Tình hình đầu tư phát triển du lịch Việt Nam

MỤC LỤC Trang Lời mở đầu 5 Chương 1- Thực trạng đầu tư phát triển du lịch 7 1.1. Khái quát về viện Chiến lược phát triển 7 1.1.1. Khái quát lịch sử phát triển của Viện chiến lược phát triển 7 1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Viện chiến lược phát triển 8 1.1.2.1. Chức năng 8 1.1.2.2. Nhiệm vụ 9 1.1.3. Sơ đồ tổ chức của Viện chiến lược phát triển 10 1.1.3.1. Hội đồng khoa học 13 1.1.3.2. Ban tổng hợp 13 1.1.3.3. Ban dự báo 13 1.1.3.4. Ban nghiên cứu các ngành sản xuất 13 1.1.3.5. Ban

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1652 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình đầu tư phát triển du lịch Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu phát triển các ngành dịch vụ 13 1.1.3.6. Ban nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực 15 1.1.3.7. Ban nghiên cứu phát triển vùng 15 1.1.3.8. Ban nghiên cứu phát triển hạ tầng 15 1.1.3.9. Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam 15 1.1.3.10. Trung tâm thông tin tư liệu, đào tạo và tư vấn phát triển 16 1.1.3.11. Văn phòng 16 1.1.4. Các mối quan hệ của Viện chiến lược phát triển 17 1.1.4.1. Trong nước 17 1.1.4.2. Ngoài nước 17 1.1.5. Hướng hoạt động chính 19 1.2. Thực trạng đầu tư phát triển du lịch 20 1.2.1. Khái quát hoạt động đầu tư phát triển du lịch 20 1.2.2. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch 22 1.2.3. Nội dung đầu tư phát triển du lịch 27 1.2.3.1. Về cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch 27 1.2.3.2 Đầu tư phát triển các loại hình vận chuyển khách du lịch 33 1.2.3.3 Vấn đề đầu tư phát triển nguồn nhân lực 35 1.2.3.4 Đầu tư nâng cấp và cải tạo trùng tu các di tích lịch sử 38 1.2.3.5 Thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ khách du lịch 39 1.2.3.6 Thực trạng đầu tư quảng bá xúc tiến du lịch 42 1.3. Đánh giá hoạt động đầu tư phát triển du lịch và những lợi ích mang lại từ hoạt động này 43 1.3.1. Đánh giá thực trạng đầu tư phát triển du lịch 44 1.3.1.1. Nhưng kết quả đạt được 44 1.3.1.2. Những tồn tại của vấn đề đầu tư phát triển du lịch 49 1.2.1.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên 54 1.3.2. Đánh giá tổng quan từ hoạt động đầu tư phát triển du lịch mang lai 56 1.3.2.1. Lượng khách du lich: trong nước, ngoài nước 56 1.3.2.2. Doanh thu du lịch 58 1.3.2.3.Những lợi ích khác 59 Chương 2: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển du lịch 62 2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong đầu tư phát triển du lịch 62 2.1.1. Mục tiêu phát triển du lịch từ năm 2001-2010 62 2.1.1.1 Mục tiêu tổng quát 62 2.1.1.2. Mục tiêu cụ thể 62 2.1.2. Định hướng đầu tư phát triển du lịch 53 2.2.3. Định hướng đầu tư phát triển nguồn nhân lực du lịch và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ 64 2.2. Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của du lịch trong hội nhập 64 2.2.1. Những cơ hội đối với du lịch Việt Nam 65 2.2.2.Những thách thức đối với du lịch Việt Nam 66 2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển du lịch 68 2.3.1. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tổ chức thực hiện quy hoạch 69 2.3.2. Giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển du lịch 70 2.3.3. Giải pháp sử dụng vốn đầu tư phát triển du lịch 71 2.3.4. Giải pháp đối với việc đầu tư khai thác các nguồn lực 72 2.3.5. Giải pháp đối với doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch 73 2.3.6. Giải pháp nâng cao trình độ quản lý và nghiệp vụ du lịch 74 Kết luận 76 Tài liệu tham khảo 77 LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới, ngành Du lịch đang góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động.Vì vậy mà người ta thường nói ngành du lịch là “ngành công nghiệp không khói” thu được nhiều lợi nhuận. Việt Nam chúng ta được dư luận quốc tế liên tục đánh giá là điểm đến thân thiện, an toàn và xếp hạng một trong những nền du lịch hấp dẫn nhất thế giới trong mười năm tới. Ngành du lịch nước nhà đã và đang khẳng định được vai trò, vị trí là một ngành kinh tế mũi nhọn. Như chúng ta đã biết sau khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997 và mặc dù chịu ảnh hưởng của bệnh dịch, thiên tai và chiến tranh ở các khu vực của thế giới, nhưng ngành du lịch Việt Nam vẫn bước vào một giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Trong những năm gần đây và nhất là đầu năm nay, nước ta là điểm đến lôi cuốn du khách đường biển với hàng chục chuyến tàu du lịch biển chở theo hàng nghìn du khách liên tục cập cảng Hạ Long, Ðà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh và Phú Quốc. Cùng với việc khuyến khích, tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, trực tiếp xây dựng các chương trình du lịch mới, ngành du lịch và các địa phương còn tổ chức thành công nhiều sự kiện du lịch hằng năm như các chương trình: Năm du lịch Hạ Long, Ðiện Biên Phủ, Nghệ An và hiện nay là năm du lịch Quảng Nam "Một điểm đến hai di sản thế giới" cùng các lễ hội, liên hoan ở khắp các miền đất nước. Các sự kiện, chương trình này góp phần định hướng đầu tư phát triển sản phẩm và loại hình du lịch, quảng bá hình ảnh Việt Nam với thế giới, thúc đẩy du lịch phát triển theo hướng đa dạng, chất lượng và hiệu quả. Trong hội nhập WTO, ngành du lịch đứng trước nhiều thách thức. Điều đó đòi phải có một chiến lược và những giải pháp đầu tư hợp lý nhằm phát huy tối đa thế mạnh về du lịch của nước ta. Trong bài viết này tôi chỉ nêu một vài thực trạng và giải pháp để đầu tư phát triển ngành du lịch. Chuyên đề của em gồm 2 phần chính: Chương 1: Thực trạng đầu tư phát triển du lịch. Chương 2 : Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư du lịch. Chuyên đề của em được hoàn thành nhờ vào sự giúp đỡ của các thầy cô cũng như sự hướng dẫn của các bộ nơi em thực tập. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Ái Liên đã hướng dẫn tận tình giúp em hoàn thành chuyên đề, cũng qua đây em xin cảm ơn các anh chị trong Ban nghiên cứu phát triển các ngành dịch vụ - Viện chiến lược phát triển đã giúp đỡ em trong quá trình thức tập, cũng như trong thời gian em làm chuyên đề. Tuy nhiên do kiến thức còn hạn hẹp nên bản chuyên đề của em còn nhiều thiếu sót. Kính mong sự góp ý của các thầy cô để bài viết hoàn thiện hơn. CHƯƠNG 1- THỰC TRẠNG ĐẨU TƯ PHÁT TRIỂN DU LỊCH. 1.1. KHÁI QUÁT VỀ VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN 1.1.1. Khái quát lịch sử phát triển của Viện chiến lược phát triển. Viện chiến lược phát triển ngày nay được thành lập trên cơ sở tiền thân là hai vụ của Uỷ ban kế hoạch Nhà nước (Nay là Bộ Kế hoạch và đầu tư): Vụ tổng hợp kế hoạch kinh tế quốc dân dài hạn và Vụ kế hoạch phân vùng kinh tế. Quá trình hình thành và phát triển từ hai Vụ nêu trên cho đến Viện chiến lược phát triển hiện nay như sau: Theo quyết định số 47-CP ngày 09 tháng 03 năm 1964 của Hội đồng Chính phủ thì Vụ tổng hợp kinh tế quốc dân dài hạn và Vụ kế koạch phân vùng kinh tế được thành lập. Hai Vụ này hoạt động theo hai hướng lớn là: xây dựng kế hoạch dài hạn và phân bố lực lượng sản xuất. Tại nghị định số 49CP ngày 25 tháng 3 năm 1974 của Hội đồng Chính phủ, ban hành điều lệ về tổ chức và hoạt động của UỶ ban kế hoạch Nhà nước, thành lập Viện phân vùng và quy hoạch. Đến năm 1977 hội đồng chính phủ có quyết đính số 269Cp ngày 30 tháng 9 năm 1977 thành lập Uỷ ban phân vùng kinh tế Trưng ương.Bộ phận làm việc thường trực của Uỷ ban phân vùng kinh tế Trưng ương là Viện phân vùng và quy hoạch thuộc uỷ ban kế hoạch Nhà nước. Tại quyết định số 69- HĐBT ngày 09 tháng 07 năm 1983 của hội đồng Bộ trưởng về việc sửu đổi, bổ sung tổ chức trực thuộc Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, giải thế Vụ tổng hợp kế hoạch kinh tế quốc dân dài hạn dể thành lập Viện Nghiên cứu kế hoạch dài hạn. Theo văn bản số 2982- V15 ngày 12 tháng 6 năm 1984 của hội đồng