đáp ứng những đơn đặt hàng mang tính chất nhóm nhỏ nên loại hình doanh nghiệp này cũng có những thế mạnh đầu tư ra nước ngoài, thậm chí vào thị trường các nước đã phát triển. Loại hình doanh nghiệp này mang nhiều những uu điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đó là tìm được mặt hàng độc đáo, những lĩnh vực mà nhà đầu tư các nước và các TNCs không chú ý tới bởi số lượng tiêu thụ không lớn, khó sản xuất hàng loạt, hay những lĩnh vực đòi hỏi những bí quyết kinh doanh và công nghệ đặc biệt. Trong điều kiện xu thế tiêu dùng và đặt hàng đơn lẻ sản phẩm và ý thức tiêu dùng gắn với môi trường và bảo vệ môi trường ở các nước công nghiệp phát triển ngày càng tăng cao thì vị thế và vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đầu tư ra nước ngoài cũng được mở rộng, không chỉ ở các nước đang phát triển và chậm phát triển mà còn thực hiện ở các nước đã phát triển. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ là những doanh nghiệp sản xuất các bán thành phẩm, linh kiện, phụ kiện cung cấp cho các TNCs mà còn là những đơn vị kinh doanh những mặt hàng độc lập, độc đáo, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của thị trường tiêu dùng thế giới và có khả năng mang lại lợi nhuận trong đầu tư lớn hơn nhiều so với hiệu quả đầu tư của các TNCs lớn. 5 Những điều kiện cần thiết để các DN tiến hành hoạt động ĐTTTRNN A Về phía doanh nghiệp Khi thực hiện bất kỳ một hoạt động đầu tư nào, nhà đầu tư đều mong muốn thu được một kết quả kinh doanh tốt nhất, cũng như vậy khi tham gia vào hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì nhà đầu tư cần phải xét xem hoạt động đầu tư của mình có thể mang lại hiệu quả hay không, có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện môi trường kinh doanh mới hay không, có thể khai thác được những lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp một cách có lợi nhất nhằm thu được lợi nhuận cao nhất hay không. Như vậy, nhà đầu tư sẽ xem xét xem doanh nghiệp có đáp ứng đủ những yêu cầu cần thiết sau hay không: - Trước hết các doanh nghiệp cần có tiềm lực tài chính mạnh : Như chúng ta đã biết, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thực chất là 1 quá trình di chuyển vốn từ nước đầu tư tới nước nhận đầu tư. Vốn đầu tư bao gồm các nguồn lực tài chính và nguồn lực hiện vật để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, xây dựng thêm nhà máy mới, duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.. Vốn là một yếu tố không thể thiếu đối với bất kì một hoạt động đầu tư nào. Do đó muốn cạnh tranh trên thị trường thì các doanh nghiệp phải đủ mạnh, nghĩa là phải có một nguồn vốn dồi dào, có đủ năng lực thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm thu được lợi nhuận. - Các doanh nghiệp cần có KHCN có thể cạnh tranh trên thị trường nước nhận đầu tư hoặc có bí quyết riêng trong sản xuất sản phẩm. Cạnh tranh là 1 tất yếu trên thị trường, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện chủ yếu ở hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh ở hiện tại cũng như trong tương lai, các sản phẩm của doanh nghiệp tạo ra có khả năng cạnh tranh cao, được người tiêu dùng chấp nhận và bảo đảm được thị trường tiêu thụ, doanh nghiệp được tổ chức hợp lý, năng động, áp dụng công nghệ tiên tiến, có đội ngũ cán bộ và công nhân có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tiếp cận với các nguồn vốn cho việc đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu. Để có thể thắng được đối thủ cạnh trạnh thì việc áp dụng nhiều phương pháp quản lý mới nhằm rút gọn bộ máy, tái cấu trúc quá trình kinh doanh, giảm chi phí,.. nâng cao hiệu quả hoạt động là cần thiết để xoá bỏ những bất lợi. Tuy nhiên