Bộ trưởng quy định do vị trí và chức năng, nhiệm vụ của Viện, Chủ nhiệm của Viện, chủ nhiệm uỷ ban kế hoạch nhà nước có thể bố trí cán bộ lãnh đạo Viện tương đương cấp tổng cục, và cán bộ lãnh đạo các Ban, Văn phòng trực thuộc Viện tương đương cấp Vụ. Tại nghị định số 151- HĐBT ngày 27 tháng 11 năm 1986 của hội đồng Bộ trưởng vể việc sửa đổi tổ chức bộ máy làm nhiệm vụ phân cùng kinh tế, giải thể uỷ ban phân vùng kinh tế Trung Ương, giao công tác phân vùng kinh tế cho Uỷ ban kế hoạch Nhà nước phụ trách. Đổi tênViện Phân vùng và quy hoạch thuộc Uỷ ban kế hoạch nhà nước thành Viện phân bố lực lượng sản xuất. Thực hiện quyết định số 66-HĐBT ngày 18 thánh 4 năm 1988 của hội đồng Bộ trưởng về việc sắp xếp lại bộ máy của Uỷ ban Kế hoạch nhà nước, chủ nhiệm Uỷ ban kế hoạch Nhà nước đã có quyết định số 198-UB/TCCB ngày 19 tháng 8 năm 1988, giải thể Viện nghiên cứu kế hoạch dài hạn và giải thể Viện phân bố lực lượng sản xuất để thành lập Viện kế hoạch dài hạn và phân bố lực lượng sản xuất; phân công Phó chủ nhiêm Uỷ ban trực tiếp làm Viện trưởng. Theo nghị định số 89/CP ngày 12 tháng 8 năm 1994 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, và tổ chức bộ mày của Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, chủ nhiệm uỷ ban kế hoạch Nhà nước đã có quyết định số 116 UB-TCCB ngày 01 tháng 10 năm 1994 đổi tên Viện kế hoạch và phân bố lực lượng sản xuất thành Viện chiến lược phát triển, có vị trí tương đương tổng cục loại I, và quyết định số 169 UB/TCCB-ĐT ngày 03 tháng 12 năm 1994 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, và tổ chức bộ máy của Viện chiến lược phát triển.Viện là một đơn vị sự nghiệp, có vị trí tương đương với tổng cục loại I, hoạt động trên cơ sở tự chịu trách nhiệm về quản lý tài chính, quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học theo phân cấp của Bộ kế hoạch đầu tư. 1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Viện chiến lược. 1.1.2.1. Chức năng - Nghiên cứu các và đề xuất về chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của cả nước, các vùng lãnh thổ - Nghiên cứu và xây dựng các đề án cề chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, các vùng lãnh thổ. - Hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ cho các đơn vị chức năng của Bộ, ngành, địa phương lập quy hoạch phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội của cả nước đã được phê duyệt. - Tham gia thẩm định các dự án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các dự án quy hoạch phát triển ngành, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế. - Phân tích, tổng hợp và dự báo các biến động kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ, môi trường và các yếu tố khác tác động đến chiến lược, quy hoạch để phục vụ nghiên cứu chiến lược, quy hoạch. - Tư vấn về lĩnh vực chiến lược, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên ngành và đào tạo sau đại học Ngoài các chức năng trên thì Viện chiến lược phát triển thực hiện chức năng giúp việc cho Ban chỉ đạo điều phối phát triển vùng kinh tế trọng điểm thưo quyết định só 20/2004/QĐ-TTg ngày 18 tháng 2 năm 2004 của thủ tướng chính phủ. 1.1.2.2. Nhiệm vụ - Dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư, phối hợp với các đơn vị trong Bộ, các ngành, các địa phương thì viện có nhiệm vụ: Tổ chức nghiêm cứu và tổng hợp các kết quả nghiên cứu để xây dựng và soạn thảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội; Tổ chức nghiên cứu và tổng hợp xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành và vùng lãnh thổ, quy hoạch dầu tư của cả nước. - Trên cơ sở chiến lược và phát triển kinh tế - xã hội, Viện chủ trì hoặc tham gia xây dựng các chương trình phát triển và các dự án lớn, tham gia xây dựng hướng kế hoạch 5 năm, tham gia luận chứng và thẩm định các dự án đầu tư quan trọng của Nhà nước. - Làm đầu mối trong Bộ kế hoạch và đầu tư về công tác nghiên vứu chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội. Tham gia xet duyệt quy hoạch và theo dõi việc thực hiện các quy hoạch kinh tế - xã hội. Phối hợp với các đơn vị trong Bộ kế hoạch và đầu tư để cụ thể hoá chiến lược, quy hoạch phát triển, quy hoạch đầu tư trong các kế hoạch đầu tư trong các kế hoạch của Nhà nước. - Nghiên cứu lý luận, phương pháp luận và các phương pháp xây dựng chiến lược và các quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của ngành và địa phương. -Nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu dự báo phát triển kinh tế- xã hội, thu nhập, phân tích, xử lý các thông tin kinh tế- xã hội trong và ngoài nước để phục vụ cho việc nghiên cứu và quản lý kinh tế. - Thực hiện công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và đào tạo cán bộ (kể cả cán bộ trên đại học khi có điều kiện và theo quy chế nhà nước) về lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ của Viện và thực hiênh những nhiệm vụ khác được Bộ trưởng Bộ kế hoạch đầu tư giao. 1.1.3. Sơ đồ tổ chức của Viện chiến lược phát triển. Viện Chiến lược phát triển có hội đồng khoa học và 10 đơn vị trực thuộc: Ban tổng hợp; ban dự báo; ban nghiên cứu phát triển các ngành sản xuất; ban nghiên cứu phát triển các ngành dịch vụ; ban nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội; ban nghiên cứu phát triển vùng; ban nghiên cứu phát triển cơ sở hạ tầng; Trung tâm thông tin tư liệu, đào tạo và tư vấn phát triển; Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam và văn phòng Hiện nay, Viện có 02 phó giáo sư, 26 tiến sỹ, 12 thạc sỹ và 60 cử nhân. Viện trưởng Hội đồng khoa học Các phó viện trưởng Ban tổng hợp Ban dự báo Ban nghiên cứu phát triển các ngành sản xuất Ban nghiên cứu phát triển các ngành dịch vụ Ban nghiên cứu phát triển nguồn lực và các vấn đề xã hội Ban nghiên cứu phát triển vùng Ban nghiên cứu phát triển hạ tầng Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam Trung tâm thông tin tư liệu, đào tạo và tư vấn phát triển Văn phòng Chư 1.1.3.1 Hội đồng khoa học Hội đồng khoa học là tổ chức tư vấn giúp Viện trưởng xây dựng các chương trình khoa học, tổ chức công tác nghiên cứu khoa học và đánh giá nghiên cứu khoa học của Viện. 1.1.3.2 Ban tổng hợp Nghiên cứu, tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xây dựng các báo cáo về chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghiên cứu dự báo kinh tế vĩ mô. Đầu mối tổng hợp, tham mưu về các vấn đề chung liên quan đến quản lý nhà nước đối với công tác quy hoạch trên phạm vi cả nước. 1.1.3.3 Ban dự báo Phân tích tổng hợp, dự báo về biến động kinh tế, công nghệ, môi trường, liên kết quốc tế của thế giới và các biến động kinh tế- xã hội trong nước phục vụ nghiên cứu chiến lược, quy hoạch. Dự báo các khả năng phát triển, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của nền kinh tế Việt Nam. 1.1.3.4 Ban nghiên cứu các nghành sản xuất. Nghiên cứu, tổng hơph các kết quả nghiên cứu và xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, xây dựng và nông, lâm, ngư nghiệp trên pham vụ cả nước và các vùng lãnh thổ. Đầu mối tổng hợp, tham mưu những vấn đề liên quan về quản lý nàh nước đôic vối công tác quy hoạch các ngành sản xuất. 1.1.3.5 Ban nghiên cứu phát triển các ngành dịch vụ Chức năng nhiệm vụ - Nghiên cứu tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành dịch vụ của cả nước và trên các vùng lãnh thổ. - Làm đầu mối tổng hợp, tham mưu các vấn đề liên quan về quản lý Nhà nước đối với công tác quy hoạch các ngành dịch vụ trên cả nước. Tham gia thẩm định các dự án quy hoạch các ngành dịch vụ. - Tham gia đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm của các ngành dịch vụ. - Nghiên cứu lý luận, phương pháp luận và phương pháp xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển các ngành dịch vụ. - Thực hiện các nhiệm vụ khác do Viện trưởng giao. Cơ cấu tổ chức * Lãnh đạo ban. - Trưởng ban: Chỉ đạo chung, nghiên cứu lý luận, phương pháp luận xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển các ngành dịch vụ. * Nhóm nghiên cứu: - Nghiên cứu phục vụ xây dựng chiến lược phát triển các ngành dịch vụ - Nghiên cứu phục vụ xây dựng quy hoạch phát triển các ngành dịch vụ của các vùng kinh tế, tham mưu tư vấn xây dựng quy hoạch phát triển các ngành dịch vụ cho các tỉnh thành trong cả nước. Các lĩnh vực dịch vụ Ban phụ trách nghiên cứu: + Khoa học công nghệ + Giáo dục + Giao thông vận tải + Bưu chính viễn thông + Thương mại + Tài chính ngân hàng + Du lịch + Và một số ngành dịch vụ khác... 1.1.3.6 Ban nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội. Nghiên cứu, tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xây dựng chiển lược, quy hoạch phát triển con người, nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội trên phạm vi cả nước và các vùng lãnh thổ; xây dựng các giải pháp đảm bảo thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển con người, nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội. Đầu mối tổng hợp, tham mưu các vấn đề liên quan tới quản lý nhà nước về công tác quy hoạch phát triển con người, nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội. 1.1.3.7 Ban nghiên cứu phát triển vùng Nghiên cứu, tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xây dựng các đề án chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất các vùng lãnh thổ (trong đó có vùng kinh tế xã hội, các vùng kinh tế trọng điểm, các hành lang kinh tế, các tam giác phát triển, các vùng khó khăn, vùng ven biển và hải đảo) Đầu mối tổng hợp, tham mưu các vấn đề liên quan về quản lý nhà nước đối với công tác quy hoạch vùng lãnh thổ, tỉnh. Xây dựng hệ thống các bản đồi quy hoạch phục vụ công tác lập quy hoạch. 1.1.3.8 Ban nghiên cứu phát triển hạ tầng Nghiên cứu, tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xây dựng chiên lược, quy hoạch phát triển hạ tầng của cả nước và trên các vùng lãnh thổ. Đầu mối tham mưu các vấn đề quản lý Nhà nước liên quan đến lĩnh vực hạ tầng. Tham gia thẩm định quy hoạch các ngành liên quan. 1.1.3.9 Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam Đầu mối nghiên cứu và đề xuất về chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội vùng ở Nam Bộ; Tổ chức hoạt động tư vấn về lĩnh vực chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế cho các tỉnh Nam Bộ. Theo dõi việc thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế xã hội các tỉnh và các vùng ở Nam Bộ. Tham gia thẩm định các dự án quy hoạch phát triển theo phân công. Tổ chức hoạt động tư vấn quy hoạch phát triển cho các tỉnh, các ngành ở Nam Bộ. Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam có 4 phòng: Phòng nghiên cứu Đông Nam Bộ; Phòng nghiên cứu Đồng bằng Sông Cửu Long; Phòng nghiên cứu tổng hợp và thông tin, bản đồ và Phòng hành chính quản trị. 1.1.3.10 Trung tâm thông tin tư liệu, Đào tạo và tư vấn phát triển Tổ chức đào tạo cán bộ trình độ tiến sỹ về các lĩnh vực chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ quy hoạch phát triển khinh tế xã hội cho các ngành các điạ phương. Tổ chức thực hiện hoạt động tư vấn về lĩnh vực nghiên cứu chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội (đối với cả trong nước và quốc tế). Tổ chức xây dựng hệ thống thông tin tư liệu phục vụ đào tạo và tư vấn phát triển Trung tâm thông tinh tư liệu, đào tạo và tư vấn phát triển có 4 phòng: Phòng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ; Phòng tư vấn phát triển; Phòng thông tin tư liệu và phòng hành chính quản trị. 1.1.3.11 Văn phòng Tổng hợp, xây dựng và theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác và quản lý khoa học của Viện. Thực hiện các công tác tổ chức và nhân sự; hành chính, quản trị, thư viện- tư liệu, lưu trữ và lễ tân; quản lý cơ sở vật chất và tài chính của Viện. Đầu mối tổ chức thực hiện các công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế của Viện. Văn phòng Viện có 4 phòng: Phòng hành chính; Phòng kế hoạch tổng hợp; Phòng tài vụ và phòng quản trị và quản lý xe. 1.1.4. Các mối quan hệ của Viện 1.1.4.1 Trong nước Viện có mối quan hệ với các Bộ, ngành, các Viện nghiên cứu, các trường Đại học, các sở kế hoạch và đầu tư của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trưng ương trong các lĩnh vực: - Phối hợp nghiên cứu chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội. - Hướng dẫn phương pháp nghiên cứu chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội. - Trao đổi thông tin, bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu chiến lược và quy hoạch. 1.1.4.2 Ngoài nước Viện có quan hệ hợp tác với các cơ quan, Viện nghiên cứu của nhiểu nước và tổ chức quốc tế: -Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), tổ chức phát triển công nghiệp của liên hiệp quốc (UNIDO), trung tâm phát triển vùng của liên hiệp quốc (UNCRD). - Ngân hàng phát triên châu Á (ADB): nghiên cứu quy hoạch về năng lượng, chiên lược phát triển miền Trung Việt Nam. - Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA): nghiên cứu quy hoạch 4 tỉnh miền Trung, khu đô thị mới Hoà Lạc- Xuân Mai. - Cơ quan phát triển quốc tế Thuỵ Điển (SIDA): tăng cường năng lực nghiên cứu uy hoạch và quản lý vùng vùng biển và ven biển, nghiên cứ một số đề án kinh tế vĩ mô ở Việt Nam. - Viện phát triển quốc tế Harvard (HIID) của Mỹ: nghiên cứ các vấn đề kinh tế vĩ mô ở Việt Nam. - Viện phát triển Hàn Quốc (KDI): tăng cường năng lực nghiên cứu chiến lược và dự báo kinh tế. - Cơ quan quy hoạch lãnh thổ và hoạt động vùng (DATAR) của Pháp: nghiên cứu quy hoạch vùng. - Trung tâm nghiên cứu phát triển quốc tế (IDRC) của Canada: nghiên cứu quản lý phát triển vùng ở Việt Nam. - Quỹ NIPPON ( Nhật Bản) và viện nghiên cứu Nhật Bạn (JRI): nâng cao năng lực dự báo kinh tế của Việt Nam. - Trường đại học kinh tế Stockholm (SSE) Thụy Điển: nghiên cứu về kinh tế vĩ mô, đầu tư và phát triển nông thôn. - Trường đại học Thammasat Thái Lan: nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực và đào tạo cán bộ. - Quỹ hoà bình Sasakawa (SPF) Nhật Bản: nghiên cứu kinh tế thị trường, đào tạo cán bộ và liên kết mô hình dự báo kinh tế Việt Nam- ASEAN. - Quỹ động vật hoang dã (WWF): nghiên cứu về mội trường. - Quỹ Hans Seidel (CHLB Đức): nghiên cứu về cải cách kinh tế. - Hiệp hội phát triển trao đổi công nghệ, kinh tế và tài chính (ADETEF) Pháp về Diễn đàn kinh tế, tài chính để đối thoại và trao đổi giữa Việt Nam và Pháp. - Uỷ ban Kế hoạch và hợp tác Lào: xây dựng chiến lược hợp tác Việt Nam- Lào, quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của Lào cà các tỉnh Khăm Muôn, Viêng Chăn, thành phố Viêng Chăn. Và một số tổ chức khoa hoc khác ở các nước. 1.1.5. Hướng hoạt động chính. Trong thời gian tới Viện chiến lược tiếp tục duy trì và tập trung vào những hoạt động sau: - Duy trì các mối quan hệ đã được thiết lập trong thời gian qua. - Mở rộng các mối liên kết với các Viện chiến lược phát triển có cùng chức năng trong nước cũng như trên thế giới - Tăng cường trao đổi hợp tác giữa các bộ phận, Ban trong Viện với nhau. - Hợp tác quốc tế để trao đổi kinh nghiệm thông qua các dự án, trao đổi các bộ, hỗ trợ đào tạo. - Tăng cường tổ chức các buổi hội thảo giữa các Bộ, Ngành trong cả nước để đưa ra các biện pháp giải quyết các vấn đề có tính chất tổng hợp. - Xây dựng hệ thống dữ liệu được cập nhật thường xuyên phục vụ cho công tác dự báo. - Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong tất cả các quá trình xử lý, phân tích thông tin. 1.2 THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN DU LỊCH 1.2.1. Khái quát hoạt động đầu tư phát triển du lịch Trong những năm gần đây hoạt động đầu tư cho ngành du lịch có những bước nhảy đáng kể cả về chất lẫn về lượng. Hoạt động đầu tư vào du lịch không những chỉ chú trọng vào cải tạo cơ sở hạ tầng mà còn thêm nhiều lĩnh vực khác với mục đích đưa du lịch thành