những cải thiện đó chỉ giúp cho các doanh nghiệp tồn tại trong cạnh tranh mà chưa đảm bảo chiến thắng trong cạnh tranh. Muốn có thể đánh bại được đối thủ trong cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải tạo ra được lợi thế cạnh tranh cho mình và luôn thay đổi để tạo ra thị trường chứ không chỉ tìm cách nâng cao thị phần, vượt qua những bất lợi. Bấtkỳ một doanh nghiệp nào cũng đều có khả năng cạnh tranh, chỉ khác nhau là ở mức độ mạnh hay yếu. Theo quy luật tất yếu của thị trường thì doanh nghiệp nào có khả năng cạnh tranh mạnh hơn thì doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng không những ở thị trường trong nước mà cả ở ngoài nước. Năng lực cạnh tranh mạnh mẽ bảo đảm cho doanh nghiệp có thể tồn tại và chiến thắng ở nơi mà doanh nghiệp tiến hành đầu tư sản xuất. Như vậy khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp chính là điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp tiến hành đầu tư ở bất cứ đâu. Đối với các doanh nghiệp đến từ các nước đang phát triển, với xuất phát điểm thấp, thiếu vốn, thiếu trình độ tổ chức quản lý, công nghệ chưa cao,… thì cần có một chiến lược cạnh tranh hợp lý, tạo ra nội lực từ trong chính doanh nghiệp, như vậy mới có thể tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Đối với các nước đang phát triển như Vịêt Nam, trình độ KHCN không cao nên khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài một cách trực tiếp thì việc sản xuất các sản phẩm truyền thống, các sản phẩm sử dụng bí quyết riêng trong sản xuất là một giải pháp phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Như vậy do đặc điểm riêng có đó mà sản phẩm sẽ có tính cạnh tranh cao và dễ được chấp nhận trên thị trường bởi vì đó là những sản phẩm mang đậm nét truyền thống của dân tộc, lạ và độc đáo. - Doanh nghiệp cần có nguồn nhân lực đủ năng lực quản lý, sản xuất kinh doanh, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sản xuất kinh doanh. Trong bất kỳ một hoạt động đầu tư nào, nhà đầu tư cũng đều mong muốn có một kết quả kinh doanh tốt nhất. Và để có thể hoạt động đầu tư có hiệu quả thì nhân tố con người luôn đựoc đánh giá rất quan trọng. Điều đó được thể hiện ở các yếu tố như trình độ chuyên môn, trình độ tổ chức quản lý, …Trong tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay thì hoạt động đầu tư nước ngoài cũng từng bước đi vào chiều sâu trong cơ chế thị trường luôn nhiều biến động. Vì vậy cần thiết phải có một đội ngũ cán bộ tiếp nhận và hướng dẫn đầu tư có trình độ năng lực sâu sát để phân tích tình hình, lựa chọn đối tác đầu tư đúng như mục tiêu đề ra. Đặc bịêt điều quan trọng nhất trong đội ngũ lao động của doanh nghiệp là những nhà quản lý và điều hành phải có trình độ hiểu biết, trước hết là ở lĩnh vực mà mình đang kinh doanh, biết khai thác triệt để mọi nguồn lực trong doanh nghiệp và tận dụng mọi cơ hội đầu tư…Bên cạnh đó đội ngũ công nhân viên làm việc cho doanh nghiệp cũng phải có trình độ kỹ thuật cao, tác phong làm việc công nghiệp… các thành viên trong doanh nghiệp phải biết đoàn kết đưa doanh nghiệp trở thành một lực lượng vững mạnh trên thị trường. Mặt khác do sự khác biệt về ngôn ngữ, khác biệt về văn hoá, tập quán, luật pháp mà các doanh nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài phải nhận thức được sâu sắc về nhiều mặt, tính độc lập cao. Và kỹ năng xử lý các tình huống, nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực. Trước khi đầu tư ra nước ngoài các doanh nghiệp cần phải xem xét kỹ trình độ của công nhân viên rồi mới tiến hành hoạt động đưa họ ra nước ngoài, làm sao để họ có thể thích ứng được với môi trường làm việc mới. Có như vậy thì hoạt động sản xuất kinh doanh mới có thể thành công, đem lại hiệu quả. B Về nhà nước - Tăng cường hoạt động thúc đẩy, hỗ trợ đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhà nước bằng các biện pháp như ban hành các quy chế khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện đầu tư ra nước ngoài. - Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới về mọi mặt để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện đầu tư ra nước ngoài một cách thuận lợi hơn bằng việc ký kết các hiệp ước, các thoả thuận , cam kết về hợp tác kinh tế giữa các nước. Như Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ .. Chương II Thực trạng ĐTTTRNN của các DN VN 1 Những cơ hội và thách thức đối với DN VN trong hoạt động ĐTTTRNN Việc gia nhập WTO Ngày 7/11/2006 vừa qua, Vịêt Nam chính thức trở thành thành chính thức thứ 150 của tổ chức WTO qua 11 năm và hơn 200 cuộc đàm phán. Dù lâu nhất, nhiều nhất trong các đàm phán giữa Việt Nam với các tổ chức quốc tế, nhưng chúng ta vẫn kiên trì cho mục đích gia nhập tổ chức thương mại này. Bởi đây thực sự là sân chơi lớn mang tính toàn cầu. Sau khi gia nhập, Việt Nam sẽ tăng vị thế của mình trên trường quốc tế; có điều kiện chủ động tham gia chính sách thương mại toàn cầu; đồng thời tập trung xây dựng, điều chỉnh hệ thống luật pháp minh bạch, phù hợp xu thế chung, thu hút các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước... Việt Nam đang phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Muốn đạt được điều này, kim ngạch xuất khẩu của chúng ta phải đạt 100 tỷ USD mỗi năm và kim ngạch nhập khẩu cũng tương đương. Hiện nay, xuất khẩu của chúng ta tăng tương đối nhanh, nhưng kim ngạch mới đạt 32,5 tỷ USD và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu đang bị phân biệt đối xử. Gia nhập WTO, chúng ta sẽ được bình đẳng tham gia thị trường toàn cầu để phát triển kinh tế, thương mại, thu hút đầu tư và hàng hóa, dịch vụ sẽ không bị phân biệt đối xử, sẽ dỡ bỏ được nhiều rào cản và được hưởng những ưu đãi dành cho thành viên WTO. Như vậy cơ hội đầu tư ra nước ngoài sẽ được mở rộng cửa đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Kí kết hiệp định thương mại song phương với Mỹ Hiệp định thương mại song phương Vịêt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực vào ngày 10/12/2001, đã bình thường hóa quan hệ thương mại và đầu tư giữa Vịêt Nam và Hoà Kỳ. Hiệp định đã mở ra thị trường Hoa Kỳ khổng lồ cho các nhà xuất khẩu Vịêt Nam trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng với các nước khác. Các cam kết toàn diện trong hiệp định sẽ không những thức đẩy thươg mại 2 chiều giữa 2 nước mà còn tăng thêm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Vịêt Nam đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ và các nước khác. Sau khi hiệp định thương mại có hiệu lực, 1 số nhà đầu tư như công ty bánh kẹo Kinh Đô đã đầu tư vào thị trường Hoa Kỳ. Tuy nhiên tỷ trọng vốn đầu tư thực hiện của Vịêt Nam tại Hoa Kỳ chỉ chiếm gần 1% tổng đầu tư thực hiện ra nước ngoài của Vịêt Nam, và vốn đăng ký chỉ chiếm 3% trong tổng số vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài của Vịêt Nam. Như vậy thực tế cho thấy việc đầu tư vào Hoa Kỳ của các doanh nghiệp Vịêt Nam còn rất ít, chưa đáng kể. Trong khi, đầu tư vào Hoa Kỳ là 1 trong những cách để thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ và các doanh nghiệp Vịêt Nam có thể tận dụng thêm cơ hội đầu tư tại nước này. Con số thống kê cho thấy dường như các doanh nghiệp Vịêt Nam chưa tận dụng hết các cơ hội đầu tư mà mới chỉ tận dụng cơ hội xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Nhìn chung thị trường Hoa Kỳ là thị trường lớn và việc thực hiện đầu tư tại Hoa Kỳ sẽ giúp doanh nghiệp Vịêt Nam tạo thế đứng