một ngành mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân. Để có thể phát triển du lịch chúng ta thu hút rất nhiều nguồn vốn khác nhau trong đó có nguồn vốn do chính phủ tài trợ, có nguồn vốn do tư nhân cũng có nguồn vốn từ những nhà đầu tư nước ngoài. Tổng vốn đầu tư phát triển du lịch thường tăng qua các năm và chiếm khoảng 43% trong tổng số đầu tư vào các ngành dịch vụ. Điều này thể hiện ở bảng số liệu sau: Bảng 1: Vốn đầu tư phát triển phân theo các ngành kinh tế . (Đơn vị: Tỷ VN đồng) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Nông-lâm- thuỷ sản 16414,8 17448,1 19575,5 23300 28400 29365,6 Công nghiệp- Xây dựng 72249 84294 95643,6 113800 138700 153083,2 Dịch vụ 81832,2 97362,4 116397,1 137900 167900 181818,9 Du lịch 35187,9 41865,8 50050,8 59297 72197 78082,1 Tốc độ tăng vốn đầu tư du lịch (%) 20,64 21,03 15,56 21,56 22,07 23,57 ( Nguồn: Thời báo kinh tế- Kinh tế 2006- 2007) Nói chung lượng vốn dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng là nguồn vốn Chính phủ, lượng vốn này có xu hướng tăng dần theo hằng năm do nhu cầu phát triển của ngành nói riêng và của xã hội nói chung. Trong 6 năm qua, chính phủ đã cung cấp 2748 tỷ đồng đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch ở các khu du lịch trọng điểm với 385 dự án và phân bổ đầu tư hạ tầng cho 62 tỉnh, thành phố trực thuôc Trung ương. Ngoài ra Nhà nước cũng hỗ trợ một lượng vốn nhất định cho quảng bá, xúc tiến du lịch, thế nhưng lượng vốn này chỉ phân bổ từ năm 2005 trở đi với vốn cho năm 2005 là 15,6 tỷ, năm 2006 là 18,9 tỷ. Tuy nguồn vốn trên còn rất hạn hẹp so với nhu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch cả nước cũng như của các địa phương có dự án, nhưng là nguồn vốn kích thích thu hút được hàng nghìn tỷ đồng từ nhiều nguồn vốn khác cùng tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch cũng như các lĩnh vực khác liên quan đến du lịch. Bên cạnh việc huy động vốn từ các thành phần kinh tế thì ngành du lịch cũng vận động được nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức hơn 30 triệu USD cho phát triển nguồn nhân lực, gần 400 triệu USD từ nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài được đằng ký vào lĩnh vực kinh doanh du lịch năm 2006, đưa tổng số vốn vào đầu tư trực tiếp nước ngoài vào du lịch lên tới 5,2 tỷ USD và số dự án là trên 200 dự án. Hầu hết các dự án của nước ngoài tập trung vào phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch chỉ rất ít các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng chỉ có dự án ở Hòn Ngọc Việt, chủ đầu tư đã đầu tư một cầu cảng để đón khách du lịch quốc tế khi đến với khu du lịch vui chơi giải trí này bằng đường thuỷ. Như vậy, từ những số liệu khái quát trên cho ta thấy được rằng du lịch nước nhà đang trên đà phát triển. Tuy số vốn đầu tư vào còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng du lịch hiện có những cũng có những biểu hiện tích cực cụ thể như chất lượng cơ sở hạ tầng kỹ thuật nâng lên, số dự án có lượng vốn đầu tư cao tăng lên…., đó là một dấu hiệu tương đối tốt cho việc hội nhập kinh tế quốc tế. Thế nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao hơn nữa vị thế du lịch Việt Nam? Làm thế nào để thu hút thêm nhiều nhà đầu tư vào lĩnh vực du lịch? tất cả những câu hỏi đó đòi hỏi nhà các nhà quản lý phải có những biện pháp đầu tư hợp lý đối với nguồn vốn nhà nước, phải có những quy hoạch cụ thể về du lịch, phải có những chính sách thu hút vốn đầu tư phù hợp nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch mà vẫn duy trì mục tiêu phát triển bền vững. 1.2.2. Cơ cầu nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch Đầu tư vào du lịch được thực hiện bằng nhiều hình thức và nhiều nguồn vốn như : vốn ngân sách cấp, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn liên doanh trong và ngoài nước, vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tỷ lệ các nguồn vốn từng năm khác nhau nhưng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn chiếm một tỷ lệ cao qua từng năm. (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư ) Đối với nguồn vốn đầu tư trong nước. Về nguồn vốn đầu tư trong nước cho lĩnh vực du lịch thường là các dự án liên doanh với phía nước ngoài, Việt Nam chỉ đóng góp một phần vốn góp. Nếu các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước thì chủ yếu tập trung vào hỗ trợ xây dựng hạ tầng du lịch. Lượng vốn từ ngân sách hỗ trợ cho phát triển cơ sở hạ tầng trong 6 năm qua là 2748 tỷ đồng và cụ thể qua các năm như sau: Bảng 3: Vốn ngân sách dùng cho đầu tư phát triển hạ tầng du lịch. ( Đơn vị: tỷVNđồng) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Lượng vốn 266 380 450 500 550 620 Số tỉnh, thành phố được hỗ trợ vốn 13 37 43 53 58 62 (Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam) Đối với nguồn vốn tư nhân. Trong những năm gần đây số dự án sử dụng nguồn vốn tư nhân tăng lên rõ rệt. Tổng vốn đầu tư cho một dự án có thể từ vài chục triệu cho đến vài triệu dolarr tập trung tại các khu du lịch trọng điểm như: Quảng Nam với dự án xây dựng khu du lịch Điện Ngọc- thế kỷ 21lên tới 200 tỷ đồng của công ty cổ phần Thế kỷ, Đà Nẵng với dự án xây dựng khu nghỉ mát biển Xuân Thiều lên tới 80 tỷ đồng hay hơn 900 triểu USD xây dựng khu du lịch Bà Rịa- Vũng Tàu…Từ những dự án trên ta thấy thành phần kinh tế tư nhân rất quan tâm đến sự phát triển du lịch và du lịch biển vẫn là thế mạnh của du lịch Việt Nam vì hầu hết các dự án đều tập trung vào khai thác biển, chỉ có một số dự án mới đi theo hướng mới như xây dựng khu nuôi thú ở Đồng Tháp lên tới 50 tỷ đồng, hay khu vui chơi giải trí tại Bến Tre. Đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là nguồn có tỷ trọng rất lớn trong toàn bộ vốn đầu tư phát triển du lịch (chiếm trên 50% trong tổng số đầu tư phát triển du lịch tại Việt Nam ). Sau khi luật đầu tư ra đời thì các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng và đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế nước nhà. Hầu hết lượng vốn đầu tư vào du lịch tập trung vào nhà hàng- khách sạn. Điều này cũng hoàn toàn hợp lý đối với một ngành đang chuyển mình mạnh mẽ trong hội nhập như ngành du lịch nước ta. Đến hết năm 2006 có hơn 200 dự án đầu tư vào du lịch đưa tổng số vốn đầu tư trực tiếp lên tới 5,2 tỷ USD trong đó nổi bật là dự án nghỉ mát đa năng Dankia- suối vàng thuộc thành phố Đà Lạt lên tới 1,2 tỷ USD do 4 tập đoàn lớn của Nhật Bản liên doanh đầu tư. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các khu du lịch tổng hợp, các khu vui chơi, giải trí nhìn chung là còn hạn chế, chúng ta chưa thu hút được nhiều vốn tập trung vào lĩnh vực này. Ngoài ra, khi đi sâu vào cơ cấu nguồn vốn ta thấy phần lớn vốn đầu tư vào du lịch tập trung vào cơ sở lưu trú, khách sạn nhà hàng mà không chú trọng đầu tư vào các dịch vụ bổ sung cho du khách như vui chơi giải trí, tham quan, mua sắm hàng lưu niệm. Lượng vốn đầu tư cho khách sạn nhà hàng tăng nhanh qua các năm: Từ 2975 tỷ đồng năm 2001 lên đến 5900 tỷ đồng năm 2005. Mà theo thống kê thì chi tiêu bình quân một ngày khách quốc tế cho việc ăn uống và nghỉ ngơi có xu hướng giảm. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu: Bảng 4: Bảng chi tiêu bình quân một ngày khách quốc tế. Năm 2003 2005 2006 Bình quân chung 74,6 (USD) 76,4 (USD) 78,8 (USD) Thuê phòng 20,8 19,2 18,6 Ăn uống 12,6 14 16 Đi lại tại Việt Nam 10,9 14,3 16,6 Thăm quan 5,6 5,8 6,6 Mua hàng hoá 10,9 12,7 14 Vui chơi giải trí 4,7 4,1 4,2 Y tế 0,9 1,1 1,3 Chi phí khác 7,2 5,2 5,1 ( Nguồn tổng cục thống kê) Từ bảng số liệu trên ta thấy chi tiêu của khách dành cho lưu trú ngày càng giảm, năm 2003 chiếm 28%, năm 2005 là 25%, đến năm 2006 là 23,6%. Trong khi đó thì chi tiêu cho các dịch vụ bổ sung khác ngày càng phát triển, dịch vụ lữ hành vận chuyển khách tăng từ 14,6% năm 2003 lên tới 18,7% năm 2005 và 21,1% năm 2006. Đặc biệt nhu cầu vui chơi giải trí tăng rất nhanh, nếu như trước đây tỷ lệ giữa dịch vụ cơ bản cua du lịch và dịch vụ bổ sung là 7/3 thì hiện nay con số này đã có sự cân bằng đáng kể, người đi du lịch bây giờ không còn hứng thú với hình thức du lịch nghỉ ngơi hoàn toàn nữa mà họ ưa thích loại hình du lịch mang hơi hướng của sự vận động. Thế nhưng, vốn đầu tư vào dịch vụ bổ sung cho du lịch ở nước ta còn thiếu rất nhiều, lượng vốn dung để ._.đầu tư cho khu vui chơi giải trí chủ yếu là nhờ vào ngân sách nhà nước, không đủ đáp ứng được nhu cầu. Công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực là một yếu tố rất quan trọng trong phát triển du lịch, thế nhưng lượng vốn của ngân sách nhà nước đầu tư cho nhân lực du lịch là rất ít, chủ yếu dựa vào nguồn vốn viên trợ chính thức hoặc của các tổ chức phí chính phủ như liên minh châu Âu, vốn tài trợ của Nhật Bản. Mặc dù xác định công tác tuyên truyền quảng bá du lịch, đưa thông tin du lịch đến thị trường trong và ngoài nước là một vấn đề hết sức cần thiết, thế nhưng số vốn đầu tư cho công tác này còn rất ít, không được quan tâm nhiều, số liệu không được tổng hợp một cách rõ ràng, hoạt động còn mang tính manh mún không chuyên nghiệp. Thực trạng cho thấy các dự án thành lập các công ty chuyên xúc tiến, quảng bá du lịch và làm dịch vụ du lịch chưa nhiều, chỉ mới được chú trọng trong thời gian gần đây. Tuy nhiên vốn đầu tư của các doanh nghiệp này rất nhỏ, thường là nguồn vốn liên doanh với nước ngoài. Ngoài ra thì tổng cục du lịch cũng có đầu tư một phần kinh phí cho việc xúc tiến quảng bá du lịch nhưng số vốn còn rất nhỏ, khó có thể đủ để quảng bá rộng rãi,ngân sách từ Trưng ương chi cho hoạt động xúc tiến du lịch năm 2005 là 15,6 tỷ đồng, năm 2006 là 18,9 tỷ đồng. Trong khi đó lượng vốn đầu tư cho phát triển du lịch dành cho phát triển các khu lưu trú chiếm rất lớn.Sự phát triển tự phát, không có quy hoạch đã dẫn đến hàng loạt các nhà nghỉ, nhà khách, khách sạn mi ni chất lượng không tốt ra đời, trong đó thiếu các khách sạn có chất lượng đạt tiêu chuẩn cao. Tuy bước đầu giải quyết được tạm thời nhu cầu ăn nghỉ cho khách, nhưng về lâu dài đây là một trở ngại khó khắc phục. Từ những thực trạng trên, chúng ta nhận thấy rằng, nếu vốn đầu tư không được phân bổ một cách hợp lý hơn, việc sử dụng vốn không được quản lý chặt chẽ hơn trong các năm tới thì sẽ không thể đáp ứng được như cầu ngày càng cao của du khách, giảm hiệu quả đầu tư phát triển du lịch, giảm sức hấp dẫn của du lịch Việt Nam. 1.2.3. Nội dung phát triển du lịch 1.2.3.1. Về cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch Cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch bao gồm cơ sở lưu trú khách sạn, nhà hàng ,các cơ sở vui chơi giải trí…. Hiện trạng đầu tư vào cơ sở lưu trú Về nguồn vốn đầu tư vào khách sạn chủ yếu là vốn đầu tư nước ngoài hoặc là vốn liên doanh với nước ngoài. Nhìn chung lượng vốn đầu tư vào khách sạn qua các năm tăng nhưng nhưng tỷ lệ tăng vốn qua các năm thì lại giảm, tuy nhiên nó vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển du lịch. Điều này thể hiện qua bảng 4: Bảng 5: Thể hiện lượng vốn đầu tư cho lĩnh vực khách sạn du lịch. ( Đơn vị tính: tỷ đồng) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng vốn đầu tư cho khách sạn- nhà hàng 4453 2975 3837 4095 4800 6400 (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư) Tuy tỷ lệ tăng vốn đầu tư cho lĩnh vực khách sạn du lịch giảm qua các năm nhưng lượng vốn dành cho việc phát triển các nhà hàng khách sạn quốc tế lại tăng. Điều này được thể hiện ở bảng sau: Bảng 6: Thể hiện vốn đầu tư cho khách sạn quốc tế (Đơn vị triệu USD) Loại khách sạn Năm 2000 Năm 2005 Dự đoán năm2010 Số phòng cần có thêm Số vốn cần đầu tư Số phòng cần có thêm Số vốn cần đầu tư Số phòng cần có thêm Số vốn cần đầu tư 5 sao 2 260 1.7 221 1.9 247 4 sao 3.1 310 2.4 240 2.7 270 3 sao 3.5 262.5 2.4 180 1.9 217.5 2 sao 3 180 2 120 2.2 132 1 sao 3.43 137.2 1.91 76.4 2.13 85.2 Cộng 15.03 1149.7 10.41 837.4 10.83 951.7 ( Nguồn Bộ Kế hoạch- Đầu tư) Từ bảng số liệu cho thấy xu hướng đầu tư vào khách sạn 5 sao ngày càng tăng thể hiện qua số vốn đầu tư vào, điều này chứng tỏ rằng chúng ta còn thiếu rất nhiều khách sạn cao cấp với kỹ thuật hiện đại và những dịch vụ bổ trợ như giặt là,sửa chữa một số đồ dùng của khách. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý phải có hướng đầu tư phù hợp nhằm nâng cao chất lượng các cơ sở lưu trú tăng doanh thu cho du lịch nước nhà Về số lượng các khách sạn du lịch được đầu tư xây dựng, số lượng các khách sạn ngày càng tăng nhưng tại một số khách sạn vẫn xây ra tình trạng thiếu phòng, một số khách sạn xẩy ra tình trạng thừa phòng. Sở dĩ như vậy vì số khách sạn từ 3-5 sao ở nước ta quá ít so với nhu cầu sử dụng phòng của khách. Hiện nay cả nước có hơn 500 khách sạn từ 1-5 sao, trong đó số khách sạn từ 3-5 sao chỉ khoảng 175 khách sạn (chiếm 35%tổng số khách sạn được xếp hạng sao) chủ yếu tập trung ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tình trạng thiếu phòng chất lượng cao thừa phòng chất lượng thấp xẩy ra rất nhiều. Điều này không những gây thịêt hại cho các công ty lữ hành mà còn ảnh hưởng tới hình ảnh du lịch của Việt Nam. Một lý do lớn gây ra hiện tượng trên đó là việc quy hoạch xây dựng các khách sạn không cụ thể, lượng vốn đầu tư còn rải rác, không tập trung. Xét về kiến trúc trong đầu tư xây dựng các khách sạn ở Việt Nam vẫn chưa được quan tâm đúng mức.Thời gian qua có nhiều nhà hàng khách sạn được đầu tư xây dựng ồ ạt trong đó một số dự án chưa hài hoà với cảnh quan thiên nhiên, lịch sử văn hoá địa phương. Ví du như ở thành phố Huế hay ở Hà Nội có hàng loạt khách sạn tư nhân với kiến trúc tuỳ tiện, không phải là sự kết hợp giữa kiến trúc Á, Âu mà là sự lai căng giữa nhiều phong cách kiến trúc khác nhau không phù hợp với một đô thị nghiêng về bề dày văn hoá gây phản cảm cho mỹ quan đô thị rất nhiều. Thực tế hiện nay cho thấy, trừ những khách sạn được liên doanh với nước ngoài thì hầu hết các khách sạn ở Việt Nam thường được phát triển từ nhà hàng, nhà nghỉ phục vụ nội bộ sang kinh doanh khách sạn vì thế mà quy mô nhỏ và chưa có sự đồng bộ về trang thiết bị tiện nghi. Nhiều khách sạn uy tín được trang bị tịên nghi tương đối đồng bộ và hiện đại nhưng hệ thống dịch vụ bổ sung thì rất nghèo nàn, đơn điệu chưa đáp ứng đủ nhu cầu của khách. Ngoài các khách sạn lớn thì phần đa các khách sạn ở nước ta chỉ đáp ứng nhu cầu ăn và ngủ của khách du lịch. Thấy được những điểm yếu trong vấn đề lưu trú của nước ta, có rất nhiều dự án đầu tư vào lĩnh vực nhà hàng khách sạn trong thời gian gần đây. Tại thành phố Hồ Chí Minh một tổ hợp khách sạn-căn hộ-trung tâm thương mại 5 sao có số vốn đầu tư 200 triệu USD tại thành phố Hồ Chí Minh do Tập đoàn Kumho Asiana của Hàn Quốc làm chủ đầu tư cũng dự kiến sẽ khởi công vào cuối tháng. Tập đoàn Winvest LLC (Mỹ) cũng đã nhận giấy phép đầu tư khu du lịch 5 sao Saigon Atlantic tại Vũng Tàu với số vốn đầu tư 300 triệu USD. Nếu trước đây chỉ có sự đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực nhà hàng, khách sạn thì nay ngoài các tập đoàn nước ngoài đầu tư trực tiếp, làn sóng đầu tư gián tiếp vào lĩnh vực này cũng sôi động không kém. Cách đây vài tháng, Quỹ VinaCapital đã mua 52,5% cổ phần của khách sạn 5 sao Hilton Hà Nội, nâng tổng số cổ phần của Quỹ tại khách sạn này lên tới 70%. Trước đó, Quĩ VinaLand cũng đã mua lại 70% cổ phần của Sofitel Metropole, khách sạn lâu đời, sang trọng và đắt khách nhất Hà Nội. Ngoài đầu tư vào nhà hàng, khách sạn một cách riêng lẻ những năm gần đây khi lượng khách theo hình thức MICE (du lịch kết hợp hội thảo, hội nghị) từ các nước trên thế giới đến Viết Nam ngày càng đông thì các dự án đầu tư vào khách sạn kết hợp khu vui chơi giải trí hoặc các khu vui chơi giải trí ngày càng tăng. Du lịch điểm hẹn - MICE đang là thị trường mới. Đây