vững chắc trên thị trường này. Kinh nghiệm của các nước khác đã chỉ rõ điều này. Như hãng Honda của Nhật Bản đã đầu tư rất nhiều vào các nhà máy lớn ở Hoa Kỳ để không chỉ xuất khẩu xe hơi sang Hoa Kỳ mà còn coi đây là 1 trung tâm sản xuất của mình phục vụ cho thị trường Hoa Kỳ và các nước khác. 1 ví dụ khác mà các doanh nghiệp Vịêt Nam có thể học hỏi , đó là trường hợp hãng Haier của trung Quốc. Hãng này đã coi đầu tư vào Hoa Kỳ là 1 cách làm có hiệu quả để củng cố vị thế của hãng tại Hoa Kỳ và là cách để tránh các vụ kiện bán phá giá. Do đó các doanh nghiệp Vịêt Nam cần tìm hiểu kỹ hơn cơ hội đầu tư vào Hoa Kỳ theo cam kết của hiệp định. A Những cơ hội: Doanh nghiệp Vịêt Nam có cơ hội lựa chọn địa chỉ đầu tư thích hợp, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong bối cảnh xu hướng tự do hoá đầu tư đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay các quốc gia trên thế giới hầu hết đều thực thi những biện pháp khuyến khích nhằm kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài. Điều kiện đó đã mở ra cho các doanh nghiệp Vịêt Nam cơ hội nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng việc đầu tư vào những nơi có khả năng mang lại tỷ suất lợi nhuận cao. Điểm đến của đầu tư không bị bó hẹp trong khuôn khổ địa lý một quốc gia mà được mở rộng ra các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới . Các doanh nghiệp Vịêt Nam có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ. Hoạt động thương mại là một trong những bước cơ bản đầu tiên trong lộ trình xâm nhập thị trường nước ngoài, nhưng để thực sự tồn tại lâu dài tại thị truơng các nước trên thế giới, doanh nghiệp nhất thiết phải thành lập các chi nhánh ở nước ngoài thông qua các hình thức như doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn. Đây chính là kinh nghiệm thành công và lớn mạnh của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới. Vịêt Nam đang trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, các sản phẩm của Vịêt Nam bước đầu nhận được sự đánh giá khá cao của người tiêu dùng nước ngoài. Nhưng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, cùng với việc các quốc gia đặc biệt là các nước phát triển thường sủ dụng những biện pháp thương mại rất tinh vi để hạn chế khả nâng xâm nhập của hàng hoá nước ngoài vào thị trường nước họ, thì đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trở thành hoạt động kinh tế hữu ích giúp cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo thế vững chắc và bổ sung cho sự phát triển của các chi nhánh và công ty mẹ ở trong nước. - Doanh nghiệp Vịêt Nam có điều kiện khai thác các nguồn lực sản xuất của nước ngoài để từ đó phát huy được lợi thế so sánh của nước mình. Thực tế cho thấy rằng, mỗi quốc gia đều có những nguồn lực sản xuất nhất định và tổng nguồn lực là hữu hạn. Đây chính là một nguyên nhân cơ bản khiến cho doanh nghiệp của quốc gia tìm kiếm cơ hội đầu tư ở quốc gia khác nhằm khai thác nguồn lực của nước đó để phát triển. Đồng thời cùng với quá trình khai thác là việc phát huy thế mạnh của mỗi doanh nghiệp. Những lợi thế sẽ không đem lại lơị nhuận một khi chúng không được triển khai trong thực tiễn. - Các doanh nghiệp Vịêt Nam có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với các thị trường quốc tế về vốn, máy móc thiết bị, KHCN, từ đó có điều kiện tiếp thu công nghệ mới, hiện đại hơn, có điều kiện đổi mới cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp Vịêt Nam có điều kiện tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, nâng cao trình độ tổ chức, quản lý sản xuất, nâng cao hiểu biết về luật pháp và ý thức chấp hành luật pháp, nâng cao khả năng cạnh tranh công bằng trên trường quốc tế và cả ở