là loại hình du lịch kết hợp giữa làm việc, thương thảo với giải trí, nghỉ ngơi và khám phá. MICE là 4 chữ cái đầu của 4 từ tiếng Anh: Meeting - Incentive - Convention - Exhabition. Đó là những hoạt động giao lưu, gặp gỡ hay hội nhập (Meeting); là nơi vinh danh, khen thưởng hay phát động (Incentive); là nơi hội thảo, hội nghị hay hội họp (Convention/ Conference); và là nơi triển lãm, trình bày hay trình diễn (Exhabition). Du khách MICE thường kết hợp làm việc, hội họp và kinh doanh, với việc tham quan thắng cảnh, tìm hiểu về văn hoá, lịch sử và dân tộc. Về phong cảnh tự nhiên, đất nước ta nổi tiếng với 2 di sản thiên nhiên, 3 di sản văn hoá và 2 di sản văn hoá phi vật thể thế giới. Hiện nước ta có hai sân bay quốc tế lớn, hàng loạt sân bay và hệ thống giao thông nội địa do đó đầu tư vào loại hình du lịch MICE đang thu hút rất nhiều nhà đầu tư. Nó không những giúp chúng ta trực tiếp thu ngoại tệ mà còn giúp chúng ta cải thiện hình ảnh của ngành du lịch nước nhà trong mắt du khách về khả năng đáp ứng các nhu cầu. Hiện trạng đầu tư vào các cơ sở vui chơi, giải trí. Nói đến các cơ sở vui chơi giải trí chúng ta phải nói đến hệ thống các công viên. Có thể nói nước ta hiện nay số công viên dành cho vui chơi không phải là quá thiếu. Tuy nhiên có thể khẳng định rằng các công viên hầu như chưa hấp dẫn được khách du lịch. Tình trạng các công viên, các điểm chơi trong công viên xuống cấp, phát sinh nhiều tệ nạn là một hiện tượng khá phổ biến. Nhiều công viên đẹp ở thủ đô Hà Nội- một thủ đô được mệnh danh là điểm đến an toàn đang đối mặt với tình trạng mại dâm, nghiên hút diễn ra công khai. Hay ở các công viên tại các thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng tình trạng quán các quán cafe trong công viên kinh doanh không lành mạnh đã làm mất đi mỹ quan vốn có của nơi công cộng. Tiếp theo là các công viên kết hợp với khu vui chơi giải trí do các doanh nghiệp quản lý như: công viên Đầm Sen( thành phố Hồ Chí Minh) với tổng vốn đầu tư lên tới 40 triệu USD, đã thu hút hàng nghìn lượt khách đến thăm quan trong ngày, công viên này đã đầu tư rất nhiều trò chơi hấp dẫn như tàu đụng, tàu đu, các trò cảm giác mạnh lên tới hàng triệu USD, đặc biệt là việc xây dựng biển nhân tạo phục vụ cho du khách nội địa không có thời gian đi chơi biển ngắn ngày rất thu hút được khách, công viên nước Hồ Tây với diện tích 6,4ha, vốn đầu tư 150 tỷ đồng do côg ty cổ phần dịch vụ giải trí Hà Nội- là chủ đầu tư, quản lý nhiều trò chơi mới lạ thu hút nhiều khách, có ngày lên tới 30000 người tới đây làm phát sinh tình trạng quá tải, thế nhưng vẫn có những ngày công viên này không có một người khách. Và còn nhiều công viên nữa đang hoạt động khắp trên 64 tỉnh, thành phố. Nhìn chung, các công viên này tuy đã phát huy được môt phần ý nghĩa của công viên thế những vẫn chưa được đầu tư một cách có hiệu quả để thu hút du khách. Các khu vui chơi giả trí chất lượng cao còn quá ít, thiết bị vui chơi còn nghèo nàn, triển khai chưa đẹp, độ bền chưa cao, chưa có mô hình quản lý chúng, hiện đang phân tán, khó đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tinh thần của người dân địa phương và khách du lịch. Xây dựng các khu vui chơi giải trí chất lượng là rất quan trong trong chiến lược phát triển du lịch của cả nước, thế nhưng thường xuyên cải tạo, nâng cấp để các khu vui chơi giải trí đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của giới trẻ còn quan trọng hơn. Trong chiến lược phát triển du lịch đến năm 2010 đã nêu rõ phải tăng cường hơn nữa đầu tư phát triển các khu vui chơi, giải trí với hai mục đích quan trọng: Thứ nhất, đáp ứng đầy đủ và nhanh chóng nhu cầu nghỉ ngơi, vui chơi giải trí và sinh hoạt văn hoá xã hội của nhân dân nhất là những ngày nghỉ cuối tuần, khách du lịch trong và ngoài nước, Thứ hai, việc phát triển các khu vui chơi này tạo điều kiện thuận lợi cho các daonh nghiệp du lịch xây dựng các tour, các chương trình du lịch đặc sắc liên kết giữa các tỉnh với nhau. Ngoài xây dựng các công viên giải trí thì các dịch vụ vui chơi gắn liền với khách sạn cũng được ngày càng phát triển ở các tỉnh có tiềm năng du lịch. Hàng loạt các dự án du lịch được xây dựng thiết kế theo mô hình khách sạn kết hợp với khu vui chơi giải trí ra đời như khu du lịch Hòn Ngọc Việt- ở Nha Trang đây là khu vui chơi với hơn 4 dự án lớn nhỏ, tổng số vốn đầu tư cho khu nghỉ dưỡng, du lịch, vui chơi giải trí và cơ sở hạ tầng cầu cảng lên tới 1755 tỷ đồng; dự án khu du lịch và giải trí quốc tế liên doanh giữa Công ty Silver Shores (Mỹ) và Công ty Hoàng Đạt (Việt Nam) tại Đà Nẵng với tổng vốn đầu tư 86 triệu USD . Dự án này sẽ xây dựng trên bãi biển Bắc Mỹ An khách sạn 600 phòng đạt tiêu chuẩn 5 sao kết hợp với trung tâm hội nghị quốc tế; xây dựng 50 biệt thự cao cấp đạt tiêu chuẩn năm sao. Dự án sẽ được phép tổ chức khu vui chơi giải trí có thưởng dành cho người nước ngoài với các trò chơi điện tử theo hình thức chia bài qua bàn như black jack, bacarat và tài xỉu. Có thể nhận thấy rằng hầu hết các dự án đầu tư cho các cơ sở vui chơi, giải trí thường là các dự án với 100% vốn nước ngoài hoặc là sử dụng vốn liên doanh, còn các dự án sử dụng vốn trong nước liên quan đến du lịch hình như không chú trọng đầu tư vào dịch vụ bổ sung cho du lịch, nếu có đầu tư thì cũng với quy mô nhỏ, nội dung chưa phong phú, gía lại cao nên chỉ thu hút một phần những người có thu nhập cao. Nói chung công tác đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch trong những năm gần đây được tiếp tục phát triển theo hướng đảm bảo chất lượng cao và nâng cao hiệu quả đầu tư, tập trung vào các lĩnh vực khách sạn- nhà hàng, tuy nhiên việc đầu tư thực hiện còn có nhiều bất cập. 1.2.3.2. Đầu tư phát triển các loại hình vận chuyển khách du lịch. Hoà vào cùng sự đổi mới nền kinh tế trong hội nhập, dịch vụ vận chuyển khách du lịch cũng có những chuyển biến tích cực, tăng nhanh về số lượng và đổi mới về chất lượng. Vận chuyển khách bằng các phương tiện đường bộ phát triển nhanh cả về số lượng, chất lượng và chủng loại do Nhà nước đã bỏ giấy phép vận chuyển khách du lịch. Các phương tiện vận chuyển liên tục được đổi mới, phục vụ kịp thời, đặc biệt là ô tô. Hầu như các tỉnh có du lịch phát triển đều có hệ thống xe buýt, các xe này liên tục được hoàn thiện về chất lượng cũng như tần suất chạy, góp phần phục vụ nhóm khách du lịch nội tỉnh, khách du lịch trẻ tuổi thu nhập thấp, hoặc các tỉnh lân cận khu du lịch đến tham quan. Các dự án đầu tư vận chuyển du lịch đang rất được quan tâm hiện nay. Thường các dự án này có nguồn vốn là vốn liên doanh với nước ngoài trong đó bên Việt Nam thường góp dưới 50%, lượng vốn đầu tư chủ yếu là của bên nước ngoài và huy động từ các nguồn vốn vay khác. Bảng 7: Một số dự án trong lĩnh vực vân chuyển khách du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2003- 2007. Tên dự án Hình thức đầu tư Vốn đầu tư Tuyến đường sắt hai làn Biên Hoà – Vũng Tàu với sản phẩm tàu hoả phục vụ du lịch BOT 310 triệu USD Sản xuất tàu hoả du lịch 5 sao phục vụ khách du lịch Nha Trang-Thành phố Hồ Chí Minh Liên doanh 16 triệu Euro Vận tải hành khách xuyên Việt chất lượng cao bằng ô tô Liên doanh 38 triệu USD Đóng tàu vận chuyển khách du lịch bằng đường biển Liên doanh 40 triệu USD (Nguồn: cục đầu tư nước ngoài- Bộ kế hoạch và đầu tư) Khách du lịch tới Việt Nam có thể sử dụng đường không, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ. Các hoạt động bằng đường sắt và xe buýt có thể coi là dịch vụ công, mang tính độc quyền nhà nước. Dịch vụ hàng không trước đây cũng là độc quyền nhưng gần đây do mở của nên có rất nhiều hãng hàng không giá rẻ ra đời, làm tăng tính cạnh tranh và nó dần chuyển thành hoạt động thương mại.Còn các dịch vụ vận chuyển khách khác do các nhà cung ứng từ mọi thành phần kinh tế tham gia. Nếu xét cơ cấu khách về phương tiện đi lại thì khách quốc tế đến Việt Nam năm 2006 bằng đường hàng không chiếm 75,41% (2702432 khách), bằng đường bộ và đường bộ và thuỷ chiếm 25,59%(881056 khách)- Theo nguồn của tổng cục du lịch. Như vây, theo thực trạng trên ta thấy vốn đầu tư vào lĩnh vực vận chuyển khách du lịch nói còn ít và thấp. Do đó để có thể phát triển trong lĩnh vực vận tải du lịch, chúng ta cần chú trọng vào nhu cầu của khách, đầu tư vào các phương tiện vận chuyển một cách đa dạng và tiện nghi đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. 