trong nước. B Những thách thức. Trở thành thành viên của tổ chức WTO, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có rất nhiều cơ hội mới để phát triển sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh đó cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Muốn có thị trường toàn cầu thì Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường nội địa cho các nước. Đây là thách thức trước tiên, bởi cả nước đang có số lượng rất đông, hơn 230.000 doanh nghiệp, nhưng phần lớn là vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh kém. Khi mở cửa hội nhập, vấn đề cạnh tranh giành nguồn lực con người sẽ diễn ra khốc liệt. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam khá năng động và chuyển động rất nhanh khi môi trường kinh doanh thay đổi. Vượt qua được thách thức của sự cạnh tranh, Việt Nam sẽ tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Những doanh nghiệp nào trước đây dựa dẫm vào sự hỗ trợ, ưu đãi của chính sách thì nay buộc phải vươn lên, tự đứng bằng hai chân của mình... Các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động ở Việt Nam sẽ dùng lương, dùng các chính sách ưu đãi để thu hút lao động, nhất là lao động có năng lực về làm việc cho mình. Thách thức này đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải có chiến lược đào tạo, có cơ chế phù hợp nhằm “chiêu hiền đãi sĩ”, để giữ lao động. Đồng thời, phải có những đổi mới trong cách quản lý. Xu thế hiện nay, Nhà nước tập trung quản lý ở tầm vĩ mô, xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách và kiểm tra việc thực hiện luật, chính sách đó; chuyển quyền quản lý trực tiếp cho các hiệp hội ngành hàng, tạo điều kiện bảo vệ được ngành hàng và hợp tác liên kết cùng phát triển. Thực tế đã cho thấy, khi chúng ta chuyển quản lý trực tiếp việc xuất khẩu gạo cho hiệp hội thực hiện đã tạo điều kiện để mọi thành phần đều có thể xuất khẩu gạo, thông qua sự quản lý của hiệp hội. Xu thế này tạo nên sự hợp tác, liên kết rất quan trọng - liên kết với nhau để tạo sức mạnh cho nhau và cùng phát triển.  Nếu biết và quyết tâm vượt qua tất cả những thách thức thì chúng ta sẽ phát triển. Nhiều người cho rằng, thách thức cũng là cơ hội mới, cuộc sống không có thử thách thì không còn là cuộc sống. Gia nhập WTO đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội và nhiều thách thức. Có tận dụng được cơ hội, có vượt qua đựơc thách thức, biến thách thức thành cơ hội hay không hoàn toàn do sự đổi mới trong nhận thức cũng như hành động của các cấp, các ngành, do sự năng động của từng doanh nghiệp. Nhà nước mở cửa, có chính sách thu hút đầu tư, nhưng các địa phương và các doanh nghiệp không tha thiết thu hút đầu tư, thì chúng ta cũng không thể đạt mục tiêu đề ra. Bản thân việc gia nhập WTO không làm Việt Nam giàu lên hay nghèo đi mà chỉ là tạo cơ hội. Chúng ta tranh thủ được cơ hội thì sẽ phát triển, vượt qua đựơc thách thức thì sẽ tạo thêm cơ hội mới. Bởi vậy, đòi hỏi sự cố gắng của tất cả các bộ, ngành, các địa phương, nhất là sự lao động sáng tạo, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam, tạo sức mạnh nội lực lớn hơn để phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. , Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam còn gặp phải nhiều thách thức lớn khi thực hiên hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tiềm lực tài chính của đại đa số các doanh nghiệp Vịêt Nam còn yếu Theo kết quả điều tra về doanh nghiệp được tổng cục thống kê công bố, tính đến cuối năm 2003, cả nước có khoảng 72.016 doanh nghiệp, với tổng lượng vốn đầu tư là 1.709 nghìn tỷ đồng, trung bình quy mô vốn đầu tư của 1 doanh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4824.doc
Tài liệu liên quan