1.2.3.3. Vấn đề đầu tư phát triển nguồn nhân lực Việt Nam chúng ta được tổ chức du lịch thế giới đánh giá là một trong 8 điểm đến hấp dẫn nhất năm 2006. Để đáp ứng nhu cầu phục vụ cho khách du lịch, thời gian qua cac cơ sở kinh doanh du lịch đã chủ động đào tạo, tuyển chọn lực lượng lao động chuyên ngành cho cơ sở mình. Thực trạng cho thấy dù ngành du lịch đã xác đinh phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng để phát triển du lịch, và việc nâng cao chất lượng phục vụ là chiến lược cơ bản để đạt được các mục tiêu phát của ngành nhưng nguồn vốn đầu tư phát triển nguồn nhân lực còn rất hạn chế, gần như không đáng kể. Nhu cầu đầu tư cho ngành vượt xa khả năng hiện có. Hiện nay có 740000 người làm việc trong lĩnh vực du lịch, trong đó có 230000 lao động làm việc trực tiếp và 510000 lao động gián tiếp, thế nhưng đến năm 2010 nhu cầu lao động cho ngành du lịch là 1400000 người, trong đó số người trực tiếp làm việc trong ngành du lịch là 380000 người.Như vậy đội ngũ công nhân có nhu cầu được đầu tư là rất lớn trong khi đó hệ thống tổ chức đầu tư quốc gia hiện nay chưa thể đáp ứng được nhu cầu đầu tư. Hiện nay có một số dự án phát triển nguồn nhân lực được triển khai như: 1. Dự án đào tạo phiên dịch: 0,9 triệu Euro 2. Dự án hợp tác trong lĩnh vực nghe nhìn: 1,09 triệu Euro 3. Dự án đào tạo nguồn nhân lực du lịch: 10,8 triệu Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực hiện nay thường là sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ hoặc là sự hợp tác với một tổ chức viện trợ của nước ngoài, nguồn vốn ngân sách Nhà nước phân cho việc đào tạo nguồn nhân lực là quá hạn hẹp, không thể trang trải hết cho nhu cầu phát triển nhân lực. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực du lịch gần đây phải kể đến là dự án “Phát triển nguồn nhân lực du lịch” do liên minh Châu Âu tài trợ không hoàn lại với 10,8 triệu Euro trong tổng số giá trị dự án là 12 triệu Euro, bên Việt Nam 1,2 triệu Euro. Dự án này bắt đầu tư năm 2004 và dự kiến kết thúc năm 2008. Theo kế hoạch, dự án sẽ đào tạo 4000 lượt học viên thuốc 13 kỹ năng nghề trọng tâm: lễ tân, phục vụ buồng, chế biến món ăn, an ninhdu lịch, điều hành tour, hướng dẫn viên du lịch …Dự án gồm 6 phần được thiết kê nhằm mục đích phát triển nguồn nhân lực và đội ngũ đào tạo viên có trình độ chuyên môn cao, đồng thời nâng cấp các chuẩn nghề và chất lượng các ngành dịch vụ liên quan, đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách, góp phần nâng cao tính cạnh tranh của Du lịch Việt Nam trên thế giới. Ngoài dự án đầu tư trên, chính phủ Luxembourg và Việt Nam đã ký kết hợp tác thực hiện dự án VIE/002 trong đó chính phủ Luxembourg nhận tài trợ không hoàn lại 150 triệu LuF cho dự án về đào tạo nghiệp vụ khách sạn du lịch, nhằm ba nhiệm vụ: - Soạn thảo chương trình đào tạo quốc gia về nghiệp vụ khách sạn. - Đào tạo đội ngũ giáo viên nòng cốt - Nâng cấp trang thiết bị cho ba trường du lịch tại Hà Nội, Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một dự án lớn, thời gian thực hiện kéo dài, bắt đầu từ tháng 10- 1996 và chia làm 3 đợt. Tổng số tiền tài trợ nói trên được phân bổ như sau: 1. Thiết lập chương trình đào tạo quốc gia về nghiệp vụ Khách sạn:39 triệu LuF 2. Đào tạo giáo viên nòng côt cho 3 trường du lịch Hà Nội, Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh: 10 triệu LuF 3. Nâng cấp, cải tạo cơ sở vật chất và trang thiết bị cho ba trường :120 triệu LuF. 4. Chi phí chung: 10 triệu LuF. Ngoài các dự án nói trên tổng cục du lịch kết hợp với một tổ chức phi chính phủ ở châu Âu thành lập 10 trường đào tạo đội ngũ nhân lực ngành du lịch ở Đà Lạt, Huế, Quảng Ngãi, Hà Nội, Cần Thơ, Vũng Tàu...v..v. Hiện nay cả nước có khoảng 50 trường đào tạo các nghiệp vụ du lịch và khoảng 30 trường đại học có đào tạo du lịch. Ngoài hình thức đầu tư dài hạn, chuyên sâu về từng nghiệp vụ thì đầu tư phát triển nguồn nhân lực còn có hình thức đầu tư ngắn hạn trong các doanh nghiệp du lịch như là đầu tư mở các khoá huấn luyện, đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng cho nhân viên du lịch của doanh nghiệp mình. Về chất lượng nguồn nhân lực, hằng năm lực lượng sinh viên ra trường từ các khoa du lịch của các trường đại học, cao đẳng, trung cấp rất đông góp phần bổ sung một phần nhân lực cho ngành. Tuy nhiên giáo trình dạy học còn mang tính lý thuyết vì vậy mà khả năng nhập cuộc của sinh viên mới ra trường chưa cao,nhiều sinh viên trình độ ngoại ngữ còn yếu nên các doanh nghiệp du lịch phải mất thời gian đào tạo lại. Chất lượng lao động du lịch phục vụ trong khách sạn phần lớn có trình độ học vấn cao(42% khách sạn có lao động trình độ đại học chiếm tỷ lệ trên 30% trong tổng số lao động hoạt động tại khách sạn đó). Thế nhưng một điều đáng nói là phần lớn những lao động tốt nghiệp đại học đều không phải tốt nghiệp chuyên ngành du lịch và khách sạn, thực tế cho thấy hầu như các sinh viên tốt nghiệp từ các trường ngoại ngữ làm việc trong lĩnh vực du lịch rất nhiều. Trình độ ngoại ngữ hạn chế công với tư tưởng nhân thức của nhân viên còn mang nặng tính bao cấp, bảo thủ khiến cho sức cạnh trạnh của các doanh nghiệp Việt Nam giảm sút. Qua phân tích trên cho thấy nhu cầu vốn đào tạo nguồn nhân lực du lịch ngày càng tăng trong khi đo lượng vốn đầu tư dành cho vấn đề này còn quá ít manh mún, rải rác ở các tổ chức du lịch, các sở chuyên ngành, các dự án lớn từ trước đến nay chỉ phân bổ cho cả nước gây ra những khó khăn rất lớn về số lượng, chất lượng cho nguồn nhân lực du lịch nước nhà, cản trở sự phát triển của ngành du lịch. 1.2.3.4. Đầu tư nâng cấp và cải tạo trùng tu các khu di tích Các di tích lịch sử từ xưa đến nay luôn có một sức hấp dẫn lớn đới với khách du lich, và nó được coi là một trong nhưng thế mạnh của du lịch Việt Nam sau du lịch biển. Với mục tiêu tăng trưởng khách du lịch nhằm phát triển du lịch thì vấn đề đầu tư vào các di tích lịch sử đối với ngành du lịch cũng rất quan trọng Năm 2000 là năm đánh đấu cho việc trùng tu tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá. Đã có hàng loạt dự án trùng tu tôn tạo các di tích lịch sử của các địa phương được trình duyệt và đang tiến hành tu sửa Bảng 8: Một số dự án đầu tư cải tạo, trùng tu các khu di tích Tên dự án Chủ đầu tư Tổng vốn đầu tư Bảo tồn, tôn tao, phát huy tác dụng khu chứng tích Mỹ Sơn Sở văn hóa thông tin Quảng Ngãi 11784 tỷ đồng Quy hoạch bảo tồn, phát huy giá trị di tích cô đô Huế Sở văn hoá thông tin Huế 720 tỷ đồng Bảo tồn tôn tạo khu phố cổ Hà Nội Sở văn hoá thông tin thành phố Hà Nội 10 triệu USD Bảo tồn làng nghề Hà Tây Sở văn hoá thông tin Hà Tây 700000 USD (Nguồn: Cục lưu trữ Quốc Gia) Việc cải tạo, trùng tu tôn tạo các di tích lịch sử góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc và là một cơ hội để quảng bá hình ảnh của địa phương mình với du khách thập phương. 1.2.3.5. Thực trạng đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch Vấn đề đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch là một vấn đề nằm ngoài tầm kiểm soát của ngành du lịch, lượng vốn đầu tư đổ vào đây còn phụ thuộc vào rất nhiều nguyên nhân, phụ thuộc vào nhu cầu chung của nền kinh tế, vào các chính sách phát triển kinh tế của chính phủ…Tuy nhiên bởi vì du lịch là hoạt động liên ngành chất lượng cơ sỏ hạ tầng sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc thu hút khách du lịch, do đó nghiên cứu thực trạng đầu tư vào cơ sở hạ tầng là một vấn đề hết sức được quan tâm của ngành nhằm đưa ra các chính sách, đề ra các loại hình du lịch và các kiến nghị nâng cao chất lượng về du lịch, giải pháp thu hút khách du lịch một cách kịp thời, phù hợp với tình hình chung của đất nước. Kể từ trước năm 2000, việc đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch còn rất hạn chế. Ngân sách Nhà nước chưa được bố trí cho việc này. Năm 2001 trở đi ngân sách nhà nước mới được bố trí cho việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch cho các địa phương. Đây là nguồn vốn rất quan trong song chỉ là nguồn vốn “mồi” để thu hút các nguồn lực khác tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch cũng như đầu tư cào các cơ sở kinh doanh du lịch. Nguồn hỗ trợ này được tập trung đầu tư vào xây mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng du lịch, bao gồm đường du lịch, cấp điện, cấp thoát nước, bảo vệ mội trường cho các khu, điểm du lịch nhằm tăng khả năng đón khách du lịch. Trong thời kỳ 2001-2005 ngân sách nhà nước đã hỗ trợ cho cơ sở hạ tầng là 2146 tỷ đồng, năm 2006 là 620 tỷ đồng. Tính cho hết năm 2006 đã có 62 tỉnh thành phố được hỗ trợ đầu tư. - Về địa bàn đầu tư: Theo chiến lược phát triển du lịch thì cả nước có 21 khu du lịch quốc gia bao gồm 4 khu du lịch tổng hợp và 17 khu du lịch chuyên đề. Tổng vốn đầu tư cho các địa phương có khu du lịch quốc gia là 1404 tỷ đồng với 20 tỉnh có khu du lịch quốc gia được hỗ trợ chiếm 65,4% tổng vốn đầu tư cơ sở hạ tầng của cả nước. Mức trung bình hỗ trợ hàng năm cho mỗi tỉnh thành phố có khu du lịch quốc gia là 18 tỷ đồng. Nhằm khai thác các điểm du lịch có khả năng thu hút nhiều khách du lịch của vùng phụ cận các trung tâm du lịch (Huế, Hà Nội, Đà Năng, thành phố Hồ Chí Minh…) để giải quyết nhu cầu du lịch cuối tuần của nhân dân và khách quốc tế nên nhà nước đã hỗ trợ 580 tỷ đồng cho 22 tỉnh chiếm 24,2% tổng vốn ngày của cả nước. Đối với các địa bàn du lịch gắn với các điểm, tuyến du lịch thuốc tỉnh khó khăn, vùng sâu, vùng xa có khả năng liên kết với các tuyến du lịch tạo thế du lịch liên hoàn thu hút khách du lịch, góp phần xoá đói giảm nghèo, ngân sách nhà nước đã chi đầu tư cơ sở hạ tầng 22 tỉnh thuộc diện này với số vốn là 222 tỷ đồng chiếm 10,4% tổng vốn này trong cả nước. Đối với địa bàn trọng điểm phát triển du lịch miền Trung- Tây Nguyên, với 19 tỉnh bao gồm các tỉnh ven biển từ Thanh Hoá tới Bình Thuận và 5 tỉnh Tây Nguyên. Là khu vực có nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên như du lịch biểnm du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng và tài nguyên du lịch nhân văn phong phú có khả năng phát triển mạnh du lịch.Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã có quyế định phê duyệt đề án phát triển mạnh du lịch miền Trung – Tây Nguyên, theo đó địa bàn này (gồm 19 tỉnh) được hỗ trợ 948,5 tỷ đồng chiếm 44% tổng vốn này của cả nước. Ngoài ra vốn ngân sách nhà nước còn tập trung vàp các khu du lịch, điểm du lịch theo tuyến du lịch như: Tuyến du lịch đường sắt Bắc-Nam trong tuyến du lịch đường sắt xuyên Á, tuyến du lịch bằng biển qua các Cảng Hạ Long, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Thành phố HồChí Minh, tuyến du lịch hành lang Đông- Tây qua của khẩu quốc tế Lao Bảo, tuyến du lịch “ con đường di sản” qua các di sản thế giới…Tuy nhiên hiện nay chưa thể thống kê được lượng vốn ngân sách đầu tư cho cac tuyến này là bao nhiêu. - Về cơ cấu được hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch Nguồn vốn hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch vào đối tượng bao gồm đường du lịch, cấp điện, cấp thoát nước, bảo vệ mội trường cho các khu, điểm du lịch. Trong đó tập trung cho nhu cầu bức xúc hiện nay là đường để đưa khách tới các khu, điểm du lịch. Tổng vốn đầu tư 2766 tỷ đồng đầu tư cho cơ sở hạ tầng du lich thời kỳ 2001-2006 có cơ cấu như sau: - Đường vào các khu du lịch và đường trong khu du lịch 2489,4 tỷ đồng, chiếm 90% tổng số vốn - Cấp nước cho khu du lịch 60,65 tỷ đồng, chiếm 2,2% tổng số vốn đầu tư - Thoát nước, bảo vệ môi trường 154,9 tỷ đồng chiếm 5,6% tổng số vốn đầu tư - Cấp điện cho khu du lịch 60,65 tỷ đồng chiếm 2,2% tổng số vốn đầu tư. Như vậy với sự đầu tư kịp thời cho cơ sở hạ tầng- cơ sở vật chất kỹ thuật bậc hai của du lịch thì đã phát huy được tác dụng đáng kể, lượng khách du lịch tăng lên hàng năm và vì thế doanh thu từ du lịch cũng tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên nguồn vốn này còn thấp so với nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch, vì vậy còn phải có những giải pháp đồng bộ để thu hút vốn đầu tư phát triển hạ tầng từ nhiều nguồn khác nhau. 1.2.3.6. Thực trạng đầu tư quảng bá và xúc tiến du lịch. Quảng bá du lịch là một vấn đề rất cần thiết hiện nay của ngành du lịch, rất nhiều đề án ra đời để đẩy mạnh công tác quảng bá và xúc tiến du lịch. Ngoài nguồn vốn nhà nước hỗ trợ cho việc xúc tiến thương mại, du lịch thì hầu như các tỉnh, thành phố đều trích một khoản ngân sách cụ thể nhằm xúc tiến du lịch và thương mại cho địa phương. Trước năm 2004 ngân sách nhà nước chi cho đầu tư xúc tiến du lịch là rất ít, manh mún và không cụ thể. Từ năm 2005 trở đi vấn đề chi cho quảng bá du lịch được coi trong hơn. Năm 2005 ngân sách nhà nước hỗ trợ cho xúc tiến du lịch là 15,6 tỷ đồng, năm 2006 là 18,9 tỷ đồng. Trong những năm qua ngành du lịch đã chú trọng xúc tiến và quảng bá du lịch ở thị trường trong và ngoài nước. Hằng năm ngành tham gia vào các hội chợ như Top Rease tại Pháp, ITB tại Đức, các hội chợ về du lịch tại Malaysia, Thái Lan, Nhật Bản, Anh. Ngành cũng triển khai cac roadshow giới thiệu hình ảnh Việt Nam tại Đức, Anh, Pháp, Nhật Bản, Australia, Bắc Âu… Tổng cục du lịch cũng thành lập cục xúc tiến du lịch để tiến hành công việc chuyên trách nghiên cứu thị trường, lập ra chiến lược, và thực hiện công tác quảng bá. Cục xúc tiến dự kiến sẽ thuê các chuyên gia tư vấn trong và ngoài nước để đẩy mạnh và chuyên nghiệp hoá công tác quảng bá. Ngoài ra ngành du lịch cũng đang tiến hành xúc tiến đề án lập văn phòng du lịch quốc gia tại nước ngoài mà trước hết là thị trường trọng điểm như Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.. Bên cạnh việc tăng cường xúc tiến du lịch của tổng cục du lịch thì các địa phương có ngành du lịch phát triển, các sở du lịch cũng có những hướng hoạt động để tăng cường việc quảng bá du lịch. Tại Hà Nội, ngân sách chi cho đầu tư xúc tiến du lịch giai đoạn 2001-2005 là 1250 đồng trên một khách du lịch, tại thành phố Hồ Chí Minh là 2050 đồng trên một khách tới thăm quan. Như vậy,việc tăng cường xúc tiến du lịch trong thời gian qua đã có sự quan tâm đúng mực, thế nhưng lượng vốn đầu tư còn manh mún, kế hoạch không được chuyên nghiệp. Vì vậy yêu cầu đặt ra đối với các nhà quảng lý là phải tăng cường đầu tư hoạt động xúc tiến du lịch để nâng cao hình ảnh của Việt Nam đối với du khách thập phương. 1.3. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ NHỮNG LỢI ÍCH ĐEM LẠI TỪ HOẠT ĐỘNG NÀY Giai đoạn 2001-2006 là giai đoạn xuất hiện nhiều sự mang tính toàn cầu. Có thể nói rằng đây là thời kỳ mà ngành du lịch nước ta có nhiều cơ hội và thách thức nhất trong 10 gần đây. Các tổ chức, đơn vị hoạt động du lịch có dịp thử sức, hội nhập để khẳng định mình trên thị trường trong nước và quốc tế. Hoạt động du lịch giờ đây không còn bó hẹp trong một ngành, một địa phương mà thật sự đã được xã hội hoá với mọi thành phần kinh tế tham gia. Việc đoàn kết thống nhất phối hợp liên ngành, liên vùng để tạo nên sức mạnh tổng hợp, giữ vững chất lượng, uy tín nhằm vượt qua khó khăn, đạt được những hiệu quả là những yếu tố mang tính quyết định. 1.3.1. Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư phát triển du lịch. 1.3.1.1 Những kết q._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4885.doc
Tài liệu liên quan